Tội lạm dụng tín nhiệm nhiệm chiếm đoạt tài sản theo pháp luật hình sự

Tội lạm dụng tín nhiệm nhiệm chiếm đoạt tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn địa bàn tỉnh Quảng Ngãi

Tội lạm dụng tín nhiệm nhiệm chiếm đoạt tài sản theo pháp luật  hình sự Việt Nam từ thực tiễn địa bàn tỉnh Quảng Ngãi

1. Tính cấp thiết của đề tài

Sau gần 30 năm tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện đất nước mà thực chất đó là cuộc cải cách sâu sắc bắt đầu bằng cải cách kinh tế đã làm thay đổi theo hướng tích cực mọi mặt của đời sống xã hội. Sự chuyển đổi kinh tế từ bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước theo định hướng XHCN đã hình thành nhiều thành phần kinh tế với các hình thức sở hữu khác nhau. Bên cạnh những thành tựu rất đáng tự hào đã đạt được vẫn còn tồn tại những biểu hiện tiêu cực do mặt trái của cơ chế thị trường mang lại mà nổi cộm lên là vấn đề tình hình tội phạm diễn ra ngày càng phức tạp, nhiều loại tội phạm gia tăng, tính chất, mức độ ngày càng nguy hiểm hơn. Và tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản là một trong những tội phạm xảy ra khá phổ biến trong bối cảnh của nền kinh tế thị trường hiện nay. Tội phạm xảy ra đã gây nhiều biến động trong xã hội, làm thiệt hại đến tài sản Nhà nước, tổ chức cũng như tài sản của công dân, cản trở sự phát triển của đất nước. Tuy nhiên việc xét xử loại tội phạm này trong thực tiễn còn rất nhiều sai sót, vấn đề sai lầm trong việc xác định tội danh và hình phạt, vấn đề “hình sự hóa” các quan hệ dân sự, quan hệ kinh tế và “phi hình sự hóa” trong đấu tranh chống tội phạm kinh tế trong mấy năm gần đây tuy đã giảm đi rõ rệt nhưng vẫn chưa thực sự chấm dứt và vẫn còn thu hút sự quan tâm của nhiều cấp, nhiều ngành và dư luận xã hội thông qua những buổi tọa đàm. Với ý nghĩa phục vụ cho công tác nghiên cứu, với động lực tìm hiểu pháp luật giúp ích cho công tác đấu tranh phòng và chống tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trong tình hình mới, tôi chọn “Tội lạm dụng tín nhiệm nhiệm chiếm đoạt tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn địa bàn tỉnh Quảng Ngãi” làm đề tài luận văn Thạc sĩ theo chuyên ngành Luật của mình.

2. Tình hình nghiên cứu

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

Nghiên cứu làm sâu sắc thêm về lý luận và thực tiễn về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản từ thực tiễn của tỉnh Quảng Ngãi. Theo đó đề xuất một số kiến nghị góp phần nâng cao chất lượng xây dựng và áp dụng pháp luật trong phòng ngừa và đấu tranh với loại tội phạm này.

Đề tài có nhiệm vụ cơ bản sau:

+ Phân tích những vấn đề lý luận tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 đã được sửa đổi bổ sung năm 2009.

+ Phân tích thực tiễn định tội danh, quyết định hình phạt đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi trong thời gian 05 năm, từ năm 2010 đến 2014.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

– Nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn trong phòng ngừa, đấu tranh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, khảo sát, đánh giá đúng thực trạng áp dụng pháp luật về kết quả, tồn tại, nguyên nhân của các hạn chế yếu kém trong đấu tranh, phòng ngừa loại tội phạm này trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi.

– Phạm vi nghiên cứu của luận văn là các vấn đề lý luận và thực tiễn trong việc thực hiện hoạt động phòng, chống thông qua hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi từ năm 2010 đến năm 2014.

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu

 Chọn cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, dựa trên các văn kiện Đại hội Đảng, các văn bản của Nhà nước, bình luận khoa học hình sự về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Đồng thời luận văn cũng sử dụng một số phương pháp nghiên cứu chuyên ngành như: phương pháp phân tích, tổng hợp, phương pháp thống kê số liệu, phương pháp so sánh đối chiếu, đàm thoại tranh thủ ý kiến của các chuyên gia.

6. Ý nghĩa của luận văn

– Góp phần bổ sung lý luận về công tác phòng, chống tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi.

– Góp phần cho việc nghiên cứu, bổ sung lý luận thực tiễn tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản từ thực tiễn tỉnh Quảng Ngãi.

– Là nguồn tài liệu phục vụ cho các cơ quan bảo vệ pháp luật, cơ quan quản lý Nhà nước cơ quan chức năng ở tỉnh Quảng Ngãi và các địa phương khác sử dụng làm tài liệu tham khảo, vận dụng trong công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản nói riêng.

– Nêu lên những thuận lợi, hạn chế, khó khăn trong công tác phòng chống tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo chức năng xét xử của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi, đồng thời làm sáng tỏ những vấn đề lý luận tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trong công tác xét xử để góp phần hoàn thiện hơn vai trò của Tòa án trong hoạt động phòng chống, chống tội phạm.

7. Cơ cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài kiệu tham khảo, luận văn được cấu trúc thành 3 chương:

Chương 1: Những vấn đề lí luận và pháp luật về Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam.

Chương 2: Định tội danh Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi từ năm 2010 đến năm 2014.

Chương 3: Quyết định hình phạt đối với Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi từ năm 2010 đến năm 2014.

Chương 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT

VỀ TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM

1.1. Khái quát quá trình hình thành và phát triển của các quy định pháp luật hình sự về Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản

1.1.1. Giai đoạn từ cách mạng tháng 8 năm 1945 đến trước khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1999

Sau khi Hiến pháp 1946 được thông qua, Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản pháp luật để bảo vệ sở hữu, đặc biệt sở hữu xã hội chủ nghĩa như Sắc lệnh số 26/SL (25/02/1946) trừng trị các tội phá hủy công sản, Sắc lệnh số 233/SL (17/11/1946) trừng trị các tội phù lạm, biển thủ công quỹ… đây là những văn bản đầu tiên đặt nền móng cho việc hoàn thiện các quy định về tội xâm phạm sở hữu sau này. Đến Thông tư 442/TTg (19/11/1955) của thủ tướng chính phủ về trừng trị một số tội phạm. Các quy định về tội lạm dụng tín nhiệm trong giai đoạn này chưa được quy định cụ thể, chủ yếu xét xử theo nguyên tắc và án lệ, tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản được quy định với tên gọi “Bội tín”.

Giai đoạn từ 1954-1975

Ngày 21/10/1970 Ủy ban thường vụ Quốc Hội đã thông qua pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản XHCN và pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản của công dân nhằm bảo vệ tài sản XHCN và tài sản riêng của công dân. Lần đầu tiên tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản được quy định thành một tội danh riêng với các dấu hiệu pháp lý đặc trưng của tội phạm này, hình phạt nghiêm khắc.

– Giai đoạn 1975-1985

Ngày 15/03/1976 Chính phủ cách mạng lâm thời cộng hòa miền Nam Việt Nam ban hành Sắc luật số 03/SL-1976 quy định các tội phạm và hình phạt được áp dụng ở Miền Nam Việt Nam, trong đó có quy định về các tội xâm phạm sở hữu, trong đó tội lạm dụng tín nhiệm được quy định tại điểm b Điều 4 cũng với tên gọi “Bội tín”.

Bộ luật hình sự năm 1985 được Quốc Hội thông qua ngày 27/06/1985 và có hiệu lực từ ngày 01/01/1986. BLHS 1985 đã giành hai chương quy định về tội xâm phạm sở hữu, chương IX “các tội xâm phạm sở hữu XHCN”, chương VI “ các tội xâm phạm sở hữu của công dân”. Trong đó tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản được quy định tại Điều 135 (tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản XHCN), Điều 158 (tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản của công dân).

Ngày 22/11/1999 Quốc Hội khóa X đã thông qua bộ luật hình sự năm 1999 và cũng đã thông qua Nghị quyết số 32/1999/QH-10 về việc thi hành BLHS. Bộ luật này đã kế thừa và phát huy BLHS 1985 trên cơ sở tiếp thu những bài học kinh nghiệm từ thực tiễn đấu tranh phòng chống tội phạm và những thay đổi của nền kinh tế. Bộ luật gồm 24 chương và 344 điều. BLHS năm 1999 đã có sự đổi mới toàn diện về cả nội dung và hình thức so với BLHS năm 1985. Trên tinh thần đó, tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản (Điều 140) ra đời là kết quả của sự sửa đổi một cách căn bản từ hai điều luật riêng rẽ ở hai chương khác nhau trong BLHS năm 1985.

1.1.2. Giai đoạn sau khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1999

Ngày 19/06/2009, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam Khóa XII, kỳ họp thứ 5 đã họp và thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS1999. Theo đó, kể từ ngày 01/01/2010 giá trị tài sản bị chiếm đoạt tại khoản 1 Điều 140 BLHS 1999 đã được thay đổi từ mức “1.000.000 đồng” thành “4.000.000 đồng”.

Các khung hình phạt tăng nặng vẫn giữ nguyên theo các khoản 2,3,4 điều luật này.

1.2. Khái niệm và các dấu hiệu pháp lý của Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản

Trên cơ sở quy định của Điều 140 BLHS có thể định nghĩa tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản một cách chung nhất như sau: hành vi phạm tội của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản là hành vi chiếm đoạt một phần hoặc toàn bộ tài sản đã được giao trên cơ sở hợp đồng đã được ký kết giữa chủ tài sản và người có hành vi chiếm đoạt.

1.3. Các dấu hiệu pháp lý của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản

1.3.1. Khách thể của Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản

Khách thể của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản là quan hệ sở hữu. Hành vi gây thiệt hại cho các quan hệ sở hữu là hành vi xâm phạm đến các quyền: quyền chiếm hữu, quyền sử dụng, quyền định đoạt tài sản của chủ sở hữu.

1.3.2. Mặt khách quan của tội phạm: Hành vi khách quan của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản rất đa dạng đuợc quy định trong Điều 140 BLHS đã được sửa đổi bổ sung năm 2009:

“Người nào có một trong các hành vi sau đây chiếm đoạt tài sản của người khác có giá trị từ một triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng…;

a) Vay,mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản đó;

b) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng và đã sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản”.

1.3.3. Chủ thể của Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản

Ở tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, chủ thể của tội phạm là chủ thể bất kỳ, chỉ cần có đủ hai dấu hiệu có năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi luật định chịu trách nhiệm hình sự, không thuộc tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 13 BLHS, nếu có hành vi vi phạm quy định tại Điều 140 BLHS 1999 sẽ trở thành chủ thể của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.

1.3.4. Mặt chủ quan của Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản

Mặt chủ quan của tội phạm, bao gồm: lỗi, động cơ, mục đích phạm tội, trong đó lỗi được phản ánh trong tất cả các cấu thành tội phạm. Mục đích và động cơ phạm tội tuy cũng là những dấu hiệu thuộc mặt chủ quan của tội phạm nhưng không phải luôn luôn có ý nghĩa quyết định tính chất nguy hiểm cho xã hội của tội phạm.

Tội lạm dụng tín nhiệm nhiệm chiếm đoạt tài sản theo pháp luật  hình sự Việt Nam từ thực tiễn địa bàn tỉnh Quảng Ngãi
Tội lạm dụng tín nhiệm nhiệm chiếm đoạt tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn địa bàn tỉnh Quảng Ngãi

1.4. Phân biệt tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản với một số tội khác

1.4.1. Phân biệt với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

Lừa đảo chiếm đoạt tài sản là hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác bằng thủ đoạn gian dối, cố ý đưa ra những thông tin không đúng sự thật nhằm để người khác tin đó là thật đã giao nhầm hoặc nhận nhầm tài sản tù người phạm tội.

Đây là hai tội phạm có cấu thành gần giống nhau. Dấu hiệu ở yếu tố khách thể, chủ thể, mặt chủ quan của hai tội này là giống nhau, chỉ khác nhau về mặt khách quan của tội phạm. Chủ thể đều là chủ thể thuờng, khách thể đều xâm phạm đến quan hệ sở hữu, mặt chủ quan đều thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác với lỗi cố ý trực tiếp.

Ở tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản ,trước khi nhận được tài sản và trong khi nhận tài sản người phạm tội không có ý định chiếm đoạt tài sản. Chỉ sau khi có tài sản ở trong tay, khi đến thời hạn nhất định hoặc thời hạn phải trả lại tài sản, người phạm tội mới có ý định không trả lại tài sản vớI ý thức chiếm đoạt. Ở tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản hành vi gian dối có thể xảy ra nhưng chỉ nhằm để che giấu hành vi chiếm đoạt chứ không phải là phương thúc để chiếm đoạt.

Ở tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, mặt khách quan lại bao gồm hai hành vi: hành vi gian dối và hành vi chiếm đoạt. Người phạm tội dùng thủ đoạn gian dối với mục đích chiếm đoạt (để nhận được tài sản trái phép từ trong tay người chủ sở hữu. Hành vi gian dối là tiền đề cho việc chiếm đoạt, hành vi chiếm đoạt là kết quả trực tiếp từ gian dối thành công. Như vậy hành vi gian dối diễn ra trước hành vi chiếm đoạt về mặt thời gian. Ngược lại, trong tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, hành vi gian dối diễn ra sau khi có hành vi chiếm đoạt về mặt thời gian. Hành vi gian dối đó có thể được thực hiện dưới nhiều hình thức như tạo ra các thông tin không đúng sự thật làm người bị hại tưởng giả là thật nên giao tài sản hoặc gian dối để không trả lại tài sản cho chủ sở hữu mà lẽ ra mình phải trả lại qua khâu cân, đo, đong, đếm thiếu, v.v..

Về thời điểm hoàn thành tội phạm: Ở tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản tội phạm hoàn thành khi người phạm tội đã có hành vi chiếm đoạt tức là đã có sự chiếm đoạt. Còn ở tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản thì thời điểm hoàn thành tội phạm sớm hơn, tức là ngay sau khi kẻ phạm tội nhận được hoặc khi giữ tài sản trái phép.

1.4.2. Phân biệt với tội tham ô tài sản

Trong BLHS năm 1985, tội tham ô tài sản được quy định trong chương các tội xâm phạm sở hữu XHCN nhưng nay do tính chất nghiêm trọng của loại tội này nên BLHS năm 1999 đã tách ra và quy định trong chương các tội phạm về chức vụ. Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản và tội tham ô tài sản về mặt khách quan có đặc điểm giống nhau là đều có dấu hiệu chiếm đoạt tài sản đang trong sự quản lý của người phạm tội. Điểm khác nhau cơ bản là ở dấu hiệu chủ thể của tội phạm. Chủ thể của tội tham ô tài sản là chủ thể đặc biệt, Còn ở tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, chủ thể của tội phạm là chủ thể bất kỳ.

Chương 2

ĐỊNH TỘI DANH TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM

CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG NGÃI TỪ NĂM 2010 ĐẾN NĂM 2014

2.1. Khái quát lí luận về định tội danh

2.1.1. Khái niệm định tội danh

Định tội danh là một dạng hoạt động nhận thức, hoạt động áp dụng pháp luật hình sự nhằm đi tới chân lý khách quan trên cơ sở xác định đúng đắn, đầy đủ các tình tiết cụ thể của hành vi phạm tội được thực hiện, nhận thức đúng nội dung quy phạm pháp luật hình sự quy định cấu thành tội phạm tương ứng và mối liên hệ tương đồng giữa các dấu hiệu của cấu thành tội phạm với các tình tiết cụ thể của hành vi phạm tội bằng các phương pháp và thông qua các giai đoạn nhất định.

2.1.2. Các giai đoạn của định tội danh

Việc áp dụng Luật hình sự nhiều khi cũng đòi hỏi người áp dụng Quá trình định tội danh phải trải qua ba giai đoạn:

Giai đoạn thứ nhất khi đánh giá tính nguy hiểm cho xã hội có thể dựa vào các căn cứ sau:

– Tính chất của phương pháp, thủ đoạn, công cụ, phương tiện thực hiện tội phạm;

– Tính chất và mức độ thiệt hại do hành vi gây ra;

– Tính chất của động cơ;

– Mức độ lỗi;

– Nhân thân người phạm tội.

Giai đoạn thứ hai, những người tiến hành định tội danh làm sáng tỏ các dấu hiệu của hành vi phạm tội, tức là làm sáng tỏ hành vi phạm tội đó thuộc loại tội phạm nào và được quy định ở chương nào của Bộ luật Hình sự.

Giai đoạn thứ ba của việc định tội thể hiện ở việc trên cơ sở làm sáng tỏ và so sánh các dấu hiệu của tội phạm, chỉ rõ cấu thành tội phạm về tội cụ thể nào được áp dụng: cấu thành cơ bản, cấu thành tăng nặng hay cấu thành giảm nhẹ trong giới hạn của một điều luật nào đó đã được lựa chọn.

2.1.3. Các loại định tội danh

Định tội danh chính thức: là hoạt động xác định tội danh trong một vụ án cụ thể do cán bộ được Nhà nước ủy quyền: Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân tiến hành. Định tội danh không chính thức: là sự đánh giá pháp lý về hành vi phạm tội do các nhà nghiên cứu khoa học pháp lý, tác giả các bài báo, tạp chí, công trình khoa học, sinh viên, học viên hoặc bất kỳ một người nào đó quan tâm nghiên cứu cụ thể vụ án này hay vụ án khác đưa ra.

2.2. Định tội danh theo cấu thành tội phạm cơ bản Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi

2.2.1. Định tội danh theo khách thể tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản

Về sở hữu bị xâm hại: qua các vụ án đã được xét xử trên địa bàn tỉnh Quảng ngãi trong thời gian từ năm 2010 đến năm 2014, cho thấy sở hữu bị xâm hại là sở hữu của công dân, chiếm 97% các vụ án đã xét xử. Còn lại là sở hữu của Nhà nước.

Về đối tượng bị chiếm đoạt: đối tượng tài sản bị chiếm đoạt tập trung là tiền, vàng, xe mô tô. Chẳng hạn trong vụ án trên thì Phạm Đình Hiền đã xâm hại trực tiếp đến đối tượng đó là tiền mặt 6.000.000đ và 47 chỉ vàng.

2.2.2. Định tội danh theo mặt khách quan của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản

Điều luật xác định hành vi lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản bao gồm hai loại:

– Bằng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn, chiếm đoạt tài sản đã được giao cho cho mình trên cơ sở hợp đồng vay mượn, thuê, …

– Sử dụng tài sản của người khác đã được giao cho mình trên cơ sở hợp đồng vay, mượn, thuê … vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản.

Ví dụ: Từ tháng 7/2010 ÂL Phượng đã tự ý dùng tài sản chung của vợ chồng như nhà, đất, xe máy, vàng… đem cầm, thế chấp để vay mượn tiền của nhiều người ở Thị Trấn Đức Phổ với lãi suất 03-10%/tháng. Thời gian đầu, Phượng thực hiện việc trả gốc, lãi đúng cam kết, đã tạo được sự tin tưởng từ những người cho vay nên Phượng đã vay được số tiền ngày càng  lớn. Khi đặt vấn đề vay tiền, Nguyễn Thị Phượng nói là để sử dụng vào mục đích buôn bán phế liệu và cho người khác vay đáo hạn Ngân hàng, nhưng sau khi đã vay được tiền, Nguyễn Thị Phượng lại sử dụng chính số tiền đó để trả lãi, gốc cho những người mà Phượng đã vay và cho ông Nguyễn Ngọc Diệp, sinh năm: 1972 ở thôn Kim Giao, xã Phổ Nhuận, huyện Đức Phổ vay 10.000.000đ. Số tiền còn lại, Phượng sử dụng chủ yếu vào mục đích tiêu xài cá nhân, gia đình, chơi cờ bạc (số đề) thua nên không có khả năng thanh toán. Đầu tháng 10/2010 Phượng đã chiếm đoạt của 04 người với tổng số tiền là 1.278.600.000đ (Một tỷ hai trăm bảy mươi tám triệu sáu trăm ngàn đồng). Rõ ràng bằng hợp đồng vay mượn, sau khi đã có tài sản Phượng đã sử dụng tiêu xài cá nhân, gia đình, chơi cờ bạc nên không còn khả năng trả lại số tiền cho các bị hại. Hành vi đó đã gây ra hậu quả thiệt hại về tài sản của 04 người dân là nguy hiểm cho xã hội, thỏa mãn dấu hiệu pháp lý quy định ở mặt khách quan của cấu thành tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, hành vi của Phượng đã phạm vào tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại điểm a, khoản 4, điều 140 là phù hợp với quy định của pháp luật.

2.2.3. Định tội danh theo chủ thể của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản

Theo khoản 1, khoản 2 điều 140 BLHS thì người người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm này. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản quy định tại điều 140 BLHS. Càn phải căn cứ vào điều 13 và 14 BLHS để định tội danh.

2.2.4. Định tội danh theo mặt chủ quan của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản

Ví dụ vụ án: Vợ chồng Võ Cao Danh và Dương Thị Thy Thy làm nghề mua bán, gia công, chế tác vàng bạc, đá quý với tên “Hiệu vàng Võ Cao Danh” được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Trong quá trình kinh doanh, mua bán vàng, từ năm 2001-2008 vợ chồng Danh, Thy đã quan hệ vay mượn tiền vàng của nhiều người ở Quảng Ngãi và TP Hồ Chí Minh với lãi suất 1,5% đến 6% tháng. Thời gian đầu, Danh, Thy đã sử dụng một số món vay đúng mục đích, đã trã gốc lãi đầy dủ nên tạo được niềm tin, một số món vay Danh, Thy trả lãi đầy đủ; nhưng sau thời gian sử dụng vốn vay không đúng mục đích và dùng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tiền, vàng của nhiều người. nhưng Danh, Thy chỉ sử dụng một số món vay rất ít vào việc mua bán kinh doanh vàng và xây dựng khách sạn, số còn lại chủ yếu sử dụng vào việc chơi lướt song (cá cược) vàng trên mạng internet theo phương thức đặt cược giá vàng lên xuống và bị thua lỗ. Khi bị thua lỗ số tiền quá nhiều vợ chồng Danh, Thy tìm đủ mọi cách để vay mượn tiền càng nhiều và chơi lướt sóng vàng với số lượng lớn hơn và chơi số đề mong gỡ lại phần thua trước đó, nhưng đều bị thua nên dẫn đến mất khả năng thanh toán ngày càng lớn. Khi chủ nợ đến đòi nợ thì Danh, Thy không thực hiện trả nợ theo đúng cam kết và hứa hẹn nhiều lần, lẩn tránh; đến tháng 5/2010 thì Danh, Thy hoàn toàn không còn khả năng trả nợ. Vợ chồng Danh, Thy đã chiếm đoạt số tiền, vàng và ngoại tệ (USD) của nhiều cá nhân và tổ chức tín dụng. Hiện nay, Danh, Thy còn chiếm đoạt số tiền vàng của 14 người và 01 tổ chức (Ngân Hàng Thương Mại và Cổ phần xuất nhập khẩu Việt Nam – Chi nhánh Quãng Ngãi), Tổng cộng: 15.862.990.000đ tiền gốc; tiền lãi 4.146.228.840 của Eximbank Quảng Ngãi. Với hành vi nêu trên, VKSND tỉnh Quảng Ngãi truy tố các bị cáo Võ Cao Danh và Trần Thi Thy Thy về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” theo điểm a khoản 4 Điều 140 bộ luật Hình Sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội.

Ở vụ án này thì Võ Cao Danh và Dương Thị Thy Thy đã thực hiện tội phạm với lỗi cố ý trực tiếp, với mục đích nhằm chiếm đoạt được tài sản, sau đó đem sử dụng vào việc đánh bạc, kinh doanh.

2.3. Định tội danh theo cấu thành tội phạm tăng nặng Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi

Cấu thành tội phạm tăng nặng là cấu thành tội phạm ngoài dấu hiệu định tội còn có thêm dấu hiệu định khung tăng nặng, tức là dấu hiệu phạm tội có mức độ nguy hiểm cho xã hội tăng lên một cách đáng kể (chủ yếu đó là các khoản 2,3,4 của các điều luật của phần các tội phạm.

* Khung tăng nặng thứ nhất: quy định tại Khoản 2 Điều 140 BLHS có mức phạt tù từ hai năm đến bảy năm.

a. Phạm tội có tổ chức.

Theo Điều 20 BLHS: “phạm tội có tổ chức là hình thức đồng phạm có sự câu kết chặt chẽ giữa những người cùng thực hiện tội phạm”. Như vụ án Võ Cao Danh và Dương Thị Thy Thy xảy ra tại tỉnh Quảng Ngãi từ năm 2001 đến năm 2008 đã nêu ở ví dụ trên cho thấy hành vi của các đối tượng thực hiện tội phạm có tính chất “có tổ chức”, cả hai cùng thực hiện hành vi phạm tội, có sự bàn bạc chuẩn bị thực hiện tội phạm nhằm mục đích chiếm đoạt tài sản của 14 cá nhân và 01 tổ chức.

d. Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ trên 50 triệu đồng đến dưới 200 triệu đồng

Đây là truờng hợp định lượng tuyệt đối, trước đây khi chưa ban hành BLHS 1999 thì giá trị tài sản bị thiệt hại được quy ra gạo hoặc các vật tư hàng hoá thiết yếu khác như xăng, dầu, đường, mì chính v.v.

Ví dụ vụ án của Phạm Đình Hiền: Từ năm 2008 đến 2010 bà Bạch Thị Ái (là em vợ của ông Phạm Đình Hiền) nhiều lần đến nhà gửi vàng và tiền cho ông Hiền, ở Thị Trấn Đức Phổ huyện Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi cất giữ gồm 47 chỉ vàng 97% và 06 triệu đồng đến ngày 18/01/2012 bà Ái nói với ông Hiền tại nhà mẹ vợ của ông Hiền về việc lấy lại số tiền và vàng đã gửi trước đó để đi chữa bệnh và lo cho con ăn học, ông Hiền không nói gì mà im lặng ra về. Đến khoảng 5 giờ 30 phút ngày 20/01/2012 ông Hiền đến báo với chính quyền địa phương về việc kẻ gian vào nhà ông trộm 6,1 cây vàng và 16 triệu đồng để trong tủ áo, trong đó có 47 chỉ vàng và 06 triệu đồng của bà Ái gửi. VKSND huyện Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi truy tố Phạm Đình Hiền về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.” theo điểm d, khoản 2, điều 140 BLHS.

* Khung tăng nặng thứ hai: được quy đinh tại Khoản 3 Điều 140 BLHS có mức phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm, được áp dụng cho những trường hợp phạm tội trong những tình tiết sau:

a. Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ 200 triệu đồng đến dưới 500 triệu đồng

Truờng hợp phạm tội này cũng tương tự như điểm d khoản 2 Điều 140, chỉ khác là tài sản bị chiếm đoạt có giá trị từ 200 triệu đồng đến dưới 500 triệu đồng, việc xác định giá trị tài sản cũng tương tự như trên. Đây là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự mới được quy định trong BLHS. Quy định này góp phần giúp cho các cơ quan áp dụng pháp luật có thể xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Tại phiên tòa bị cáo Đỗ Thị Mai khai nhận từ năm 1993 đến 1997 do cần tiền để kinh doanh buôn bán nên vợ chồng bị cáo Đỗ Thị Mai và Trần Nhạn đã vay , mượn tiền, vàng của nhiều người ở Quảng ngãi và hợp đồng mua bán phích nước với công ty xuất nhập khẩu dịch vụ thương mại TP. Đà Nẵng. Nhưng việc kinh doanh không có hiệu quả, không kiểm soát được nguồn vốn nên vợ chồng bị cáo đã mất khả năng thanh toán, sau đó xin tạm vắng rồi bỏ trốn. Với tổng số tiền chiếm đoạt: 272.950.000đ và 14 chỉ vàng 24K (trị giá vàng tại thời điểm vay 450.000đ/ 1 chỉ vàng).

Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ngãi truy tố bị cáo theo điểm a, khoản 3, điều 140 bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội.

Tội lạm dụng tín nhiệm nhiệm chiếm đoạt tài sản theo pháp luật  hình sự Việt Nam từ thực tiễn địa bàn tỉnh Quảng Ngãi
Tội lạm dụng tín nhiệm nhiệm chiếm đoạt tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn địa bàn tỉnh Quảng Ngãi

* Khung tăng nặng thứ 3: quy định tại khoản 4 Điều 140 BLHS có mức hình phạt tù từ mười hai năm năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân, được áp dụng cho những trường hợp phạm tội khi có một trong những tình tiết sau:

a. Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ 500 triệu đồng trở lên

Ví dụ: vụ án của Nguyễn Thị Phượng đã nêu ở trên cho thấytự hành vi của Phượng đã phạm vào điểm a, khoản 4, điều 140 là phù hợp với quy định của pháp luật.

2.4. Khó khăn, vướng mắc trong định tội danh Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản xuất phát từ hạn chế, bất cập của pháp luật hình sự và kiến nghị khắc phục

Về mức tối thiểu giá trị tài sản bị chiếm đoạt trong cấu thành cơ bản tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” quy định từ 4 triệu đồng trở lên. Do định lượng như vậy nên có nhiều trường chiếm đoạt tài sản của người khác (có giá trị dưới 4 triệu đồng và không thuộc một trong các trường hợp khác để truy cứu trách nhiệm hình sự như: gây hậu quả nghiêm trọng; đã bị xử phạt hành chính; đã bị kết án chưa được xóa án tích), nhưng cơ quan điều tra không thể khởi tố ngay được, mà phải tốn kém nhiều thời gian để chứng minh ý thức của người chiếm đoạt tài sản có trước hay sau khi đã nhận tài sản. Trong thực tế, người lừa đảo chiếm đoạt tài sản bao giờ cũng khai rằng: sau khi nhận được tài sản mới nảy sinh ý thức chiếm đoạt, để trốn tránh trách nhiệm hình sự; bởi vì, tài sản chiếm đoạt có giá trị dưới 4 triệu đồng, chưa đủ định lượng để khởi tố về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản dẫn đến bỏ lọt tội phạm, vì không chứng minh được ý thức chiếm đoạt có trước khi nhận tài sản.

Về tình tiết “Đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản”: Theo khoản 1 Điều 140 BLHS quy định: Hành vi lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản nếu có giá trị dưới mức định lượng tối thiểu, thì phải có thêm dấu hiệu “Đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xóa án tích, mà còn vi phạm” mới cấu thành tội phạm, nên trong thực tế có người thực hiện hành vi lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản có giá trị dưới mức tối thiểu, tuy chưa có lần nào bị kết án về tội chiếm đoạt nhưng lại có nhiều tiền án về các tội đặc biệt nghiêm trọng khác, như: giết người, hiếp dâm trẻ em, mua bán trái phép chất ma túy,… lại không bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Ngược lại, người có hành vi lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản có giá trị dưới mức định lượng tối thiểu và chỉ có một lần tiền án về tội chiếm đoạt (mặc dù thuộc loại ít nghiêm trọng) vẫn bị coi là tội phạm.

Chương 3

QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT ĐỐI VỚI TỘI

LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG NGÃI

TỪ NĂM 2010 ĐẾN NĂM 2014

3.1. Khái quát lí luận về quyết định hình phạt

3.1.1. Khái niệm và ý nghĩa của quyết định hình phạt

Quyết định hình phạt là một giai đoạn, một nội dung của áp dụng pháp luật hình sự thể hiện ở việc Tòa án lựa chọn loại và mức hình phạt cụ thể được quy định trong điều luật (khoản điều luật) theo một thủ tục nhất định để áp dụng đối với người phạm tội thể hiện trong bản án buộc tội.

Quyết định hình phạt có ý nghĩa đặc biệt quan trọng về chính trị và pháp luật.

3.1.2. Các nguyên tắc quyết định hình phạt

Định nghĩa các nguyên tắc quyết định hình phạt như sau: các nguyên tắc quyết định hình phạt là những tư tưởng xuất phát, tư tưởng chỉ đạo được quy định trong pháp luật hình sự và do giải thích mà có, xác định và định hướng hoạt động của Tòa án khi áp dụng chế tài luật hình sự đối với người phạm tội.

Quyết định hình phạt phải dựa vào các nguyên tắc sau :

1. Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa;

2. Nguyên tắc nhân đạo xã hội chủ nghĩa;

3. Nguyên tắc cá thể hóa hình phạt;

4. Nguyên tắc công bằng.

3.1.3. Các căn cứ quyết định hình phạt

Các căn cứ quyết định hình phạt là những đòi hỏi cơ bản có tính nguyên tắc do luật hình sự quy định hoặc do giải thích luật mà có, buộc Tòa án phải tuân theo khi quyết định hình phạt đối với người thực hiện tội phạm.

1. Căn cứ vào các quy định của Bộ luật hình sự, tức là căn cứ vào các quy định của Phần chung và Phần các tội phạm (điều luật quy định tội phạm mà các bị các đã phạm). Khi quyết định hình phạt, ngoài việc căn cứ vào các quy định của Phần chung Bộ luật hình sự, Tòa án còn phải căn cứ vào chế tài của điều luật quy định đối với tội phạm mà bị cáo đã thực hiện.

2. Cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm đã thực hiện

Tính chất nguy hiểm cho xã hội là thuộc tính khách quan của một loại tội phạm nhất định, được xác định bởi tổng thể các dấu hiệu thuộc cấu thành tội phạm, trong đó quan trọng nhất là ý nghĩa, tính chất, tầm quan trọng và giá trị của những quan hệ xã hội bị hành vi phạm tội xâm hại, tức là khách thể của tội phạm.

Mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm cũng được xác định bởi tổng thể các dấu hiệu của cấu thành tội phạm và đó cũng là thuộc tính khách quan của tội phạm.

3. Cân nhắc nhân thân người phạm tội

Những đặc điểm, đặc tính đó là: sự cư xử trong cuộc sống, quan hệ với các thành viên trong gia đình, trong xã hội, với đồng chí trong công tác, trong lao động, tinh thần, thái độ đối với công việc chung, đối với bảo vệ tài sản chung, thái độ chấp hành kỷ luật, uy tín trong tập thể, lối sống, đạo đức, tham gia chiến đấu bảo vệ Tổ quốc, thương binh, có người trong gia đình là liệt sĩ… Khi cân nhắc các đặc điểm, đặc tính đó, Tòa án phải ghi rõ trong bản án và nói rõ chúng có ảnh hưởng như thế nào đối với việc quyết định hình phạt.

4. Cân nhắc các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng nhiệm hình sự

Khi quyết định hình phạt, luật quy định (Điều 45 Bộ luật hình sự) Tòa án không phải cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm đã thực hiện, nhân thân người phạm tội, mà còn phải cân nhắc các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự. Do đó, cân nhắc tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự là một trong những căn cứ của việc quyết định hình phạt..

3.2. Quyết định hình phạt đối với Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi

3.2.1. Quyết định hình phạt theo quy định của Bộ luật hình sự

Ví dụ vụ án Nguyễn Thị Phượng, ở phần định tội danh cho thấy hành vi của Phượng đã phạm vào điểm a khoản 4 Điều 140; điểm b,p khoản 1, điều 46; Điều 47 bộ luật hình sự.

3.2.2. Quyết định hình phạt theo tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội

Cũng với vụ án Nguyễn Thị Phượng phạm tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” như đã nêu trên có thể thấy rằng hành vi của Nguyễn Thị Phượng là nguy hiểm đã lợi dụng sự tin cậy, rồi thực hiện việc vay mượn tiền của nhiều người lên đến số tiền 1.278.600.000đ, đã xâm hại vào quan hệ sở hữu được pháp luật hình sự bảo vệ, mà đối tượng tác động trực tiếp là tiền Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Gây ra thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản của nhiều người, gây mất trị an ở địa phương.

Xét về mức độ của tội phạm thì Nguyễn Thị Phượng thực hiện tội phạm với lỗi cố ý, sau khi có được tài sản, ngoài mục đích tiêu xài cá nhân, đối tượng còn đem sử dụng vào việc đánh bạc dưới hình thức đánh lô đề là bất hợp pháp.

Cùng với tính chất và mức độ nguy hiểm do hành vi phạm tội của Nguyễn Thị Phượng đã gây ra nên khi Tòa án quyết định khung hình phạt đối với Nguyễn Thị Phượng là 08 năm tù là đúng người, đúng tội theo quy định tại điểm a, khoản 4, điều 140 Bộ luật hình sự hiện hành.

3.2.3. Quyết định hình phạt theo các đặc điểm nhân thân của người phạm tội

Trong vụ án Đỗ Thị Mai cho thấy sau khi ra đầu thú, thành khẩn khai báo, đến nay bị cáo 71 tuổi, đang bị bệnh tiểu đường, trong quá trình phục hồi điều tra có 11/12 người bị hại và chi nhánh công ty cổ phần Intimex Việt Nam tại Đà Nẵng có đơn bãi nại về dân sự và hình sự với bị cáo nên xem đây là tình tiết giảm nhẹ qui định tại điểm m, p khoản 1, khoản 2, điều 46 bộ luật hình sự và áp dụng thêm các điều 47, điều 60 bộ luật hình sự cho bị cáo được hưởng án treo để hưởng sự khoan hồng của pháp luật. đồng ấn định thời gian thử thách bằng với mức hình phạt tù để đủ tác dụng giáo dục bị cáo.

3.2.4. Quyết định hình phạt theo các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự

Từ năm 2005 đến 2010 phòng giao dịch ngân hàng chính sách xã hội huyện Đức Phổ (PGD- NHCSXH) và ông Nguyễn Thanh Hiền có ký kết hợp đồng ủy nhiệm về việc thu tiền lãi vay và thu tiền gửi tiết kiệm của các thành viên tổ tiết kiệm và vay vốn của PGĐ-NHCSXH huyện Đức Phổ thuộc địa bàn thôn Vĩnh An, xã Phổ Khánh. Theo hợp đồng ủy nhiệm này thì Nguyễn Thanh Hiền được ủy nhiệm làm tổ trưởng tổ tiết kiệm và vay vốn (TK & VV) thôn Vĩnh An, xã Phổ Khánh, có trách nhiệm thu tiền lãi, tiền gửi tiết kiệm của các thành viên trong tổ TK&VV. Ngày 08/11/2010 phòng giao dịch ngân hàng chính sách xã hội đã phát hiện Nguyễn Thanh Hiền có hành vi thu tiền lãi, tiền gửi tiết kiệm và tiền gốc của các hộ vay vốn nhưng không nộp đủ cho PGD – NHCSXH huyện Đức Phổ nên ngày 28/03/2011 PGD-NHCSXH huyện Đức Phổ đã tạm đình chỉ nhiệm vụ của Nguyễn Thanh Hiền và đã có nhiều lần yêu ông Hiền nộp lại số tiền đã chiếm đoạt, nhưng ông Hiền không nộp mà bỏ trốn khỏi địa phương và Phòng giao dịch ngân hàng chính sách xã hội huyện Đức Phổ đã có đơn yêu cầu khởi tố vụ án, khởi tố bị can đối với Nguyễn Thanh Hiền.

Trong quá trình điều tra xác minh Nguyễn Thanh Hiền đã có hành vi thu tiền lãi, tiền gửi tiết kiệm và tiền gốc của 14 hộ thuộc tổ TK&VV thôn Vĩnh An, xã Phổ Khánh nhưng không nộp cho PGD – NHCSXH huyện Đức Phổ mà chiếm đoạt để sử dụng cho mục đích cá nhân, tổng cộng các khoản tiền do bị cáo Nguyễn Thanh Hiền chiếm đoạt là: 25.556.769đ.

Tòa án nhân dân huyện Đức Phổ tuyên bố: bị cáo Nguyễn Thanh Hiền phạm tội “lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” theo khoản 1 điều 140; điểm b, h, p khoản 1, khoản 2 điều 46; điểm g, i khoản 1 điều 48 BLHS.

3.3. Những khó khăn trong quyết định hình phạt xuất phát từ hạn chế, bất cập của pháp luật hình sự và kiến nghị hoàn thiện

3.3.1. Những khó khăn trong quyết định hình phạt xuất phát từ hạn chế bất cập

Thực tiễn xét xử cho thấy do không có hướng dẫn trong trường hợp người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ và tình tiết tăng nặng TNHS nên khi quyết định mức hình phạt Hội đồng xét xử chỉ cân nhắc tình tiết giảm nhẹ mà bỏ qua tình tiết tăng nặng nhằm xem xét hướng có lợi cho bị cáo.

– Mặt khác trong một số trường hợp chỉ cân nhắc tình tiết tăng nặng là tình tiết định khung hình phạt, không cân nhắc tình tiết giảm nhẹ mà người phạm tội đáng được xem xét.

3.3.2. Một số đề xuất nhằm nâng cao hiệu quả của thực tiễn áp dụng Điều 140 về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản

Về vấn đề hoàn thiện luật:

+ Khoản 1 Điều 140 cần thêm cụm từ “hoặc tổng giá trị các lần chiếm đoạt tài sản từ một triệu đồng trở lên” sau cụm từ “chưa được xóa án tích mà còn vi phạm”.

+ Bỏ từ “trên” đứng trước từ “năm mươi triệu đồng” trong điểm d khoản 2 Điều 140 BLHS.

+ Bổ sung thêm vào khoản 1 Điều 140 BLHS hiện hành nói riêng, cũng như các tội xâm phạm sở hữu nói chung tình tiết định tội “Đã bị kết án về tội rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng” 

+ Bổ sung tình tiết định khung tăng nặng “Có tính chất chuyên nghiệp vào khoản 2 Điều 140 BLHS, cụ thể:

a) Có tổ chức;

b) Có tính chất chuyên nghiệp;

Do đó, để đảm bảo tính đồng nhất và tính công bằng trong quyết định hình phạt, Bộ Luật hình sự cũng cần được nghiên cứu, sửa đổi theo hướng định lượng giá trị tài sản bị chiếm đoạt trong cấu thành cơ bản của hai tội là bằng nhau, trên cơ sở phù hợp với sự phát triển kinh tế – xã hội của đất nước và yêu cầu đấu tranh phòng và chống tội phạm trong giai đoạn hiện nay.

– Các quy định của pháp luật thường khái quát nên cần có hướng dẫn cụ thể hơn, đặc biệt là về các dấu hiệu dễ nhầm lẫn với các tội phạm khác.

– Cần công khai kết quả xét xử

– Thường xuyên đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, năng lực thực tiễn, tuyên truyền giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho các cán bộ tư pháp.

– Kết hợp chặt chẽ, đồng bộ hơn nữa trong hoạt động giữa các cơ quan bảo vệ pháp luật, cơ quan Nhà nước khác, tổ chức xã hội và công dân trong công cuộc đấu trang phòng chống tội phạm nói chung và tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản nói riêng

– Thường xuyên kiểm tra, thanh tra các mặt công tác, xử lý nghiêm minh các vi phạm trong công tác của các đơn vị và cá nhân cán bộ công chức; kiên quyết xử lý kịp thời, nghiêm minh các vi phạm, loại bỏ khỏi ngành những cán bộ thoái hóa, biến chất.

– Tăng cường giáo dục công dân.

KẾT LUẬN

Tỉnh Quảng Ngãi nằm trong vùng kinh tế trọng điểm kinh tế có khu kinh tế Dung Quất, một trong 5 Khu kinh tế phát triển tốt của cả nước. Cùng với đó, Quảng Ngãi còn có 3 khu công công nghiệp khác gồm Tịnh Phong, Quảng Phú, Phổ Phong và gần đây cũng đã hợp tác với Singapore  xây dựng Khu công nghiệp – đô thị dịch vụ VSIP. Quảng Ngãi có chiều dài bờ biển dài 130 km, số lượng tàu thuyền khai thác hải sản vào loại lớn của cả nước. Đây là những lợi thế trong phát triển kinh tế của Quảng Ngãi theo hướng công nghiệp và kinh tế biển. Phát huy lợi thế đó, năm 2014, trong bối cảnh khó khăn chung về kinh tế nhưng Quảng Ngãi vẫn đạt tốc độ tăng 2,2% so với năm 2013, thu ngân sách 28.000 tỷ đồng, nằm trong tốp có số thu ngân sách cao của cả nước, 10/13 chỉ tiêu quan trọng đều đạt và vượt kế hoạch, lĩnh vực văn hóa – xã hội có bước phát triển, đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt, quốc phòng an ninh đước giữ vững. Bên cạnh đó, tỉnh cũng đã triển khai có hiệu quả các chương trình mục tiêu quốc gia, trong đó có chương trình 30a giảm nghèo nhanh và bền vững ở các huyện miền núi, chương trình xây dựng nông thôn mới. Cùng với sự phát triển của kinh tế luôn tìm ẩn và phát sinh nhiều loại tội phạm, trong đó có tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tái sản, gây mất trị an ở địa phương, mất lòng tin của quần chúng nhân dân vào sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng và địa phương trong tỉnh Quảng Ngãi. Trước tình hình đó, để đẩy lùi loại tội phạm này, nên việc nghiên cứu đề tài “Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tế tỉnh Quảng Ngãi” có ý nghĩa hơn bao giờ hết.

Tác giả đi sâu vào phân tích những vấn về lịch sử lập pháp, đưa ra khái niệm và các dấu hiệu pháp lý về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Qua đó làm rõ quá trình định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội phạm này từ thực tiễn tỉnh Quảng Ngãi. Từ đó đề xuất một số giải pháp kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả của việc hoàn thiện pháp luật đối với loại tội phạm này.

LIỆN HỆ:

SĐT+ZALO: 0935568275

E:\DỮ LIỆU COP CỦA CHỊ YẾN\LUAN VAN VIEN HAN LAM\LUAT HINH SU\NGUYEN DUY HƯNG\SAU BAO VE

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *