Các tội phạm về tham nhũng theo pháp luật hình sự Việt Nam

Các tội phạm về tham nhũng theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam

1. Tính cấp thiết đề tài

Tham nhũng là hiện tượng xã hội có tính lịch sử, là vấn đề mang tính chất toàn cầu. Ở nước ta hiện nay, ngoài việc gây hậu quả thiệt hại về vật chất, tham nhũng còn gây ra sự bất bình trong nhân dân, tạo nên sự bất công trong xã hội, giảm lòng tin của nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng, hiệu lực quản lý của Nhà nước.

Quảng Nam là tỉnh ven biển thuộc Nam Trung Bộ. Trong những năm qua, tỉnh đã đạt được nhiều thành quả to lớn về mọi mặt, đóng góp phần xứng đáng vào thắng lợi của công cuộc đổi mới đất nước. Tuy nhiên, trên địa bàn tỉnh cũng còn nhiều vấn đề cần giải quyết, mà một trong những cấp bách là nạn tham nhũng. Mặc dù tính chất, mức độ của các vụ án không nghiêm trọng, phức tạp như ở một số tỉnh, thành phố khác nhưng gây nhiều bức xúc trong dư luận, ảnh hưởng đến niềm tin của nhân dân đối với đội ngũ cán bộ, công chức, những người có chức vụ, quyền hạn trong bộ máy công quyền.

Việc nghiên cứu đề tài này là cần thiết, cấp bách không chỉ có ý nghĩa về mặt lý luận mà còn có ý nghĩa thực tiễn, góp phần cho cuộc đấu tranh phòng chống các tội phạm tham nhũng tại tỉnh Quảng Nam nói riêng và trong cả nước nói chung. Do vậy, tôi chọn đề tài: “Các tội phạm về tham nhũng theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam” làm đề tài nghiên cứu.

2. Tình hình nghiên cứu

3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn

3.1. Mục đích

Mục đích của việc nghiên cứu là qua việc phân tích khái niệm, các dấu hiệu pháp lý hình sự đặc trưng của các tội phạm tham nhũng, tình hình và nguyên nhân và các tội phạm tham nhũng tại tỉnh Quảng Nam. Kiến nghị các giải pháp nâng cao hiệu quả định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội phạm về tham nhũng.

3.2. Nhiệm vụ

– Nghiên cứu khái niệm tội phạm tham nhũng.

– Nghiên cứu những vấn đề lý luận và pháp luật

– Đánh giá thực định tội danh, quyết định hình phạt; tìm ra các giải pháp hữu hiệu nâng cao hiệu quả định tội danh và quyết định hình phạt đối với các tội phạm tham nhũng tại tỉnh Quảng Nam.

4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu

Trong luận văn, tác giả tập trung vào việc những vấn đề lý luận và thực tiễn, định tội danh và quyết định hình phạt đối với các tội phạm về tham nhũng theo quy định của pháp luật Việt Nam trên địa bàn tỉnh Quảng Nam.

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu

Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chính sách của Đảng và pháp luật hình sự của Nhà nước đối với tội phạm về tham nhũng.

Các phương pháp nghiên cứu cụ thể được sử dụng gồm: Phương pháp phân tích, so sánh, tổng hợp, các thống kê, khảo sát thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử các vụ án tham nhũng tại tỉnh Quảng Nam.

6. Ý nghĩa đề tài

Kết quả nghiên cứu góp phần làm cơ sở lý luận đấu tranh phòng chống các tội tham nhũng tại tỉnh Quảng Nam nói riêng và trong cả nước nói chung.

Góp phần hoàn thiện Bộ luật hình sự và các văn bản pháp luật khác.

7. Kết cấu của luận văn

Chương 1: Những vấn đề lí luận và pháp luật về tội phạm tham nhũng theo pháp luật hình sự Việt Nam.

Chương 2: Định tội danh các tội tham nhũng trên địa bàn tỉnh Quảng Nam từ năm 2010 đến năm 2014.

Chương 3: Quyết định hình phạt đối với các tội tham nhũng trên địa bàn tỉnh Quảng Nam từ năm 2010 đến năm 2014.

Chương 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VÀ QUY ĐỊNH

CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ

VỀ CÁC TỘI PHẠM VỀ THAM NHŨNG

1.1. Cơ sở lý luận

Chủ nghĩa Mác-Lê nin về hình thái kinh tế xã hội nêu rõ, khi từ bỏ chế độ Công xã nguyên thủy, loài người bước vào chế độ Chiếm hữu nô lệ, cũng từ đó bắt đầu xuất hiện chế độ tư hữu, chiếm hữu tài sản cá nhân. Bởi vậy, chế độ tư hữu chính là cơ sở tư tưởng của các hành vi tham nhũng, không có tư tưởng tư lợi, ích kỷ sẽ không có hành vi tham nhũng thiệt người, lợi mình.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân; Người đã sớm chỉ ra bản chất của tệ quan liêu, tham nhũng, nguồn gốc nguyên nhân phát sinh, phát triển của tham nhũng cũng như tính phức tạp của cuộc đấu tranh phòng chống các tệ nạn này.

Kết quả và kinh nghiệm trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng của cha ông ngày trước, cũng như của Đảng và Nhà nước ta hiện nay, nhất là các vấn đề về đức trị, pháp trị, truyền thống văn hóa, lòng tự trọng và tự hào dân tộc.

1.2. Khái niệm và các dấu hiệu pháp lý của các tội phạm về tham nhũng

1.2.1 Khái niệm các tội phạm về tham nhũng

Theo từ điển tiếng Việt thì “Tham nhũng là lợi dụng quyền hành để nhũng nhiễu dân và lấy của”, là hành vi của những người có chức vụ, quyền hạn và đã lợi dụng chức vụ quyền hạn của mình để nhũng nhiễu, hạch sách dân, thu lợi vật chất cụ thể (lấy của).

– Bộ luật hình sự nước Cộng hòa XHCN Việt Nam sửa đổi, bổ sung năm 2009, tại Chương XXI, Mục A quy định các tội về tham nhũng gồm 07 tội, từ Điều 278 đến Điều 284.

– Luật Phòng, chống tham nhũng được Quốc hội khóa XI thông qua ngày 29 tháng 11 năm 2005, sửa đổi bổ sung ngày 04 tháng 8 năm 2007, trong đó quy định: “Tham nhũng là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn đó vì vụ lợi” (theo Khoản 2, Điều 1, Luật Phòng, chống tham nhũng).

Đồng thời Luật Phòng, chống tham nhũng cũng quy định 12 hành vi tham nhũng tại Điều 3.

Như vậy, không chỉ ở nước ta mà nhiều nước trên thế giới đều có quan niệm tương đối thống nhất về tham nhũng: Nó chính là hành vi của người có chức vụ quyền hạn trong cơ quan tổ chức đã lợi dụng hoặc lạm dụng chức vụ, quyền hạn của mình để vụ lợi cá nhân.

1.2.2. Đặc điểm tội phạm về tham nhũng

Xuất phát từ định nghĩa nêu trên, có thể thấy tội phạm về tham nhũng có các đặc điểm sau:

– Đặc điểm thứ nhất: Chủ thể của tội phạm về tham nhũng phải là người có chức vụ, quyền hạn. Người có chức vụ, quyền hạn là người được giao một công vụ hay nhiệm vụ nhất định và có quyền hạn nhất định đối với công vụ nhiệm vụ đó

– Đặc điểm thứ hai: Tội phạm tham nhũng là hành vi lợi dụng hoặc lạm dụng chức vụ, quyền hạn được giao để làm trái pháp luật vì vụ lợi.

– Đặc điểm thứ ba: Là động cơ vụ lợi, tức người phạm tội thực hiện hành vi phạm tội nhằm thu lợi vật chất cho cá nhân, gia đình hoặc một nhóm người mà mình quan tâm.

1.2.3. Các tội phạm về tham nhũng trong Bộ luật hình sự năm 2009

Theo quy định của Bộ luật hình sự năm 2009, các tội phạm về tham nhũng bao gồm các tội sau:

– Tội tham ô (Điều 278)

– Tội nhận hối lộ (Điều 279)

– Tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản (Điều 280)

– Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ (Điều 281)

– Tội lạm quyền trong khi thi hành công vụ (Điều 282)

– Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi (Điều 283)

– Tội giả mạo trong công tác (Điều 284).

1.2.4. Khách thể của tội phạm về tham nhũng

Khách thể loại của loại tội phạm về tham nhũng là những quan hệ xã hội được pháp luật hình sự bảo vệ, bảo đảm sự hoạt động đúng đắn, uy tín của cơ quan Nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị – xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.

Các tội phạm về tham nhũng theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam
Các tội phạm về tham nhũng theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam

1.2.5. Mặt khách quan của tội phạm về tham nhũng

Mặt khách quan của tội phạm là mặt bên ngoài của tội phạm, bao gồm những biểu hiện của tội phạm diễn ra hoặc tồn tại bên ngoài thế giới khách quan.

Trong các tội phạm tham nhũng, trước hết đó là hành vi lợi dụng hoặc lạm dụng chức vụ, quyền hạn được giao chiếm đoạt tài sản của Nhà nước, tập thể, tiền hoặc lợi ích vật chất khác của công dân.

Trong mặt khách quan của tội phạm về tham nhũng thì hành vi lợi dụng (hoặc lạm dụng) chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ để phạm tội là dấu hiệu bắt buộc để xác định đó là tội phạm về tham nhũng. Bởi lẽ, trong hành vi khách quan của tội phạm này không dùng chức vụ, quyền hạn để phạm tội thì đó không phải là tội phạm về tham nhũng mà có thể là một loại tội phạm khác.

1.2.6. Mặt chủ quan của tội phạm tham nhũng

Mặt chủ quan của các tội tham nhũng được thực hiện bằng lỗi cố ý, vì động cơ vụ lợi hoặc động cơ cá nhân khác. Người thực hiện tội phạm nhận thức được tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi mà họ thực hiện.

Khi thực hiện hành vi phạm tội, người phạm tội bao giờ cũng vì động cơ vụ lợi hoặc động cơ cá nhân nhằm mục đích chiếm đoạt hoặc thu về cho một nhóm người mà mình quan tâm đến, quyền lợi tài sản hoặc lợi ích vật chất khác.

Mục đích của người có chức vụ, quyền hạn khi thực hiện hành vi phạm tội đó là số tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác mà họ mong muốn đạt được. Mục đích này được đặt ra do động cơ vụ lợi cá nhân bên trong thúc đẩy.

1.2.7. Chủ thể của tội phạm về tham nhũng

Các tội về tham nhũng có chủ thể đặc biệt, tức là người có chức vụ trong các cơ quan, tổ chức. Theo quy định của Bộ luật hình sự năm 2009, chỉ có người có chức vụ mới có thể là chủ thể của tội phạm về tham nhũng. Người đó đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn được giao để thực hiện hành vi tham nhũng. Chức vụ, quyền hạn là phương tiện để người tham nhũng vơ vét của cải của Nhà nước, của nhân dân nhằm thỏa mãn tính vụ lợi của mình.

1.3. Đường lối xử lý và hình phạt đối với các tội phạm về tham nhũng

Quan điểm, đường lối nhất quán của Đảng và Nhà nước ta trong chính sách hình sự là đấu tranh không khoan nhượng đối với loại tội phạm về tham nhũng, kiên quyết xử lý nghiêm minh những tội phạm về tham nhũng và coi đó là nhiệm vụ cấp bách và lâu dài, nhiệm vụ thường xuyên và liên tục trong giai đoạn xây dựng chế độ Xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn hiện nay và những năm sắp tới ở nước ta.

Về hình phạt, đối với tội phạm về tham nhũng, Luật hình sự quy định chế tài rất nghiêm khắc. Phần lớn các điều được chia thành 5 khung hình phạt với các tình tiết định khung cụ thể, rất thuận lợi cho việc quyết định hình phạt. Luật hình sự đã loại trừ hình phạt cải tạo không giam giữ, chỉ quy định hình phạt tù, tù chung thân hoặc tử hình là hình phạt chính. Quy định phạt tiền và tịch thu tài sản là hình phạt bổ sung bắt buộc đối với một số tội phạm tham nhũng.

Kết luận Chương 1

Đấu tranh phòng, chống tham nhũng có hiệu quả, luật hình sự Việt Nam đã quy định một số hành vi tham nhũng là tội phạm và quy định hình phạt khá nghiêm khắc đối với tội phạm tham nhũng. Đây là cơ sở pháp lý để nhận diện tội phạm tham nhũng, giúp cho việc định tội danh và quyết định hình phạt được đúng người, đúng tội, đúng pháp luật; không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội, góp phần thiết thực vào cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng.

Chương 2

ĐỊNH TỘI DANH CÁC TỘI PHẠM VỀ THAM NHŨNG

TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG NAM

2.1. Khái quát lý luận về định tội danh

Quá trình áp dụng các quy phạm pháp luật hình sự được hiểu là quá trình phức tạp được tiến hành qua các giai đoạn nhất định như giải thích pháp luật hình sự, xác định hiệu lực pháp luật về không gian, thời gian, định tội danh, quyết định hình phạt, miễn trách nhiệm hình sự… Trong các giai đoạn đó, định tội danh là một trong những giai đoạn cơ bản, một trong những nội dung của quá trình áp dụng pháp luật, một trong những biện pháp, cách thức đưa các quy phạm pháp luật vào cuộc sống.

Như vậy, có thể hiểu, định tội danh là việc xác định và ghi nhận về mặt pháp lý sự phù hợp chính xác giữa các dấu hiệu của hành vi phạm tội cụ thể đã được thực hiện với các dấu hiệu của cấu thành tội phạm đã được quy định trong quy phạm pháp luật hình sự.

2.2. Định tội danh theo cấu thành tội phạm cơ bản các tội về tham nhũng trên địa bàn tỉnh Quảng Nam

Cũng giống như các tội phạm khác được quy định trong Bộ luật hình sự, các tội phạm về tham nhũng cũng có các yếu tố cấu thành tội phạm:

– Khách thể của tội phạm

– Mặt khách quan của tội phạm

– Mặt chủ quan của tội phạm

– Chủ thể của hành vi tội phạm

Ở đây cần tìm hiểu khái quát việc định tội danh theo cấu thành tội phạm cơ bản của tội phạm tham nhũng ở các vấn đề sau:

2.2.1. Định tội danh theo khách thể của tội phạm tham nhũng

Khách thể của tội phạm tham nhũng tồn tại không phụ thuộc vào chủ thể tham nhũng nhưng chúng có mối quan hệ khăng khít với nhau, tác động qua lại với nhau. Do vậy quá trình nghiên cứu tìm ra khách thể của tham nhũng cũng cần được đặt trong mối quan hệ với chủ thể của tham nhũng. Để hiểu như thế nào là khách thể của tham nhũng, trước hết chúng ta cần làm rõ những quan hệ mà chủ thể tham nhũng hướng tới.

Khách thể của tham nhũng là những quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ, thể hiện ở các lợi ích vật chất, phi vật chất và các giá trị chuẩn mực của xã hội nhưng đã bị hành vi tham nhũng xâm hại tới.

2.2.2. Định tội danh theo mặt khách quan của tội phạm tham nhũng

Mặt khách quan của tội phạm về tham nhũng, đó là hành vi lợi dụng hoặc lạm dụng chức vụ, quyền hạn được giao chiếm đoạt tài sản của Nhà nước, tập thể, tiền hoặc lợi ích vật chất khác của công dân.

Mặt khách quan của tham nhũng là những biểu hiện ra bên ngoài thế giới khách quan của chủ thể tham nhũng còn là hành vi tham nhũng, hậu quả tham nhũng và mối quan hệ giữa hành vi và hậu quả tham nhũng. Hành vi tham nhũng là hành vi trái pháp luật của người có chức vụ, quyền hạn, là những hành vi không được thực hiện nhưng người có chức vụ, quyền hạn đã thực hiện để vụ lợi.

2.2.3. Định tội danh theo mặt chủ quan của tội phạm tham nhũng

Mặt chủ quan của tội phạm là quan hệ tâm lý của người phạm tội đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội mà người đó thực hiện. Mặt chủ quan của tội phạm tham nhũng là trạng thái tâm lý của chủ thể tham nhũng bao gồm các dấu hiệu lỗi, động cơ và mục đích của tham nhũng.

Lỗi của hành vi tham nhũng thông thường là lỗi cố ý. Trong một số ít trường hợp chủ thể thực hiện hành vi tham nhũng với lỗi vô ý, mặc dù chủ thể không mong muốn chiếm đoạt tài sản nhưng do rơi vào tình thế và hoàn cảnh nhất định mà thực hiện hành vi tham nhũng.

Động cơ tham nhũng: Là nhu cầu được nhận thức bởi chủ thể tạo nên động lực thúc đẩy chủ thể thực hiện hành vi tham nhũng. Động cơ là dấu hiệu quan trọng để đánh giá tính chất, mức độ của hành vi tham nhũng.

Mục đích tham nhũng là kết quả mà chủ thể mong muốn đạt được trên thực tế bằng hành vi tham nhũng. Mục đích tham nhũng chính là giới hạn cuối cùng mà chủ thể mong muốn đạt được trên thực tế thông qua hành vi tham nhũng.

2.2.4. Định tội danh theo chủ thể của tội phạm tham nhũng

Về chủ thể tội phạm tham những: Phần lớn các quan điểm đều cho rằng chủ thể của tham nhũng đơn giản chỉ là những người có chức vụ, quyền hạn. Người có chức vụ, quyền hạn được hiểu là cán bộ, công chức, viên chức thuộc các cơ quan của Nhà nước, Đảng, đoàn thể (trong hệ thống chính trị), được giao thực hiện một quyền lực chính trị, kinh tế, văn hoá, tư tưởng…

Pháp luật của Việt Nam cũng quy định chủ thể của tham nhũng được thể hiện trong Bộ luật Hình sự, Luật Phòng, chống tham nhũng, Luật Công chức, Luật Viên chức và các quy định của pháp luật ngày càng đầy đủ và chi tiết hơn. Vậy, chủ thể của tham nhũng là người có chức vụ, quyền hạn, bao gồm những người giữ các chức vụ trong các cơ quan của Đảng, Nhà nước, tổ chức chính trị – xã hội, lực lượng vũ trang, các thành phần kinh tế và những người không giữ chức vụ nhưng được giao nhiệm vụ, công vụ và có quyền hạn trong thực hiện nhiệm vụ, công vụ đó.

Việc xác định đúng khách thể, mặt khách quan, mặt chủ quan và chủ thể của tội phạm về tham nhũng có tính chất quan trọng trong việc định tội danh. Là tiền đề cho việc phân hoá trách nhiệm hình sự đối với các hành vi tham nhũng .

2.3. Định tội danh theo cấu thành tội phạm tăng nặng các tội về tham nhũng

Cấu thành tội phạm tăng nặng được xây dựng dựa trên cơ sở cấu thành tội phạm cơ bản, vì vậy, chúng bao gồm cả những dấu hiệu của cấu thành tội phạm cơ bản và những dấu hiệu bổ sung phản ánh mức độ nguy hiểm cho xã hội tăng lên hoặc giảm đi của mỗi loại tội phạm. Như vậy, có thể khẳng định rằng mọi cấu thành tội phạm tăng nặng đều phải có đầy đủ các dấu hiệu của cấu thành tội phạm cơ bản. Nói cách khác, tất cả những trường hợp không thoả mãn cấu thành tội phạm cơ bản của một loại tội phạm nhất định thì dù có những dấu hiệu làm cho tính nguy hiểm cho xã hội tăng lên (tình tiết định khung tăng nặng).

Việc xác định đúng và đủ các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nói chung và đối với tội phạm tham nhũng nói riêng là rất quan trọng trong quá trình định tội danh của tội phạm. Nếu xác định thiếu hoặc thừa đều dẫn đến một hậu quả là quyết định hình phạt hình phạt không đúng.  

2.4. Khó khăn, vướng mắc trong định tội danh các tội phạm về tham nhũng và kiến nghị khắc phục

Việc định tội danh các tội phạm về tham nhũng trong thực tế hiện nay gặp nhiều khó khăn, vướng mắc trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử các vụ án tham nhũng. Đối tượng phạm tội tham nhũng là những người có chức vụ, quyền hạn, lợi dụng nghề nghiệp, các mối quan hệ, sử dụng công nghệ cao để phạm tội và che giấu tội phạm. Các vụ án tham nhũng thường xảy ra sau một thời gian khá lâu mới bị phát hiện, đối tượng đã cất giấu, hợp lý hóa hoặc đã hủy tài liệu dẫn đến việc thu thập tài liệu, chứng cứ gặp nhiều khó khăn. Việc điều tra các vụ án về tội phạm tham nhũng phải chấp hành nghiêm chỉ thị của Đảng, pháp luật của Nhà nước, phải báo cáo xin ý kiến giải quyết nhiều cấp, nhiều ngành.

Mặt khác trong quá trình điều tra ban đầu, khi vụ án chưa được khởi tố thì công tác thu thập tài liệu đối với hành vi phạm tội tham nhũng liên quan đến lĩnh vực ngân hàng hoặc người có hành vi phạm tội là đảng viên rất khó khăn. Lý do là việc thu thập tài liệu bị hạn chế từ quy định bảo mật và cung cấp thông tin liên quan đến tiền và tài sản của khách hàng hoặc từ quy định áp dụng các biện pháp nghiệp vụ để điều tra đối với cán bộ, đảng viên khi chưa được khởi tố.

  Bên cạnh đó, dấu hiệu định tội của một số tội danh được quy định trong Bộ luật hình sự gần giống nhau dẫn đến khó xác định, khó áp dụng, như tội “Lợi dụng chức vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ” (Điều 281), tội “Lạm quyền trong khi thi hành công vụ” (Điều 282) nhưng chưa có quy định hướng dẫn của liên ngành Trung ương và của cơ quan chức năng có thẩm quyền. Một số dấu hiệu định tội như “nghiêm trọng”, “rất nghiêm trọng”, “đặc biệt nghiêm trọng”, “hậu quả”, “động cơ vụ lợi”… trong các tội về tham nhũng chưa có hướng dẫn thống nhất, gây khó khăn trong việc áp dụng luật”.

Từ những bất cập, hạn chế trên, cần kiến nghị sửa đổi một số nội dung sau:

Đề nghị Quốc hội cần tiếp tục sửa luật, bổ sung các quy định của pháp luật liên quan đến công tác phòng chống tham nhũng. Một số quy định của Bộ luật hình sự đề cập đến tội phạm về chức vụ còn nhiều bất cập. Do đó, cần phải bổ sung, sửa đổi để hoàn thiện các quy định về tình tiết định tội và tình tiết định khung đối với loại tội phạm này.

Cần xem xét thu hẹp khoảng cách giữa mức tối thiểu và mức tối đa của khung hình phạt

Kết luận Chương 2

Quá trình định tội danh về tham nhũng theo Mục A, Chương XXI Bộ luật hình sự có vai trò rất quan trọng, nó là một trong những trọng tâm mà các hoạt động tố tụng khác hướng tới, bởi lẽ các hoạt động tố tụng hình sự ở giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử cho cùng đều phải đi đến kết luận về tội phạm nào đó và ai là người đã thực hiện tội phạm đó đối với hành vi tham nhũng.

Việc nâng cao hiệu quả của hoạt động định tội danh trong hoạt động điều tra, truy tố và xét xử vụ án hình sự của các cơ quan tiến hành tố tụng hình sự và những người tố tụng hình sự nói chung trong điều kiện hiện nay đối với tội phạm về tham nhũng có ý nghĩa thiết thực nhằm góp phầp tăng cường pháp chế, bảo đảm xử lý đúng người đúng tội, không làm oan người vô tội, không để lọt người lọt tội và xử lý triệt để, nghiêm minh đối với mọi hành vi phạm tội.

Chương 3

QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT ĐỐI VỚI CÁC TỘI VỀ THAM NHŨNG TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG NAM

3.1. Khái quát lý luận về quyết định hình phạt

3.1.1. Khái niệm, đặc điểm, mục đích và ý nghĩa của quyết định hình phạt

* Khái niệm: Quyết định hình phạt là việc Tòa án lựa chọn loại hình phạt với mức hình phạt cụ thể trong phạm vi luật định để áp dụng đối với người phạm tội.

* Đặc điểm:

Đặc điểm thứ nhất: Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất so với tất cả các biện pháp cưỡng chế về hình sự khác của Nhà nước mà việc áp dụng nó đối với người bị kết án sẽ đưa đến hậu hậu quả pháp lí là người đó bị coi là có án tích.

Đặc điểm thứ hai: Với tính chất là một dạng của trách nhiệm và một hình thức để thực hiện trách nhiệm, quyết định hình phạt chỉ có thể xuất  hiện khi có sự việc phạm tội.

Đặc điểm thứ ba: Quyết định hình phạt phải và chỉ do một cơ quan tư pháp hình sự duy nhất có thẩm quyền xét sử vụ án hình sự – Tòa án – Áp dụng và chỉ đối với người bị kết án nói riêng trong bản án kết tội có hiệu lực pháp luật.

Đặc điểm thứ tư: Quyết định hình phạt nhằm mục đích tước bỏ hoặc hạn chế quyền, tự do của người bị kế án.

Đặc điểm thứ năm: Khi quyết định hình phạt phải và chỉ được quy định trong pháp luật hình sự, đồng thời được tòa án áp dụng theo một trình tự đặc biệt do luật tố tụng hình sự quy định.

Đặc điểm thứ sáu: Quyết định hình phạt nhân danh Nhà nước áp dụng với riêng bản thân người bị kết án mà thôi.

* Mục đích: Hình phạt không chỉ nhằm trừng trị người phạm tội mà còn giáo dục họ trở thành người có ích cho xã hội, có ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống xã hội chủ nghĩa, ngăn ngừa họ phạm tội mới. Hình phạt còn nhằm giáo dục người khác tôn trọng pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm.

* Ý nghĩa: Là khâu rất quan trọng trong cụ thể hóa nguyên tắc của luật hình sự, là tiền đề quan trọng để thực hiện các mục đích của hình phạt. Củng cố pháp chế, góp phần duy trì an ninh trật tự xã hội, nâng cao ý thức đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm trong nhân dân.

Các tội phạm về tham nhũng theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam
Các tội phạm về tham nhũng theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam

3.1.2. Các nguyên tắc quyết định hình phạt

Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước nhằm tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của người phạm tội (Điều 26 Bộ luật hình sự). Do đó việc quyết định hình phạt cần dựa trên những nguyên tắc được quy định tại Điều 3 Bộ luật hình sự. 3.1.3. Các căn cứ quyết định hình phạt

* Căn cứ vào quy định của Bộ luật hình sự

* Cân nhắc vào tính chất mức độ nguy hiểm cho xã hội và hành vi

* Nhân thân người phạm tội

* Các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ

3.2. Quyết định hình phạt đối với các tội tham nhũng trên địa bàn tỉnh Quảng Nam

3.2.1. Quyết định hình phạt theo quy định của Bộ luật hình sự

Các tội phạm về tham nhũng được xem là tội gây nguy hiểm lớn cho xã hội, nên hình phạt đối với loại tội này rất nghiêm khắc. Trong số 7 tội quy định ở Mục A- Chương XXI Bộ luật hình sự từ Điều 279 đến 284.

Ngoài các hình phạt, người phạm tội về tham nhũng còn bị áp dụng hình phạt bổ sung: Cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ 1 năm đến 5 năm; bị phạt tiền…

Bên cạnh đó, người phạm tội còn bị áp dụng các biện pháp khác, đó là các biện pháp tư pháp như tịch thu vật, tiền trực tiếp liên quan đến tài sản; trả lại tài sản, sữa chữa hoặc bồi thường thiệt hại, hoặc có thể bị bắt buộc chữa bệnh.

3.2.2. Quyết định hình phạt đối với tội phạm về tham nhũng trên địa bàn tỉnh Quảng Nam từ năm 2010 đến năm 2014

Đối với tỉnh Quảng Nam, trong 5 năm qua, công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí được các cấp ủy triển khai và tổ chức thực hiện tích cực, coi đây là nhiệm vụ vừa cấp bách, vừa lâu dài và bước đầu đã đạt được một số kết quả, góp phần vào nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội, giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội. Công cuộc đổi mới tại tỉnh Quảng Nam đang đi vào chiều sâu, đã đạt được những thành tựu bước đầu rất quan trọng trên các mặt kinh tế-xã hội. Tuy nhiên, chúng ta đang ở giai đoạn chuyển tiếp và hoàn thiện từ cơ chế quản lý hành chính quan liêu, bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Trong quá trình chuyển đổi nó, bên cạnh những mặt tích cực, còn tồn tại những mặt tiêu cực làm cản trở công cuộc đổi mới và phát triển tỉnh, đó là nạn tham nhũng đang diễn ra trên địa bàn tỉnh với tính chất và mức độ rất phức tạp và tinh vi, gây hậu quả nghiêm trọng, gây bất bình trong nhân dân, làm giảm lòng tin của dân đối với Đảng và lãnh đạo tỉnh, gây thiệt hại về sự phát triển kinh tế của tỉnh.

Theo số liệu của Viện Kiểm sát nhân dân và Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Nam thì các tội phạm về tham nhũng được truy tố, xét xử từ năm 2010 đến hết năm 2014 (Phụ lục 1, Phụ lục 2, Phụ lục 3, Phụ lục 4)

3.2.3. Quyết định hình phạt theo tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội

Tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội là căn cứ để phân chia tội phạm thành tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.

Trong giai đoạn từ 2010 đến 2014, Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Nam đã đưa ra xét xử một số vụ án tham nhũng và quyết định hình phạt theo tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội. Tổng cộng Tòa án nhân dân 2 cấp đã xét xử sơ thẩm, phúc thẩm và kết án 15 vụ án tham nhũng với 21 bị cáo, trong đó: Mức án dưới 3 năm tù: 13 bị cáo; Được hưởng án treo: 03 bị cáo; Miễn trách nhiệm hình sự: 01 bị cáo; Trên 3 năm tù: 05 bị cáo. Mức án tham nhũng mà Tòa án đã tuyên cao nhất là 17 năm tù giam, mức án thấp nhất là 18 tháng tù treo.

3.3. Những khó khăn trong quyết định hình phạt đối với các tội phạm về tham nhũng trên địa bàn tỉnh Quảng Nam xuất phát từ bất cập, hạn chế của pháp luật và kiến nghị hoàn thiện

Tội phạm tham nhũng là hành vi của những người có chức vụ, quyền hạn; phạm tội với động cơ, mục đích chiếm đoạt tài sản, làm giàu bất chính, đồng thời gây ra những hậu quả, thiệt hại đặc biệt nghiêm trọng về kinh tế, chính trị – xã hội. Vì vậy, trong thời gian qua, các cơ quan tố tụng tỉnh Quảng Nam đã kiên quyết xử lý triệt để các hành vi tham nhũng, tội phạm tham nhũng bằng những hình phạt nghiêm khắc, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Điển hình là vụ tham ô tài sản tại Ban Dân tộc tỉnh, vụ tham ô tài sản tại Công ty Phát triển hạ tầng Quảng Nam, vụ giả mạo trong công tác tại huyện Phú Ninh…bằng những bản án được dư luận hoan nghênh, đồng tình, không để tình trạng án treo đối với tội phạm tham nhũng như một số địa phương khác.

3.3.1. Một số khó khăn khi áp dụng các quy định của pháp luật về các tội tham nhũng

* Về một số tình tiết định tội:

– Do chưa có nhận thức thống nhất thế nào là người có chức vụ được quy định tại Điều 227 Bộ luật hình sự, cho nên các cơ quan tiến hành tố tụng còn gặp nhiều vướng mắc trong việc xác định chủ thể của các tội phạm về tham nhũng để phân biệt tội phạm về tham nhũng với các tội khác cũng như phân biệt các tội phạm về tham nhũng với nhau.

* Về một số tình tiết định khung hình phạt:

Bộ luật hình sự quy đinh nhiều tình tiết định khung tăng nặng đối với các tội phạm khác nhau. Trong đó có tình tiết chung đối với các tội hoặc một số tội; có tình tiết chỉ được quy định riêng cho một tội nào đó. Việc áp dụng một số tình tiết trong thực tiễn cũng đang gặp những khó khăn, vướng mắc nhất định.

– Tình tiết gây hậu quả nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hoặc đăc biệt nghiêm trọng; đây là tình tiết định khung tăng nặng được quy định đối với tất cả các tội phạm về tham nhũng. Tuy nhiên việc hiểu và áp dụng tình tiết này thế nào đối với từng vụ án cụ thể đang là vấn đề vướng mắc nhất. Thực tiễn cho thấy rằng trong xét xử các tội phạm về tham nhũng, người áp dụng pháp luật chủ yếu đánh giá hậu quả vật chất để định khung hình phạt. Hậu quả phi vật chất chỉ được đánh giá như là yếu tố bổ sung mà thôi. Khảo sát thực tiễn cho thấy rằng chưa có trường hợp nào cơ quan tiến hành tố tụng truy cứu trách nhiệm hình sự đối với bị can, bị cáo về tình tiết định khung tăng nặng gây hậu quả nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng chỉ theo hậu quả phi vật chất mà hành vi phạm tội gây ra. Cho nên, việc quy định thống nhất tình tiết định khung về hậu quả là rất quan trọng hiện nay.

* Một số vướng mắc trong quyết định hình phạt:

Quyết định hình phạt trong xét xử các tội phạm về tham nhũng luôn luôn là vần đề phức tạp trong thực tiễn thời gian nhiều năm qua. Quyết định hình phạt như thế nào đối với người phạm tội tham nhũng thường là vấn đề thảo luận nhiều trong khi quyết định đối với từng vụ án cụ thể.

3.3.2. Những hạn chế của cơ quan bảo vệ pháp luật trong việc phát hiện và xử lý tội phạm

Thời gian qua các cơ quan bảo vệ pháp luật có nhiều cố gắng trong hoạt động đấu tranh chống tội phạm nói chung và chống tội phạm tham nhũng nói riêng. Nhưng vẫn chưa đáp ứng yêu cầu đòi hỏi đặt ra, còn nhiều yếu kém vẫn chưa khắc phục trong cơ quan bảo vệ pháp luật và đặc biệt yếu kém trong công tác phát hiện xử lý tội phạm.

3.4. Một số đề xuất, kiến nghị hoàn thiện nhằm nâng cao hiệu quả định tội danh và quyết định hình phạt đối với các tội phạm về tham nhũng trên địa bàn Quảng Nam

3.4.1. Hoàn thiện pháp luật tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho việc định tội danh và quyết định hình phạt đối với các tội phạm về tham nhũng

Ở cấp vĩ mô cần ban hành kịp thời và đồng bộ hóa các chủ trương chính sách theo hướng tăng cường công khai, minh bạch và một văn bản hướng dẫn dễ hiểu, dễ thực hiện. Hoàn thiện các quy định để quản lý, kiểm soát chặt chẽ việc thu, chi ngân sách; Hoàn thiện thể chế quản lý doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp có vốn của Nhà nước. Hoàn thiện cơ chế, chính sách để kiểm soát chặt chẽ hoạt động tín dụng, đầu tư xây dựng…

3.4.2. Giải pháp về tổ chức và hoạt động của cơ quan điều tra, viện kiểm sát và tòa án trong hoạt động áp dụng pháp luật hình sự để điều tra, truy tố, xét xử tội phạm về tham nhũng trên địa bàn Quảng Nam

3.4.2.1. Đối với cơ quan điều tra

– Thành lập Phòng Cảnh sát điều tra về tội phạm tham nhũng tại Công an các tỉnh, thành phố (PC 48).

– Cho phép cơ quan điều tra được áp dụng một số nghiệp vụ đặc biệt trong thu thập tài liệu, thông tin, dữ liệu số… điều tra các vụ án tham nhũng hoặc có dấu hiệu tham nhũng.

– Quy định cụ thể về chế độ mua tin các vụ tham nhũng như mức tiền cụ thể, cách thức khen thưởng, đảm bảo bí mật cho người cung cấp thông tin để cơ quan điều tra có cơ sở thuận lợi tiến hành các biện pháp nghiệp vụ khám phá nhanh các vụ án tham nhũng.

3.4.2.2. Đối với viện kiểm sát

Trên cơ sở Luật Tổ chức Viện Kiểm sát nhân dân sửa đổi năm 2014, Viện kiểm sát các cấp cần xác định rõ việc thực hành quyền công tố của mình trong các vụ án tham nhũng đối với việc định tội danh.

3.4.2.3. Đối với tòa án

Đổi mới tổ chức và hoạt động của Toà án các cấp theo h­ướng hợp lý, khoa học và hiện đại về cơ cấu tổ chức và điều kiện, ph­ương tiện làm việc, bảo đảm thực hiện tốt các nguyên tắc hiến định: “Toà án thực hiện chế độ hai cấp xét xử”, “Khi xét xử, thẩm phán và hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”; đồng thời, khắc phục những tồn tại, bất cập hiện nay trong tổ chức và hoạt động của Toà án nhất là trong xét xử các vụ án về tham nhũng.

3.4.3. Giải pháp về xây dựng và phát triển nguồn nhân lực điều tra viên, kiểm sát viên, thẩm phán trên địa bàn Quảng Nam

Thường xuyên giáo dục, nâng cao nhận thức, trách nhiệm, bản lĩnh chính trị của mỗi cá nhân. Tăng cường công tác phối hợp giữa đội ngũ điều tra viên, kiểm sát viên, thẩm phán. Tăng cường biên chế, tổ chức quản lý, đào tạo, bồi dưỡng nhằm nâng cao nhận thức, trình độ chính trị, chuyên môn, nghiệp vụ cho đội điều tra viên, kiểm sát viên, thẩm phán trực tiếp làm công tác chống tham nhũng….

Từng bước cải thiện, tạo điều kiện thuận lợi và thực hiện đúng, kịp thời chế độ tiền lương và các loại phụ cấp khác như: Phụ cấp trách nhiệm, phụ cấp thâm niên công tác, chế độ bồi dưỡng, chế độ trang phục… đối với đội ngũ điều tra viên, kiểm sát viên, thẩm phán đủ để họ trang trải sinh hoạt và chu cấp gia đình, yên tâm công tác.

3.4.4. Giải pháp về cơ sở vật chất cho việc áp dụng pháp luật xử lý tội phạm tham nhũng

Hiến pháp năm 2013 với những quy định mới về tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước pháp quyền, về sự vận hành của kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế đã khẳng định rõ việc “kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng” (Khoản 2 Điều 8). Đây là cơ sở hiến định quan trọng cho việc tăng cường công tác phòng, chống tham nhũng trong thời gian đến.

Việc thu hồi tài sản tham nhũng không những khắc phục được hậu quả nguy hiểm cho xã hội của hành vi tham nhũng, trả lại nguồn lực cho đất nước mà còn có ý nghĩa cảnh báo, ngăn chặn hành vi tham nhũng, triệt tiêu động cơ kinh tế của người phạm tội.

Kết luận Chương 3

Quyết định hình phạt là hoạt động của Tòa án đối với người phạm tội, quyết định hình phạt đúng, công bằng và hợp lý là tiền đề, là điều kiện để đạt được mục đích của hình phạt. Để quyết định hình phạt đúng pháp luật, công bằng và hợp lý đối với người phạm tội, Tòa án phải tuân theo các nguyên tắc quyết định hình phạt và các căn cứ quyết định hình phạt. Căn cứ các quy định của Bộ luật hình sự, Tòa án cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự.

KẾT LUẬN

Sự nghiệp đổi mới của đất nước ta đang đạt được những thành tựu hết sức quan trọng trên tất cả các mặt kinh tế, chính trị, xã hội. Tuy nhiên, để khẳng định và phát huy được những thành quả của sự nghiệp đổi mới, đòi hỏi phải tăng cường cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng trên tất cả các mặt trận.

Trong những năm gần đây, theo số liệu thống kê lẫn tình hình thực tế cho thấy, tại tỉnh Quảng Nam, tình trạng tham nhũng vẫn còn xảy ra phổ biến, thậm chí có một số lĩnh vực còn nghiêm trọng hơn trước như đất đai, ngân hàng, khoáng sản. Các tội phạm về tham nhũng rất đa dạng, tăng về số lượng, nguy hiểm về tính chất, gây ra những thiệt hại nghiêm trọng về mọi mặt cho xã hội. Để đảm bảo cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng tại địa bàn tỉnh Quảng Nam thời gian đến đạt hiệu quả, bên cạnh việc thực hiện chính sách hình sự và pháp luật hình sự, cần phải phối hợp đồng bộ các biện pháp khác.

Đấu tranh chống tham nhũng là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân mà trước hết là từ các cơ quan bảo vệ pháp luật. Cuộc đấu tranh chống và bài trừ tệ tham nhũng sẽ có tác dụng thuyết phục và góp phần khôi phục lòng tin của nhân dân đối với đảng bộ, chính quyền của tỉnh. Hy vọng, một số đề xuất mới trong luận văn sẽ được các cơ quan liên quan, các ngành Trung ương, địa phương quan tâm, nghiên cứu để sửa đổi, bổ sung và ban hành các văn bản liên quan trong lĩnh vực hình sự về các tội phạm tham nhũng, góp phần thúc đẩy công cuộc phòng ngừa, đấu tranh nhằm từng bước ngăn chặn và đẩy lùi tham nhũng tại địa phương Quảng Nam và cả nước nói chung./.

LIỆN HỆ:

SĐT+ZALO: 0935568275

E:\DỮ LIỆU COP CỦA CHỊ YẾN\LUAN VAN VIEN HAN LAM\LUAT HINH SU\MAI VAN SANG\SAU BAO VE

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *