Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo pháp luật hình sự

Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo pháp luật hình sự

Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Bình Định

1. Tính cấp thiết của đề tài

Hiện nay quá trình nâng cao và cải cách tư pháp, nhất là hoạt động của các cơ quan tư pháp nói chung, trong đó có TAND các cấp là một đòi hỏi có tính cấp bách của Đảng, Nhà nước ta trong giai đoạn hiện nay. Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII đã chỉ rõ: “TAND tập trung thực hiện tốt chức năng xét xử, thực hiện quyền tư pháp.” [10, tr.24], Nghị quyết 08/NQ-TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị đã chỉ ra: “Chất lượng công tác tư pháp nói chung chưa ngang tầm với yêu cầu và đòi hỏi của nhân dân; còn nhiều trường hợp bỏ lọt tội phạm, làm oan người vô tội, vi phạm các quyền tự do dân chủ của công dân, làm giảm sút lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và các cơ quan tư pháp” [7, tr.2]. Yêu cầu trên đã được thể chế hóa trong Hiến pháp năm 2013 của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam và Luật Tổ chức TAND năm 2014: “TAND là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp. TAND có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ XHCN, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân” [32, tr.2]. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế, khoa học công nghệ phát triển nhanh chóng. Nhà nước đang thực hiện cải cách tư pháp…thì công tác xét xử tội phạm của Tòa án là một trong những vấn đề cấp thiết đặt ra trong tình hình hiện nay để góp phần bảo vệ pháp chế XHCN, bảo vệ quyền con người, quyền công dân. Đối với tội phạm lạm dụng tín nhiệm CĐTS, ngoài những yếu tố tác động chung do đặc điểm phức tạp và đa dạng của loại tội phạm này đã đặt ra những khó khăn vướng mắc trong quá trình phòng ngừa, điều tra, truy tố, xét xử các vụ án lạm dụng tín nhiệm CĐTS.

Bình Định là một tỉnh ven biển, có diện tích trải dài 110 km thuộc vùng duyên hải Nam Trung Bộ Việt Nam. Phía Bắc tiếp giáp với tỉnh Quảng Ngãi, phía Nam tiếp giáp với tỉnh Phú Yên, phía Tây tiếp giáp tỉnh Gia Lai và phía Đông tiếp giáp Biển Đông. Tỉnh Bình Định hiện tại gồm có 11 đơn vị hành chính cấp huyện bao gồm 1 thành phố, 2 thị xã và 8 huyện, được phân chia thành 159 đơn vị hành chính cấp xã gồm 32 phường, 10 thị trấn và 117 xã. Bình Định là tỉnh có vị trí kinh tế đặc biệt quan trọng, là cầu nối cảng biển quốc tế tạo điều kiện giao lưu với các quốc gia trong khu vực và còn là trung điểm của trục giao thông đường sắt và đường bộ Bắc – Nam. Thống kê năm 2019, Bình Định có diện tích tự nhiên 6022,6 km², dân số 1.486.465 người, mật độ dân số 389 người/km². Trong những năm gần đây, hoạt động của các loại tội phạm trên địa bàn tỉnh Bình Định diễn biến phức tạp, gây thiệt hại đến tính mạng, sức khỏe, tài sản của Nhà nước và Nhân dân, ảnh hưởng trực tiếp đến tình hình an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội. Trong đó, tội phạm tội lạm dụng tín nhiệm CĐTS đã và đang gây lo lắng trong Nhân dân. Vì vậy, việc nghiên cứu về hoạt động xét xử tội phạm lạm dụng tín nhiệm CĐTS là yêu cầu cấp thiết của ngành Tòa án nói chung, TAND tỉnh Bình Định nói riêng.

Trong những năm qua, TAND tỉnh Bình Định đã có nhiều cố gắng trong công tác xét xử tội lạm dụng tín nhiệm CĐTS, góp phần quan trọng để hoạt động TTHS xử lý đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Tuy nhiên, công tác xét xử những vụ án tội lạm dụng tín nhiệm CĐTS vẫn còn nhiều bất cập, hạn chế, hiệu quả xử lý chưa cao, dẫn đến tình hình tội phạm còn diễn biến phức tạp. Những khó khăn, tồn tại trong hoạt động xét xử tội lạm dụng tín nhiệm CĐTS bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân khác nhau. Từ những vấn đề nêu trên, cho thấy cần phải hoàn thiện công tác xét xử các vụ án tội lạm dụng tín nhiệm CĐTS nhằm giúp cho hoạt động TTHS của địa phương đạt hiệu quả cao. Đây là vấn đề thực tiễn rất cần được sự quan tâm nghiên cứu, tổng kết để xây dựng thành lý luận, nhưng cho đến nay vẫn chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu trực tiếp nội dung này. Từ những luận giải trên, tác giả chọn đề tài: “Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Bình Định” làm đề tài luận văn tốt nghiệp Cao học Luật.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

– Nghiên cứu làm sáng tỏ cơ sở lý luận và các quy định của PLHS về tội phạm lạm dụng tín nhiệm CĐTS.

– Phân tích, đánh giá thực trạng áp dụng PLHS liên quan đến tội phạm lạm dụng tín nhiệm CĐTS trên địa bàn tỉnh Bình Định. Trên cơ sở đó chỉ ra những hạn chế, những vi phạm của việc áp dụng PLHS liên quan đến tội phạm lạm dụng tín nhiệm CĐTS trên địa bàn tỉnh Bình Định.

– Đề xuất những giải pháp cơ bản, thiết thực nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng PLHS, đấu tranh phòng, chống, xử lý các tội lạm dụng tín nhiệm CĐTS trên địa bàn tỉnh Bình Định trong thời gian tới.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Trên cơ sở mục tiêu nghiên cứu đã đề ra, luận văn tập trung giải quyết những nhiệm vụ cơ bản sau:

– Nghiên cứu những vấn đề lý luận về định tội danh và đánh giá hoạt động định tội danh đối với tội phạm lạm dụng tín nhiệm CĐTS trên địa bàn tỉnh Bình Định từ năm 2015 đến năm 2019.

– Nghiên cứu lịch sử hình thành và phát triển quy định về các tội phạm lạm dụng tín nhiệm CĐTS trong PLHS Việt Nam. Làm sáng tỏ các dấu hiệu pháp lý hình sự của tội lạm dụng tín nhiệm CĐTS.

– Làm rõ những vấn đề lý luận về quyết định hình phạt và đánh giá hoạt động quyết định hình phạt đối với tội lạm dụng tín nhiệm CĐTS từ thực tiễn tỉnh Bình Định từ năm 2015 đến năm 2019.

– Làm sáng tỏ những yêu cầu và các giải pháp cơ bản góp phần nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật, xử lý tội phạm đối với tội lạm dụng tín nhiệm CĐTS từ thực tiễn tỉnh Bình Định từ năm 2015 đến năm 2019.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Các quy định về tội lạm dụng tín nhiệm CĐTS theo PLHS Việt Nam quy định tại BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009). Các quy định về tội lạm dụng tín nhiệm CĐTS theo PLHS Việt Nam quy định tại BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Thực tiễn xét xử, đấu tranh với tội lạm dụng tín nhiệm CĐTS theo PLHS Việt Nam từ thực tiễn tại tỉnh Bình Định. Các số liệu thống kê xét xử hình sự sơ thẩm của TAND tỉnh Bình Định giai đoạn 05 năm từ năm 2015 đến năm 2019. 30 bản án xét xử sơ thẩm của TAND tỉnh Bình Định giai đoạn 05 năm từ năm 2015 đến năm 2019 được thu thập một cách ngẫu nhiên.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

+ Phạm vi về không gian: Đề tài nghiên cứu về tội lạm dụng tín nhiệm CĐTS theo PLHS Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Bình Định dưới góc độ luật hình sự và TTHS.

+ Phạm vi về thời gian: Từ năm 2015 đến năm 2019.

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

5.1. Cơ sở lý luận

Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lê nin về nhà nước và pháp luật nói chung, nhà nước và pháp luật XHCN nói riêng; tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật với tư tưởng Nhân dân là chủ thể của quyền lực xã hội, mọi hoạt động của nhà nước phải xuất phát từ lợi ích của Nhân dân và việc hoàn thiện pháp luật phải xuất phát từ lợi ích của Nhân dân; các quan điểm của Đảng, Nhà nước ta về công tác đấu tranh PCTP, cải cách tư pháp, nhà nước pháp quyền và vấn đề quyền con người. Bên cạnh đó, luận văn còn được nghiên cứu trên cơ sở tham khảo các bài viết, các chuyên đề về tội lạm dụng tín nhiệm CĐTS được đăng tải trên các tạp chí, phương tiện thông tin uy tín, chính thống.

5.1. Phương pháp nghiên cứu

Để hoàn thành luận văn, tác giả tiến hành vận dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể sau:

– Phương pháp nghiên cứu tài liệu: Phương pháp này được sử dụng để nghiên cứu các công trình khoa học có liên quan đến đề tài luận văn, các văn bản pháp lý quy định về tội lạm dụng tín nhiệm CĐTS, các báo cáo sơ kết, tổng kết của các cơ quan tư pháp trung ương, địa phương và đặc biệt là của cơ quan tư pháp tỉnh Bình Định trong giai đoạn 05 năm từ năm 2015 đến năm 2019.

– Phương pháp tổng kết kinh nghiệm: Sử dụng để nghiên cứu tổng kết đánh giá những kết quả, tài liệu thu thập được từ thực tiễn hoạt động đấu tranh, xử lý tội lạm dụng tín nhiệm CĐTS trên địa bàn tỉnh Bình Định trong giai đoạn 05 năm từ năm 2015 đến năm 2019.

– Phương pháp thống kê, phân tích, so sánh số liệu: Sử dụng để điều tra, khảo sát thực tế và thống kê, đánh giá thực trạng, diễn biến, cơ cấu của các tội xâm phạm sở hữu nói chung, các tội lạm dụng tín nhiệm CĐTS trên địa bàn tỉnh Bình Định từ năm 2015 đến năm 2019. Sử dụng để nghiên cứu thực trạng công tác định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội lạm dụng tín nhiệm CĐTS trên địa bàn tỉnh Bình Định.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

6.1. Ý nghĩa lý luận

Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ góp phần bổ sung, hoàn thiện lý luận về đấu tranh PCTP về sở hữu nói chung, tội lạm dụng tín nhiệm CĐTS nói riêng trên cơ sở phân tích các quy định của pháp luật, các dấu hiệu của tội phạm, phân tích, đánh giá thực tiễn áp dụng pháp luật. Đây là tài liệu có thể dùng trong công tác nghiên cứu, học tập, tham khảo dành cho các học viên ngành Luật nói chung, Luật hình sự và TTHS nói riêng.

6.2. Ý nghĩa thực tiễn

Thông qua quá trình nghiên cứu và hoàn thành luận văn, luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu lý luận và thực tiễn giúp cho các cơ quan tiến hành tố tụng tỉnh Bình Định tham khảo, rút kinh nghiệm khi thực hiện các biện pháp đấu tranh, phòng ngừa hiệu quả tội lạm dụng tín nhiệm CĐTS xảy ra trong thời gian tới. Ngoài ra, luận văn còn là tài liệu tham khảo cho các giảng viên, học viên, các nhà nghiên cứu khi nghiên cứu đến những vấn đề có liên quan đến Luật hình sự nói chung, các tội phạm lạm dụng tín nhiệm CĐTS nói riêng.

7. Kết cấu của luận văn

Kết cấu của luận văn ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục thì luận văn được xây dựng có cấu trúc gồm 3 chương:

Chương 1: Một số vấn đề lý luận và quy định của pháp luật về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản

Chương 2: Thực trạng áp dụng pháp luật hình sự về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trên địa bàn tỉnh Bình Định

Chương 3: Một số yêu cầu và các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng các quy định của pháp luật hình sự về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trên địa bàn tỉnh Bình Định

CHƯƠNG 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT

VỀ TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

­1.1. Khái niệm tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo quy định của Bộ luật hình sự hiện hành

BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) có hiệu lực từ ngày 01/01/2018 đã có những tác động tích cực đối với công tác PCTP, bảo vệ và thúc đẩy sự phát triển kinh tế – xã hội của đất nước, góp phần tích cực vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN, bảo vệ tốt hơn quyền con người, quyền công dân.Với việc ban hành BLHS mới sẽ góp phần khắc phục những thiếu sót, hạn chế của BLHS năm 1999, đồng thời tiếp tực tăng cường pháp chế XHCN, góp phần nâng cao hiệu quả trong việc đấu tranh phòng và chống tội phạm nhằm bảo vệ lợi ích của Nhà nước, của cơ quan, tổ chức, quyền và lợi ích hợp pháp và cá nhân. BLHS mới cũng đã cụ thể hóa nhiều quan điểm lớn của Đảng, quy định của Hiến pháp 2013 về PCTP, về đổi mới và hoàn thiện chính sách hình sự, đáp ứng kịp thời và có hiệu quả của cuộc đấu tranh PCTP trong tình hình mới.

BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) gồm có XXVI chương và 426 điều, tăng 82 điều so với BLHS năm 1999, quy định về tội phạm và hình phạt và các biện pháp tư pháp, trong đó nhiều tội phạm mới được bổ sung nhằm đáp ứng yêu cầu đấu tranh PCTP trong tình hình mới, khắc phục được những thiếu sót và bất cập của BLHS năm 1999. Trong đó, tội lạm dụng tín nhiệm CĐTS được quy định tại Điều 175 thuộc Chương XVI các tội xâm phạm sở hữu.

Theo Đại từ điển Tiếng Việt do Viện Ngôn ngữ học biên soạn năm 2010: “Lạm dụng là dùng, sử dụng quá mức hoặc quá giới hạn đã được quy định” [39, tr.652]. “Tín nhiệm là tin tưởng mà giao phó, trông cậy vào nhiệm vụ, sự việc cụ thể nào đó” [39, tr.1646]. Theo Đại từ điển Tiếng Việt của Nguyễn Như Ý (chủ biên) của Nhà xuất bản Văn hóa thông tin năm 1998 thì “Chiếm đoạt là hành vi cố ý chuyển dịch trái pháp luật tài sản đang thuộc quản lý của chủ tài sản thành tài sản của mình bằng cách dựa vào vũ lực, quyền thế” [46, tr.151]. Tội lạm dụng tín nhiệm CĐTS là một hiện tượng xã hội tiêu cực xuất hiện và tồn tại từ lâu trên thế giới và ở nước ta. Lạm dụng tín nhiệm CĐTS được xác định là hành vi vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác thông qua hình thức các hợp đồng và sau đó đã dùng các thủ đoạn gian dối; bỏ trốn để CĐTS hoặc sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến việc không có khả năng trả lại tài sản. Để nhận diện đúng ranh giới giữa giao dịch dân sự, thương mại với hành vi phạm tội hình sự, tránh được tình trạng “hình sự hoá” ác giao dịch dân sự, kinh tế hay “dân sự hoá” các hành vi phạm tội lạm dụng tín nhiệm CĐTS cần phải tìm hiểu cụ thể về khái niệm tội lạm dụng tín nhiệm CĐTS [48, tr.51].

Theo quy định của PLHS Việt Nam có thể hiểu tội phạm là những hành vi gây nguy hiểm cho xã hội, xâm hại đến các khách thể được PLHS Việt Nam bảo vệ. Tội phạm có 4 yếu tố thuộc tính cơ bản sau: Hành vi nguy hiểm cho xã hội; hành vi này được quy định trong BLHS; do người có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hay vô ý; người phạm tội phải chịu hình phạt theo quy định pháp luật. Bốn yếu tố cơ bản cấu thành tội phạm gồm: Mặt khách quan; mặt chủ quan; khách thể và chủ thể của tội phạm. Theo đó, hành vi gây nguy hiểm cho xã hội nhưng không thoả mãn 4 yếu tố cấu thành tội phạm thì không bị coi là tội phạm và không phải chịu trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên, mỗi một tội phạm đều có những dấu hiệu đặc trưng riêng và cũng chính là cơ sở để phân biệt tội phạm này với tội phạm khác [16, tr.11]. Và khái niệm tội phạm đã được quy định rõ tại Khoản 1 Điều 8 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tội lạm dụng tín nhiệm CĐTS quy định lần đầu tiên tại Điều 140 BLHS năm 1999, đây là tội được nhập từ tội lạm dụng tín nhiệm CĐTS của công dân quy định tại Điều 158, Tội lạm dụng tín nhiệm CĐTS XHCN quy định tại Điều 135 BLHS năm 1985, đến BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) tội lạm dụng tín nhiệm CĐTS đã được quy định tại Điều 175:

“1. Người nào thực hiện một trong những hành vi sau đây CĐTS của người khác trị giá từ 4.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 4.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 173, 174 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm hoặc tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại hoặc tài sản có giá trị đặc biệt về mặt tinh thần đối với người bị hại, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

a) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối CĐTS đó hoặc đến thời hạn trả lại tài sản mặc dù có điều kiện, khả năng nhưng cố tình không trả;

b) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng và đã sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản.” [31, tr.134].

Tội lạm dụng tín nhiệm CĐTS được quy định trong BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) đã cụ thể và chi tiết hơn trong BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009), tài sản bị chiếm đoạt được định lượng rõ ràng, phù hợp với điều kiện thực tế. Nhận thức về tội lạm dụng tín nhiệm CĐTS được hiểu theo khoa học pháp lý là: “hành vi sau khi vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng đã dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để CĐTS của người khác hoặc đã sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản” [33, tr.16].

Như vậy, căn cứ vào thực tiễn đấu tranh chống tội phạm lạm dụng tín nhiệm CĐTS và lý luận khoa học hình sự, căn cứ vào quy định của Điều 175 về tội lạm dụng tín nhiệm CĐTS và BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) chúng tôi đưa ra khái niệm tội lạm dụng tín nhiệm CĐTS như sau: “Lạm dụng tín nhiệm CĐTS là hành vi sau khi vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng đã dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để CĐTS của người khác hoặc đã sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản, tài sản bị chiếm đoạt có giá trị từ 4.000.000 đồng trở lên hoặc dưới 4.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 173, 174 và 290 của BLHS, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm hoặc tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại hoặc tài sản có giá trị đặc biệt về mặt tinh thần đối với người bị hại”.

1.2. Cơ sở định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản

1.2.1. Cơ sở của định tội danh

Khái niệm định tội danh ngày nay có rất nhiều cách diễn giải, GS. TSKH Lê Cảm nhận định: “Định tội danh là một quá trình nhận thức lý luận có tính logic, đồng thời là một trong những dạng của hoạt động thực tiễn áp dụng PLHS, cũng như pháp luật TTHS được tiến hành trên cơ sở các chứng cứ, các tài liệu thu thập được và các tình tiết thực tế của VAHS để đối chiếu, so sánh và kiểm tra nhằm xác định sự phù hợp giữa các dấu hiệu của hành vi nguy hiểm cho xã hội được thực hiện với các dấu hiệu của CTTP cụ thể tương ứng do luật hình sự quy định” [3, tr.21]. Còn theo GS.TS Võ Khánh Vinh thì: “Định tội danh là một dạng của hoạt động nhận thức, hoạt động áp dụng PLHS nhằm đi tới chân lý khách quan trên cơ sở xác định đúng, đầy đủ các tình tiết cụ thể của hành vi phạm tội được thực hiện, nhận thức đúng nội dung quy phạm PLHS quy định CTTP tương ứng và mối liên hệ tương đồng giữa các dấu hiệu của CTTP với các tình tiết cụ thể của hành vi phạm tội bằng các phương pháp và thông qua các giai đoạn nhất định” [43, tr.19].

Định tội danh là được xác định là một hoạt động nhận thức và áp dụng PLHS trên cơ sở xác định một cách khách quan, đầy đủ và chính xác các tình tiết, diễn biến cụ thể của hành vi phạm tội theo đúng quy định của quy phạm PLHS cấu thành tội phạm tương ứng và xác định sự phù hợp giữa các dấu hiệu của cấu thành tội phạm nhất định với các tình tiết của hành vi phạm tội thông qua các giai đoạn nhất định.

Giai đoạn cơ bản của việc áp dụng PLHS là định tội danh và có ý nghĩa chính trị, xã hội, đạo đức và pháp lý hết sức quan trọng. Thông qua quá trình thực hiện hoạt động định tội danh đã thể hiện việc đánh giá các yếu tố chính trị, xã hội và pháp lý đối với những hành vi nhất định; tránh việc truy cứu TNHS oan sai; là cơ sở quan trọng cho việc áp dụng hình phạt đối với người phạm tội; bên cạnh đó còn là căn cứ để xác định các thủ tục tố tụng và đảm bảo cho việc đánh giá chính xác tình hình tội phạm nhằm đưa ra các biện pháp đấu tranh, phòng ngừa có hiệu quả.

Trong quá trình áp dụng quy phạm PLHS có tất cả 03 giai đoạn, gồm: Định tội danh, định khung hình phạt và quyết định hình phạt. Và việc định tội danh được xác định là giai đoạn có vai trò quan trọng nhất, bởi lẽ từ giai đoạn khởi tố, điều tra đến khi thi hành án thì việc định tội danh luôn được tiến hành và áp dụng ở tất cả các giai đoạn của quá trình tố tụng hình sự. Định tội danh có thể được hiểu là “việc xác định và ghi nhận về mặt pháp lý sự phù hợp chính xác giữa các dấu hiệu của hành vi phạm tội cụ thể đã được thực hiện với các dấu hiệu của cấu thành tội phạm đã được quy định trong quy phạm PLHS” [43, tr.9-10].

Định tội danh bao gồm những đặc điểm sau: Định tội danh được thể hiện là quá trình nhận thức giữa lý luận và thực tiễn một cách logic: Do đó, trước hết cần phải xác định hành vi đã được thực hiện gây nguy hiểm cho xã hội có thỏa mãn đầy đủ các dấu hiệu cấu thành tội phạm được quy định trong BLHS hay không, từ đó mới làm căn cứ đánh giá hành vi đã thực hiện về mặt PLHS trên thực tế.

Đối với nội dung và hình thức của quá trình định tội danh thì phải được thực hiện theo đúng các quy định trong BLHS, BLTTHS. Theo đó, các cơ quan THTT như CQĐT, VKS và Tòa án cần xác định định tội danh là hoạt động nhằm áp dụng và cụ thể hóa các quy định của PLHS trên cơ sở đánh giá một cách khách quan và đầy đủ hành vi phạm tội đã diễn ra trên thực tế.

Hoạt động định tội danh đóng vai trò vô cùng quan trọng vì nó chi phối và ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động của các cơ quan THTT, định tội danh là căn cứ để quyết định hình phạt. Cụ thể:

Định tội danh đúng chính là cơ sở đầu tiên cho việc phân hóa TNHS và cá thể hóa trách nhiệm hình phạt theo quy định pháp luật. Do đó, nếu việc định tội danh đúng sẽ là căn cứ để thừa nhận các nguyên tắc tiến bộ trong nhà nước pháp quyền như nguyên tắc công minh, nhân đạo, nguyên tắc pháp chế…

Định tội danh đúng là điều kiện tiên quyết, là cơ sở nhằm bảo đảm các quy phạm pháp luật trong TTHS được áp dụng một cách khách quan, chính xác, tránh việc kết án, gây oan sai cho người có hành vi không gây nguy hiểm cho xã hội.

Tuy nhiên, trường hợp định tội danh sai, không chính xác sẽ mang lại nhiều hệ quả tiêu cực, làm giảm suy giảm uy tín nghiêm trọng của các cơ quan THTT, hiệu quả của việc đấu tranh PCTP giảm sút; bỏ lọt người phạm tội hoặc làm oan người vô tội, xâm phạm đến các quyền tự do dân chủ, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.

1.2.2. Cơ sở pháp luật của quyết định hình phạt

Tại Điều 30 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) đã có quy định về khái niệm hình phạt, theo đó: “Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước được quy định trong Bộ luật này, do Tòa án quyết định áp dụng đối với người hoặc pháp nhân thương mại phạm tội nhằm tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của người, pháp nhân thương mại đó” [31, tr.26].

Mục đích của hình phạt không chỉ nhằm trừng trị người, pháp nhân thương mại phạm tội mà còn hướng đến mục đích giáo dục ý thức họ về tuân thủ và chấp hành pháp luật cũng như các quy tắc xử sự của cuộc sống, giúp ngăn ngừa họ phạm tội mới cũng như thông qua đó tuyên truyền, giáo dục đến những người, pháp nhân thương mại khác thượng tôn pháp luật nhằm hướng đến mục đích quan trọng nhất là phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm.

Thẩm quyền áp dụng hình phạt thuộc về Tòa án, do đó quyết định hình phạt là việc Tòa án lựa chọn loại hình phạt cụ thể (hình phạt chính, hình phạt bổ sung) để áp dụng đối với người phạm tội. Có thể thấy, quyết định hình phạt mang nhưng đặc điểm cơ bản sau: Đây là hoạt động được thực hiện sau khi Tòa án xác định xong tội danh; thực hiện trên cơ sở các quy định PLHS, là hoạt động chỉ được áp dụng đối với người phạm tội có thể bị áp dụng hình phạt hoặc miễn TNHS với khung và hình phạt cụ thể.

Nếu việc quyết định hình phạt được thực hiện đúng sẽ mang lại ý nghĩa vô cùng quan trọng vì đây chính là cơ sở pháp lý để đạt được kết quả mà Nhà nước đặt ra và mong muốn là áp dụng đối với người phạm tội và vấn đề này hoàn toàn phụ thuộc vào quyết định của HĐXX; ngoài ra còn đảm bảo được sự khách quan, công bằng khi xác định mức hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ của hành vi phạm tội cùng với nhân thân người phạm tội và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS. Đồng thời, có tác dụng giáo dục, răn đe phòng ngừa chung đối với toàn xã hội; là căn cứ để đảm bảo các nguyên tắc trong nhà nước pháp quyền được phát huy.

Các căn cứ quyết định hình phạt được quy định tại Điều 50 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017):

1. Khi quyết định hình phạt, Tòa án căn cứ vào quy định của Bộ luật này, cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng TNHS.

2. Khi quyết định áp dụng hình phạt tiền, ngoài căn cứ quy định tại khoản 1 Điều này, Tòa án căn cứ vào tình hình tài sản, khả năng thi hành của người phạm tội” [31, tr.36]. Cụ thể, phân tích các căn cứ trên gồm:

Thứ nhất, căn cứ vào quy định của BLHS:

Căn cứ theo quy định của BLHS gồm có 2 phần:

Các căn cứ trong phần chung của BLHS gồm có: các nguyên tắc xử lý; các quy định liên quan đến hình phạt; các quy định về các biện pháp tư pháp; các quy định về căn cứ quyết định hình phạt; các tình tiết giảm nhẹ TNHS; các tình tiết tăng nặng TNHS; về tái phạm, tái phạm nguy hiểm; các quy định về án treo.

Căn cứ quy định về khung hình phạt chính và về hình phạt bổ sung cho từng loại tội được quy định trong phần các tội phạm của BLHS. Khi xem xét quyết định hình phạt tòa án dựa vào các quy định về khung chế tài (gồm hình phạt chính và hình phạt bổ sung) cho từng loại tội phạm, cho phép tòa xác định khung hình phạt cho từng tội. Trên cơ sở đó, dựa vào các quy định của phần chung đã nêu, cho phép Tòa án có thẩm quyền quyết định loại và mức hình phạt cụ thể trong khung quy định hoặc quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của BLHS. Cũng như đối với từng trường hợp cụ thể, Tòa án còn cân nhắc và quyết định áp dụng các hình phạt bổ sung; án treo hoặc biện pháp tư pháp đối với người phạm tội.

Thứ hai, căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi

Khi quyết định hình phạt phải căn cứ và cân nhắc mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội nhằm bảo đảm tính thống nhất và sự công bằng trong quyết định hình phạt của mỗi loại tội khác nhau. Mức độ nguy hiểm được xác định dựa trên cơ sở như: Tính chất của hành vi phạm tội gồm: Công cụ, phương tiện, thủ đoạn và hình thức thực hiện….Tính chất và mức độ hậu quả đã gây ra hoặc đe dọa gây ra. Mức độ lỗi: tính chất của động cơ, quyết tâm phạm tội, nguyên nhân và điều kiện phạm tội… Hoàn cảnh phạm tội và yếu tố nhân thân có ảnh hưởng đến mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội.

Thứ ba, căn cứ nhân thân người phạm tội

Nguyên tắc này được đưa ra để khi quyết định hình phạt có thể đảm bảo hình phạt đã tuyên đạt được mục đích trừng trị và giáo dục, cải tạo người phạm tội. Bao gồm các đặc điểm sau:

Đặc điểm về nhân thân có sự tác động và ảnh hưởng đến hành vi nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội như: lần đầu phạm tội hoặc đã có tiền án, tiền sự, tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm, là người chưa thành niên phạm tội…

Khả năng giáo dục, cải tạo họ như thế nào: Có thái độ tự thú, hợp tác với cơ quan tố tụng không, có hối cải, lập công chuộc tội hay có thái độ ngoan cố..

Có hoàn cảnh đặc biệt không: có bệnh hiểm nghèo, già yếu, phụ nữ có thai hoặc nuôi con nhỏ, có hoàn cảnh bản thân hoặc gia đình đặc biệt khó khăn,..

Thứ tư, căn cứ vào các tình tiết giảm nhẹ hoặc tăng nặng TNHS

Chỉ những người phạm tội mà có hành vi được quy định trong BLHS tại Điều 51 các tình tiết giảm nhẹ TNHS thì mới được xem xét giảm nhẹ hình phạt. Nếu có hành vi thuộc một trong số các quy định tại Điều 52. Các tình tiết tăng nặng TNHS thì sẽ là căn cứ để tăng nặng TNHS.

Thứ năm, căn cứ vào tình hình tài sản, khả năng thi hành của người phạm tội

Khi quyết định áp dụng hình phạt tiền, ngoài các căn cứ nêu trên, Tòa án cần căn cứ vào tình hình tài sản, khả năng thi hành của người phạm tội. Đây được xem là căn cứ cần thiết và được bổ sung kịp thời trong bối cảnh BLHS mới đã có thêm chủ thể mới là pháp nhân thương mại và hầu hết các chế tài được áp dụng trực tiếp hoặc gián tiếp thì đều liên quan đến tài sản của pháp nhân đó. Do đó phải căn cứ vào tình hình tài sản và khả năng thi hành án là một điều tất yếu. Các nhà nghiên cứu lập pháp đã quan tâm và cụ thể hóa nguyên tắc này vào BLHS làm căn cứ quyết định hình phạt là xuất phát một phần từ công tác đánh giá thực tiễn xét xử và thi hành án của cơ quan tư pháp. Bởi lẽ, qua thực tiễn đã có rất nhiều bản án được Tòa án tuyên nhưng không thể áp dụng vào thực tiễn, người bị hại hoặc gia đình người bị hại vẫn không được đền bù, bồi thường vì mức án đã tuyên không căn cứ dựa trên xác minh tài sản, khả năng thi hành án của người phạm tội nên mức án đã tuyên là không có tính khả thi, vượt quá khả năng tài chính của người thi hành mặc dù trên cơ sở lý thuyết thì đúng nhưng không thể thực hiện được do có độ chênh lệnh lớn so vớ điều kiện thực tế. Căn cứ mới được quy định này sẽ góp phần kết nối giữa Tòa án và cơ quan thi hành án, góp phần hạn chế án bị tồn do không thi hành được trên thực tế khi người có nghĩa vụ thi hành án không có đủ khả năng tài chính để đáp ứng trong hiện tại và tương lai.

Bên cạnh đó, khi quyết định hình phạt thì Tòa án cần căn cứ vào các nguyên tắc của nhà nước pháp quyền như nguyên tắc nhân đạo, công bằng; nguyên tắc cá thể hóa TNHS… nhằm bảo đảm tính công bằng, phù hợp và đạt được hiệu quả của hình phạt đã đề ra.

1.3. Khái quát lịch sử hình thành và phát triển các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản

1.3.1. Giai đoạn trước khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985

Ngay từ thời phong kiến, tại Điều 588 Quốc triều hình luật của Triều Lê quy định “Mắc nợ quá hạn không trả thì xử tội trượng, tuỳ theo việc nặng nhẹ; Nếu cự tuyệt không trả, thì xử biếm hai tư, bồi thường gấp đôi”. Trong Bộ luật Hồng Đức, Điều 579 cũng đã quy định “Những người nhận của ai súc vật hay của cái mà đem dùng hết hay tiêu đi, thì phải phạt 80 trượng và đền tiền theo như số tổn thất. Nói dối là chết hay mất thì phải giáng hạ một bậc và đền tiền gấp đôi” [41, tr.36-43].

Trên phương diện pháp luật, từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản PLHS quy định về việc trừng trị các tội xâm phạm sở hữu nói chung, nhưng chưa đưa ra được khái niệm đầy đủ để mô tả dấu hiệu pháp lý của tội phạm lạm dụng tín nhiệm CĐTS một cách cụ thể. Chỉ đến khi Nhà nước ban hành hai Pháp lệnh: Pháp lệnh trừng trị các tội phạm tài sản XHCN và Pháp lệnh trừng trị các tội phạm xâm hại tại sản riêng của công dân. (Theo lệnh số 149 và 150 ngày 23/10/1970 của Chủ tịch nước công bố), thì các hành vi lạm dụng tín nhiệm CĐTS mới được quy định tại các điều lệnh cụ thể. Khái niệm tội lạm dụng tín nhiệm CĐTS được quy định trong hai pháp lệnh ngày 23/10/1970 tồn tại cho đến khi ban hành BLHS năm 1985.

Ngay sau khi Hiến pháp 1946 được thông qua, ghi nhận “quyền tư hữu tài sản của công dân Việt Nam được đảm bảo” [26, tr.16], Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản pháp luật để bảo vệ quyền sở hữu, đặc biệt sở hữu XHCN như Sắc lệnh số 26/SL ngày 25/02/1946 trừng trị các tội phá hủy công sản, Sắc lệnh số 233/SL ngày 17/11/1946 quy định về việc truy tố tội biển thủ; Thông tư số 442/TTg của Thủ tướng chính phủ ngày 19/1/1955 hướng dẫn các Toàn án trừng trị một số tội phạm, gồm trộm cắp, cướp của, lừa gạt, bội tín; Sắc lệnh số 267/SL ngày 15/6/1956 trừng trị những âm mưu, hoạt động phá hoại hoặc làm thiệt hại đến tài sản của nhà nước, của hợp tác xã và của nhân dân làm cản trở chính sách, kế hoạch xây dựng kinh tế và văn hoá; Sắc lệnh số 27/SL ngày 25/2/1946 về tội tống tiền; Sắc lệnh số 11/SL ngày 12/3/1949 trừng trị các tội trộm cắp tài sản nhà binh trong thời chiến; Sắc lệnh số 26/SL ngày 25/2/1949 trừng trị các tội cố ý huỷ hoại hoặc ăn trộm đường dây điện thoại.

Ngày 21/10/1970, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản XHCN và pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản của công dân nhằm bảo vệ tài sản XHCN và tài sản riêng của công dân. Và chính từ các văn bản này, tội lạm dụng tín nhiệm CĐTS đã được quy định thành một tội danh riêng với các đặc điểm dấu hiệu pháp lý mang tính đặc trưng của tội phạm này. Theo đó, tại Điều 11. Pháp lệnh quy định: “1.Kẻ nào nhận tài sản XHCN để giữ, vận chuyển, gia công, sửa chữa hoặc để làm một việc gì khác mà lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt, bớt xén hoặc đánh tráo tài sản đó…”. Điều 11. Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản riêng của công dân cũng quy định: “1. Kẻ nào nhận tài sản của người khác để giữ, vận chuyển, gia công, sửa chữa hoặc để làm một việc gì khác mà lạm dụng tín nhiệm CĐTS, bớt xén hoặc đánh tráo tài sản đó thì…” [38, tr.21]. Căn cứ quy định trên ta thấy đối tượng xâm phạm của hai tội này là khác nhau: Tài sản XHCN và tài sản công dân nhưng hành vi khách quan được mô tả là giống nhau.

Ngày 15/03/1976 Chính phủ cách mạng lâm thời cộng hòa miền Nam Việt Nam ban hành Sắc luật số 03/SL-1976 quy định các tội phạm và hình phạt được áp dụng ở miền Nam Việt Nam, trong đó có quy định về các tội xâm phạm sở hữu, trong đó tội lạm dụng tín nhiệm được quy định tại điểm b Điều 4 cũng với tên gọi “Bội tín”.

1.3.2. Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985 đến trước Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017)

BLHS được Quốc hội nước Cộng hoà XHCN Việt Nam khoá VII thông qua ngày 27/6/1985 tại kỳ họp thứ 9 và có hiệu lực từ ngày 01/01/1986. Đây được xác định là BLHS đầu tiên của nước ta ra đời trên cơ sở pháp điển hóa các văn bản quy phạm PLHS đã được ban hành trước đó, là một bước tiến đánh dấu cột mốc trong lịch sử lập pháp hình sự ở nước ta. Trong BLHS năm 1985, tội lạm dụng tín nhiệm CĐTS được quy định tại các Điều 135 và Điều 158, cụ thể:

“Điều 135.Tội lạm dụng tín nhiệm CĐTS XHCN.

1- Người nào lạm dụng tín nhiệm CĐTS XHCN thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến hai năm hoặc bị phạt tù từ sáu tháng đến năm năm.

2- Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ ba năm đến mười hai năm:

a) Dùng thủ đoạn xảo quyệt, nguy hiểm;

b) Chiếm đoạt tài sản có giá trị lớn;

c) Tái phạm nguy hiểm;

3- Phạm tội trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ mười năm đến hai mươi năm.” [29, tr.120].

“Điều 158. Tội lạm dụng tín nhiệm CĐTS của công dân.

1- Người nào lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản của người khác thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến một năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến ba năm.

2- Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ hai năm đến mười hai năm:

a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị lớn;

b) Tái phạm nguy hiểm.” [29, tr.121].

Như vậy, đến BLHS năm 1985 các nhà làm luật đã không mô tả lại hành vi như trong hai pháp lệnh năm 1970 nữa mà chỉ nêu tội danh và hình phạt. BLHS năm 1985 được sửa đổi, bổ sung 4 lần vào các năm: 1989, 1991, 1992, 1997, nhưng khái niệm về hai tội lạm dụng tín nhiệm CĐTS XHCN và tội lạm dụng tín nhiệm CĐTS vẫn giữ nguyên.

BLHS năm 1999 ra đời đã thể hiện một bước tiến trong kỹ thuật lập pháp hình sự ở nước ta, qua đó đã góp phần đáng kể vào việc hoàn thiện và khắc phục những thiếu sót trong quy định về tội lạm dụng tín nhiệm CĐTS của BLHS năm 1985. BLHS năm 1999 được Quốc hội nước Cộng hoà XHCN Việt Nam khoá X thông qua ngày 21/12/1999 và có hiệu lực từ ngày 01/7/2000. Trong đó, tội lạm dụng tín nhiệm CĐTS được quy định tại Điều 140 như sau:

“Người nào có một trong những hành vi sau đây chiếm đoạt tài sản của người khác có giá trị từ một triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới một triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến ba năm:

a) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản đó;

b) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng và đã sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản” [30, tr.119].

BLHS năm 1999 đã quy định cụ thể hóa, chuẩn xác hơn các dấu hiệu pháp lý trong cấu thành tội lạm dụng tín nhiệm CĐTS từ đó tránh được các nhận thức và cách hiểu khác nhau cũng như sự tuỳ tiện trong áp dụng pháp luật. Đây chính là những tình tiết đặc trưng về tội lạm dụng tín nhiệm CĐTS có ý nghĩa trong việc xác định ranh giới phân biêt hành vi phạm tội với hành vi chưa phải là tội phạm, giữa tội này và tội khác. Tội lạm dụng tín nhiệm CĐTS quy định tại Điều 140 của BLHS năm 1999 là tội được nhập từ tội lạm dụng tín nhiệm CĐTS XHCN quy định tại Điều 135 và tội lạm dụng tín nhiệm CĐTS công dân quy định tại Điều 158 của BLHS năm 1985. Việc nhà làm luật quy định các dấu hiệu định tội trong điều luật là xuất phát từ thực tiễn xét xử loại tội phạm này trong hơn 10 năm thi hành BLHS năm 1985, đặc biệt vào những năm 1997 đến năm 1999 khi mà tình trạng các cơ quan pháp luật ở nhiều địa phương đã “hình sự hoá” các quan hệ dân sự, kinh tế, làm cho nhiều người bị kết án oan về tội lạm dụng tín nhiệm CĐTS mà lẽ ra họ chỉ là bị đơn trong các vụ án dân sự. Trước một thực trạng như vậy đòi hỏi các nhà lập pháp phải đưa vào cấu thành những dấu hiệu đặc trưng của tội lạm dụng tín nhiệm CĐTS” [2, tr.4].

Như vậy, tội lạm dụng tín nhiệm CĐTS quy định trong BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) có các đặc điểm sau: Người phạm tội vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn (Gian dối hoặc bỏ trốn để CĐTS đó; Sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản). Tài sản bị chiếm đoạt có giá trị từ bốn triệu đồng trở lên hoặc dưới bốn triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng (như chiếm đoạt tiền cứu trợ của đồng bào lũ lụt…), hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt, hoặc đã bị kết án về tội CĐTS, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, vẫn bị truy cứu trách nhiệm hình sự.

Tóm lại, các quy định về tội lạm dụng tín nhiệm CĐTS trong BLHS 1985 (sửa đổi, bổ sung năm 1989, 1991, 1992, 1997) và BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) là sự kế thừa và phát huy những quy định mang tính lịch sử qua nhiều giai đoạn hình thành và phát triển khác nhau.Ở mỗi thời kỳ khác nhau, những quy định về tội phạm này cũng được thay đổi ngày càng hoàn thiện hơn để đáp ứng được yêu cầu của tình hình mới [48, tr.49].

LIỆN HỆ:

SĐT+ZALO: 0935568275

E:\DỮ LIỆU COP CỦA CHỊ YẾN\LUAN VAN VIEN HAN LAM\VIEN HAN LAM DOT 11\SAU BAO VE\DOT 5/ DANG CONG THANG

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *