Áp dụng các biện pháp ngăn chặn theo pháp luật tố tụng hình sự

Áp dụng các biện pháp ngăn chặn theo pháp luật tố tụng hình sự

Áp dụng các biện pháp ngăn chặn theo pháp luật tố tụng hình sự từ thực tiễn quận Thanh Khê, Thành phố Đà Nẵng

1. Tính cấp thiết của đề tài

Các biện pháp ngăn chặn là chế định quan trọng trong pháp luật TTHS Việt Nam. Việc quy định cũng như áp dụng các biện pháp ngăn chặn không chỉ có tác dụng ngăn chặn tội phạm mà còn có tác dụng không nhỏ đối với quá trình điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự, mà cụ thể là: không để người phạm tội tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội, hoặc trốn tránh pháp luật, cản trở quá trình điều tra truy tố, xét xử và thi hành án hình sự. Tuy nhiên, việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn là vấn đề nhạy cảm ảnh hưởng đến quyền con người, quyền và lợi ích khác của người bị áp dụng. Vì thế, việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn phải hết sức thận trọng, phải có căn cứ, đúng thẩm quyền và đúng đối tượng mà luật định. Có như vậy, mới phát huy tác dụng của các biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự. Nếu việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn không đúng thẩm quyền, không đúng đối tượng, thiếu căn cứ… không chỉ ảnh hưởng đến quyền con người, quyền công dân mà còn ảnh hưởng đến uy tín của cơ quan tiến hành tố tụng hình sự. Hiến pháp năm 2013 quy định: “Không ai bị bắt nếu không có quyết định của Tòa án nhân dân, quyết định hoặc phê chuẩn của Viện Kiểm sát nhân dân, trừ trường hợp phạm tội quả tang. Việc bắt, giam, giữ người do luật định”. Cụ thể hóa quy định của Hiến pháp, BLTTHS năm 2015 đã quy định chặt chẽ, cụ thể các biện pháp ngăn chặn, bao gồm: giữ người trong trường hợp khẩn cấp, bắt, tạm giữ, tạm giam, bảo lĩnh, đặt tiền để bảo đảm, cấm đi khỏi nơi cư trú, tạm hoãn xuất cảnh (Điều 109). So với quy định của BLTTHS năm 2003, những quy định của BLTTHS năm 2015 về các biện pháp ngăn chặn có nhiều điểm mới cần nghiên cứu làm rõ.

Thực tiễn áp dụng các biện pháp ngăn chặn tại quận Thanh Khê, TP Đà Nẵng trong 5 năm qua cho thấy, các biện pháp ngăn chặn, nhất là các biện pháp bắt, tạm giữ, tạm giam được áp dụng tương đối phổ biến. Việc áp dụng các biện pháp này, trong nhiều trường hợp đã ngăn chặn kịp thời tội phạm, tạo thuận lợi cho hoạt động điều tra truy tố, xét xử và thi hành án. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn ở quận Thanh Khê, TP Đà Nẵng vẫn còn những hạn chế, sai sót nhất định do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan khác nhau cần có giải pháp khắc phục. Vì vậy, việc nghiên cứu một cách hệ thống, toàn diện, chuyên sâu vấn đề áp dụng các biện pháp ngăn chặn ở một địa bàn cấp quận, huyện nhằm góp phần làm phong phú lý luận về các biện pháp ngăn chặn, đánh giá một cách khách quan, toàn diện thực trạng áp dụng các biện pháp này, trên cơ sở đó xây dựng những giải pháp bảo đảm áp dụng đúng các quy định của BLTTHS hiện hành về các biện pháp ngăn chặn là hướng nghiên cứu cần thiết và cấp thiết, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn.

Vì lý do trên, học viên lựa chọn đề tài: “Áp dụng các biện pháp ngăn chặn theo pháp luật tố tụng hình sự từ thực tiễn quận Thanh Khê, Thành phố Đà Nẵng”

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

Mục đích nghiên cứu đề tài này là nhằm: làm rõ và phong phú thêm những vấn đề lý luận về áp dụng các biện pháp ngăn chặn; đánh giá thực tiễn áp dụng những biện pháp này ở địa bàn quận Thanh Khê, Đà Nẵng; trên cơ sở đó thiết lập các giải pháp đảm bảo áp dụng đúng các biện pháp ngăn chặn trong đấu tranh phòng, chống tội phạm.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Để thực hiện mục đích đã đề ra, luận văn tập trung giải quyết các nhiệm vụ nghiên cứu sau:

+ Phân tích, luận giải cơ sở lý luận về áp dụng các biện pháp ngăn chặn trên các phương diện: khái niệm, đặc điểm, căn cứ, thẩm quyền, đối tượng, mục đích, ý nghĩa của việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn trong quá trình giải quyết vụ án hình sự;

+ Bình luận, đánh giá làm rõ nội dung các quy định của pháp luật tố tụng hình sự, nhất là quy định của BLTTHS năm 2015 về các biện pháp ngăn chặn, rút ra những điểm mới, hoàn thiện cũng như những hạn chế, bất cập gây khó khăn vướng mắc trong thực tiễn áp dụng.

+ Khảo sát, đánh giá thực tiễn áp dụng các biện pháp ngăn chặn trong TTHS ở quận Thanh Khê, TP Đà Nẵng, chỉ ra những kết quả đạt được, cũng như những hạn chế, sai sót cần khắc phục.

+ Xác định yêu cầu, kiến nghị những giải pháp bảo đảm áp dụng đúng các biện pháp ngăn chặn trong quá trình giải quyết vụ án hình sự.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của luận văn bao gồm ba vấn đề: những vấn đề lý luận; quy định của pháp luật tố tụng hình sự về các biện pháp ngăn chặn; thực tiễn áp dụng các biện pháp này ở quận Thanh Khê, Đà Nẵng.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

Luận văn tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận về biện pháp ngăn chặn trong pháp luật Tố tụng hình sự Việt Nam và thực tiễn áp dụng biện pháp ngăn chặn, đặc biệt là biện pháp bắt, tạm giữ, tạm giam của CQĐT, Công an quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng

Luận văn nghiên cứu trong phạm vi thời gian 5 năm, từ năm 2016 đến 2020.

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

5.1. Cơ sở lý luận

Luận văn nghiên cứu trên cơ sở lý luận của phương pháp luận chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng nhà nước và pháp luật, về bảo vệ quyền con người, quyền công dân và về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn hiện nay.

5.2. Phương pháp nghiên cứu

Đề tài đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể để làm rõ từng nội dung nghiên cứu, như phương pháp thống kê, phân tích, tổng hợp, so sánh, đối chiếu, phương pháp tham khảo ý kiến của chuyên gia,….

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

6.1. Ý nghĩa lý luận

Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần làm rõ và phong phú thêm lý luận chuyên ngành luật hình sự và tố tụng hình sự về các biện pháp ngăn chặn trong Tố tụng hình sự.

6.2. Ý nghĩa thực tiễn

Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể dùng làm tư liệu tham khảo để phục vụ cho hoạt động thực tiễn áp dụng các biện pháp ngăn chặn, góp phần phòng ngừa, ngăn chặn kịp thời tội phạm, thuận lợi cho quá trình điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự.

Ngoài ra, đề tài còn có giá trị làm tài liệu tham khảo đối với các sinh viên, học viên, giảng viên tại các cơ sở đào tạo ngành luật, cũng như các chuyên gia trong các cơ quan nghiên cứu lập pháp và người làm công tác thực tiễn trong các cơ quan tiến hành tố tụng.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài các phần mở đầu, kết luận, danh mục các tài liệu tham khảo thì nội dung luận văn được thiết kế gồm có 3 chương:

Chương 1. Những vấn đề lý luận và lịch sử quy định về áp dụng các biện pháp ngăn chặn trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam

Chương 2. Quy định của bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 về các biện pháp ngăn chặn và thực tiễn áp dụng tại quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng

Chương 3. Yêu cầu và giải pháp bảo đảm áp dụng đúng quy định của pháp luật tố tụng hình sự về các biện pháp ngăn chặn

CHƯƠNG 1

Những vấn đề lý luận và lịch sử quy định về áp dụng các biện pháp ngăn chặn trong pháp luật TỐ TỤNG hình sự Việt Nam

1.1. Những vấn đề lý luận về các biện pháp ngăn chặn và áp dụng các biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự

1.1.1. Những vấn đề lý luận về các biện pháp ngăn chặn

1.1.1.1. Khái niệm, đặc điểm

* Khái niệm

Các biện pháp ngăn chặn là một trong những chế định của Luật tố tụng hình sự Việt Nam và được áp dụng khá phổ biến trong thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử. Theo Điều 109 BLTTHS quy định thì: “Để kịp thời ngăn chặn tội phạm hoặc khi có căn cứ chứng tỏ người bị buộc tội sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc sẽ tiếp tục phạm tội hoặc để đảm bảo thi hành án, cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong phạm vi thẩm quyền của mình có thể áp dụng biện pháp giữ người trong trường hợp khẩn cấp, bắt, tạm giữ, tạm giam, bảo lãnh, đặt tiền để bảo đảm, cấm đi khỏi nơi cư trú, tạm hoãn xuất cảnh”. Khoa học luật TTHS gọi các biện pháp này là các BPNC. Trong các BLTTHS được ban hành vào năm 1988, 2003 và 2015 mặc dù đều có một chương riêng quy định về các biện pháp ngăn chặn nhưng không có quy phạm định nghĩa về khái niệm các biện pháp ngăn chặn.

Trong khoa học luật TTHS có nhiều cách hiểu khác nhau về các BPNC. Có quan điểm cho rằng: “Những biện pháp ngăn chặn là những biện pháp cưỡng chế trong tố tụng hình sự được áp dụng đối với bị can, bị cáo hoặc đối với người chưa bị khởi tố (trong trường hợp khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang) nhằm ngăn chặn những hành vi nguy hiểm cho xã hội của họ, ngăn ngừa họ tiếp tục phạm tội, trốn tránh pháp luật hoặc có hành động gây cản trở cho việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án” [45, tr.166]. Khái niệm này đã phản ánh được bản chất, đối tượng và mục đích áp dụng các biện pháp ngăn chặn, nhưng chưa chỉ ra căn cứ áp dụng cũng như chủ thể có thẩm quyền áp dụng.

Quan niệm khác được hiểu: “Biện pháp ngăn chặn là biện pháp có tính chất bắt buộc của Nhà nước do người có thẩm quyền trong cơ quan tiến hành tố tụng và cơ quan được quyền tiến hành một số các hoạt động điều tra theo luật định áp dụng, tạm thời tước bỏ hoặc hạn chế một phần quyền tự do thân thể của bị can, bị cáo và trong trường hợp đặc biệt có thể áp dụng đối với người chưa bị khởi tố về hình sự nhằm ngăn chặn tội phạm, bảo đảm cho công tác điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hoặc không cho họ tiếp tục gây nguy hại cho xã hội” [30, tr.40]. Khái niệm này mặc dù chỉ ra được đối tượng, chủ thể có thẩm quyền, mục đích áp dụng, nhưng không hợp lý khi cho rằng việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn có thể “tạm thời tước bỏ một phần tự do thân thể của bị can, bị cáo”. Theo chúng tôi, các biện pháp ngăn chặn không phải là hình phạt, do vậy không có nội dung “tước bỏ quyền, lợi ích của người phạm tội”. Mặt khác, khái niệm này chưa liệt kê đầy đủ chủ thể có thẩm quyền áp dụng các biện pháp ngăn chặn, tức là đã bỏ sót một loại chủ thể có thẩm quyền bắt người phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã, đó là bất kỳ người nào.

Cũng có quan niệm lại cho rằng: “Biện pháp ngăn chặn là biện pháp hạn chế quyền tự do cá nhân, do người có quyền hạn được quy định trong BLTTHS áp dụng đối với bị can, bị cáo, người có liên quan đến việc thực hiện tội phạm chưa bị khởi tố nhằm ngăn chặn tội phạm, bảo đảm cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự đạt hiệu quả cao” [30, tr.28]. Tuy nhiên, trong khái niệm này chưa thể hiện được căn cứ, thủ tục áp dụng các biện pháp ngăn chặn.

Mặc dù có sự khác nhau, nhưng các quan niệm nêu trên tương đối thống nhất khi đề cập đến bản chất, đối tượng và mục đích áp dụng. Mặt khác, các khái niệm khoa học này được xây dựng trước thời điểm ban hành BLTTHS năm 2015 nên chưa phản ánh được đầy đủ những vấn đề thuộc nội hàm của khái niệm các biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự.

Theo quan điểm của tác giả thì khái niệm các biện pháp ngăn chặn phải bao hàm được bản chất, thẩm quyền, căn cứ, mục đích áp dụng, đối tượng bị áp dụng. Với cách tiếp cận như vậy, có thể đưa ra khái niệm về các biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự như sau: “Các biện pháp ngăn chặn là những biện pháp cưỡng chế được quy định trong BLTTHS, do cơ quan, người có thẩm quyền áp dụng đối với người bị buộc tội, hoặc người chưa bị khởi tố hình sự (người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người phạm tội quả tang) khi có căn cứ và theo một trình tự, thủ tục mà luật định nhằm ngăn chặn tội phạm, ngăn chặn người bị buộc tội bỏ trốn, tiêu hủy chứng cứ hoặc gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án”.

Theo quy định Điều 109 BLTTHS, các BPNC bao gồm: giữ người trong trường hợp khẩn cấp, bắt, tạm giữ, tạm giam, bảo lĩnh, đặt tiền để bảo đảm, cấm đi khỏi nơi cư trú, tạm hoãn xuất cảnh. Theo đó:

Giữ người trong trường hợp khẩn cấp: là một trong các BPNC do cơ quan, người có thẩm quyền áp dụng khi có căn cứ và theo trình tự thủ tục do pháp luật tố tụng hình sự quy định, đối với người bị nghi thực hiện tội phạm, người đang chuẩn bị thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, người đã thực hiện tội phạm nhằm kịp thời ngăn chặn họ thực hiện tội phạm, bỏ trốn hoặc tiêu hủy chứng cứ.

– Bắt người: là một trong những BPNC do cơ quan, người có thẩm quyền áp dụng khi có căn cứ và theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định, đối với người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người phạm tội quả tang, người đang bị truy nã, bị can, bị cáo, người bị yêu cầu dẫn độ nhằm ngăn chặn tội phạm, ngăn chặn người phạm tội trốn tránh pháp luật, tiêu hủy chứng cứ, gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án hoặc sẽ tiếp tục phạm tội.

Theo quy định hiện hành, biện pháp bắt người bao gồm:

+ Bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn là BPBN trong TTHS do người có thẩm quyền áp dụng đối với người đã bị giữ trong trường hợp khẩn cấp khi xét thấy cần phải tiếp tục áp dụng biện pháp bắt để tạm giữ đối với người đó trong một thời hạn nhất định.

+ Bắt người phạm tội quả tang là một trong những BPBN trong TTHS khi người đó đang thực hiện tội phạm hoặc ngay sau khi thực hiện tội phạm mà bị phát hiện hoặc bị đuổi bắt.

+ Bắt người đang bị truy nã là một trong những BPBN trong TTHS được áp dụng đối với bị can, bị cáo, người bị kết án trục xuất, phạt tù hoặc tử hình hoặc người đang chấp hành án trục xuất, chấp hành án phạt tù hoặc người được tạm đình chỉ chấp hành án phạt tù, người được hoãn chấp hành án bỏ trốn và đã có quyết định truy nã của cơ quan có thẩm quyền.

+ Bắt bị can, bị cáo để tạm giam là một trong BPBN trong TTHS do cơ quan, người có thẩm quyền áp dụng đối với bị can, bị cáo để tạm giam nhằm ngăn chặn việc bị can, bị cáo sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc sẽ tiếp tục phạm tội hoặc để đảm bảo thi hành án.

+ Bắt người bị yêu cầu dẫn độ là một trong những BPBN trong TTHS do cơ quan, người có thẩm quyền áp dụng đối với người bị yêu cầu dẫn độ để tạm giam nhằm bảo đảm việc xem xét yêu cầu dẫn độ hoặc thi hành, yêu cầu dẫn độ, đáp ứng yêu cầu hợp tác quốc tế trong tố tụng hình sự.

– Tạm giữ: là một trong những BPNC trong TTHS do cơ quan, người có thẩm quyền áp dụng đối với người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang hoặc người bị bắt theo quyết định truy nã, người phạm tội tự thú, đầu thú nhằm ngăn chặn việc họ sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc sẽ tiếp tục phạm tội.

– Tạm giam: là một trong những BPNC trong TTHS do cơ quan, người có thẩm quyền áp dụng đối với bị can, bị cáo phạm tội đặc biệt nghiêm trọng, phạm tội rất nghiêm trọng hoặc phạm tội nghiêm trọng, phạm tội ít nghiêm trọng mà BLTTHS quy định hình phạt tù trên 2 năm khi có căn cứ chứng tỏ rằng họ có thể bỏ trốn, cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc tiếp tục phạm tội.

– Bảo lĩnh: là một trong những BPNC trong TTHS do cơ quan, người có thẩm quyền áp dụng đối với bị can, bị cáo khi có đủ căn cứ theo PLTTHS quy định để thay thế biện pháp tạm giam nhằm bảo đảm sự có mặt của bị can, bị cáo khi được cơ quan có thẩm quyền THTT triệu tập và ngăn chặn họ tiếp tục phạm tội, cản trở hoạt động điều tra, truy tố, xét xử.

– Đặt tiền để bảo đảm: là một trong những BPNC trong TTHS do cơ quan, người có thẩm quyền áp dụng đối với bị can, bị cáo hoặc người thân thích của bị can, bị cáo nhằm bảo đảm sự có mặt của họ, ngăn ngừa việc bị can, bị cáo cản trở hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và để bảo đảm thi hành án.

– Cấm đi khỏi nơi cư trú: là một trong những BPNC do cơ quan có thẩm quyền áp dụng đối với bị can, bị cáo có nơi cư trú, lý lịch rõ ràng nhằm bảo đảm sự có mặt của họ theo giấy triệu tập của CQĐT, Viện Kiểm sát, Tòa án.

– Tạm hoãn xuất cảnh: là một trong những BPNC trong TTHS do cơ quan, người có thẩm quyền áp dụng đối với người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố mà qua việc kiểm tra, xác minh có đủ căn cứ xác định người đó bị nghi thực hiện tội phạm hoặc đối với bị can, bị cáo khi có căn cứ xác định việc xuất cảnh của họ có dấu hiệu bỏ trốn.

* Đặc điểm của các biện pháp ngăn chặn

Cả lý luận và thực tiễn áp dụng cho thấy, các biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự có những đặc điểm sau đây:

+ Thứ nhất, các biện pháp ngăn chặn là những biện pháp cưỡng chế tố tụng hình sự của Nhà nước.

Các biện pháp ngăn chặn có đặc điểm này là vì đây là những biện pháp tác động mang tính quyền lực nhà nước đối với những người bị áp dụng, buộc họ không được phép thực hiện một số hành vi như: không được tiếp tục phạm tội, không được rời khỏi nơi cư trú, tạm thời không được xuất cảnh, không được thực hiện những hành vi cản trở hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án. Những hành vi mà Nhà nước cấm này buộc đối tượng bị áp dụng phải chấp hành.

+ Thứ hai, các biện pháp ngăn chặn là những biện pháp mang tính chất phòng ngừa, không mang tính chất trừng trị.

Đặc điểm này cho thấy, việc quy định cũng như áp dụng các biện pháp ngăn chặn trong từng trường hợp cụ thể phải căn cứ vào yêu cầu phòng ngừa, ngăn chặn người bị buộc tội bỏ trốn, tiêu hủy chứng cứ, gây cản trở cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hoặc sẽ tiếp tục phạm tội.

Xét về mặt nội dung, các biện pháp ngăn chặn khi được áp dụng chỉ hạn chế tạm thời một số quyền và lợi ích của người bị áp dụng như: quyền tự do thân thể, tự do đi lại, cư trú, xuất cảnh, .v.v… nhưng không tước bỏ những quyền và lợi ích của họ như hình phạt. Do vậy, các biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự không mang tính chất trừng trị, không phải là hình phạt.

+ Thứ ba, các biện pháp ngăn chặn mang tính chất pháp lý.

Tính pháp lý của BPNC thể hiện ở việc, chỉ những biện pháp nào có mục đích phòng ngừa tội phạm, ngăn chặn những hành vi gây cản trở cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự được luật quy định thì mới được coi là BPNC trong Tố tụng hình sự.

+ Thứ tư, các biện pháp ngăn chặn mang tính lựa chọn, tùy nghi.

Theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự và thực tế áp dụng cho thấy, các biện pháp ngăn chặn không nhất thiết phải áp dụng trong mọi trường hợp, đối với tất cả các vụ án hình sự cũng như đối với tất cả người bị buộc tội. Chỉ áp dụng các biện pháp này trong trường hợp thật cần thiết, dựa trên những căn cứ luật định. Do vậy, việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn không mang tính bắt buộc mà mang tính lựa chọn. Tính chất này đòi hỏi các chủ thể có thẩm quyền áp dụng các biện pháp ngăn chặn phải xem xét cân nhắc hết sức thận trọng khi quyết định áp dụng các biện pháp ngăn chặn. Việc lựa chọn biện pháp ngăn chặn cụ thể để áp dụng là tùy thuộc vào tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội và yêu cầu điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án. Khi sự cần thiết phải áp dụng các biện pháp ngăn chặn còn không thì chúng phải được hủy bỏ hoặc bị thay thế bằng các biện pháp khác.

1.1.1.2. Ý nghĩa của các biện pháp ngăn chặn

Việc quy định và áp dụng các BPNC trong TTHS có ý nghĩa nhiều mặt. Cụ thể là:

+ Việc quy định các biện pháp ngăn chặn trong BLTTHS tạo cơ sở pháp lý cho các cơ quan, người có thẩm quyền áp dụng để ngăn chặn tội phạm, hạn chế những thiệt hại do tội phạm gây ra cho xã hội.

+ Việc quy định và áp dụng các biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự góp phần bảo đảm cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử được thuận lợi, không bị kéo dài do đã kịp thời ngăn chặn, không để cho người bị buộc tội có thể cản trở, gây khó khăn cho việc giải quyết vụ án. Ngoài ra, việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn còn góp phần ngăn chặn bị can, bị cáo bỏ trốn có thể gây khó khăn cho việc thi hành án, qua đó góp phần bảo đảm hiệu lực thực tế của bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật.

+ Việc quy định các biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự với những căn cứ áp dụng chặt chẽ còn tạo cơ sở pháp lý để cơ quan, người có thẩm quyền áp dụng để bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Ngoài ra, còn có tác dụng hạn chế sự lạm quyền trong việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn xâm phạm đến quyền con người, quyền công dân đã được Hiến pháp năm 2013 ghi nhận.

1.1.1.3. Phân biệt các biện pháp ngăn chặn với các biện pháp cưỡng chế tố tụng hình sự khác.

Biện pháp cưỡng chế tố tụng hình sự là biện pháp mang tính quyền lực nhà nước do cơ quan, người có thẩm quyền áp dụng theo trình tự, thủ tục do pháp luật tố tụng hình sự quy định, tác động lên tư tưởng, hành vi của người tham gia tố tụng, buộc họ phải thực hiện những nghĩa vụ nhất định nhằm bảo đảm cho việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án được thuận lợi.

Các biện pháp cưỡng chế độ tố tụng hình sự có tính chất, nội dung, mục đích, đối tượng áp dụng khác nhau. Căn cứ vào những tiêu chí này, các biện pháp cưỡng chế tố tụng hình sự có thể được thành 3 nhóm:

– Các BPNC, như giữ người trong trường hợp khẩn cấp; bắt người; tạm giữ; tạm giam; bảo lãnh; đặt tiền để bảo đảm; cấm đi khỏi nơi cư trú; tạm hoãn xuất cảnh.

– Các biện pháp đảm bảo cho việc thu thập chứng cứ, như khám xét, thu giữ, tạm giữ tài liệu, đồ vật; xem xét dấu vết trên thân thể v.v…

– Các biện pháp đảm bảo cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án, như biện pháp áp giải, dẫn giải, kê biên tài sản, phong tỏa tài khoản.

Trong 3 nhóm biện pháp cưỡng chế tố tụng hình sự nêu trên, các biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự có tính nghiêm khắc hơn cả, bởi chúng có khả năng hạn chế tạm thời một số quyền và lợi ích thiết thân của người bị áp dụng (như quyền tự do thân thể, tự do đi lại, cư trú…). Do đều là những biện pháp cưỡng chế tố tụng hình sự, nên tất cả ba nhóm biện pháp nêu trên đều có điểm chung: đều là biện pháp mang tính quyền lực nhà nước; chỉ do cơ quan, người có thẩm quyền áp dụng khi có căn cứ và theo một trình tự, thủ tục được pháp luật tố tụng hình sự quy định; đều không nhằm mục đích trừng trị, giáo dục người phạm tội mà nhằm mục đích phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm, bảo đảm cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án được thuận lợi.

Tuy nhiên, giữa chúng có sự khác nhau nhất định.

* Điểm khác nhau giữa biện pháp ngăn chặn với biện pháp đảm bảo cho việc thu thập chứng cứ:

+ Về nội dung: các biện pháp ngăn chặn có khả năng hạn chế tạm thời quyền và lợi ích thiết thân (quyền tự do thân thể, cư trú, đi lại) của đối tượng bị áp dụng, còn các biện pháp đảm bảo cho việc thu thập chứng cứ không có khả năng này.

+ Về đối tượng bị áp dụng: đối tượng bị áp dụng các BPNC chỉ có thể là con người, trong khi đó đối tượng bị áp dụng các biện pháp đảm bảo cho việc thu thập chứng cứ có phạm vi rộng hơn, không chỉ con người cụ thể mà còn là nơi ở, nơi học tập, làm việc, tài liệu, đồ vật, thư tín, điện tín, dữ liệu điện tử,bưu kiện, bưu phẩm,…

+ Về mục đích áp dụng: các biện pháp ngăn chặn được áp dụng chủ yếu nhằm ngăn chặn tội phạm, không để cho tội phạm tiếp tục được thực hiện, không để cho người phạm tội trốn tránh pháp luật… Tuy nhiên, một chừng mực nhất định, các biện pháp ngăn chặn được áp dụng còn nhằm mục đích thu thập, bảo quản chứng cứ trong vụ án, tạo điều kiện cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án được thuận lợi. Trong khi đó, mục đích chủ yếu của việc áp dụng các biện pháp đảm bảo cho việc thu thập chứng cứ là nhằm phát hiện, thu giữ, ghi nhận và bảo quản chứng cứ chứng minh tội phạm, làm rõ sự thật khách quan của vụ án.

+ Về tính chất: các biện pháp đảm bảo cho việc thu thập chứng cứ là các biện pháp điều tra, còn các biện pháp ngăn chặn không phải là các biện pháp điều tra (theo đúng nghĩa).

+ Ngoài ra, tùy thuộc vào từng biện pháp cụ thể hay nhóm biện pháp này còn khác nhau ở căn cứ, thẩm quyền, thủ tục áp dụng.

* Điểm khác nhau giữa các biện pháp ngăn chặn với các biện pháp bảo đảm cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án:

+ Về nội dung, mức độ cưỡng chế: các biện pháp bảo đảm cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án có tính cưỡng chế những ít nghiêm khắc, chủ yếu nhằm mục đích bắt buộc đối tượng bị áp dụng phải thi hành nghĩa vụ công dân theo quy định pháp luật. Trong khi đó, các BPNC có tính cưỡng chế nghiêm khắc hơn bởi khi được áp dụng các biện pháp này có khả năng hạn chế tạm thời quyền tự do thân thể, tự do cư trú, đi lại của đối tượng bị áp dụng.

+ Về đối tượng bị áp dụng: Các biện pháp bảo đảm cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án có đối tượng bị áp dụng nhiều hơn các biện pháp ngăn chặn, bao gồm người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị buộc tội, ngoai ra còn có: Người làm chứng, người bị hại, người bị tố giác, bị kiến nghị khởi tố; bị can, bị cáo về tội mà BLHS quy định hình phạt tiền hoặc có thể bị tịch thu tài sản hoặc để bảo đảm bồi thường thiệt hại; người bị buộc tội về tội mà BLHS quy định hình phạt tiền tịch thu tài sản để bảo đảm bồi thường thiệt hại. Trong khi đó, đối tượng bị áp dụng các BPNC chỉ bao gồm người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người phạm tội quả tang, người đang bị truy nã, bị can, bị cáo, người bị yêu cầu dẫn độ.

+ Về mục đích áp dụng: việc áp dụng các biện pháp đảm bảo cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án là nhằm mục đích bảo đảm cho những hoạt động này được tiến hành theo đúng trình tự, thủ tục, thời hạn do pháp luật quy định, không có mục đích ngăn chặn tội phạm, ngăn chặn hành vi cản trở hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án.

+ Về tính chất: các biện pháp đảm bảo cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án không có tính chất phòng ngừa, ngăn chặn cũng như tính chất điều tra vụ án mà chỉ có tính chất hỗ trợ cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án được tiến hành theo đúng trình tự, thủ tục do pháp luật quy định.

+ Về căn cứ, thẩm quyền, thủ tục áp dụng: tùy thuộc vào từng biện pháp cụ thể mà có căn cứ, thẩm quyền và thủ tục áp dụng khác nhau.

Mặc dù giữa biện pháp ngăn chặn với các biện pháp cưỡng chế tố tụng hình sự có những điểm khác nhau cơ bản như trên, nhưng các biện pháp này có mối quan hệ tác động qua lại, hỗ trợ, bổ sung cho nhau trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Thực tế cho thấy, việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn sẽ tạo điều kiện cho việc áp dụng các biện pháp điều tra, thu thập chứng cứ làm rõ sự thật khách quan của vụ án. Ngược lại, việc áp dụng các biện pháp cưỡng chế tố tụng khác sẽ tạo thuận lợi cho việc thu thập tài liệu, chứng cứ làm căn cứ để áp dụng các biện pháp ngăn chặn. Nắm vững những vấn đề này sẽ giúp các cơ quan, người tiến hành tố tụng áp dụng đúng đắn các biện pháp cưỡng chế tố tụng hình sự nhằm giải quyết vụ án được đúng đắn, kịp thời, qua đó góp phần bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức và cá nhân; góp phần thiết thực vào công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm.

1.1.2. Những vấn đề lý luận về áp dụng các biện pháp ngăn chặn

1.1.2.1. Khái niệm, đặc điểm

Theo Đại Từ điển Tiếng Việt, thuật ngữ “áp dụng” được giải nghĩa là “đưa vào vận dụng trong thực tế điều nhận thức, lĩnh hội được” [54, tr.33]. Áp dụng các biện pháp ngăn chặn là một hình thức áp dụng pháp luật. Theo từ điển Luật học thì: “Áp dụng pháp luật là hoạt động thực hiện pháp luật mang tính tổ chức quyền lực nhà nước, được thực hiện bởi cơ quan nhà nước có thẩm quyền, nhà chức trách hoặc tổ chức xã hội được nhà nước trao quyền, nhằm cá biệt hóa các quy phạm pháp luật và các trường hợp cụ thể, đối với cá nhân, tổ chức cụ thể” [53, tr.15].

Áp dụng các biện pháp ngăn chặn thực chất là áp dụng (thi hành) các quy phạm pháp luật tố tụng hình sự quy định về các biện pháp ngăn chặn trong quá trình giải quyết vụ án hình sự.

Với tính chất là một hình thức áp dụng pháp luật (mà cụ thể là pháp luật tố tụng hình sự) áp dụng các biện pháp ngăn chặn mang những đặc điểm chung của hoạt động áp dụng pháp luật, đồng thời còn có những đặc điểm riêng của mình.

* Những đặc điểm chung:

+ Thứ nhất, áp dụng các biện pháp ngăn chặn là hoạt động thi hành pháp luật tố tụng hình sự mang tính tổ chức quyền lực nhà nước.

Chủ thể có thẩm quyền áp dụng BPNC chủ yếu là các cơ quan THTT (Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án), đại diện cho tính tối cao của quyền lực chính trị. Do vậy, các cơ quan này quyết định áp dụng các biện pháp ngăn chặn căn cứ vào quy định của pháp luật và theo ý chí của mình (ý chí nhà nước), không phụ thuộc vào ý chí của đối tượng bị áp dụng.

+ Thứ hai, áp dụng các biện pháp ngăn chặn là hoạt động điều chỉnh cá biệt quan hệ pháp luật tố tụng hình sự cụ thể.

Thực tế cho thấy, áp dụng các biện pháp ngăn chặn chỉ tiến hành trong những trường hợp cụ thể, đối với những đối tượng cụ thể, làm phát sinh quan hệ pháp luật tố tụng hình sự cụ thể. Do vậy hoạt động này luôn có tính xác định, nghĩa là các biện pháp ngăn chặn được áp dụng đối với ai, trong trường hợp nào, ở đâu và vào thời điểm nào. Những đòi hỏi này làm cho hoạt động áp dụng các biện pháp ngăn chặn có tính điều chỉnh cá biệt.

+ Thứ ba, hoạt động áp dụng các biện pháp ngăn chặn được tiến hành theo trình tự, thủ tục, hình thức chặt chẽ do pháp luật tố tụng hình sự quy định.

Hoạt động áp dụng các biện pháp ngăn chặn không chỉ ảnh hưởng trực tiếp quyền và lợi ích thiết thân của người bị áp dụng (nhất là quyền tự do thân thể) mà còn ảnh hưởng đến uy tín của Nhà nước nói chung, của các cơ quan và người tiến hành tố tụng nói riêng. Do vậy, hoạt động này phải được tiến hành theo trình tự, thủ tục chặt chẽ, dưới hình thức do pháp luật tố tụng hình sự quy định.

* Ngoài những đặc điểm chung trên đây, áp dụng các biện pháp ngăn chặn còn có một số đặc điểm riêng, đó là:

– Việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn là áp dụng các biện pháp cưỡng chế tố tụng hình sự, có khả năng hạn chế tạm thời quyền và lợi ích nhất định của đối tượng bị áp dụng.

Có đặc điểm này là vì: Xét về mặt tính chất, nội dung, các biện pháp ngăn chặn là những biện pháp cưỡng chế tố tụng hình sự chỉ nội dung hạn chế tạm thời quyền và lợi ích nhất định của người bị áp dụng như quyền tự do thân thể, tự do đi lại, cư trú v.v… mà không tước bỏ những quyền và lợi ích này. Do vậy, áp dụng các biện pháp ngăn chặn không phải là áp dụng hình phạt.

– Việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn mang tính tùy nghi, lựa chọn.

Theo quy định của BLTTHS hiện hành, thì việc áp dụng thì các biện pháp ngăn chặn không có tính bắt buộc, nghĩa là không nhất thiết phải áp dụng trong mọi trường hợp, đối với mọi đối tượng. Những biện pháp này chỉ có thể áp dụng trong trường hợp cần thiết, khi có căn cứ luật định. Do vậy, khi quyết định áp dụng các biện pháp ngăn chặn, chủ thể có thẩm quyền phải xem xét, cân nhắc để xác định có cần thiết áp dụng biện pháp ngăn chặn hay không, nếu cần thiết thì sẽ lựa chọn biện pháp nào để áp dụng. Mặt khác, khi sự cần thiết áp dụng biện pháp ngăn chặn không còn thì cơ quan có thẩm quyền phải ra quyết định hủy bỏ hoặc thay thế bằng biện pháp khác.

1.1.2.2. Căn cứ áp dụng các biện pháp ngăn chặn

Trong khoa học luật tố tụng hình sự, có một số quan điểm khác nhau về căn cứ áp dụng các biện pháp ngăn chặn như: “Căn cứ áp dụng các biện pháp ngăn chặn là những tiêu chí, điều kiện mà người có thẩm quyền dựa vào đó để quyết định áp dụng” [46, tr.265]. Quan điểm khác thì cho rằng: “Căn cứ áp dụng các biện pháp ngăn chặn là những tài liệu, chứng cứ dự báo có đầy đủ cơ sở về khả năng bị can, bị cáo sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án hoặc sẽ tiếp tục phạm tội” [40, tr.55].

Theo quan điểm tác giả, căn cứ áp dụng BPNC là cơ sở đòi hỏi các cơ quan THTT phải dựa vào đó khi quyết định áp dụng các BPNC. Nếu không có các căn cứ này thì không được áp dụng các BPNC đối với người phạm tội. Ở đây cũng có thể khẳng định không phải người bị buộc tội nào cũng bị áp dụng các BPNC. Các căn cứ áp dụng BPNC trong TTHS bao gồm:

* Thứ nhất, để kịp thời ngăn chặn tội phạm. Việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn trong trường hợp này là cần thiết nhằm ngăn chặn tội phạm, không để tội phạm diễn ra hoặc tiếp tục diễn ra, gây thiệt hại cho những quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ. Căn cứ này thường được viện dẫn để áp dụng biện pháp giữ người trong trường hợp khẩn cấp, bắt người phạm tội quả tang, bắt bị can, bị cáo để tạm giam.

* Thứ hai, khi có căn cứ cho thấy người bị buộc tội bỏ trốn hoặc gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử. Để xác định là có căn cứ chứng tỏ người bị buộc tội sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử cần dựa vào những biểu hiện thực tế sau đây:

+ Người bị buộc tội nhiều lần không có mặt theo giấy triệu tập của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng mà không có lý do chính đáng;

+ Người bị buộc tội có hành vi mua chuộc, cưỡng ép, xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật;

+ Người bị buộc tội có hành vi tiêu hủy, giả mạo chứng cứ, tài liệu, đồ vật của vụ án, tẩu tán tài sản liên quan đến vụ án;

+ Người bị buộc tội có hành vi đe dọa, khống chế, trả thù người làm chứng, bị hại, người tố giác tội phạm và người thân thích của những người này.

Căn cứ này thường được viện dẫn để áp dụng biện pháp giữ người trong trường hợp khẩn cấp, bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, bắt người đang bị truy nã; bắt bị can, bị cáo để tạm giam; tạm giữ; tạm giam.

* Thứ ba, khi có căn cứ cho thấy người bị buộc tội sẽ tiếp tục phạm tội.

Để xác định được căn cứ này cần dựa trên những biểu hiện sau đây của người bị buộc tội:

+ Người bị buộc tội tiếp tục có hành vi chuẩn bị thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng; đặc biệt nghiêm trọng được quy định tại khoản 2 Điều 14 BLHS;

+ Người bị buộc tội có hành vi đe dọa, trả thù người tố giác tội phạm, người làm chứng, người bị hại hoặc người thân thích của những người này.

+ Người bị buộc tội có ý thức chống đối, ngoan cố không thừa nhận hành vi phạm tội của mình, phạm tội chuyên nghiệp, có tổ chức, là phần tử lưu manh, côn đồ, có nhiều tiền án, tiền sự, phạm tội nhiều lần, tái phạm, tái phạm nguy hiểm.

Căn cứ này thường được viện dẫn để áp dụng các biện pháp giữ người trong trường hợp khẩn cấp, bắt bị can, bị cáo để tạm giam hoặc biện pháp tạm giam.

* Thứ tư, khi cần bảo đảm thi hành án. Xác định căn cứ này dựa trên các biểu hiện sau đây:

– Người bị buộc tội (người bị kết án) trốn hoặc có dấu hiệu sẽ trốn;

– Người bị buộc tội không có nơi cư trú rõ ràng;

– Người bị buộc tội hoặc người thân thích của họ có hành vi tẩu tán tài sản hoặc có hành vi chuẩn bị tẩu tán tài sản có liên quan đến vụ án;

– Người bị buộc tội bị tuyên hình phạt tù, tử hình…

Căn cứ này thường được viện dẫn để áp dụng biện pháp tạm giam; bảo lãnh, đặt tiền để bảo đảm, cấm đi khỏi nơi cư trú, tạm hoãn xuất cảnh.

Trên đây là những căn cứ có tính chất chung để áp dụng các biện pháp ngăn chặn. Tuy nhiên, khi áp dụng từng biện pháp ngăn chặn cụ thể thì cơ quan, người có thẩm quyền còn phải dựa vào căn cứ được quy định riêng đối với biện pháp đó.

Để khẳng định có các căn cứ trên, cơ quan có thẩm quyền áp dụng biện pháp ngăn chặn phải xác minh, làm rõ các tình tiết của vụ việc, chứng minh sự tồn tại của các căn cứ trên. Đồng thời, dựa vào những tài liệu, chứng cứ chứng minh có đủ cơ sở để áp dụng các biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự, còn mục đích áp dụng các biện pháp ngăn chặn là kết quả cuối cùng mà cơ quan, người có thẩm quyền hướng tới và mong muốn đạt được qua việc áp dụng các biện pháp này như: ngăn chặn tội phạm; bảo đảm cho việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án được thuận lợi.

1.1.2.3. Chủ thể có thẩm quyền, đối tượng, mục đích áp dụng các biện pháp ngăn chặn

* Chủ thể có thẩm quyền áp dụng các BPNC là những người mà theo quy định của pháp luật TTHS có quyền áp dụng các biện pháp này. Các chủ thể này có thể là người THTT; người trong các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra hoặc bất kỳ ai mà theo quy định của PL TTHS có quyền bắt người phạm tội quả tang hoặc bắt người đang bị truy nã.

* Đối tượng bị áp dụng các biện pháp ngăn chặn chỉ bao gồm những người – cá nhân mà theo quy định của PLTTHS cần thiết phải áp dụng một trong những biện pháp ngăn chặn cụ thể khi có căn cứ luật định. Những người này có thể là người bị buộc tội: người bị bắt, bị tạm giữ, bị can, bị cáo; Người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp; người bị kết án; người bị yêu cầu dẫn độ. Trong số họ, có những người đã bị cơ quan có thẩm quyền khởi tố về hình sự, bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử; có người đã bị Tòa án kết án bằng bản án có hiệu lực pháp luật và thi hành bản án đó. Tuy nhiên, có những BPNC được áp dụng đối với những người chưa bị khởi tố về hình sự: người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người phạm tội quả tang.

* Mục đích áp dụng các biện pháp ngăn chặn là nhằm kịp thời ngăn chặn tội phạm, các hành vi gây trở ngại cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án và nhằm đáp ứng yêu cầu hợp tác quốc tế trong đấu tranh phòng chống tội phạm.

1.2. Lịch sử quy định về áp dụng các biện pháp ngăn chặn trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam

1.2.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến trước khi ban hành BLTTHS năm 1988

Trong lịch sử lập pháp tố tụng hình sự Việt Nam, các biện pháp ngăn chặn đã được quy định khá sớm và từng bước được hoàn thiện.

Sau thắng lợi của cách mạng tháng Tám năm 1945, để bảo vệ chính quyền dân chủ nhân dân còn non trẻ, thiết lập trật tự mới, Nhà nước ta đã đặc biệt quan tâm đến việc xây dựng hệ thống pháp luật, trong đó có các văn bản pháp luật tố tụng hình sự chứa đựng các quy phạm về các biện pháp ngăn chặn.

Văn bản pháp luật đầu tiên có quy định về biện pháp ngăn chặn là Sắc lệnh số 13/SL về tổ chức các Tòa án và các ngạch Thẩm phán. Điều 4 của Sắc lệnh quy định: “Ban Tư pháp xã không có quyền tịch thu tài sản của ai, cũng không có quyền bắt bớ, giam giữ trừ khi có trát nã của một Thẩm phán, hay khi thấy người phạm tội quả tang” [6, tr.97]. Như vậy, Sắc lệnh này đã đề cập đến một số biện pháp ngăn chặn như bắt người, giam giữ người. Tuy nhiên, quy định về các biện pháp này còn đơn giản, chưa chặt chẽ, đặc biệt là chưa xác định rõ căn cứ áp dụng.

Tiếp đến, ngày 29 tháng 3 năm 1946, Chủ tịch Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa đã ký Sắc lệnh số 40/SL về bảo vệ quyền tự do cá nhân, trong đó có quy định về trình tự, thủ tục áp dụng hai biện pháp ngăn chặn, đó là bắt và giam người. Chẳng hạn, tại Điều 2 Sắc lệnh số 40/SL đã đưa ra khái niệm phạm pháp quả tang và thủ tục bắt người phạm pháp quả tang: “Khi nào sự phạm pháp đương xảy ra hoặc vừa xảy ra trước mắt hoặc khi nào kẻ phạm pháp còn đang bị công chúng theo đuổi hay còn đang cầm giữ tang vật thì gọi là phạm pháp quả tang. Trong trường hợp đặc biệt ấy thì bắt người không cần phải có lệnh trước của Thẩm phán viên. Tư nhân bắt được kẻ phạm pháp quả tang phải lập tức dẫn đến trình nhà chức trách ở gần đấy nhất…” [6, tr.121]. So với quy định của Sắc lệnh số 13/SL về bắt người thì những quy định này về bắt người có sự tiến bộ hơn. Tuy nhiên, trong Sắc lệnh số 40/SL mới cũng chỉ đề cập đến bắt người phạm pháp quả tang và bắt thường, mà chưa quy định các trường hợp bắt khác.

Để khắc phục hạn chế này, ngày 20/5/1957 Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đã ký ban hành Luật số 103-SL/L.005 ngày 20/05/1957 về đảm bảo quyền tự do thân thể và bất khả xâm phạm đối với nhà ở, đồ vật, thư tín của nhân dân trong đó đã đề cập đến ba biện pháp ngăn chặn là bắt người, tạm giữ, tạm giam và các biện pháp cưỡng chế tố tụng khác như: khám người, khám đồ vật, khám nhà ở và thư tín. Đặc biệt Điều 4 của Luật số 103/SL.005 quy định hai trường hợp bắt người, đó là trường hợp phạm pháp quả tang và trường hợp khẩn cấp và coi đây là những trường hợp đặc biệt do pháp luật quy định [42, tr.85-87]. Tuy nhiên, Điều 4 của Luật số 103/SL/L.005 chưa xác định các trường hợp phạm pháp quả tang cũng như những trường hợp khẩn cấp, đồng thời những thủ tục cần tiến hành sau khi bắt người cũng chưa được quy định cụ thể. Điều đó đã gây khó khăn nhất định cho việc áp dụng các biện pháp này trên thực tiễn.

Để kịp thời hướng dẫn và thực thi Luật số 103/SL/L.005 có hiệu quả, ngày 18/6/1957, Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đã ra Sắc lệnh số 002/SLt quy định những trường hợp phạm pháp quả tang và những trường hợp khẩn cấp. Theo đó, Sắc lệnh số 002/SLt đã quy định bốn trường hợp phạm pháp quả tang và thẩm quyền bắt người phạm pháp quả tang, đó là: “…. những trường hợp sau đây là phạm pháp quả tang mà người công dân nào cũng có quyền bắt và giải ngay đến Ủy ban hành chính, Tòa án nhân dân hoặc Đồn Công an nơi gần nhất: 1- Đang làm việc phạm pháp hoặc sau khi phạm pháp thì bị phát giác ngay; 2- Đang bị đuổi bắt sau khi phạm pháp; 3- Đang bị giam giữ mà lẩn trốn; 4- Đang có lệnh truy nã (Điều 1)” [4, tr.68].

Đồng thời tại Điều 2 của Sắc lệnh này quy định các trường hợp bắt khẩn cấp, gồm: “1- Có hành động chuẩn bị làm việc phạm pháp; 2- Người bị hại hoặc người có mặt tại nơi xảy ra vụ phạm pháp chính mắt trông thấy và xác nhận đúng là kẻ phạm pháp; 3- Tìm thấy chứng cứ có phạm pháp trong người hoặc tại nhà ở của người tình nghi phạm pháp; 4- Có hành động chuẩn bị hoặc đang trốn; 5- Có hành động chuẩn bị tiêu hủy chứng cứ hoặc đang tiêu hủy chứng cứ, có sự thông đồng giữa những kẻ phạm pháp với nhau để trốn tránh pháp luật; 6- Căn cước, lai lịch không rõ ràng” [44, tr.72]

Các quy định trên đã chỉ ra bốn trường hợp áp dụng biện pháp bắt người phạm pháp quả tang và sáu trường hợp bắt người trong trường hợp khẩn cấp. Đây là một bước phát triển mới về kỹ thuật lập pháp trong lĩnh vực tố tụng hình sự. Tuy nhiên, trong Sắc luật, nhà lập pháp đã sử dụng thuật ngữ “phạm pháp”, điều đó đã mở rộng diện người bị bắt, dẫn tới vi phạm quyền tự do thân thể của công dân nếu bị lạm dụng. Ngoài ra, Sắc luật 002/SLt có quy định một trong những trường hợp bắt người phạm pháp quả tang là bắt người đang có lệnh truy nã. Như vậy ở đây có sự đồng nhất giữa bắt người phạm pháp quả tang với bắt người có lệnh truy nã. Thêm vào đó, Sắc luật này còn quy định một trường hợp bắt khẩn cấp mà căn cứ để bắt không liên quan gì đến hành vi phạm tội, đó là trường hợp “căn cước, lai lịch không rõ ràng”. Điều này vô lý và vi phạm quyền tự do thân thể của công dân.

Để triển khai Luật số 103/SL-L005 và Sắc luật số 002/SLt, ngày 24/12/1958, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Thông tư số 556-TTg về việc tăng cường lãnh đạo đối với việc bắt giữ, truy tố, xét xử, trong đó có nhấn mạnh: “Trong khi làm nhiệm vụ, Công an, Công tố và Tòa án phải chiểu theo pháp luật của Nhà nước mà làm đúng nguyên tắc bắt giữ và xét xử: Kẻ đáng bắt thì bắt; kẻ bắt cũng được, không bắt cũng được, thì không bắt; bắt giữ rồi thì phải hỏi cung mau chóng để kịp thời xử án, không được giam lâu” [44, tr.8-9].

Ở miền Nam sau khi Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam ra đời, ngày 15/3/1976, Hội đồng Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam đã tiến hành Sắc luật số 02/SL-76 quy định việc bắt, giam, khám người, khám nhà ở, khám đồ vật với tính chất là các biện pháp cưỡng chế tố tụng hình sự. Điều 1 của Sắc luật này đã quy định nguyên tắc chung khi áp dụng các biện pháp trên như sau: “Việc bắt, giam, khám người, khám nhà ở, khám đồ vật phải có lệnh viết của cơ quan có thẩm quyền, trừ trường hợp phạm tội quả tang và trường hợp khẩn cấp quy định các Điều 2 và 3 dưới đây… Viện kiểm sát nhân dân là cơ quan có thẩm quyền ra lệnh bắt, giam, khám người, khám nhà ở, đồ vật trong các vụ án hình sự… Tòa án nhân dân có thẩm quyền ra lệnh bắt, giam kẻ phạm tội trong những vụ án hình sự đang thụ lý. Trưởng hoặc Phó Cơ quan An ninh từ cấp huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh trở lên có quyền ra lệnh bắt, giam, khám người, khám nhà ở, khám đồ vật của kẻ phạm tội’ lệnh đó phải được sự phê chuẩn trước của Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp, nếu là vụ án hình sự hoặc Ủy ban nhân dân cách mạng cùng cấp, nếu là trường hợp tập trung cải tạo…” [44, tr.87].

Như vậy, Sắc luật này đã đề cập đến thẩm quyền, thủ tục áp dụng các biện pháp cưỡng chế tố tụng hình sự, trong đó có một số biện pháp ngăn chặn của Viện Kiểm sát nhân dân, TAND, Ủy ban nhân dân cách mạng và cơ quan An ninh. Đây cũng là một bước tiến mới trong quá trình lập pháp tố tụng hình sự của nước ta, nhất là đã thay thuật ngữ “phạm pháp” bằng thuật ngữ “phạm tội” khi đề cập đến các trường hợp bắt người. Tuy nhiên, trong Sắc luật số 02/SL-76 vẫn tiếp tục quy định trường hợp bắt người đang có lệnh truy nã là một trong những trường hợp bắt người phạm tội quả tang là chưa thật sự hợp lý vì bắt người phạm tội quả tang có bản chất khác với bắt người đang có lệnh truy nã.

1.2.2. Giai đoạn từ năm 1988 đến trước khi ban hành BLTTHS năm 2015

* Quy định của BLTTHS năm 1988 về áp dụng các biện pháp ngăn chặn.

Trước khi ban hành BLTTHS đầu tiên ở nước ta – BLTTHS năm 1988, các biện pháp ngăn chặn nói riêng, các biện pháp cưỡng chế tố tụng hình sự nói chung được quy định rải rác ở nhiều văn bản quy phạm pháp luật dưới các hình thức: Sắc lệnh, Sắc luật, v.v…, do vậy không thể hiện được đầy đủ chính sách pháp luật tố tụng hình sự của Đảng và Nhà nước trong giai đoạn mới của đất nước.

Khắc phục bất cập đó, ngày 28/6/1988, Quốc hội nước Cộng hòa XHCN Việt Nam khóa VIII, kỳ họp thứ ba đã thông qua BLTTHS đầu tiên ở nước ta – BLTTHS năm 1988. Bộ luật này có hiệu lực từ ngày 01/01/1989. Trong BLTTHS năm 1988, nhà làm luật nước ta đã dành 1 chương riêng (Chương V, từ Điều 61 đến Điều 77) đề quy định các biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự. So với các quy định về các biện pháp ngăn chặn trong các văn bản quy phạm pháp luật trước đó, thì những quy định ở Bộ luật này có một số điểm mới sau đây:

– Điều 64 BLTTHS năm 1988 đã kế thừa hai trường hợp bắt người phạm tội quả tang được quy định tại Sắc luật số 02/SL-76. Đồng thời thay thế trường hợp bắt người đang bị giam giữ lẩn trốn thành bắt người đang bị truy nã.

– Điều 63 BLTTHS năm 1988 chỉ quy định ba trường hợp bắt khẩn cấp, đó là: Khi có căn cứ để cho rằng người đó đang chuẩn bị thực hiện tội phạm nghiêm trọng; khi thấy có dấu vết của tội phạm ở người hoặc tại chỗ ở của người bị nghi thực hiện tội phạm và xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó trốn hoặc tiêu hủy chứng cứ; khi người bị hại hoặc người có mặt tại nơi xảy ra tội phạm chính mắt trông thấy và xác nhận đúng là người đã thực hiện tội phạm mà xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó bỏ trốn.

– BLTTHS năm 1988 quy định thêm bốn biện pháp ngăn chặn mới, gồm: Cấm đi khỏi nơi cư trú (Điều 74); bảo lãnh (Điều 75); đặt tiền hoặc tài sản để bảo đảm (Điều 76); việc giám sát bị can, bị cáo chưa thành niên (Điều 304).

Từ những quy định trên cho thấy, BLTTHS năm 1988 đã thu hẹp các trường hợp bắt người trong trường hợp khẩn cấp và quy định một số biện pháp ngăn chặn mới thể hiện sự quan tâm của Nhà nước ta đối với vấn đề bảo vệ quyền và tự do cá nhân, đồng thời đề cao trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng hình sự đối với việc ngăn chặn tội phạm. BLTTHS năm 1988 qua hơn chục năm thi hành đã có ba lần sửa sổi, bổ sung vào các năm: 1990, 1992 và 2000, tuy nhiên, các quy định về biện pháp ngăn chặn về cơ bản vẫn được giữ nguyên.

Có thể thấy, BLTTHS năm 1988 đã quy định chặt chẽ, đầy đủ hơn về các biện pháp ngăn chặn trên các phương diện: thẩm quyền, căn cứ áp dụng, trình tự, thủ tục áp dụng…, do vậy đã đóng góp quan trọng trong công cuộc phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ chức, cá nhân, cũng như lợi ích của Nhà nước và xã hội. Mặc dù vậy, qua hơn chục năm áp dụng Bộ luật này đã bộc lộ một số hạn chế bất cập cần được khắc phục để việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn đạt được mục đích đặt ra.

* Quy định của BLTTHS năm 2003 về các biện pháp ngăn chặn

BLTTHS năm 2003 được Quốc hội nước Cộng hòa XHCN Việt Nam thông qua ngày 26/11/2003 có hiệu lực từ ngày 01/7/2004. Trong Bộ luật này, các biện pháp ngăn chặn được quy định tại Chương VI với 16 điều luật (từ Điều 79 đến Điều 94). Nhìn chung, các quy định của BLTTHS năm 2003 về các biện pháp ngăn chặn có sự thay đổi về chất theo chiều hướng tiến bộ, khoa học và cụ thể hơn.

– Về các biện pháp ngăn chặn và căn cứ áp dụng: So với quy định tại Điều 61 BLTTHS năm 1988 thì quy định tại Điều 79 BLTTHS năm 2003 về các biện pháp ngăn chặn về căn cứ áp dụng biện pháp ngăn chặn đầy đủ và bao quát hơn vì nội dung của điều luật vừa bao quát được căn cứ, thẩm quyền và số lượng các biện pháp ngăn chặn (6 biện pháp). Đặc biệt là Điều 79 BLTTHS năm 2003 đã khắc phục được hạn chế của Điều 61 BLTTHS năm 1988 quy định về thẩm quyền áp dụng các biện pháp ngăn chặn bằng việc quy định rõ ngoài các cơ quan tiến hành tố tụng có thẩm quyền như quy định tại Điều 61 BLTTHS năm 1988 còn bổ sung “Người có thẩm quyền theo quy định của Bộ luật này” cũng có quyền áp dụng những biện pháp ngăn chặn trong những trường hợp cụ thể.

– Về biện pháp bắt người.

+ Trước hết, việc bắt bị can, bị cáo để tạm giam quy định tại Điều 80 BLTTHS năm 2003 đã xác định rõ ràng và cụ thể về đối tượng có thể bị bắt, thẩm quyền ra lệnh bắt và thủ tục bắt. Điểm mới của Điều 80 là quy định chặt chẽ về thẩm quyền ra lệnh bắt bị can, bị cáo để tạm giam, cụ thể là không quy định cho Thẩm phán TAND cấp tỉnh, TAQS cấp quân khu được phân công Chủ tọa phiên tòa có quyền ra lệnh bắt bị can, bị cáo để tạm giam (như quy định tại Điều 60 BLTTHS năm 1988) mà quy định cho Thẩm phán giữ chức vụ Chánh tòa, Phó Chánh tòa phúc thẩm TANDTC và Hội đồng xét xử có quyền ra lệnh bắt bị can, bị cáo để tạm giam nhằm đảm bảo thuận lợi cho việc xét xử và các hoạt động tố tụng hình sự khác. Ngoài ra, để phân định rõ chức danh, thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự với chức danh, thẩm quyền trong hoạt động hành chính – điều hành, Điều 80 BLTTHS năm 2003 quy định chỉ có “Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng CQĐT các cấp” với sự phê chuẩn của VKS cùng cấp thì mới có quyền ra lệnh bắt bị can, bị cáo để tạm giam, chứ không quy định chung chung, thiếu chặt chẽ như Điều 62 BLTTHS năm 1988 là “Trưởng Công an, Phó Trưởng Công an cấp huyện…”.

+ Về bắt người trong trường hợp khẩn cấp.

Điều 81 BLTTHS năm 2003, về cơ bản vẫn giữ nguyên các căn cứ áp dụng biện pháp này như quy định tại Điều 63 BLTTHS năm 1988. Tuy nhiên, có hai điểm sửa đổi mới đó là: quy định ngắn gọn và cụ thể hơn về thẩm quyền ra lệnh bắt người trong trường hợp khẩn cấp là “Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng CQĐT các cấp” thay cho quy định “Trưởng Công an, Phó Trưởng Công an cấp huyện… có quyền ra lệnh bắt khẩn cấp” tại khoản 2 Điều 63 BLTTHS năm 1988. Đồng thời quy định cụ thể và tỉ mỉ hơn về trách nhiệm của VKS trong kiểm sát chặt chẽ việc bắt khẩn cấp như: “Trong trường hợp cần thiết, Viện kiểm sát phải trực tiếp gặp hỏi người bị bắt, trước khi xem xét, quyết định phê chuẩn hoặc không phê chuẩn”. Bên cạnh đó, BLTTHS năm 2003 còn quy định thời hạn mà Viện kiểm sát phải xem xét quyết định phê chuẩn hoặc không phê chuẩn việc bắt khẩn cấp nhằm tránh tình trạng dây dưa kéo dài ảnh hưởng đến quyền lợi của người bị bắt, cũng như tiến độ giải quyết vụ án. Nếu Viện kiểm sát quyết định không phê chuẩn thì người đã ra lệnh bắt phải trả tự do cho người bị bắt.

+ Về biện pháp bắt người trong trường hợp phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã. Điều 82 BLTTHS năm 2003 có quy định bổ sung cho các chủ thể tiến hành bắt quyền “tước hung khí” của người bị bắt nhằm đảm bảo an toàn cho người tiến hành bắt người phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã.

+ Về những việc làm ngay sau khi bắt hoặc nhận người bị bắt. Điều 83 BLTTHS năm 2003 có quy định một nội dung mới đó là: “Sau khi nhận người bị bắt, cơ quan ra quyết định truy nã phải ra quyết định đình nã” để chấm dứt việc truy bắt của các cơ quan chuyên môn.

– Về biện pháp tạm giữ: So với các quy định của Điều 68, 69 BLTTHS năm 1988 thì các quy định của Điều 86, 87 BLTTHS năm 2003 có sửa đổi sau đây:

+ Về đối tượng áp dụng: Điều 86 BLTTHS năm 2003 đã mở rộng diện đối tượng có thể bị áp dụng biện pháp tạm giữ, đó là tạm giữ không chỉ được áp dụng đối với người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp, phạm tội quả tang như trước đây, mà còn áp dụng đối với người phạm tội tự thú, đầu thú hoặc người bị bắt theo lệnh truy nã. Sự mở rộng các đối tượng có thể bị tạm giữ nêu trên là cần thiết, đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm.

+ Về thẩm quyền ra lệnh tạm giữ thì ngoài những người có thẩm quyền ra lệnh bắt khẩn cấp quy định tại khoản 1 Điều 81 BLTTHS năm 2003, khoản 2 Điều 86 Bộ luật này còn quy định bổ sung người có quyền ra lệnh tạm giữ là “Chỉ huy trưởng vùng Cảnh sát biển”. Quy định này không những tăng thẩm quyền cho lực lượng tuần tra trên biển để kịp thời phục vụ công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm mà còn góp phần kiểm soát, tuần tra và giữ gìn an ninh, trật tự trên biển.

Ngoài ra, BLTTHS năm 2003 còn quy định những người thi hành quyết định tạm giữ phải giải thích quyền và nghĩa vụ của người bị tạm giữ quy định tại Điều 48 của Bộ luật này nhằm đảm bảo các quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tạm giữ, hạn chế những vi phạm từ phía cơ quan có thẩm quyền ra lệnh tạm giữ.

LIỆN HỆ:

SĐT+ZALO: 0935568275

E:\DỮ LIỆU COP CỦA CHỊ YẾN\LUAN VAN VIEN HAN LAM\VIEN HAN LAM DOT 12\SAU BAO VE/ TRAN VAN TUAN

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *