Quản lý nhà nước về thực hiện pháp luật về người có công với cách mạng

Quản lý nhà nước về thực hiện pháp luật về người có công với cách mạng

Quản lý nhà nước về thực hiện pháp luật về người có công với cách mạng, từ thực tiễn huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam

1. Tính cấp thiết của đề tài

Trong cuộc đấu tranh vì độc lập, tự do và phát triển bền vững của đất nước, vì cuộc sống bình yên và hạnh phúc của nhân dân, hàng triệu người con ưu tú của dân tộc ta đã hiến dâng tuổi thanh xuân, sẵn sàng xả thân vì sự nghiệp cứu quốc, dũng cảm chiến đấu, đã anh dũng hy sinh hoặc mang thương tật suốt đời. Các anh hùng liệt sĩ, thương binh đã làm rạng danh non sông, đem lại sự vẻ vang cho dân tộc ta. Tiếng thơm của những lớp NCCVCM, với đất nước sẽ mãi trường tồn và muôn đời lưu vào sử xanh. Ðảng, Nhà nước và nhân dân ta tự hào, đời đời nhớ ơn, vinh danh và luôn nguyện kế tục và thực hiện thành công sự nghiệp cách mạng nhằm xứng đáng với những hy sinh, cống hiến to lớn của họ. Đúng vậy, Hồ Chí Minh đã xác định: “Thương binh, bệnh binh, gia đình bộ đội, gia đình liệt sỹ là những người có công với Tổ quốc. Bởi vậy bổn phận của chúng ta là phải biết ơn, thương yêu và giúp đỡ họ” [17, tr.372]. Nên nhiệm vụ của “Nhà nước, xã hội tôn vinh, khen thưởng, thực hiện chính sách ưu đãi đối với người có công với nước” [26] đã trở thành một nguyên tắc được ghi nhận trong Khoản 1, Điều 59 của Hiến pháp 2013 nước Cộng hòa XHCN Việt Nam.

Để tri ân và đền đáp công ơn to lớn của NCCVCM, Đảng và Nhà nước ta đã có hệ thống pháp luật dành cho NCCVCM gắn liền với sự nghiệp cách mạng, để tạo lập nền tảng pháp lý nhằm tổ chức tốt việc thực thi pháp luật về lĩnh vực này, chăm lo đời sống cho NCCVCM và thân nhân gia đình họ. Pháp luật của nhà nước ở lĩnh vực này luôn gắn liền song hành với việc thực hiện chủ trương, chính sách phát triển KT-XH, liên quan đến đời sống NCCVCM để góp phần tạo lập sự ổn định và cải thiện đời sống cho NCCVCM.

Huyện Quế Sơn của tỉnh Quảng Nam là một huyện trung du miền núi, có bề dày truyền thống cách mạng. Trong quá trình thực hiện chính sách pháp luật về lĩnh vực ưu đãi NCCVCM, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân huyện Quế Sơn phát huy đạo lý truyền thống “uống nước nhớ nguồn”, huy động cả hệ thống chính trị vào cuộc, cùng với nhân dân để thực hiện tốt phong trào “đền ơn đáp nghĩa” tích cực khắc phục khó khăn giải quyết các tồn đọng sau chiến tranh thực hiện nghiêm pháp luật về NCCVCM, có công với đất nước.

Bên cạnh những kết quả tích cực đáng ghi nhận trong việc thực hiện chế độ chính sách đối với NCCVCM, thì vẫn còn một số vấn đề vướng mắc về điều kiện, tiêu chuẩn, quy trình, thủ tục, hồ sơ xác nhận đối tượng chính sách chậm được tháo gỡ. Tình trạng khai man, giả mạo/ gian lận hồ sơ thủ tục NCCVCM; tình trạng nhiều trường hợp không qua giám định thương tật nhưng vẫn được công nhận là thương binh… đã và đang còn xảy ra ở nhiều địa phương để trục lợi chính sách ưu đãi của nhà nước nhằm chiếm đoạt gây thiệt hại cho ngân sách Nhà nước, gây nên sự bức xúc trong xã hội. Từ những vụ việc cụ thể nêu trên cho thấy: Công tác quản lý nhà nước của chính quyền địa phương trong việc thực hiện chính sách đối với NCCVCM còn nhiều bất cập đặt ra, cụ thể như: (1) Một số văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn thực hiện “Pháp lệnh ưu đãi người có công” chưa đầy đủ, thiếu thống nhất; (2) Quy định hướng dẫn về điều kiện, tiêu chuẩn, quy trình, trách nhiệm xác nhận NCCVCM chưa đồng bộ, chưa đủ rõ về mức độ cống hiến, đóng góp, thiếu hợp lý, gây khó khăn cho thủ tục xác nhận đối tượng, cũng như tạo kẽ hở cho phần tử xấu lợi dụng, dẫn đến tiêu cực đáng tiếc vẫn còn xảy ra; (3) Một số cán bộ chưa nhận thức đầy đủ về ý nghĩa của pháp luật về NCCVCM và còn thiếu trách nhiệm trong triển khai thực hiện pháp luật về NCCVCM,…

Với một số lý do cấp thiết nêu trên, tác giả đăng ký đề tài: “Quản lý nhà nước về thực hiện pháp luật về người có công với cách mạng, từ thực tiễn huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam” để nghiên cứu làm luận văn thạc sĩ chuyên ngành Luật hiến pháp và luật hành chính.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

Trên cơ sở lý luận và phân tích thực trạng tình hình quản lý nhà nước về thực hiện pháp luật về NCCVCM từ thực tiễn huyện Quế Sơn (tỉnh Quảng Nam), luận văn tập trung đề xuất các giải pháp chủ yếu để nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý nhà nước trên địa bàn huyện Quế Sơn về thực hiện pháp luật về NCCVCM.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

+ Hệ thống hóa làm rõ một cơ sở lý luận quản lý nhà nước về thực hiện pháp luật về NCCVCM.

+ Nghiên cứu phân tích làm rõ thực trạng quản lý nhà nước về thực hiện pháp luật về NCCVCM ở huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam thời gian qua; xác định các vấn đề hạn chế/ bất cập đặt ra và nguyên nhân dẫn đến.

+ Đề xuất giải pháp và kiến nghị chủ yếu để góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về thực hiện pháp luật về NCCVCM tại huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam thời gian đến.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Công tác quản lý nhà nước về thực hiện pháp luật về NCCVCM.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

– Nội dung nghiên cứu: Công tác quản lý nhà nước về thực hiện pháp luật về NCCVCM trên địa bàn huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam.

– Thời gian nghiên cứu: từ năm 2016 đến năm 2020.

– Không gian nghiên cứu: ở phạm vi trên địa bàn huyện Quế Sơn.

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

5.1. Phương pháp luận nghiên cứu

Cơ sở lý luận nghiên cứu của đề tài là sử dụng các phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối của Đảng ta để tiếp cận trong nghiên cứu công tác quản lý nhà nước về thực hiện pháp luật về NCCVCM tại một địa phương cụ thể.

5.2. Phương pháp nghiên cứu

Đề tài áp dụng chủ yếu về những phương pháp tiếp cận liên ngành giữa khoa học pháp lý và khoa học hành chính để nghiên cứu công tác quản lý nhà nước trong thực hiện pháp luật về NCCVCM từ thực tiễn huyện Quế Sơn.

Đồng thời, đề tài sử dụng các phương pháp phân tích các văn bản và thu thập thông tin; thống kê, so sánh, hệ thống hóa, phân tích – tổng hợp tài liệu. số liệu qua các năm để đánh giá thực trạng tình hình quản lý nhà nước trong thực hiện pháp luật về NCCVCM từ thực tiễn huyện Quế Sơn (thành tựu, hạn chế/ bất cập và các nguyên nhân chủ yếu dẫn đến); cũng như tạo cơ sở cho việc đề xuất các giải pháp và kiến nghị khắc phục.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

6.1. Ý nghĩa lý luận:

Qua nghiên cứu, luận văn hệ thống hoá làm rõ hơn cơ sở lý luận quản lý nhà nước về thực hiện pháp luật về NCCVCM. Qua đó tạo cơ sở để định hướng nghiên cứu về tình hình thực tiễn quản lý nhà nước về thực hiện pháp luật về NCCVCM ở huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam.

6.2. Ý nghĩa thực tiễn:

Từ việc nghiên cứu đánh giá thực trạng công tác quản lý nhà nước về thực hiện pháp luật về NCCVCM ở huyện Quế Sơn (tỉnh Quảng Nam) thời gian qua để xác định luận chứng thực tiễn nhằm xác định các vấn đề hạn chế/ bất cập đặt ra và nguyên nhân của nó; cũng như phân tích làm rõ hơn nhiều quy định của pháp luật hiện hành về NCCVCM… Từ đó cung cấp luận cứ khoa học cho việc đề xuất nội dung của các giải pháp và kiến nghị chủ yếu để góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước trong thực hiện pháp luật về NCCVCM tại huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam thời gian đến.

Kết quả của luận văn cũng là kênh tư vấn cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền, các nhà quản lý tham khảo để nghiên cứu phương án hoàn thiện công tác quản lý nhà nước về thực hiện pháp luật về NCCVCM ở huyện Quế Sơn hiện nay, cũng như các địa phương có điều kiện đặc điểm tương đồng.

7. Kết cấu của luận văn

Bên cạnh các phần mở đầu, kết luận và phần danh mục tài liệu tham khảo, nội dung đề tài có kết cấu gồm 03 chương dưới đây:

Chương 1. Cơ sở lý luận quản lý nhà nước về thực hiện pháp luật về người có công với cách mạng.

Chương 2. Thực trạng quản lý nhà nước về thực hiện pháp luật về người có công với cách mạng từ thực tiễn huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam.

Chương 3. Giải pháp và kiến nghị để tăng cường quản lý nhà nước về thực hiện pháp luật về người có công với cách mạng tại huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam.

CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ NGƯỜI CÓ CÔNG VỚI CÁCH MẠNG

1.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò của quản lý nhà nước về thực hiện pháp luật về người có công với cách mạng

1.1.1. Các khái niệm chủ yếu có liên quan

– Khái niệm về người có công với cách mạng (NCCVCM):

NCCVCM theo nghĩa rộng [21], đó là tập hợp những người (mà không phân biệt giới tính nam nữ, dân tộc, tuổi tác, tín ngưỡng, tôn giáo) đã tự nguyện cống hiến đóng góp tài năng, trí tuệ, sức lực… cho sự nghiệp giữ nước và dựng nước. Họ là những người có các thành tích cống hiến hoặc đóng góp nhiệm vụ xuất sắc vì lợi ích của đất nước, của dân tộc và đã được các cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận theo luật định. Với nghĩa này cho thấy việc xác định dấu hiệu các tiêu chí chủ yếu của NCCVCM, đó phải là người có sự cống hiến hy sinh/ đóng góp xuất sắc vì lợi ích của quốc gia dân tộc. Sự cống hiến thiêng liêng của họ được xã hội tôn vinh, chịu ơn và được Nhà nước công nhận cả trong sự nghiệp đấu tranh vì độc lập, tự do cho Tổ quốc hoặc trong sự nghiệp xây dựng kiến thiết quốc gia. Đúng vậy, xuất phát điểm từ đặc điểm và lịch sử dân tộc Việt Nam, nên trong suốt quá trình tranh đấu giữ nước và dựng nước, đối tượng NCCVCM ở nước ta có đặc điểm là một bộ phận lớn của những lớp người đã quên mình để hy sinh, cống hiến cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng quốc gia dân tộc, bảo vệ và xây dựng tổ quốc Việt Nam. Họ chính là lực lượng NCCVCM, với đất nước vì lợi ích của quốc gia dân tộc và quốc thái dân an, mà không hề yêu cầu đòi hỏi phải bù đắp, được nhân dân và Nhà nước ta ghi nhận và biết ơn sâu sắc (mà không phân biệt giới tính, tộc người, tuổi tác, nghề nghiệp, tôn giáo, tín ngưỡng…).

Thuật ngữ NCCVCM (ở nghĩa hẹp) [21] dùng để chỉ lực lượng những người có các cống hiến/ đóng góp xuất sắc cả thời kỳ trước cách mạng tháng Tám 1945, trong công cuộc kháng chiến giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc, được các tổ chức, cơ quan có thẩm quyền công nhận. Với nghĩa hẹp này, NCCVCM gồm có: người tham gia cách mạng hoặc giúp đỡ cách mạng, họ đã hy sinh cả cuộc đời hay một phần thân thể mình hoặc họ có thành tích cống hiến/ đóng góp vì cách mạng.

Về cơ bản, khái niệm về NCCVCM được dựa trên cơ sở của tiêu chí xác định NCCVCM như: mức độ cống hiến, đóng góp, hy sinh… ở phạm vi xác định về không gian, thời gian, quốc tịch nhằm phân biệt rõ giữa người có công so với đối tượng khác. Căn cứ vào công sức cống hiến đóng góp và hoàn cảnh, điều kiện cụ thể của quốc gia; cũng như áp dụng chế độ ưu đãi phù hợp với các nhóm đối tượng, Nhà nước ta đã quy định tương đối cụ thể về NCCVCM được thể hiện trong Pháp lệnh Ưu đãi NCCVCM qua các giai đoạn ban hành.

Với cơ sở trên, khái niệm NCCVCM theo Pháp lệnh Ưu đãi NCCVCM là những người đã có thành tích trong cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam. Tại Điều 38 của Pháp lệnh số 02/2020/UBTVQH14 ngày 09 tháng 12 năm 2020 về Ưu đãi người có công với cách mạng đã khái quát về khái niệm: Người có công giúp đỡ cách mạng là người đã có thành tích giúp đỡ cách mạng trong lúc khó khăn, nguy hiểm và được Nhà nước khen tặng thuộc một trong các trường hợp sau đây: (1) Người được tặng hoặc người trong gia đình được tặng Kỷ niệm chương “Tổ quốc ghi công” hoặc Bằng “Có công với nước” trước cách mạng tháng Tám năm 1945; (2) Người được tặng hoặc người trong gia đình được tặng Huân chương Kháng chiến; (3) Người được tặng hoặc người trong gia đình được tặng Huy chương Kháng chiến.

Như vậy, về khái quát có thể xác định cụ thể theo nhóm đối tượng NCCVCM được cơ quan, tổ chức có thẩm quyền công nhận, gồm có:

+ Người hoạt động cách mạng trước ngày 01-01-1945.

+ Người hoạt động cách mạng từ ngày 01-01-1945 đến ngày khởi nghĩa tháng 8-1945.

+ Liệt sĩ; thương binh.

+ Anh hùng Lao động trong kháng chiến, Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân.

+ Đối tượng thụ hưởng chính sách như thương binh là những người bị thương và bị suy giảm khả năng lao động từ 21% trở lên, tuy không phải là quân nhân, công an nhân dân, nhưng họ thuộc một trong các trường hợp theo quy định như thương binh và được cấp có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận về người thụ hưởng chính sách như thương binh.

+ Bệnh binh là quân nhân, công an nhân dân mắc các bệnh làm suy giảm khả năng lao động từ 61% trở lên và khi xuất ngũ được đơn vị, cơ quan có thẩm quyền cấp “Giấy chứng nhận bệnh binh”.

+ Đối tượng hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học.

+ Người hoạt động cách mạng hoặc hoạt động kháng chiến bị địch bắt tù, đày, nhưng họ không khai báo có hại cho kháng chiến cách mạng, không làm tay sai cho thù địch.

+ Người hoạt động kháng chiến giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc và làm nghĩa vụ quốc tế được tặng Huy chương kháng chiến, Huân chương kháng chiến.

+ Người có công giúp đỡ cách mạng, gồm có: Người được tặng Bằng “Có công với nước” hoặc Kỷ niệm chương “Tổ quốc ghi công”; người trong gia đình được tặng Bằng “Có công với nước” hoặc Kỷ niệm chương “Tổ quốc ghi công”trước cách mạng tháng 8 năm 1945; người được tặng Huy chương kháng chiến hay Huân chương kháng chiến; người trong gia đình được tặng Huy chương kháng chiến hay Huân chương kháng chiến.

– Pháp luật là thuật ngữ dùng để chỉ hệ thống các quy tắc sử sự mang tính bắt buộc chung do Nhà nước có thẩm quyền ban hành/ thừa nhận và bảo đảm thực hiện, thể hiện ý chí của giai cấp thống trị trong đời sống xã hội, là nhân tố điều chỉnh các quan hệ trong xã hội [19, tr.66].

– Thực hiện pháp luật được hiểu là hành vi xử sự hợp pháp của con người thể hiện dưới dạng hành động/ không hành động, chúng được tiến hành phù hợp theo yêu cầu của những quy phạm pháp luật. Thực hiện pháp luật vốn dĩ là quá trình hoạt động có chủ đích của các chủ thể pháp luật nhằm làm cho các quy định của pháp luật trở thành hiện thực trong đời sống xã hội, chúng tạo ra cơ sở pháp lý đối với các hoạt động thực tế của chủ thể pháp luật.

Như vậy, thực hiện pháp luật về NCCVCM có thể hiểu là quá trình tổ chức, điều hành hoạt động có mục đích của hệ thống các cơ quan hành chính nhà nước cùng với đội ngũ nhân sự của mình nhằm làm cho pháp luật về NCCVCM đi vào thực tiễn cuộc sống, trở thành những hành vi của các chủ thể pháp luật trong ứng xử hợp pháp với NCCVCM, để nâng cao tính tích cực, chủ động thực hiện tốt pháp luật về NCCVCM, bảo đảm phát huy các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta và tính nhân văn XHCN; góp phần cho NCCVCM cùng gia đình họ phục hồi cuộc sống ổn định và phát triển theo hướng bền vững.

– Theo đó, có thể xác định: Quản lý nhà nước về thực hiện pháp luật về NCCVCM được hiểu là hoạt động thực thi quyển lực nhà nước do các cơ quan nhà nước thực hiện nhằm xác lập một môi trường ổn định, thuận lợi để pháp luật về NCCVCM được thực thi trong thực tiễn cuộc sống, trở thành những hành vi ứng xử hợp pháp của các chủ thể pháp luật đối với NCCVCM, để nâng cao tính tích cực, chủ động thực hiện tốt pháp luật về NCCVCM, bảo đảm phát huy các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta và tính nhân văn XHCN; góp phần cho NCCVCM cùng gia đình họ phục hồi cuộc sống ổn định và phát triển theo hướng bền vững.

1.1.2. Đặc điểm và vai trò của quản lý nhà nước về thực hiện pháp luật về người có công với cách mạng

* Quản lý nhà nước về thực hiện pháp luật về NCCVCM có một số đặc điểm chủ yếu sau:

Một là, quản lý nhà nước về thực hiện pháp luật về NCCVCM mang tính quyền lực đặc biệt, tính mệnh lệnh đơn phương của nhà nước được thiết lập trên cơ sở mối quan hệ “quyền uy” và “sự phục tùng” có tính tổ chức cao, để tác động lên các quan hệ xã hội nhằm đảm bảo thực thi pháp luật về NCCVCM trên thực tế.

Hai là, quản lý nhà nước về thực hiện pháp luật về NCCVCM vừa mang tính chính trị, kinh tế – xã hội và vừa mang tính nhân văn sâu sắc, thể hiện sự quan tâm đặc biệt sâu sắc của Nhà nước ta đối với xã hội về lĩnh vực này.

Vì rằng, NCCVCM là bộ phận những người có lòng yêu nước nồng nàn, gan dạ, bền bỉ, đã có nhiều cống hiến đặc biệt quan trọng, sẵn sàng cống hiến hết tài sản, của cải của mình và dám xã thân hy sinh vì sự nghiệp kháng chiến, bảo vệ Tổ quốc và kiến quốc của dân tộc ta, vì dân. Phần lớn NCCVCM hiện nay thuộc lớp người lớn tuổi, đều lớn lên và trưởng thành trong chiến tranh và hoạt động cách mạng). Ngay cả sau khi nước nhà độc lập thống nhất và lặp lại hòa bình, dù là di chứng của thương tích và bệnh tật mang trong mình, những NCCVCM vẫn không ngừng phát huy phẩm chất truyền thống tốt đẹp của bộ đội cụ Hồ và luôn tự lo tìm công việc phù hợp sức lao động mình để tiếp tục nỗ lực phấn đấu; luôn giáo dục truyền thụ những giá trị truyền thống cách mạng cho con em mình, gương mẫu trong lối sống, luôn trung thành sắt son với chế độ XHCN và thể hiện tinh thần đấu tranh trước các tiêu cực xã hội. NCCVCM là lớp người có tín nhiệm/ uy tín rất cao đối với Đảng, Nhà nước ta và cộng đồng cư dân, là bộ phận rường cột, là chỗ dựa quan trọng về tiếng nói trong nhân dân; cũng như động viên nhân dân tham gia hưởng ứng tích cực những chủ trương, chính sách của Đảng và chính sách pháp luật Nhà nước ta. Họ chính là tấm gương sáng để gia đình và xã hội luôn noi theo. Tuy nhiên, bản thân NCCVCM và thân nhân gia đình họ vốn chịu nhiều thiệt thòi, tổn thất mất mát trong điều kiện phần lớn họ có hoàn cảnh rất khó khăn, gặp thách thức trước xu thế của bối cảnh đất nước phát triển và hội nhập. Bối cảnh điều kiện đó khiến NCCVCM và gia đình họ đối mặt với nhiều khó khăn và không đủ có cơ hội bình thường trong phát triển so với nhiều thành phần xã hội khác.

Cũng từ đặc điểm này tất yếu đòi hỏi khách quan cần có sự quan tâm rất đặc biệt của Đảng, Nhà nước ta để tri ân, chăm sóc, động viên, sẻ chia và giúp đỡ đãi ngộ NCCVCM và thân nhân gia đình họ bằng các quy định của pháp luật trên cơ sở của đặc điểm, nhu cầu của đối tượng NCCVCM và có tính toán đến sự phù hợp với từng khu vực vùng miền. Chính vì thế, đặc điểm của quản lý nhà nước về thực hiện pháp luật về NCCVCM chẳng những phải thể hiện nhiệm vụ bảo vệ những thành quả cách mạng mà ông cha đã ra sức gìn giữ, mà còn phải thể hiện các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta (truyền thống đạo lý uống nước nhớ nguồn; ăn quả nhớ người trồng cây…), đạo lý “Đền ơn đáp nghĩa” về sự tôn vinh và tri ân, đãi ngộ của Ðảng, Nhà nước đối với những cống hiến của NCCVCM, chăm lo và tạo điều kiện thuận lợi cho người có công xây dựng cuộc sống, góp phần bảo đảm công bằng xã hội người có công; giáo dục bồi dưỡng thế hệ trẻ có ý thức rèn luyện, góp phần xây dựng đất nước.

Ba là, quản lý nhà nước về thực hiện pháp luật về NCCVCM mang tính tổ chức và điều chỉnh.

Tính tổ chức cao trong quản lý nhà nước về thực hiện pháp luật về NCCVCM được thể hiện qua việc nâng cao tính hiệu lực của môi trường hành lang pháp lý, các chính sách điều tiết về lĩnh vực ưu đãi NCC và thiết lập hệ thống tổ chức bộ máy và đội ngũ nhân sự chặt chẽ, tinh gọn để đảm trách tốt công tác về lĩnh vực này.

Tính điều chỉnh của quản lý nhà nước về thực hiện pháp luật về NCCVCM được hiểu là nhà nước dựa vào các công cụ pháp luật, chính sách để đưa ra các quy tắc xử sự dành cho NCCVCM và đảm bảo thực hiện; và buộc các cá nhân, tổ chức phải thực hiện đúng và đầy đủ các quy định của pháp luật về NCCVCM để đảm bảo tính chính trị pháp lý nhân văn XHCN của Đảng và Nhà nước ta trước sự cống hiến và hy sinh của NCCVCM; cũng như phản ánh ý chí, quan điểm, thái độ, cách ứng xử hướng về cội nguồn của Nhà nước để phục vụ lợi ích quốc gia dân tộc. Theo đó, yêu cầu đòi hỏi công tác quản lý nhà nước về lĩnh vực này phải hoàn thiện các quy định của pháp luật về NCCVCM một cách đồng bộ, chặt chẽ về chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của các tổ chức có chức năng thẩm quyền triển khai pháp luật về NCCVCM; đồng thời pháp luật về NCCVCM được nhà nước sử dụng làm công cụ cưỡng chế nhằm đảm bảo sự truy cứu trách nhiệm đối với những hành vi vi phạm pháp luật về NCCVCM, tránh sự bỏ sót đối tượng chính sách hoặc làm sai lệch đối tượng, đảm bảo cho việc thực hiện pháp luật về NCCVCM được thực hiện đúng đối tượng được thụ hưởng và đúng mục đích của nó.

Bốn là, quản lý nhà nước về thực hiện pháp luật về NCCVCM vừa mang tính khoa học, tính kế hoạch, vừa mang tính tính liên tục và ổn định.

Đặc trưng tính khoa học và tính kế hoạch, nó đỏi hỏi nhà nước phải tổ chức các hoạt động quản lý của mình lên đối tượng quản lý phải dựa trên một chương trình nhất quán, cụ thể và theo những kế hoạch được vạch ra từ trước thông qua những tính toán một cách khoa học, thấu đáo.

Đồng thời, công tác quản lý nhà nước về thực hiện pháp luật về NCCVCM phải là sự tác động mang tính liên tục và ổn định lên các quá trình xã hội và hệ thống các hành vi xã hội đối với lĩnh vực ưu đãi NCCVCM. Do sự vận động biến đổi không ngừng của đối tượng quản lý, hoạt động quản lý nhà nước phải diễn ra thường xuyên, liên tục, không bị gián đoạn. Các quyết định của nhà nước phải có tính ổn định. Hơn nữa, việc ổn định của các quyết định của nhà nước giúp cho các chủ thể quản lý có điều kiện kiện toàn hoạt động của mình và hệ thống hành vi xã hội được ổn định.

Từ các đặc điểm nêu trên, quản lý nhà nước về thực hiện pháp luật về NCCVCM có một số vai trò chủ yếu, đó là:

Đối với Nhà nước, pháp luật nói chung và pháp luật về NCCVCM nói riêng là công cụ đặc trưng để nhà nước quản lý xã hội, nó được đúc kết dựa trên cơ sở xuất phát từ những nhu cầu khách quan và lợi ích chính đáng của các tầng lớp trong xã hội. Pháp luật về NCCVCM do nhà nước ban hành để điều chỉnh thống nhất, ổn định các quan hệ xã hội trong cả nước và bằng sức mạnh quyền lực của nhà nước để đảm bảo hiệu lực pháp luật về NCCVCM được thi hành trong thực tiễn đời sống nhằm đáp ứng nhu cầu khách quan và lợi ích chính đáng của các đối tượng NCCVCM trong xã hội. Thông qua quản lý nhà nước về thực hiện pháp luật về NCCVCM, nhà nước phát huy được quyền lực chính thức của mình và kiểm tra, kiểm soát được hoạt động của các tổ chức, cá nhân trong quá trình thực hiện pháp luật về NCCVCM, nhằm đảm bảo dân chủ, công bằng cho đối tượng chính sách thụ hưởng và phù hợp với lợi ích chung của thực tiễn xã hội.

Quản lý về thực hiện pháp luật về NCCVCM là trách nhiệm chính của nhà nước. Theo đó, yêu cầu đối với vai trò quản lý nhà nước về thực hiện pháp luật về NCCVCM là phải bảo đảm các hoạt động xã hội liên quan đến lĩnh vực ưu đãi NCCVCM một cách dân chủ, công khai, minh bạch thì mới đem lại hiệu quả và thành công cho nhà nước về lĩnh vực này.

Đối với các đối tượng chính sách (NCCVCM và thân nhân gia đình họ), thì quản lý nhà nước về thực hiện pháp luật về NCCVCM là phương tiện chính thức để công dân thực hiện và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cùa mình. Vì quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân trong từng lĩnh vực cụ thể đã được Hiến pháp quy định; công dân được thực hiện đầy đủ quyền của mình theo quy định của pháp luật và được pháp luật bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.

1.2. Quan điểm của Đảng, Nhà nước ta về pháp luật và thực hiện pháp luật về người có công với cách mạng

Pháp luật về NCCVCM là chủ trương, chính sách nhất quán của Đảng và Nhà nước ta. Pháp luật về NCCVCM được ban hành đầu tiên gắn liền với sự kiện Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Sắc lệnh số 20/SL ngày 16 tháng 02 năm 1947 quy định về “Chế độ hưu bổng thương tật, tiền tuất cho thân nhân liệt sĩ”. Đây là Sắc lệnh đầu tiên về chính sách thương binh, liệt sĩ và người có công; một sự kiện quan trọng trong chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước ta nhằm tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối với sự hy sinh, cống hiến của các thương binh, liệt sĩ và người có công với nước. Tiếp đó được bổ sung bởi Sắc lệnh số 242/SL ngày 12 tháng 10 năm 1948 quy định tiêu chuẩn xác nhận thương binh, truy tặng “tử sĩ” thực hiện chế độ “lương hưu thương tật” đối với các thương binh, chế độ “tiền tuất” đối với gia đình liệt sĩ. Trong Di chúc của Bác Hồ, trước lúc đi xa Người đã căn dặn: Đảng, Chính phủ và đồng bào phải tìm mọi cách làm cho thương binh, liệt sĩ và NCCVCM có nơi ăn chốn ở yên ổn, đồng thời phải mở những lớp dạy nghề thích hợp với từng người để họ dần dần tự lực cánh sinh. Bác nhắc nhở: “Đối với các liệt sĩ, mỗi địa phương (thành phố, làng, xã) cần xây dựng vườn hoa và bia tưởng niệm ghi sự hy sinh anh dũng của các liệt sĩ, để đời đời giáo dục tinh thần yêu nước cho nhân dân ta. Người cũng chu đáo, quan tâm đối với cha mẹ, vợ con của thương binh và liệt sĩ (người có công với nước) mà thiếu sức lao động và túng thiếu, thì chính quyền địa phương (nếu ở nông thôn thì chính quyền xã cùng hợp tác xã nông nghiệp) phải giúp đỡ họ có công ăn việc làm thích hợp, quyết không để họ bị đói rét” [6, tr.1.425-1.426] … Những chỉ dẫn của Bác đã được Đảng, Nhà nước ta phấn đấu thực hiện ngày càng chu đáo và tốt hơn.

Từ năm 1986 đến nay, chính sách của Đảng và pháp luật về NCCVCM đã được Nhà nước ta chú trọng bằng việc bổ sung, sửa đổi, hoàn thiện cùng với sự nghiệp đổi mới đất nước. Tại Đại hội lần thứ VI, Đảng ta chỉ rõ phải: thực hiện tốt chính sách đối với thương binh, gia đình liệt sĩ, gia đình cán bộ, chiến sĩ chiến đấu ngoài mặt trận, gia đình có công với cách mạng… Theo đó, Nhà nước đã thể chế hóa bằng: Nghị định 236/HĐBT ngày 18 tháng 9 năm 1985 của Hội đồng Bộ trưởng về bổ sung, sửa đổi một số chế độ, chính sách về thương binh và xã hội; Quyết định 79/HĐBT ngày 05 tháng 7 năm 1989 của Hội đồng Bộ trưởng về điều chỉnh mức trợ cấp của một số đối tượng hưởng chính sách xã hội; Quyết định 8/HĐBT ngày 05 tháng 01 năm 1990 của Hội đồng Bộ trưởng về điều chỉnh mức trợ cấp của một số đối tượng hưởng chính sách xã hội.

Tại Đại hội VII của Đảng tiếp tục khẳng định: Quan tâm chăm sóc thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sĩ và những NCCVCM, coi đó vừa là trách nhiệm của Nhà nước, vừa là trách nhiệm của toàn dân; sớm ban hành chế độ toàn dân đóng góp vào quỹ đền ơn, trả nghĩa để chăm lo đời sống thương binh, gia đình liệt sĩ và những NCCVCM. Thể chế hóa chủ trương này, Chính phủ ban hành Nghị định 27/CP ngày 23 tháng 4 năm 1993 của Chính phủ quy định tạm thời việc điều chỉnh mức lương hưu và mức trợ cấp đối với các đối tượng hưởng chính sách xã hội… Đáng chú ý hơn để kịp thời thể chế hóa Hiến pháp năm 1992, việc điều chỉnh bằng pháp luật giúp cho các mối quan hệ xã hội từng bước được chuyển đổi nhằm phù hợp với cơ chế mới, ngày 29 tháng 8 năm 1994, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành hai văn bản rất quan trọng, đó là: Pháp lệnh Ưu đãi người hoạt động cách mạng, liệt sĩ và gia đình liệt sĩ, thương binh, bệnh binh, người hoạt động kháng chiến, người có công giúp đỡ cách mạng; và Pháp lệnh Quy định danh hiệu vinh dự Nhà nước “Bà mẹ Việt Nam Anh hùng”. Cùng theo đó, các nghị định, thông tư hướng dẫn thi hành hai Pháp lệnh này đã tạo thành hệ thống pháp luật về NCCVCM.

Đến Đại hội VIII, Đảng ta chỉ rõ: “Tổ chức tốt việc thi hành Pháp lệnh về người có công, bảo đảm cho những người có công với đất nước và cách mạng có đời sống vật chất và tinh thần ít nhất bằng mức sống trung bình của nhân dân nơi cư trú; bồi dưỡng và tạo điều kiện cho con em những người có công với cách mạng tiếp nối sự nghiệp của cha anh. Mở rộng phong trào “Đền ơn đáp nghĩa”, chăm sóc thương binh, gia đình liệt sĩ…” [11, tr.115]. 

Tại Đại hội IX, Đảng khẳng định: “Chăm lo tốt hơn đối với các gia đình chính sách và những NCCVCM, bảo đảm tất cả các gia đình chính sách đều có cuộc sống bằng hoặc khá hơn mức sống trung bình so với người dân địa phương trên cơ sở kết hợp 3 nguồn lực: Nhà nước, cộng đồng và cá nhân các đối tượng chính sách tự vươn lên” [12, tr.301]. Nghị quyết Đại hội XI chỉ rõ: “Huy động mọi nguồn lực xã hội cùng với Nhà nước chăm lo tốt hơn nữa đời sống vật chất và tinh thần của những người và gia đình có công. Giải quyết dứt điểm các tồn đọng về chính sách người có công, đặc biệt là người tham gia hoạt động bí mật, lực lượng vũ trang, thanh niên xung phong các thời kỳ cách mạng và kháng chiến…” [13, tr.229-230]. 

Căn cứ tình hình thực tiễn mới, Pháp lệnh Ưu đãi năm 1994 tiếp tục đã được tham mưu, đề xuất, sửa đổi, bổ sung vào các năm (1998, 2000, 2002, 2005, 2007, 2012) nhằm phù hợp với điều kiện KT-XH của đất nước. Năm 2012, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh Ưu đãi NCCVCM. Ngày 09 tháng 4 năm 2013, Chính phủ ban hành Nghị định 31/2013/NĐ-CP quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành một số điều của Pháp lệnh Ưu đãi NCCVCM; đi cùng theo đó, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội ra Thông tư 05/2013/TT-BLĐTBXH ngày 15 tháng 5 năm 2013 hướng dẫn về thủ tục lập hồ sơ, quản lý hồ sơ, thực hiện chế độ ưu đãi NCCVCM và thân nhân. Đồng thời, để đánh giá toàn diện, đầy đủ việc thực hiện chính sách của Đảng và Nhà nước đối với NCCVCM, ngày 27 tháng 10 năm 2013, Thủ tướng Chính phủ ban hành Chỉ thị 23/CT-TTg về việc tổng rà soát việc thực hiện chính sách ưu đãi đối với NCCVCM. Theo đó, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội và Ban Thường trực Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã xây dựng chương trình phối hợp, triển khai rà soát đối với 7 đối tượng, bao gồm: liệt sĩ và gia đình liệt sĩ, bà mẹ Việt Nam anh hùng, thương binh, bệnh binh, người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học, người có công giúp đỡ cách mạng và cựu thanh niên xung phong.

Đến Đại hội XII [14, tr.31,136,137], Đảng ta nhấn mạnh: “Thực hiện tốt chính sách chăm sóc NCCVCM trên cơ sở nguồn lực của Nhà nước kết hợp với việc huy động các nguồn lực xã hội; bảo đảm NCCVCM có mức sống từ trung bình trở lên”; “Tiếp tục hoàn thiện chính sách xã hội phù hợp với quá trình phát triển KT-XH. Mở rộng đối tượng và nâng cao hiệu quả của hệ thống an sinh xã hội đến người dân; tạo điều kiện trợ giúp có hiệu quả cho tầng lớp yếu thế, dễ tổn thương/ những người gặp rủi ro trong cuộc sống. Phát triển và thực hiện tốt các chính sách bảo hiểm xã hội,…”. Thực hiện chủ trương của Đảng, các địa phương, đơn vị trong cả nước từng bước khắc phục các bất cập, khắc phục hậu quả chiến tranh, đẩy mạnh việc tìm kiếm và quy tập mộ liệt sĩ; thúc đẩy phong trào ĐƠĐN; đồng thời, thực hiện Chỉ thị số 02/CT-TTg, ngày 25-01-2016 của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường thực hiện chính sách ưu đãi đối với NCCVCM.

Để định hướng cho việc hoàn thiện pháp luật về NCCVCM, Đảng ta tiếp tục ra Chỉ thị số 14-CT/TW ngày 19/7/2017 của Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa XII) về tiếp tục tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác NCCVCM. Từ cơ sở này, tại Phiên họp thứ 51, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã thông qua Pháp lệnh số 02/2020/UBTVQH14 ngày 09 tháng 12 năm 2020 về Ưu đãi người có công với cách mạng(sửa đổi) có hiệu lực thi hành từ ngày 01-7-2021 văn bản pháp luật này có nhiều điểm mới, quy định chặt chẽ, khả thi, bảo đảm chế độ cho người có công và thân nhân. Đây là văn bản pháp luật có ý nghĩa chính trị , xã hội sâu sắc, thể chế hóa rõ chủ trương ưu tiên chăm sóc, ưu tiên dành nguồn lực nhằm cải thiện và nâng cao đời sống NCCVCM.

Về cơ bản, hệ thống quan điểm, chủ trương của Đảng và pháp luật của Nhà nước về NCCVCM đến nay đã được hình thành tương đối đầy đủ và không ngừng được hoàn thiện qua hơn 70 năm. Như vậy, với việc hoàn thiện một bước của hệ thống pháp luật về NCCVCM đáp ứng theo hướng bảo đảm NCCVCM không được bỏ sót, với chế độ ưu đãi từng bước được nâng cao gắn liền với sự bảo đảm công bằng và đồng thuận xã hội, giúp cho họ có cuộc sống tốt hơn trước. Tính đến thời điểm này đã có khoảng hơn 100 văn bản dưới dạng các nghị quyết, nghị định và thông tư của các cơ quan hành chính nhà nước được ban hành [49]. Hiện nay [3], toàn quốc đã xác nhận được cho hơn 9,2 triệu NCCVCM; và số NCCVCM đang được thụ hưởng chế độ ưu đãi hàng tháng với gần 1,4 triệu người (mức chuẩn để xác định trợ cấp ưu đãi NCC đang là 1.515.000 đồng). Tổng kinh phí thực hiện Pháp lệnh Ưu đãi NCCVCM khoảng 31.000 tỷ đồng/ năm (gồm có: trợ cấp 1 lần; trợ cấp hàng tháng; bảo hiểm y tế; công tác mộ, nghĩa trang liệt sĩ; đền ơn đáp nghĩa…). Số liệu thống kê cũng cho thấy [50], 95,75% số đối tượng NCCVCM đã được hưởng đầy đủ các chế độ, chính sách ưu đãi của Đảng và Nhà nước; 97% NCC có mức sống bằng hoặc cao hơn mức sống trung bình của nhân dân nơi cư trú; 100% Mẹ Việt Nam Anh hùng còn sống đều được chăm sóc, phụng dưỡng…

1.3. Nội dung quản lý nhà nước về thực hiện pháp luật về người có công với cách mạng

Nội dung quản lý Nhà nước về thực hiện pháp luật về NCCVCM về cơ bản gồm các công việc sau:

Thứ nhất, xây dựng pháp luật về NCCVCM. Việc thường xuyên nghiên cứu, xây dựng pháp luật quản lý nhà nước về NCCVCM là cần thiết và quan trọng, nhằm đánh giá thực trạng, hạn chế, khó khăn, vướng mắc trong quá trình áp dụng pháp luật để có kế hoạch sửa đổi, bổ sung pháp luật cho phù hợp với thực tiễn đặt ra.

Thứ hai, tổ chức thực hiện pháp luật về NCCVCM bao gồm các hoạt động như: Chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra và tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật, chiến lược, định hướng chương trình đã được phê duyệt về ưu đãi NCCVCM; thông tin, tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về NCCVCM; Tập huấn nghiệp vụ cho cán bộ, công chức làm công tác; Tổ chức việc tiếp công dân; tiếp nhận, xử lý đơn khiếu nại, giải quyết khiếu nại liên quan lĩnh vực ưu đãi NCCVCM theo quy định của pháp luật.

Thứ ba, giám sát, thanh tra và kiểm tra việc chấp hành pháp luật về NCCVCM. Đây là một giai đoạn quan trọng trong chu trình quản lý nhà nước, là phương thức bảo đảm pháp chế XHCN, tăng cường kỷ luật và nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về thực hiện pháp luật về NCCVCM. Tùy vào chức năng, nhiệm vụ của mỗi tổ chức, cá nhân để các chủ thể có những hoạt động giám sát, thanh tra trong phạm vi thẩm quyền. Thông qua công tác giám sát, thanh tra, kiểm tra trách nhiệm trong việc chấp hành pháp luật về NCCVCM sẽ góp phần nâng cao trách nhiệm quản lý của các ngành, các cấp, đồng thời nắm bắt được tình hình thực hiện pháp luật về NCCVCM, thấy được các thiếu sót cũng như những vướng mắc trong việc thực hiện chính sách, pháp luật về NCCVCM để kịp thời chỉ đạo, hướng dẫn hoặc đề xuất sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện chính sách, pháp luật này hoặc đề nghị cấp có thẩm quyền xử lý người thiếu trách nhiệm, vi phạm pháp luật trong quá trình thực hiện pháp luật về NCCVCM.

Trong đó, một số điểm cần chú ý trong nội dung quản lý Nhà nước về thực hiện pháp luật về NCCVCM, mà theo các điều của Pháp lệnh số 02/2020/UBTVQH14 ngày 09 tháng 12 năm 2020 về Ưu đãi người có công với cách mạng(sửa đổi) (từ Điều 48,đến Điều 51) đã quy định như sau:

* Trách nhiệm của Chính phủ: là thống nhất quản lý nhà nước về ưu đãi NCCVCM và thực hiện các nội dung sau:

– Quy định thẩm quyền, thủ tục, hồ sơ công nhận, giải quyết chế độ ưu đãi đối với NCCVCM và thân nhân của NCCVCM; quy định thẩm quyền, thủ tục, hồ sơ công nhận, giải quyết chế độ ưu đãi NCCVCM đối với những trường hợp còn tồn đọng; Quy định việc giám định y khoa để xem xét công nhận, giải quyết chế độ ưu đãi đối với NCCVCM và thân nhân của NCCVCM;

– Quy định mức hưởng và việc thực hiện trợ cấp, phụ cấp, các chế độ ưu đãi đối với NCCVCM và thân nhân của NCCVCM; chính sách, chế độ đối với người làm việc tại cơ sở xã hội nuôi dưỡng, điều dưỡng, cơ sở đón tiếp NCCVCM. Quy định việc thực hiện chính sách ưu đãi người nước ngoài có công với cách mạng;

– Quy định chế độ hỗ trợ cải thiện nhà ở đối với NCCVCM và thân nhân của NCCVCM phù hợp với điều kiện kinh tế – xã hội của đất nước. Quy định chế độ ưu đãi đối với người sử dụng đất là NCCVCM; đất dành riêng cho công trình ghi công liệt sĩ, cơ sở sản xuất, kinh doanh của thương binh, người hưởng chính sách như thương binh, bệnh binh, cơ sở xã hội nuôi dưỡng, điều dưỡng, chỉnh hình, phục hồi chức năng cho thương binh, bệnh binh và những NCCVCM khác; hỗ trợ cơ sở vật chất đối với cơ sở sản xuất, kinh doanh dành riêng cho thương binh, người hưởng chính sách như thương binh, bệnh binh. Quy định chế độ ưu đãi đối với NCCVCM và thân nhân của NCCVCM trong sản xuất, kinh doanh nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, diêm nghiệp bằng các hình thức ưu tiên giúp đỡ về giống, vật nuôi, cây trồng, thủy lợi phí, chế biến nông sản

LIỆN HỆ:

SĐT+ZALO: 0935568275

E:\DỮ LIỆU COP CỦA CHỊ YẾN\LUAN VAN VIEN HAN LAM\VIEN HAN LAM DOT 12\SAU BAO VE/ TRAN THI HONG TANG

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *