Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo pháp luật hình sự

Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo pháp luật hình sự

Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định

  1. Tính cấp thiết của đề tài

Các tình tiết giảm nhẹ TNHS có ý nghĩa rất quan trọng trong quá trình xem xét, đánh giá và quyết định hình phạt của Hội đồng xét xử đối với người phạm tội trong mỗi vụ án cụ thể. Việc lạm dụng hoặc thờ ơ đối với việc áp dụng chúng đều sẽ gây nên hậu quả nhất định. Quyết định hình phạt quá nhẹ dẫn đến giảm hiệu quả đấu tranh phòng, chống tội phạm; còn quyết định hình phạt quá nghiêm khắc, dẫn đến phản tác dụng đối với quá trình cải tạo, giáo dục người phạm tội.

Trong BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) đã bổ sung một số quy định mới đáp ứng yêu cầu thực tiễn công tác phòng, chống tội phạm, các tình tiết giảm nhẹ TNHS tiếp tục được quy định trong một điều luật riêng biệt – Điều 51, với 22 tình tiết cụ thể được ghi nhận tại Khoản 1 và các tình tiết khác được xác định trên cơ sở quyết định của Tòa án theo quy định tại khoản 2 Điều 51. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng để cơ quan tiến hành tố tụng hình sự đánh giá đúng tính chất vụ án, tính chất và mức độ nguy hiểm hành vi phạm tội. Từ đó đưa ra quyết định hình phạt phù hợp, đảm bảo vừa có tính răn đe, nhưng cũng đồng thời có giá trị cải tạo, giáo dục người phạm tội.

Chính sách khoan hồng trong chính sách hình sự của Việt Nam luôn được đặt lên hàng đầu, việc áp dụng các tình tiết giảm nhẹ TNHS trong giải quyết các vụ án hình sự vì vậy có phạm vi tương đối rộng và tần suất lớn. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, hiện nay hiệu quả, tính đúng đắn trong áp dụng các tình tiết này vẫn tồn tại những điểm hạn chế nhất định.

Từ thực tiễn tại địa bàn huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định, việc xét xử các vụ án hình sự của Tòa án nhân dân huyện phần lớn đều được áp dụng các tình tiết giảm nhẹ TNHS theo đúng quy định của pháp luật. Nhưng cá biệt vẫn còn những trường hợp, do cách hiểu chưa đúng, chưa đồng nhất, việc nhìn nhận, đánh giá chưa đầy đủ, thiếu khách quan đã dẫn đến những bất cập trong thực tiễn áp dụng.

Chình vì vậy, việc lựa chọn đề tài luận văn “Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định” trên cơ sở phân tích một cách khoa học các vấn đề lý luận và dữ liệu thực tiễn từ địa bàn huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định sẽ góp phần làm rõ những vấn đề còn vướng mắc khi áp dụng vào thực tiễn, để từ đó đưa ra những giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả, chất lượng áp dụng các tình tiết giảm nhẹ TNHS trong giải quyết các vụ án hình sự trên địa bàn huyện Tây Sơn nói riêng và hệ thống Luật hình sự Việt Nam nói chung.

  1. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
  2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

Đề tài nghiên cứu những vấn đề lí luận chung về các tình tiết giảm nhẹ TNHS theo quy định của BLHS hiện hành; tình hình, đặc điểm có liên quan và thực trạng áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự tại Tòa án nhân dân huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định. Qua đó đưa ra những đánh giá và phương hướng hoàn thiện đối với những quy định này nhằm tìm ra giải pháp bảo đảm áp dụng đúng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trong thời gian tới.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Để đạt được mục đích như trên, luận văn cần tập trung giải quyết được các nhiệm vụ sau:

  • Phân tích làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo pháp luật hình sự.
  • Đánh giá tình hình, đặc điểm có liên quan và thực trạng áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự tại Tòa án nhân dân huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định.
  • Đề xuất, kiến nghị một số giải pháp bảo đảm áp dụng đúng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trong thời gian tới.
  1. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Đề tài tập trung nghiên cứu các vấn đề lý luận, quy định của BLHS hiện hành về các tình tiết giảm nhẹ TNHS và thực tiễn áp dụng những quy định này trên địa bàn huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định.

    1. Phạm vi nghiên cứu

Phạm vi nghiên cứu của đề tài giới hạn ở các tình tiết được quy định tại Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Đồng thời, kết hợp với việc nghiên cứu, đánh giá tình hình áp dụng chế định này trong thực tiễn tại địa bàn huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định từ năm 2015 đến năm 2019.

  1. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
    1. Cơ sở lý luận

Cơ sở lý luận của luận văn dựa trên cơ sở vận dụng phép duy vật biện chứng và duy vật lịch sử; lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin về Nhà nước và Pháp luật, về tội phạm học, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về nguyên tắc xử lý tội phạm. Thông qua đó, việc nghiên cứu làm rõ những nét đặc thù và giá trị kế thừa trong các quy định về những trường hợp giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Từ đó trang bị cách tiếp cận biện chứng cho việc áp dụng những trường hợp giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với pháp luật hình sự trong thực tiễn.

    1. Phương pháp nghiên cứu

Luận văn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu cụ thể:

Chương 1: Sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp những vấn đề lý luận và pháp lý về các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo pháp luật hình sự Việt Nam.

Chương 2: Sử dụng phương pháp thống kê, phương pháp phân tích, tổng hợp nhận xét, đánh giá về thực tiễn áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trên địa bàn huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định.

Chương 3: Sử dụng các phương pháp phân tích, tổng hợp kết hợp với đánh giá thực tiễn để đề ra các giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trong thời gian tới.

  1. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
    1. Ý nghĩa lý luận

Luận văn nghiên cứu một cách có hệ thống những vấn đề lý luận về các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo pháp luật hình sự Việt Nam. Kết quả nghiên cứu của luận văn trong một phạm vi nhất định góp phần phát triển một số lý luận về những trường hợp giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trong BLHS Việt Nam, góp phần nâng cao hiệu quả công tác áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trong thời gian tới.

    1. Ý nghĩa thực tiễn

Kết quả nghiên cứu của luận văn đưa ra một số luận cứ khoa học cho việc cụ thể hoá chính sách nhân đạo của Nhà nước đối với việc xử lý tội phạm trong pháp luật hình sự hiện hành. Đồng thời đưa ra giải pháp giải quyết một số vấn đề còn vướng mắc trong thực tiễn áp dụng pháp luật và nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định về những trường hợp giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Kết quả nghiên cứu đề tài có thể phục vụ cho việc trang bị một số kiến thức chuyên sâu đối với cán bộ pháp luật trong lĩnh vực hình sự.

  1. Kết cấu luận văn

Luận văn có kết cấu gồm 3 chương. Cụ thể:

Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật về các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo pháp luật hình sự Việt Nam.

Chương 2: Tình hình, đặc điểm có liên quan và thực trạng áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự tại tòa án nhân dân huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định.

Chương 3: Yêu cầu và giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trong thời gian tới.

CHƯƠNG 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT

VỀ CÁC TÌNH TIẾT GIẢM NHẸ TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ

THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM

1.1. Những vấn đề lý luận về các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự

1.1.1. Khái niệm, đặc điểm của các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự

1.1.1.1. Khái niệm các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự

Tuy những trường hợp giảm nhẹ trách nhiệm hình sự có giá trị giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bất cứ tội phạm nào, nhưng chúng cũng có thể có mặt ở trường hợp này mà không có mặt trong trường hợp phạm tội khác. Vì thế, những trường hợp giảm nhẹ trách nhiệm hình sự không được sử dụng là dấu hiệu chung để xây dựng chế tài đối với một tội phạm cụ thể. Lấy chế tài làm gốc, việc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được áp dụng theo những quy tắc nhất định trên cơ sở cân nhắc giá trị giảm nhẹ của mỗi trường hợp hoặc của một tập hợp các trường hợp.

Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được sử dụng khá nhiều và đóng vai trò quan trọng với tư cách là một trong những căn cứ để Tòa án quyết định hình phạt. Tuy nhiên, BLHS năm 2015 không đưa ra khái niệm mà chỉ liệt kê các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trong Khoản 1 Điều 51 và quy định Tòa án có thể coi các tình tiết khác là tình tiết giảm nhẹ trong Khoản 2 Điều 51.

Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Phần chung) của Trường Đại học Huế do GS.TS Võ Khánh Vinh chủ biên có nêu: “Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được cân nhắc khi quyết định hình phạt là những tình tiết khác nhau về tội phạm đã thực hiện, về nhân thân người phạm tội được quy định cụ thể trong luật hoặc không được quy định cụ thể trong luật nhưng được Tòa án cân nhắc với ý nghĩa làm giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và hình phạt đối với người phạm tội”. [27, tr.423]

GS.TSKH Lê Văn Cảm đưa ra khái niệm rằng “Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là tình tiết được quy định trong Phần chung Bộ luật hình sự với tính chất là tình tiết giảm nhẹ chung hoặc là tình tiết do Tòa án tự xem xét, cân nhắc và được ghi rõ trong bản án (nếu trong vụ án hình sự không có tình tiết này), đồng thời là một trong những căn cứ để cơ quan tư pháp hình sự có thẩm quyền và Tòa án tùy thuộc vào giai đoạn tố tụng hình sự tương ứng cá thể hóa trách nhiệm hình sự và hình phạt của người phạm tội theo hướng giảm nhẹ hơn trong phạm vi một khung hình phạt”. [2, tr.17]

Trong bình luận khoa học Bộ luật hình sự năm 1999 phần chung, Thạc sĩ Đinh Văn Quế cho rằng “Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là các tình tiết trong một vụ án cụ thể nó sẽ làm giảm trách nhiệm hình sự của người phạm tội trong một khung hình phạt” [15, tr.228].

TS. Trần Thị Quang Vinh lại cho rằng “Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là những tình tiết của vụ án hình sự, liên quan đến việc giải quyết trách nhiệm hình sự, có ý nghĩa làm giảm mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, phản ánh khả năng cải tạo tốt hoặc hoàn cảnh đặc biệt của người phạm tội đáng được khoan hồng và giá trị giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của chúng chưa được ghi nhận trong chế tài.” [26, tr.9]

Hầu hết các tác giả đều cho rằng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là tình tiết được quy định trong BLHS với tính chất là tình tiết giảm nhẹ chung hoặc là tình tiết được ghi nhận trong văn bản hướng dẫn áp dụng pháp luật hay do Tòa án tự xem xét, cân nhắc và ghi rõ trong bản án, đồng thời là một trong những căn cứ để Tòa án cá thể hóa trách nhiệm hình sự và hình phạt đối với người phạm tội.

Theo Từ điển tiếng Việt, “Tình tiết” được hiểu là sự việc nhỏ trong quá trình diễn biến của sự kiện, tâm trạng [24, tr.979]. Do vậy, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự có thể hiểu là những sự việc nhỏ trong một vụ án có ý nghĩa làm giảm mức độ trách nhiệm hình sự của người phạm tội.

Còn “Giảm nhẹ trách nhiệm hình sự” có thể được hiểu là việc hạn chế sự tác động hình sự thuộc nội dung của trách nhiệm hình sự. Tại một mức độ cao nhất, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là bất kỳ tình tiết nào mà sự hiện diện của nó làm giảm bớt mức độ trách nhiệm hình sự. Như vậy, ở cấp độ này, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là các tình tiết định tội giảm nhẹ, định khung giảm nhẹ, các tình tiết giảm nhẹ tại Điều 51 và các điều luật khác tại phần chung Bộ luật hình sự, cũng như các tình tiết được áp dụng theo khoản 2 điều 51. Ở mức độ thứ hai, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là những tình tiết có ý nghĩa giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trên cơ sở đã có một sự chuẩn mực xác định về trách nhiệm hình sự. Như vậy, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là những tình tiết được quy định và áp dụng theo quy định tại phần chung Bộ luật hình sự.

Từ các quan điểm về khái niệm các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đã nêu trên, cũng như căn cứ vào quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam về tình tiết giảm nhẹ TNHS. Tác giả qua nghiên cứu xem xét, đưa ra khái niệm của các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như sau “Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là các tình tiết trong một vụ án cụ thể mà nó sẽ làm giảm trách nhiệm hình sự của người phạm tội trong một khung hình phạt. Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thuộc về nhân thân người phạm tội chỉ có ý nghĩa giải nhẹ đối với cá nhân người phạm tội, còn các tình tiết giảm nhẹ khác nếu thuộc về người nào thì chỉ có người đó được giảm nhẹ trách nhiệm hình sự”.

1.1.1.2. Đặc điểm của các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự

Căn cứ vào quy định của pháp luật, tác giả nhận thấy các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự có những đặc điểm sau:

Thứ nhất, được quy định cụ thể trong BLHS. Những tình tiết được coi là tình tiết giảm nhẹ hình sự khi được quy định cụ thể tại Điều 51 BLHS. Cụ thể:

  • Khoản 1. Các tình tiết sau đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

+ Người phạm tội đã ngăn chặn hoặc làm giảm bớt tác hại của tội phạm;

+ Người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả;

+ Phạm tội trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng;

+ Phạm tội trong trường hợp vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết;

+ Phạm tội trong trường hợp vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội;

+ Phạm tội trong trường hợp bị kích động về tinh thần do hành vi trái pháp luật của nạn nhân gây ra;

+ Phạm tội vì hoàn cảnh đặc biệt khó khăn mà không phải do mình tự gây ra;

+ Phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại không lớn;

+ Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng;

+ Phạm tội vì bị người khác đe dọa hoặc cưỡng bức;

+ Phạm tội trong trường hợp bị hạn chế khả năng nhận thức mà không phải do lỗi của mình gây ra;

+ Phạm tội do lạc hậu;

+ Người phạm tội là phụ nữ có thai;

+ Người phạm tội là người đủ 70 tuổi trở lên;

+ Người phạm tội là người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng;

+ Người phạm tội là người có bệnh bị hạn chế khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình;

+ Người phạm tội tự thú;

+ Người phạm tội thành khẩn khai báo hoặc ăn năn hối cải;

+ Người phạm tội tích cực giúp đỡ các cơ quan có trách nhiệm phát hiện hoặc điều tra tội phạm;

+ Người phạm tội đã lập công chuộc tội;

+ Người phạm tội là người có thành tích xuất sắc trong sản xuất, chiến đấu, học tập hoặc công tác;

+ Người phạm tội là cha, mẹ, vợ, chồng, con của liệt sĩ, người có công với cách mạng.

– Khoản 2. Khi quyết định hình phạt, Tòa án có thể coi đầu thú hoặc tình tiết khác là tình tiết giảm nhẹ, nhưng phải ghi rõ lý do giảm nhẹ trong bản án.

– Khoản 3. Các tình tiết giảm nhẹ đã được Bộ luật này quy định là dấu hiệu định tội hoặc định khung thì không được coi là tình tiết giảm nhẹ trong khi quyết định hình phạt”.

Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự tại khoản 2 còn được quy định trong một số các văn bản khác như Nghị quyết số 01/2000/NQ-HĐTP ngày 04/08/2000 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định trong phần chung của Bộ luật hình sự năm 1999, Nghị quyết số 01/2006/NQ-HĐTP ngày 12/5/2006 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật hình sự. Trong quá trình xét xử, Tòa án còn có thể xem xét, cân nhắc coi những tình tiết khác là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và điều này phải ghi rõ lý do trong bản án.

Khi áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cần lưu ý rằng, những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đã được quy định với tính cách là yếu tố định tội hoặc là yếu tố định khung hình phạt của một số tội phạm cụ thể thì trong quá trình xét xử, Tòa án không được xem xét nó như là tình tiết giảm nhẹ chung được quy định tại Khoản 1 Điều 51 BLHS.

Thứ hai, các tình tiết giảm nhẹ TNHS là căn cứ để Tòa án áp dụng hình phạt theo hướng nhẹ hơn đối với người phạm tội.

Thứ ba, các tình tiết giảm nhẹ TNHS là một trong những căn cứ để Tòa án quyết định hình phạt.

Thứ tư, mức độ ảnh hưởng của mỗi tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đến việc quyết định hình phạt không giống nhau.

1.1.2. Phân loại các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự

Có nhiều cách để phân loại các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhưng theo tác giả thì mỗi cách phân loại đều có yếu tố hợp lý và ý nghĩa riêng khi áp dụng pháp luật nhưng lại tồn tại những vướng mắc nhất định. Nguyên nhân phát sinh khởi nguồn từ bản chất của các tình tiết giảm nhẹ là những biểu hiện riêng biệt của từng trường hợp phạm tội cụ thể vì vậy chúng rất đa dạng và phong phú. Ngược lại tội phạm dù phát triển theo các điều kiện kinh tế, chính trị xã hội nên rất đa dạng song vẫn là một thể thống nhất bao gồm các yếu tố khách quan, chủ quan. Chính sự bất đồng này khiến việc cố gắng chia tách rạch ròi các nhóm về nội dung của các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trở nên khó thực hiện.

Theo đó, các tình tiết giảm nhẹ TNHS quy định tại Điều 51 BLHS năm 2015 được phân loại theo ba tiêu chí sau:

Nhóm các tình tiết giảm nhẹ TNHS có giá trị làm giảm mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội được quy định tại Khoản 1 (bao gồm các tình tiết tại điểm c, d, e, g, h, i, k).

Nhóm các tình tiết giảm nhẹ TNHS phản ánh khả năng giáo dục, cải tạo của người phạm tội được quy định tại Khoản 1 (bao gồm các tình tiết tại điểm a, b, m, r, s, t, u, v).

Nhóm các tình tiết giảm nhẹ TNHS phản ánh hoàn cảnh đặc biệt của người phạm tội đáng được hưởng khoan hồng (bao gồm các tình tiết còn lại trong Khoản 1).

1.1.3. Vai trò, ý nghĩa của các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự

Việc quy định các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự có ý nghĩa to lớn về mặt pháp lý. Bởi khi giải quyết một vụ án hình sự thì việc giải quyết trách nhiệm hình sự là vô cùng quan trọng và cần phải cân nhắc đến các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự để có thể giải quyết một cách chính xác, đảm bảo công bằng. Để đảm bảo sự tương xứng giữa tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm với mức độ trách nhiệm hình sự, các quy định về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được sử dụng như phương tiện để phân hóa trách nhiệm hình sự trong luật và cá thể hóa trách nhiệm hình sự khi áp dụng. Vì vậy mà các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự có một số vai trò, ý nghĩa như sau:

Thứ nhất, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là một phương tiện phân hóa trách nhiệm hình sự trong luật.

Mỗi tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đều có giá trị giảm nhẹ nhất định. Tuy nhiên, không thể đánh đồng giá trị của tất cả các tình tiết này là một. Các nhà làm luật Việt Nam dựa trên sự đánh giá về giá trị của các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự này đã phân biệt các mức độ giảm nhẹ trách nhiệm hình sự khác nhau dưới sự ảnh hưởng của một hay một tập hợp các tình tiết giảm nhẹ trong toàn bộ quá trình giải quyết và thực hiện trách nhiệm hình sự. Thể hiện ở việc không phải mọi hành vi phạm tội đều bị áp dụng đến biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất là hình phạt, không phải mọi trường hợp bị kết án đều phải chấp hành hết thời hạn hình phạt tuyên hay không phải mọi trường hợp đều phải chấp hành ngay hình phạt tù…Và căn cứ để có thể đưa ra các quyết định mang tính khoan hồng đó cơ bản được dựa trên các quy định về các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.

Thứ hai, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đóng vai trò là phương tiện để cá thể hóa trách nhiệm hình sự.

Mỗi cá nhân phạm tội lại có những đặc điểm nhân thân riêng biệt, những đặc điểm này khi có đầy đủ các yếu tố để trở thành tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thì sẽ mang lại những giá trị giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho cá nhân đó. Với vai trò là một trong những căn cứ đó, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được sử dụng như một phương tiện để cá thể hóa trách nhiệm hình sự. Đối với mỗi tội phạm, trong khung hình phạt quy định thì tùy vào từng trường hợp cụ thể để áp dụng các tình tiết đó để giảm nhẹ trách nhiệm hình sự một cách hợp lý và công bằng.

Thứ ba, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là một trong những điều kiện cần thiết để đạt được mục đích của hình phạt.

Mục đích chính của hình phạt ngoài việc trừng trị thì quan trọng hơn cả là cải tạo người phạm tội, khiến họ nhận ra sai lầm của mình và sửa chữa nó. Vì vậy, khi giải quyết vấn đề trách nhiệm hình sự, nếu không thỏa đáng hoặc quá khắt khe sẽ tạo ra sự bất mãn và không đạt được mục đích của hình phạt. Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự với vai trò là căn cứ để quyết định hình phạt sẽ đem lại sự công bằng và thể hiện tính nhân đạo của pháp luật. Hay nói một cách khác, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự sẽ đem lại cho họ hy vọng và cảm giác họ vẫn là người có ích cho xã hội để họ có thể nhận ra sai lầm và cải tạo bản thân. Đây là một ý nghĩa quan trọng của các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.

Ngoài các ý nghĩa pháp lý nêu trên, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự còn thể hiện ý nghĩa xã hội đó là thực hiện công bằng xã hội và thực hiện chính sách nhân đạo của Nhà nước trong lĩnh vực xử lý tội phạm. Nó thể hiện ở chỗ từ ý nghĩa cá thể hóa trách nhiệm hình sự của mỗi cá nhân, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đem lại sự công bằng đối với người phạm tội. Đảm bảo việc xử đúng người đúng tội, làm cho phán quyết về trách nhiệm hình sự sát hơn với từng trường hợp cụ thể. Điều này thể hiện ở việc khi đã có các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thì trách nhiệm hình sự của người phạm tội sẽ được giảm đi đáng kể và hạn chế sử dụng những biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc. Như vậy, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự có ý nghĩa quan trọng trong việc thực hiện công bằng xã hội và thực hiện chính sách nhân đạo của pháp luật hình sự Việt Nam.

1.2. Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự

Trên cơ sở kế thừa những quy định của BLHS năm 1999 (sửa đổi bổ sung năm 2009)BLHS năm 2015 tiếp tục quy định tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự tại Điều 51, nhưng có sự sửa đổi, bổ sung những quy định mới so với BLHS năm 1999 BLHS năm 2015 đã quy định 22 trường hợp cụ thể được xem xét là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự (khoản 1 Điều 51) và cũng bổ sung thêm việc Tòa án khi quyết định hình phạt, có thể coi đầu thú hoặc các tình tiết khác là các tình tiết giảm nhẹ, nhưng phải ghi rõ lý do giảm nhẹ trong bản án. Đây là một điểm mới so với 18 trường hợp tại điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999.

So với BLHS năm 1999, BLHS năm 2015 đã bổ sung thêm những tình tiết giảm nhẹ TNHS mới là: “Phạm tội trong trường hợp vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội; Phạm tội trong trường hợp bị hạn chế khả năng nhận thức mà không phải do lỗi của mình gây ra; Người phạm tội là người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng; Người phạm tội là cha, mẹ, vợ, chồng, con của liệt sĩ, người có công với cách mạng”.

1.2.1. Nội dung của những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015

Trong phần này, tác giả sẽ tập trung phân tích nội dung đồng thời lý giải các cơ sở giảm nhẹ TNHS của mỗi tình tiết giảm nhẹ TNHS như sau:

  • Người phạm tội đã ngăn chặn hoặc làm giảm bớt tác hại của tội phạm

Để áp dụng tình tiết giảm nhẹ này, người đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị coi là tội phạm sau khi phạm tội phải có hành vi tích cực để ngăn chặn tác hại của tội phạm, hoặc làm giảm bớt các tác hại đó. Hành vi làm giảm bớt tác hại của tội phạm được người phạm tội thực hiện khi tội phạm mà họ gây ra trước đó đã bắt đầu phát sinh tác hại, tuy nhiên các tác hại này đã được hạn chế, giảm bớt do hành động tích cực của người phạm tội. Việc ngăn chặn hoặc làm giảm bớt tác hại của tội phạm có thể do người phạm tội tự quyết định thực hiện hoặc do người khác khuyên bảo. Pháp luật hình sự Việt Nam không đòi hỏi người phạm tội phải tự mình quyết định hành động, chỉ cần họ tự thực hiện việc ngăn chặn hoặc làm giảm bớt tác hại của tội phạm mà họ gây ra và hành động này mang lại hiệu quả khiến tác hại của tội phạm thực sự được ngăn chặn hoặc giảm bớt.

  • Người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả

Tình tiết này được hiêu là, trước khi người bị thiệt hại có yêu cầu đòi sửa chữa, bồi thường hoặc khắc phục hậu quả, người phạm tội đã tự nguyện thực hiện hoạt động này. Đây là trường hợp hành vi của người phạm tội đã gây ra hậu quả của tội phạm thể hiện dưới dạng thiệt hại cụ thể hoặc những hậu quả khác. Người phạm tội sau đó đã tự mình quyết định việc và thực hiện việc sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả của tội phạm mà mình gây ra mà không phải do người bị thiệt hại hoặc người khác yêu cầu, ép buộc. Ví dụ: A có hành vi dùng gậy đập vỡ yếm chiếc xe máy mới mua của B, sau đó, A đã chủ động tự nguyện mang xe của B đi hàn lại yếm. Bồi thường thiệt hại được hiểu là dùng tiền hoặc tài sản của mình đưa cho người bị thiệt hại để bù đắp lại những thiệt hại do hành vi phạm tội của mình gây ra bao gồm cả những thiệt hại về vật chất, thể chất hoặc những thiệt hại về tinh thần. Ví dụ: M sau khi cố ý gây thương tích cho T đã chủ động sang thăm hỏi, trả tiền viện phí và bồi thường cho T một khoản tiền cho những thiệt hại mà mình gây ra. Khắc phục hậu quả là trường hợp hành vi phạm tội gây ra những hậu quả không phải dưới dạng thiệt hại về vật chất, không thể sửa chữa hay bồi thương được, buộc người phạm tội phải có những hành động tích cực nhằm khắc phục những hậu quả đó. Mức độ giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với trường hợp này phụ thuộc vào thái độ cố gắng, tự nguyện muốn chuộc lỗi của người phạm tội và mức độ hậu quả được khắc phục trên thực tế.

  • Phạm tội trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng

Phòng vệ chính đáng là một trong những trường hợp được loại trừ trách nhiệm hình sự theo quy định của BLHS năm 2015. Khi chống trả lại một cách cần thiết người có hành vi xâm phạm các quyền và lợi ích chính đáng của cá nhân, tổ chức trong xã hội, người thực hiện quyền phòng vệ không phải chịu trách nhiệm hình sự vì phòng vệ chính đáng không phải là tội phạm.

Tuy nhiên, nếu trong trường hợp người có hành vi bảo vệ các lợi ích chính đáng lại chống trả quá mức cần thiết, không phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi xâm hại và có căn cứ cho thấy việc chống trả rõ ràng là quá mức thì họ phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi vượt quá. Sự chống trả quá mức ở đây phải được thể hiện rõ ràng và có lỗi của người thực hiện hành vi chống trả, ví dụ như sử dụng công cụ, phương tiện quá nguy hiểm so với tình huống, đánh giá sai tình huống phòng vệ,…Mặc dù vậy trách nhiệm hình sự của người thực hiện hành vi vượt giới hạn phòng vệ chính đáng không như những trường hợp bình thường vì động cơ phạm tội là động cơ tốt để bảo vệ lợi ích chính đáng của Nhà nước, của tổ chức, quyền lợi và lợi ích chính đáng của người phòng vệ hoặc người khác. Vì thế, đây được coi là một trường hợp giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho người phạm tội.

Chính do đặc điểm này mà có ý kiến cho rằng không nên coi tình tiết này là tình tiết giảm nhẹ nữa vì nó đã là dấu hiệu định tội ở Điều 126 (tội giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng) và Điều 136 (tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng). Tuy nhiên, không phải trường hợp nào cứ vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng đều được coi là trường hợp quy định tại Điều 126 hoặc Điều 136 BLHS mà không ít trường hợp, tuy có yếu tố phòng vệ chính đáng nhưng tính chất và mức độ nguy hiểm chưa đến mức áp dụng Điều 126 hoặc 136 BLHS thì người phạm tội được coi là tình tiết giảm nhẹ khi quyết định hình phạt. Do đó, về lý luận cũng như thực tiễn xét xử, người phạm tội bị kết án về tội giết người quy định tại Điều 123 và tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác quy định tại Điều 134 BLHS vẫn có thể có tình tiết giảm nhẹ “do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng”. Tuy nhiên trong bản án, Tòa án phải nêu rõ lý do vì sao họ chỉ được coi là tình tiết giảm nhẹ.

  • Phạm tội trong trường hợp vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết

Trường hợp này quy định về trường hợp giảm nhẹ do hoàn cảnh khách quan đặc biệt đem lại. Việc thực hiện hành vi phạm tội của người phạm tội bị đặt trong hoàn cảnh do tác động từ bên ngoài nảy sinh hành vi phạm tội.

Cơ sở giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của tình tiết này thể hiện ở chỗ, việc gây thiệt hại là do yêu cầu của một hoàn cảnh khách quan, đang diễn ra một tình trạng nguy hiểm, buộc phải hy sinh một lợi ích nhỏ hơn thiệt hại cần ngăn ngừa. Trong hoàn cảnh đó người phạm tội đã xử sự rõ ràng là vượt quá yêu cầu cấp thiết.

  • Phạm tội trong trường hợp vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội

Bộ luật hình sự năm 1999 chưa quy định tình tiết giảm nhẹ này. Nếu trong thực tiễn xảy ra trường hợp trong khi bắt giữ người mà gây thiệt hại cho người bị bắt giữ thì vận dụng chế định phòng vệ chính đáng để xử lý. Nếu gây thiệt hại rõ ràng vượt quá mức cần thiết, thì người gây thiệt hại phải chịu trách nhiệm hình sự về tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe của người khác trong khi thi hành công vụ. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp khi bắt người phạm tội, người bị bắt chỉ bỏ chạy, không có hành vi dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực, nhưng để bắt được người phạm tội thì buộc phải gây thiệt hại cho họ. Thiệt hại gây ra cho người phạm tội chủ yếu là tính mạng, sức khỏe, còn thiệt hại tài sản cũng có nhưng rất ít xảy ra.

Nay BLHS năm 2015 quy định trường hợp gây thiệt hại trong khi bắt giữ người phạm tội thành một chế định riêng, nhằm đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm. Người bắt giữ người thực hiện hành vi phạm tội có thể là người có chức vụ, quyền hạn như: chiến sĩ công an, quân đội, hải quan, kiểm lâm, cảnh sát biển,… nhưng cũng có thể chỉ là người tham gia vào việc truy bắt người đang có hành vi phạm tội cũng như được hưởng chế định này.

Nếu trong khi bắt giữ người thực hiện hành vi phạm tội mà gây thiệt hại do sử dụng vũ lực rõ ràng vượt quá mức cần thiết, thì người gây thiệt hại phải chịu trách nhiệm hình sự, nhưng được coi là tình tiết giảm nhẹ.

Cũng như tình tiết giảm nhẹ phạm tội trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng, tình tiết giảm nhẹ này chỉ áp dụng trong trường hợp người phạm tội không bị truy cứu về các tội quy định tại các Điều 126 và Điều 136 BLHS.

  • Phạm tội trong trường hợp bị kích động về tinh thần do hành vi trái pháp luật của nạn nhân gây ra

Cần phải nhận thấy rằng, nội dung của tình tiết giảm nhẹ này khác với tình tiết quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 46 BLHS năm 1999.

Nếu điểm đ khoản 1 Điều 46 BLHS năm 1999 quy định: “…do hành vi trái pháp luật của người bị hại hoặc của người khác” thì điểm e khoản 1 Điều 51 chỉ quy định: “…do hành vi trái pháp luật của nạn nhân”.

Như vậy, tình tiết giảm nhẹ đã thu hẹp phạm vi áp dụng so với điểm đ khoản 1 Điều 46 BLHS năm 1999.

Tình tiết giảm nhẹ này cũng khác với tình tiết là yếu tố định tội tại Điều 125 (tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh) và Điều 135 (tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh); người phạm tội trong trường hợp này cần phải xác định là họ bị kích động chứ không phải là bị kích động mạnh như Điều 125 và Điều 135 BLHS.

Đây là trường hợp được giảm nhẹ liên quan đến phản ứng do bị kích động về tinh thần của người phạm tội. Trạng thái tinh thần bị kích động của người phạm tội là do nạn nhân đã có hành vi trái pháp luật trước đó, đây là lí do khiến người phạm tội đã không làm chủ và kiểm soát hoàn toàn được hành vi của mình. Cơ sở giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội phụ thuộc vào mức độ nghiêm trọng của hành vi trái pháp luật của nạn nhân, mức độ bị kích động của người phạm tội.

  • Phạm tội vì hoàn cảnh đặc biệt khó khăn mà không phải do mình tự gây ra

Tình tiết này được hiểu là trường hợp người phạm tội đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội do hoàn cảnh đặc biệt khó khăn. Hoàn cảnh này không phải do họ tự gây ra mà là do khách quan như thiên tai, hỏa hoạn, bệnh tật, tai nạn,…Hoàn cảnh này có thể là hoàn cảnh khó khăn đặc biệt của bản thân người phạm tội hoặc của gia đình họ, có thể tạm thời nảy sinh, hoặc đã tồn tại từ lâu,…Hoàn cảnh này phải là hoàn cảnh khó khăn hơn nhiều so với mức bình thường. Chính sự đặc biệt khó khăn của hoàn cảnh đã khiến người phạm tội không tự mình vượt qua được và đã chọn thực hiện hành vi phạm tội. Mức độ giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với trường hợp này phụ thuộc vào mức độ khó khăn của hoàn cảnh và khả năng cố gắng tìm cách khắc phục những khó khăn đó của người phạm tội trước khi họ thực hiện hành vi phạm tội.

  • Phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại không lớn

Quy định về giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trong trường hợp phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại không lớn, trên cơ sở hậu quả của phạm tội được hạn chế hoặc phạm tội lần đầu mà mức độ phạm tội ít nghiêm trọng. Đây đều là những căn cứ dựa trên tính chất thiệt hại, mức độ nguy hiểm trong hành vi phạm tội giới hạn ở mức thấp. Theo đó, thiệt hại thực tế theo quy định tại điểm g chưa xảy ra hoặc thiệt hại xảy ra không lớn. Mặc dù lỗi của người phạm tội làm căn cứ truy cứu trách nhiệm hình sự không thay đổi nhưng do thiệt hại chưa xảy ra mà mức độ truy cứu cũng được Nhà nước giảm nhẹ, khoan hồng. Giới hạn giảm nhẹ trách nhiệm hình sự phụ thuộc vào mức độ gây thiệt hại của hành vi phạm tội, hình thức lỗi, cách thức gây thiệt hại. Phạm tội trong trường hợp này là trường hợp phạm tội nhưng thiệt hại trên thực tế chưa xảy ra hoặc xảy ra không lớn. Trong thực tiễn, tình tiết này thường được áp dụng trong những trường hợp hành vi phạm tội bị phát giác kịp thời nên không phát sinh thiệt hại do đã có sự ngăn chặn từ phía những người khác, tài sản bị chiếm đoạt được trả lại ngay cho người bị hại. Mức độ giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của trường hợp này phụ thuộc vào mức thiệt hại mà người phạm tội đã gây ra cho nạn nhân.

  • Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng

Để áp dụng tình tiết này người phạm tội phải thỏa mãn hai điều kiện: thứ nhất, trường hợp phạm tội lần này phải là lần đầu tiên họ thực hiện hành vi phạm tội; thứ hai, tội phạm mà họ thực hiện phải là tội ít nghiêm trọng, hoặc nếu không thì trường hợp phạm tội của họ phải có nhiều yếu tố làm cho trường hợp đó trở nên ít nghiêm trọng.

Cần phân biệt trường hợp phạm tội này với một số trường hợp quy định trong một số điều luật cũng có tình tiết “thuộc trường hợp ít nghiêm trọng” nhưng lại là tội phạm nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng thì không coi là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Ví dụ, khoản 2 Điều 110 đối với tội gián điệp có quy định “phạm tội trong trường hợp ít nghiêm trọng” nhưng khung hình phạt từ 05 năm đến 15 năm là tội rất nghiêm trọng thì không coi là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, vì đây là dấu hiệu khách quan của cấu thành tội phạm (cấu thành giảm nhẹ), là dấu hiệu định khung hình phạt.

  • Phạm tội vì bị người khác đe dọa hoặc cưỡng bức

Phạm tội do bị đe dọa, cưỡng bức là những trường hợp giảm nhẹ dựa trên những tác động khách quan dẫn đến động cơ thực hiện hành vi phạm tội. Phạm tội vì bị người khác đe dọa, cưỡng bức là tình tiết có ý nghĩa giảm nhẹ trách nhiệm hình sự vì người phạm tội thực hiện tội phạm trong một hoàn cảnh bị hạn chế tự do ý chí do bị đe dọa, cưỡng bức, không thể hiện đầy đủ tự do ý chí. Đây chính là cơ sở giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của tình tiết trên. Giá trị giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của tình tiết phạm tội vì bị đe dọa, cưỡng bức phụ thuộc vào tính chất và mức độ của sự đe dọa. Phạm tội do bị đe dọa, cưỡng bức có hai mô tả trong trường hợp giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Phạm tội do bị đe dọa là trường hợp người phạm tội bị uy hiếp về mặt tinh thần bằng việc sử dụng vũ lực hoặc thực hiện hành vi trái pháp luật gây nên. Hành vi đe dọa trong trường hợp này phải chứa đựng khả năng trở thành hiện thực. Phạm tội do bị cưỡng bức là trường hợp người phạm tội bị người khác sử dụng bạo lực bức ép về mặt thể xác hoặc tinh thần nhằm buộc người đó thực hiện hành vi phạm tội.

  • Phạm tội trong trường hợp bị hạn chế khả năng nhận thức mà không phải do lỗi của mình gây ra

Đối với tình tiết này mặc dù chưa có hướng dẫn cụ thể nhưng có thể hiểu theo tinh thần của quy định này là một số trường hợp, người thực hiện hành vi phạm tội trong khi bị hạn chế khả năng nhận thức do nguyên nhân khách quan chẳng hạn như bị cưỡng ép, lừa gạt để sử dụng chất kích thích mạnh.

Vì vậy, khi xác định có cho người phạm tội hưởng tình tiết giảm nhẹ này hay không, không chỉ căn cứ vào sự hạn chế khả năng nhận thức của người phạm tội mà phải xác định xem do đâu mà người phạm tội bị hạn chế khả năng nhận thức đó. Nếu đúng là bị cáo bị hạn chế khả năng nhận thức thì cần phải xem có phải do lỗi của họ hay không? Nếu không phải lỗi của họ thì được coi là tình tiết giảm nhẹ.

  • Phạm tội do lạc hậu

Đây là một tình tiết được giữ nguyên từ BLHS năm 1999 và phản ánh mức độ lỗi của người phạm tội. Trường hợp phạm tội này là do sự hạn chế về mặt nhận thức do trình độ lạc hậu, thấp kém, đi chậm so với tiến trình phát triển chung của xã hội. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến sự lạc hậu như yếu tố địa lý (sinh sống ở vùng xa xôi, hẻo lánh), yếu tố dân tộc (người dân tộc thiểu số), yếu tố văn hóa tín ngưỡng (mê tín, hủ tục),…Khi cân nhắc việc giảm nhẹ đối với trường hợp này, Tòa án cần xem xét mức độ lạc hậu của người phạm tội trong mối quan hệ với các yếu tố ảnh hưởng đến sự lạc hậu.

  • Người phạm tội là phụ nữ có thai

Tình tiết này phản ánh hoàn cảnh đặc biệt của người phạm tội đó là việc họ thực hiện hành vi phạm tội khi đang mang thai. Một trong những yếu tố ảnh hưởng đến hành vi phạm tội của họ là sự thay đổi về tâm – sinh lý trong thời kỳ mang thai dẫn đến trạng thái nóng nảy, dễ bị kích động, khó kiểm soát hành vi.

Ngoài ra, quy định tại điểm n khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự không phân biệt người phạm tội là phụ nữ có thai tại thời điểm phạm tội hay trong quá trình truy cứu trách nhiệm hình sự.

  • Người phạm tội là người đủ 70 tuổi trở lên

Theo BLHS năm 1999, trường hợp người phạm tội từ đủ 70 tuổi trở lên là người già (người phạm tội là người già). Tuy nhiên, nếu quy định là người già thì sẽ dẫn đến cách hiểu khác nhau. Nay BLHS năm 2015 không gọi là người già mà quy định độ tuổi đủ 70 tuổi trở lên mà phạm tội là tình tiết giảm nhẹ.

Pháp luật quy định giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho người đủ 70 tuổi trở lên không phải vì hành vi của họ ít nguy hiểm hơn người dưới 70 tuổi mà chủ yếu xuất phát từ tinh thần nhân đạo. Căn cứ để xác định người phạm tội là người đủ 70 tuổi trở lên, tuyệt nhiên không được căn cứ vào tình trạng sức khỏe.

Quy định này xuất phát từ chính sách hình sự nhân đạo của nhà nước ta đối với người cao tuổi. Bên cạnh đó, yếu tố tâm – sinh lý lứa tuổi cũng được cân nhắc vì vào độ tuổi này, khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của họ bị suy giảm, điều này phần nào ảnh hưởng đến tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội mà họ thực hiện. Do đó, tình tiết liên quan đến hoàn cảnh đặc biệt của người phạm tội vì họ là người già cần phải được xác định là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.

  • Người phạm tội là người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng

Tình tiết giảm nhẹ này chưa được quy định trong BLHS năm 1999, nên thực tiễn xét xử có nhiều trường hợp người phạm tội không phải là thương binh (người có công) mà họ chỉ là người bị tàn tật do bẩm sinh, do tai nạn lao động. Các Tòa án khi áp dụng hình phạt đối với những trường hợp này cũng chỉ áp dụng khoản 2 của Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999. Nay Bộ luật hình sự năm 2015 quy định là tình tiết giảm nhẹ tại khoản 1 Điều 51 là xuất phát từ yêu cầu của thực tiễn xét xử.

Người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng phải có chứng nhận của hội đồng giám định pháp y, nếu có tỷ lệ thương tật từ 61% đến 80% sức khỏe thì gọi là khuyết tật nặng, nếu có tỷ lệ thương tật từ 81% sức khỏe trở lên thì gọi là khuyết tật đặc biệt nặng (tương đương với tỷ lệ thương tật đối với thương binh nặng và đặc biệt nặng).

Vấn đề đặt ra là, vậy đối với người phạm tội là thương binh, bệnh binh có tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên có được áp dụng hai tình tiết giảm nhẹ là người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng và tình tiết giảm nhẹ là người có công với cách mạng không? Có thể còn nhiều ý kiến khác nhau nhưng theo tác giả, người phạm tội được áp dụng hai tình tiết giảm nhẹ, vì người có công có thể là thương bệnh binh chỉ có tỷ lệ thương tật từ 21% sức khỏe đã được công nhận là người có công rồi, nếu họ là thương, bệnh binh nặng hoặc đặc biệt nặng thì không có lý do gì lại không cho họ được hưởng 2 tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm p và điểm x khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

LIỆN HỆ:

SĐT+ZALO: 0935568275

E:\DỮ LIỆU COP CỦA CHỊ YẾN\LUAN VAN VIEN HAN LAM\VIEN HAN LAM DOT 11\SAU BAO VE\DOT 5/ DAO THANH DIEN

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *