Tội chống người thi hành công vụ theo pháp luật hình sự Việt Nam

Tội chống người thi hành công vụ theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng

Tội chống người thi hành công vụ theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng

  1. Tính cấp thiết của đề tài

Theo thống kê báo cáo về tình hình tội phạm từ 2009 đến nay, số vụ chống người thi hành công vụ trên cả nước trung bình khoảng 700 vụ mỗi năm với hậu quả làm chết và bị thương nhiều người. Riêng ở Đà Nẵng từ năm 2010 đến nay, tình hình tội chống người thi hành công vụ trên địa bàn có chiều hướng ngày càng gia tăng, xảy ra khắp các đơn vị hành chính trên toàn thành phố, số đối tượng có hành vi chống người thi hành công vụ ngày càng có tính chất manh động, quyết liệt với số lượng người tham gia ngày càng đông, không chỉ xâm hại đến sức khỏe và tính mạng của người thi hành công vụ mà còn làm ảnh hưởng, gây dư luận xấu đến hiệu lực quản lý của nhà nước, tính nghiêm minh của pháp luật.

Trước tình hình tội chống người thi hành công vụ ở Đà Nẵng ngày càng diễn biến phức tạp và gia tăng đòi hỏi việc nâng cao hiệu quả phòng ngừa, ngăn chặn và xử lý đối với tội chống người thi hành công vụ. Đây là nhiệm vụ quan trọng, cấp bách nhằm giữ nghiêm kỷ cương pháp luật, đảm bảo an ninh, trật tự là một nhiệm vụ đặt ra trong tình hình hiện nay. Tuy nhiên, cho đến nay vẫn chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu dưới góc độ luật hình sự về tội chống người thi hành công vụ trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.

Với những lý do trên tác giả chọn đề tài “Tội chống người thi hành công vụ theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng” làm đề tài luận văn thạc sỹ luật học của mình.

  1. Tình hình nghiên cứu đề tài
  2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu

Nghiên cứu đề tài nhằm mục đích đánh giá đúng thực tiễn Tội chống người thi hành công vụ tại địa bàn Đà Nẵng qua đó góp phần xây dựng nền tảng lý luận cho hoạt động phòng chống Tội chống người thi hành công vụ trên địa bàn thành phố Đà Nẵng, xây dựng các giải pháp nâng cao hiệu quả phòng, chống tội phạm này trong thời gian tới.

Để đạt được mục đích trên, luận văn đặt ra và giải quyết những vấn đề cơ bản sau:

+ Nghiên cứu khái quát lý luận về Tội chống người thi hành công vụ theo quy định của Bộ luật hình sự năm 1999.

+ Nghiên cứu làm rõ thực trạng định tội danh Tội chống người thi hành công trên địa bàn thành phố Đà Nẵng từ năm 2010 – 2014.

+ Nghiên cứu làm rõ thực trạng quyết định hình phạt Tội chống người thi hành công trên địa bàn thành phố Đà Nẵng từ năm 2010 – 2014.

  1. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu

– Đối tượng nghiên cứu: Tội chống người thi hành công vụ theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng.

– Phạm vi nghiên cứu: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về định tội danh, quyết định hình phạt đối với tội Chống người thi hành công vụ dưới góc độ Luật hình sự Việt Nam gắn liền với địa bàn thành phố Đà Nẵng.

  1. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu

Trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề tội phạm nói chung. Các văn kiện đại hội của Đảng và văn bản pháp luật của Nhà nước về quan điểm đấu tranh phòng, chống tội phạm trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.

Trong quá trình nghiên cứu, tác giả đã vận dụng một cách linh hoạt và đan xen các phương pháp nghiên cứu của Khoa học Luật Hình sự như: Phương pháp thống kê hình sự; phương pháp phân tích và so sánh, phương pháp phân tích, hệ thống, phương pháp chuyên gia.

  1. Ý nghĩa của luận văn

Trong phạm vi nghiên cứu của mình, luận văn là một công trình nghiên cứu vừa có ý nghĩa về mặt lý luận, vừa có ý nghĩa về mặt thực tiễn trong cuộc đấu tranh phòng chống tội Chống người thi hành công vụ.

7. Kết cấu của luận văn: Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được kết cấu gồm 3 chương:

Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật về Tội chống người thi hành công vụ theo pháp luật hình sự Việt Nam.

Chương 2: Định tội danh Tội chống người thi hành công vụ trên địa bàn thành phố Đà Nẵng từ năm 2010 – 2014.

Chương 3: Quyết định hình phạt đối với Tội chống người thi hành công vụ trên địa bàn thành phố Đà Nẵng từ năm 2010 – 2014.

Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT

VỀ TỘI CHỐNG NGƯỜI THI HÀNH CÔNG VỤ

THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM

1.1. Khái quát quá trình hình thành và phát triển của các quy định pháp luật hình sự về hành vi chống người thi hành công vụ

1.1.1. Giai đoạn từ năm 1945- 1985

Trong bất kỳ thời đại nào, hành vi chống người thi hành công vụ cũng sẽ diễn ra bởi sẽ có những người vì bảo vệ lợi ích riêng của mình mà sẽ đi ngược lại lợi ích của toàn xã hội. Trong giai đoạn này, không có một văn bản nào quy định về tội phạm riêng, cụ thể cho hành vi chống người thi hành công vụ mà đều nằm rải rác trong các văn bản quy định về một nhóm tội nào đó. Tuy nhiên không thể phủ nhận các văn bản pháp luật hình sự Việt Nam giai đoạn này đã có sự tiến bộ, phát triển trong việc bảo vệ người thi hành công vụ và hoạt động bình thường, ổn định của Nhà nước.

1.1.2. Giai đoạn từ Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1985 đến Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999

Trong giai đoạn từ khi BLHS năm 1985 có hiệu lực đến trước khi có BLHS năm 1999, dấu hiệu “chống người thi hành công vụ” đã được nhà làm luật thể hiện thông qua các chương, các điều luật trong phần các tội phạm của BLHS 1985, đồng thời được cụ thể hóa trong Nghị quyết số 04/HĐTP ngày 29/11/1986 của Hội đồng thẩm phán TANDTC hướng dẫn áp dụng một số quy định trong phần các tội phạm của BLHS năm 1985. Trong phần các tội phạm của BLHS năm 1985, Tội chống người thi hành công vụ được quy định tại Điều 205 tại Mục C Về các tội xâm phạm trật tự quản lý hành chính.

1.1.3. Giai đoạn từ BLHS 1999 có hiệu lực pháp luật đến nay

BLHS năm 1999 ra đời và sau lần sửa đổi bổ sung năm 2009 đã có một số điểm mới được sửa đổi bổ sung về các quy định Tội chống người thi hành công vụ tại Điều 257 BLHS 1999. Đối với các tội có dấu hiệu chống người thi hành công vụ, Bộ luật hình sự hiện hành không có sự hủy bỏ hay thay thế các điều luật trên so với BLHS 1985, nội dung chủ yếu sửa đổi đó là bổ sung một số dấu hiệu định khung ở một số điều luật, điều chỉnh một số khung hình phạt và quy định luôn hình hình phạt bổ sung ngay trong từng điều luật tương ứng và BLHS hiện hành quy định nhiều hơn về tội danh có dấu hiệu “chống người thi hành công vụ”.

1.2. Khái niệm và các dấu hiệu pháp lý của Tội chống người thi hành công vụ

1.2.1. Khái niệm công vụ, người thi hành công vụ, chống người thi hành công vụ và Tội chống người thi hành công vụ

Khái niệm “Công vụ” đã được hiểu và phân tích ở nhiều góc độ khác nhau:

“Công vụ” là khái niệm có nguồn gốc từ Hán – Việt. Theo nghĩa đen, “Công” là công quyền, nghĩa là quyền lực công – quyền lực của nhà nước; “vụ” là thực thi nhiệm vụ được giao. Như vậy, “công vụ” được hiểu theo nghĩa chung nhất là hoạt động để thực hiện những nhiệm vụ của nhà nước.

Công vụ là hoạt động của viên chức, công chức nhà nước để thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của nhà nước hoặc hoạt động của các công dân được cơ quan nhà nước, các tổ chức chính trị, xã hội huy động để đảm nhiệm hoặc hoạt động thực hiện một phần công việc nhà nước nhằm thực hiện những nhiệm vụ, chức năng của nhà nước trong thời hạn nhất định.

– Người thi hành công vụ:

Từ khái niệm “công vụ” như trên, có thể hiểu “người thi hành công vụ” là người thi hành việc công. Khái niệm “người thi hành công vụ” từ trước tới nay đã tồn tại rất nhiều ý kiến và quan điểm khác nhau.

Tác giả cho rằng, các quan điểm về khái niệm “người thi hành công vụ” ở trên đã phân tích dựa trên những khía cạnh khác nhau, đều có những lý luận hợp lý. Xin đưa ra khái niệm “người thi hành công vụ” như sau: “Người thi hành công vụ là những người do bầu cử, được bổ nhiệm, do hợp đồng hoặc một hình thức khác có hưởng lương hoặc không hưởng lương được Nhà nước giao trách nhiệm thực hiện một công vụ nhất định để thực hiện các chức năng của của Nhà nước và có quyền hạn nhất định trong khi thực hiện nhiệm vụ được giao”.

– Chống người thi hành công vụ:

Theo từ điền Bách Khoa CAND, khái niệm Chống người thi hành công vụ được hiểu là:“Hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc thủ đoạn khác cản trở người thi hành công vụ thực hiện công vụ của họ hoặc ép buộc họ thực hiện hành vi trái pháp luật. Người thi hành công vụ là nhân viên cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội hay bất kỳ một công dân nào đang thực hiện nhiệm vụ mà pháp luật giao cho họ hay được cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội giao cho họ vì lợi ích chung, việc thi hành công vụ không phụ thuộc vào thời gian và không gian. Người thi hành công vụ phải là người đang thực thi nhiệm vụ của mình”.

1.2.2. Các dấu hiệu pháp lý của Tội chống người thi hành công vụ

– Khách thể của Tội chống người thi hành công vụ

Tội phạm chống người thi hành công vụ xâm phạm đến hoạt động quản lý xã hội nói chung, trật tự quản lý hành chính nói riêng của các cơ quan Nhà nước, tổ chức chính trị – xã hội thông qua hoạt động của bộ phận nhân lực của cơ quan, tổ chức đó. Tội phạm tác động làm cản trở, sai lệch hoạt động bình thường, đúng đắn của các cơ quan Nhà nước, tổ chức chính trị – xã hội; làm giảm hiệu lực quản lý Nhà nước của các cơ quan, tổ chức đó mà trực tiếp là làm cho người thi hành công vụ gặp khó khăn, không hoàn thành được công vụ hoặc phải thực hiện hành vi trái pháp luật.

– Mặt khách quan của Tội chống người thi hành công vụ

Mặt khách quan của Tội chống người thi hành công vụ thể hiện ở hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc các thủ đoạn khác cưỡng ép người thi hành công vụ thực hiện những hành vi trái pháp luật hoặc không cho họ thực thi chức trách, nhiệm vụ của mình.

Hậu quả xảy ra không phải là dấu hiệu bắt buộc của CTTP. Tội phạm có cấu thành hình thức, được coi là hoàn thành kể từ khi người phạm tội có hành vi kháng cự hay cưỡng ép người thi hành công vụ thực hiện các hành vi trái pháp luật

Chủ thể của Tội chống người thi hành công vụ

Chủ thể của tội này có thể là bất kỳ người nào từ đủ 16 tuổi trở lên có đủ năng lực TNHS.

– Mặt chủ quan của Tội chống người thi hành công vụ:

Tội phạm được thực hiện dưới hình thức lỗi cố ý trực tiếp. Người phạm tội có hiểu biết về lĩnh vực công vụ liên quan đến họ, biết người mà họ chống là người thi hành công vụ và nhận thức được hành vi của mình là cản trở người thi hành công vụ hoặc cưỡng ép họ thực hiện hành vi trái pháp luật liên quan tới công vụ của họ

Động cơ phạm tội của người phạm tội không phải là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm nhưng việc xác định động cơ phạm tội có ý nghĩa rất lớn đến quyết định hình phạt. Mục đích phạm tội của người phạm tội là để cản trở người thi hành công vụ thực hiện công vụ của họ hoặc ép buộc họ thực hiện hành vi trái pháp luật.

Tội chống người thi hành công vụ theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng
Tội chống người thi hành công vụ theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng

– Một số tình tiết định khung tăng nặng của Tội chống người thi hành công vụ :

+ Phạm tội có tổ chức

+ Phạm tội nhiều lần

+ Xúi giục, lôi kéo, kích động người khác phạm tội: thể hiện vai trò chủ mưu cầm đầu trong các vụ án đồng phạm chưa đến mức độ phạm tội có tổ chức.

+ Gây hậu quả nghiêm trọng

+ Tái phạm nguy hiểm

1.3. Dấu hiệu “chống người thi hành công vụ” trong một số điều luật của Bộ luật hình sự năm 1999

1.3.1. Dấu hiệu “chống người thi hành công vụ” là dấu hiệu định tội trong Bộ luật hình sự 1999

Trong Bộ luật hình sự năm 1999, có 03 tội danh quy định hành vi chống người thi hành công vụ là dấu hiệu định tội như sau:

– Tội chống người thi hành công vụ (Điều 257

– Tội khủng bố nhằm chống chính quyền nhân dân (Điều 84 BLHS)

– Tội phá rối an ninh (Điều 89 BLHS):

1.3.2. Dấu hiệu “chống người thi hành công vụ” là dấu hiệu định khung trong Bộ Luật hình sự 1999

Trong Bộ luật hình sự năm 1999, có 10 tội danh quy định hành vi chống người thi hành công vụ là dấu hiệu định khung như sau:

– Tội giết người (Điều 93- điểm d khoản 1)

– Tội đe dọa giết người (Điều 103- điểm b khoản 2)

– Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác (Điều 104)

– Tội lây truyền HIV cho người khác (Điều 117)

– Tội cố ý truyền HIV cho người khác (Điều 118 điểm d khoản 2)

– Tội làm nhục người khác (Điều 121- điểm d khoản 2)

– Tội vu khống (Điều 122- điểm d khoản 2)

– Tội bắt, giữ, giam người trái pháp luật (Điều 123- điểm c khoản 2)

– Tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản (Điều 143- điểm đ khoản 2)

– Tội gây rối trật tự công cộng (Điều 245- điểm đ khoản 2)

Chương 2
ĐỊNH TỘI DANH TỘI CHỐNG NGƯỜI THI HÀNH CÔNG VỤ TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG TỪ NĂM 2010 – 2014

2.1 Khái quát về định tội danh

2.1.1. Định nghĩa định tội danh

Định tội danh là hoạt động áp dụng pháp luật sự hình bao gồm việc tiến hành đồng thời ba quá trình sau đây:

Thứ nhất, xác định các tình tiết của vụ án :

Trong quá trình thực hiện các hoạt động tố tụng, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án cần phải xác định được tất cả các tình tiết cần thiết của vụ án phù hợp với hiện thực khách quan. Để định tội danh đúng cần phải xác định, tìm kiếm chân lý khách quan, chân lý vật chất về vụ án – tức là xác định đầy đủ và chính xác các tình tiết cần thiết của hành vi phạm tội. Các tình tiết này liên quan đến khách thể và mặt khách quan của tội phạm.

Thứ hai, nhận thức đúng nội dung của các quy định trong Bộ luật Hình sự :

Nhận thức đúng nội dung của BLHS quy định về từng loại tội và từng tội phạm cụ thể có ý nghĩa rất lớn đối với việc định tội danh. BLHS nước ta thể hiện về mặt Nhà nước ý chí của nhân dân ta đối với vấn đề đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm. Khi xây dựng BLHS, nhà làm luật đã đánh giá một cách toàn diện tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của các hành vi tương ứng, cân nhắc hiệu quả có thể đạt được trong việc đấu tranh với các hành vi đó bằng các biện pháp pháp lý hình sự, quy định chế tài cần thiết đối với từng tội phạm. Việc tuân thủ nghiêm chỉnh các quy định của BLHS trong việc định tội là điều kiện cần thiết và quan trọng của việc thực hiện chính sách hình sự của Nhà nước nhằm khắc phục tình hình tội phạm ở nước ta.

Thứ ba, xác định mối quan hệ giữa giữa các dấu hiệu thực tế và các dấu hiệu được quy định trong luật

Việc định tội danh không phải là một hoạt động đơn giản chỉ cần biết tuân thủ các đòi hỏi của luật mà đó là một nghiệp vụ pháp lý phức tạp, một dạng hoạt động nhận thức của người tiến hành định tội danh và hoạt động đó phải tuân thủ các giai đoạn của nó. Trong hoạt động thực tế, cán bộ điều tra, truy tố và xét xử tiến hành hai mặt của quá trình định tội danh.

Một mặt, thu thập, kiểm tra, đánh giá các chứng cứ xác định các tình tiết thực tế của vụ án, mặt khác, tiến hành tìm hiểu và phân tích các QPPL hình sự để nhận thức đúng đắn nội dung của nó. Bằng cách đó tạo ra các tiền đề cho việc thực hiện trực tiếp quá trình định tội danh. Quá trình đó được tiến hành bằng cách đối chiếu, so sánh các tình tiết thực tế của vụ án đã được xác định với các dấu hiệu được chỉ trong QPPL hình sự quy định về CTTP.

Như vậy, định tội danh là một hoạt động nhận thức, hoạt động áp dụng pháp luật hình sự nhằm đi tới chân lí khách quan trên cơ sở xác định đúng đắn, đầy đủ các tình tiết cụ thể của hành vi phạm tội được thực hiện, nhận thức đúng nội dung quy phạm pháp luật hình sự quy định cấu thành tội phạm tương ứng và mối liên hệ tương đồng giữa các dấu hiệu của cấu thành tội phạm với các tình tiết cụ thể của hành vi phạm tội bằng các phương pháp và thông qua các giai đoạn nhất định.

2.1.2. Ý nghĩa xã hội và pháp luật của định tội danh

Định tội danh đúng có ý nghĩa quan trọng không những về mặt khoa học mà cả về mặt chính trị – xã hội, đạo đức rất lớn. Cụ thể hóa các quy phạm pháp luật hình sự trừu tượng vào đời sống thực tế, việc định tội danh đúng sẽ là tiền đề cho việc phân hóa trách nhiệm hình sự và cá thể hóa hình phạt một cách công minh, có căn cứ và đúng pháp luật, đồng thời để áp dụng chính xác các quy phạm pháp luật và các chế định cơ bản được ghi nhận trong BLHS 1999.

Định tội danh đúng góp phần hữu hiệu cho việc bảo vệ các quyền và tự do của công dân trong lĩnh vực tư pháp hình sự. Ngược lại, định tội danh sai sẽ dẫn đến một loạt hậu quả tiêu cực như: không đảm bảo tính công minh, có căn cứ và đúng pháp luật của hình phạt do Tòa án quyết định, truy cứu TNHS người vô tội, bỏ lọt kẻ phạm tội, thậm chí xâm phạm thô bạo danh dự và nhân phẩm, các quyền và tự do của công dân.

2.2. Thực tiễn định tội danh Tội chống người thi hành công vụ tại thành phố Đà Nẵng

Khái quát tình hình tội phạm Tội chống người thi hành công vụ từ năm 2010 – 2014 trên địa bàn thành phố Đà Nẵng

Theo thống kê của VKSND thành phố Đà Nẵng, trong 5 năm qua trên địa bàn Tp. Đà Nẵng đã xảy ra 3324 vụ phạm pháp hình sự, trung bình mỗi năm xảy ra 665 vụ. Trong đó, các tội xâm phạm trật tự quản lý hành chính 41 vụ, chiếm tỷ lệ 1,23% . Đặc biệt đáng chú ý là đã xảy ra 29 vụ Chống người thi hành công vụ, chiếm tỷ lệ 71% trong các tội xâm phạm trật tự quản lý hành chính. Tình hình tội chống người thi hành công vụ diễn biến khá phức tạp, số vụ án cũng như số bị can phạm tội liên quan đến nhóm tội xâm phạm quản lý hành chính chiếm tỷ lệ nhỏ nhất trong các nhóm tội phạm tại thành phố Đà Nẵng nhưng có chiều hướng tăng giảm thất thường, không ổn định. Mặc dù có năm giảm nhưng những năm gần đây, tội chống người thi hành công vụ trên địa bàn thành phố Đà Nẵng có xu hướng tăng cao.

Số vụ án và số bị can phạm Tội chống người thi hành công vụ chiếm tỷ lệ lớn nhất trong nhóm tội phạm xâm phạm trật tự quản lý hành chính tại thành phố Đà Nẵng. Điều đó chứng tỏ loại tội phạm này luôn duy trì ở mức cao. Khi so sánh với tổng số vụ án và tổng số bị can đã bị khởi tố từ 2010- 2014, ta thấy rằng số liệu trung bình như sau:

– Tội chống người thi hành công vụ: 67% vụ án và 54,6 % bị can

– Tội làm giả con dấu tài liệu của cơ quan, tổ chức: 29,4% vụ án và 43% bị can

– Tội tổ chức cưỡng ép người khác trốn đi nước ngoài: 1,8 % vụ án và 1,6% bị can

– Tội lợi dụng quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân: 1,8 % vụ án và 0,8 % bị can.

Theo số liệu của TAND thành phố Đà Nẵng, từ năm 2010 – 2014, số vụ án và số người phạm tội chống người thi hành công vụ bị đưa ra xét xử luôn diễn biến phức tạp. Mặc dù có năm giảm nhưng những năm gần đây tội chống người thi hành công vụ trên địa bàn thành phố Đà Nẵng có xu hướng tăng cao.

2.2.1. Thực tiễn định tội danh Tội chống người thi hành công vụ theo cấu thành cơ bản tội chống người thi hành công vụ tại Tp. Đà Nẵng

– Thực tiễn định tội danh theo khách thể của tội phạm:

Đa số các vụ án chống người thi hành công vụ tại Đà Nẵng liên quan đến việc đảm bảo an ninh trật tự công cộng, trật tự an toàn giao thông, trong việc giải quyết tranh chấp đất đai tại các khu vực đô thị khi thực hiện chủ trương thu hồi đất để chuyển đổi mục đích sử dụng.

Đối tượng tác động của tội phạm chống người thi hành công vụ tại thành phố Đà Nẵng chủ yếu là lực lượng cảnh sát nhân dân (chiếm trên 80 % tổng số vụ chống người thi hành công vụ) như cảnh sát 113, lực lượng cảnh sát giao thông, lực lượng thi hành án và hỗ trợ tư pháp, công an các phường…

– Thực tiễn định tội danh theo mặt khách quan:

Qua khảo sát thực tế đối với 25 vụ án chống người thi hành công vụ tại thành phố Đà Nẵng từ năm 2010 đến năm 2014 cho thấy hành vi của các đối tượng rất đa dạng. Tuy nhiên đa số các đối tượng có hành vi dùng sức mạnh vật chất (kể cả công cụ phương tiện) tấn công trực tiếp người thi hành công vụ và dùng những lời nói, cử chỉ thể hiện sẽ dùng vũ lực đối với người thi hành công vụ nhằm uy hiếp tinh thần khiến người thi hành công vụ sợ hãi, không dám thực hiện công vụ nữa.

Như vậy qua nghiên cứu 25 bản án mà Hội đồng xét xử TAND các cấp tại thành phố Đà Nẵng từ năm 2010 đến 2014, tôi thấy rằng các cơ quan tiến hành tố tụng trong quá trình định tội danh đối với bị cáo đã đánh giá một cách toàn diện, khách quan và đầy đủ các chứng cứ, các tình tiết phạm tội cũng như các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ của vụ án hình sự để xem xét, định tội danh một cách đầy đủ, chính xác, các tình tiết trong hành vi phạm tội đã thỏa mãn các yếu tố CTTP đã được quy định trong Điều 257 BLHS.

Tuy nhiên trên thực tế cũng có một số trường hợp không thống nhất việc định tội danh như có trường hợp Viện kiểm sát truy tố tội Cố ý gây thương tích với tình tiết “để cản trở người thi hành công vụ” nhưng quan điểm của Tòa án lại định Tội chống người thi hành công vụ; cũng có trường hợp Viện kiểm sát truy tố Tội chống người thi hành công vụ nhưng tòa án lại xét xử Tội gây rối trật tự công cộng với tình tiết hành hung người bảo vệ trật tự công cộng.

– Định tội danh theo chủ thể của tội phạm:

Qua thống kê về chủ thể thực hiện tội phạm của Tội chống người thi hành công vụ của Công an thành phố Đà Nẵng từ năm 2010 đến nay, hầu hết chủ thể thực hiện tội phạm từ đủ 16 tuổi trở lên có đủ năng lực TNHS.

– Định tội danh theo mặt chủ quan của tội phạm:

Tội chống người thi hành công vụ đều thực hiện bẳng hình thức lỗi cố ý trực tiếp. Thực tiễn định tội danh đối với các đối tượng chống người thi hành công vụ tại thành phố Đà Nẵng trong những năm vừa qua đều xác định các đối tượng có lỗi cố ý trực tiếp là đúng pháp luật, chưa phát hiện các trường hợp nào xác định sai lỗi dẫn đến việc định tội danh sai. Tuy nhiên việc xác định mục đích phạm tội của Tội chống người thi hành công vụ còn một số bất cập dẫn đến việc định tội danh chưa chính xác.

2.2.2. Thực tiễn định tội danh Tội chống người thi hành công vụ theo cấu thành tăng nặng Tội chống người thi hành công vụ tại thành phố Đà Nẵng

Qua khảo sát thực tế hoạt động định tội danh đối với tội Chống người thi hành công vụ thuộc loại CTTP này, tác giả thấy rằng ở khoản 2 chiếm tỷ lệ nhỏ là 10%. Đối với các đối tượng phạm tội theo khoản 2 Điều 257 BLHS thì đã cấu thành đầy đủ các dấu hiệu của CTTP được quy định tại khoản 1 Điều 257 BLHS. Tuy nhiên, căn cứ vào quy định tại các tình tiết cấu thành tăng nặng được quy định cụ thể trong điều luật thì cùng với từng hành vi phạm tội cụ thể, từng mức độ phạm tội và từng khách thể xâm phạm và hậu quả thiệt hại cụ thể mà định tội danh tội Chống người thi hành công vụ theo từng khung hình phạt tương ứng được quy định trong Điều 257 BLHS. Điển hình là vụ án chống người thi hành công vụ tại giáo xứ Cồn Dầu, quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng.

2.3. Khó khăn, vướng mắc trong định tội danh tội chống người thi hành công vụ xuất phát từ hạn chế, bất cập của pháp luật hình sự và kiến nghị khắc phục

2.3.1. Khó khăn, vướng mắc trong định tội danh tội chống người thi hành công vụ xuất phát từ hạn chế, bất cập của pháp luật hình sự

Thứ nhất, qua theo dõi, tìm hiểu một số vụ án chống người thi hành công vụ xảy ra thời gian qua trên địa bàn thành phố Đà Nẵng cũng như tại một số địa phương trong cả nước, việc phân biệt các yếu tố thuộc mặt khách quan của tội chống người thi hành công vụ với các yếu tố thuộc mặt khách quan của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe cho người khác theo quy định của BLHS có nhiều vướng mắc.

Thứ hai, hành vi “đe dọa dùng vũ lực cản trở người thi hành công vụ thực hiện công vụ hoặc ép buộc họ thực hiện hành vi trái pháp luật”, hành vi đe dọa này có thể là đe dọa giết người, đe dọa gây thương tích, gây tổn hại sức khỏe của người thi hành công vụ. Hay đối với tình tiết “dùng thủ đoạn khác nhằm cản trở người thi hành công vụ hoặc ép buộc họ thực hiện hành vi trái pháp luật”, thủ đoạn khác có thể là vu khống, làm nhục người thi hành công vụ, hoặc bắt, hoặc giữ, hoặc giam người thi hành công vụ trái pháp luật. Vậy ngoài hành vi thỏa mãn cấu thành Tội chống người thi hành công vụ còn đồng thời thỏa mãn dấu hiệu khách quan của các tội như Tội làm nhục người khác (Điều 121), Tội vu khống (Điều 122), Tội đe dọa giết người (Điều 103). Vậy chế tài nào sẽ được áp dụng ở đây là điều phải làm rõ.

Thứ ba, trong hoạt động đảm bảo an ninh trật tự, an toàn giao thông, thời gian qua đã xảy ra rất nhiều vụ chống người thi hành công vụ mà đối tượng đã dùng ôtô, xe máy lao thẳng vào cán bộ, chiến sỹ cảnh sát giao thông. Đây là hành vi rất nguy hiểm đối với tính mạng, sức khỏe của người thi hành công vụ nhưng trên thực tế, chỉ khi có hậu quả chết người hoặc gây thương tích cho người thi hành công vụ thì cơ quan tiến hành tố tụng mới xem xét truy cứu TNHS đối tượng về tội giết người hoặc cố ý gây thương tích với tình tiết định khung tăng nặng là “giết người đang thi hành công vụ”, “để cản trở công vụ”… Do đó, nếu chỉ truy cứu TNHS về tội chống người thi hành công vụ có khung hình phạt thấp hơn nhiều so với tội giết người và tội cố ý gây thương tích thì không đủ sức răn đe, ngăn chặn hành vi rất nguy hiểm này.

– Đối với những quy định trong các điều luật khác của BLHS có hành vi chống người thi hành công vụ thì có một số vướng mắc cần phải làm rõ như sau:

Thứ nhất, việc hoàn thiện các quy định trong các Điều 93, 103, 117, 118, 121, 122, 123 và 143 của BLHS nên theo hướng quy định của các điều luật phải thể hiện rõ và đầy đủ động cơ của người phạm tội để làm phương hướng giải quyết trong thực tế xét xử.

Thứ hai, trong BLHS hiện hành, trừ quy định điểm k khoản 1 Điều 104 “để cản trở người thi hành công vụ”, còn các quy định ở điểm d khoản 1 Điều 93; điểm b khoản 2 Điều 103; điểm d khoản 2 Điều 117; điểm d khoản 2 Điều 118; điểm d khoản 2 Điều 121; điểm đ khoản 2 Điều 122; điểm c khoản 2 Điều 123; điểm đ khoản 2 Điều 143 đều hoặc không phản ánh được động cơ của người phạm tội, hoặc đã phản ánh nhưng không đầy đủ.

2.3.2. Một số kiến nghị khắc phục

– Cần phải phân biệt rõ hơn trong luật Tội chống người thi hành công vụ và các tội khác có dấu hiệu chống người thi hành công vụ.

– Quy định tại Điều 257 cần được hoàn thiện theo hướng quy định của tội này phải bổ sung nội dung loại trừ những hành vi chống người thi hành công vụ đã được quy định là tội phạm trong các điều luật khác của BLHS. Ngoài ra với quy định “dùng thủ đoạn khác” tại Điều 257 hiện nay vẫn chưa thống nhất hiểu thế nào cho đúng. Chưa có văn bản hướng dẫn sẽ dẫn đến khó khăn cho việc giải thích và vận dụng điều luật này.

– Sửa quy định “đối với người thi hành công vụ” tại các Điều 93, 103, 117, 118, 121, 122 và 143 của BLHS thành “để cản trở người thi hành công vụ” bởi quy định này không những phản ánh rõ động cơ của người phạm tội và thực tế hành vi xảy ra đối với người thi hành công vụ mà còn phản ánh được hành vi phạm tội có thể xảy ra khi nạn nhân chuẩn bị thi hành công vụ hoặc đang thi hành công vụ (thời điểm người phạm tội thực hiện tội phạm).

– Bổ sung quy định “vì lý do công vụ của nạn nhân” vào điểm d khoản 2 Điều 121; điểm đ khoản 2 Điều 122; điểm c khoản 2 Điều 123 vì sẽ phản ánh được đầy đủ hơn động cơ của người phạm tội này có thể là để cản trở người thi hành công vụ thực hiện công vụ, có thể để trả thù họ hoặc đe dọa người khác.

Tội chống người thi hành công vụ theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng
Tội chống người thi hành công vụ theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng

Chương 3
QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT ĐỐI VỚI

TỘI CHỐNG NGƯỜI THI HÀNH CÔNG VỤ TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG TỪ NĂM 2010 – 2014

3.1. Khái quát lý luận chung về quyết định hình phạt

3.1.1. Khái niệm và ý nghĩa của quyết định hình phạt

Quyết định hình phạt là một công việc quan trọng trong hoạt động xét xử vụ án hình sự của Tòa án. QĐHP được hiểu là hoạt động thực tiễn của Tòa án (Hội đồng xét xử) được xác định sau khi đã xác định được tội danh để định ra biện pháp xử lý tương ứng với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi bị cáo đã thực hiện. Nội dung của hoạt động QĐHP có thể là miễn TNHS hoặc có thể là miễn hình phạt (trường hợp này, hoạt động QĐHP chấm dứt ở đây) hoặc nếu Tòa án quyết định áp dụng hình phạt thì hoạt động QĐHP bao gồm việc xác định khung hình phạt và việc xác định hình phạt cụ thể trong phạm vi luật cho phép đối với bị cáo.

3.1.2. Các nguyên tắc quyết định hình phạt

Có 4 nguyên tắc QĐHP, đó là:

– Nguyên tắc pháp chế XHCN

– Nguyên tắc nhân đạo XHCN

– Nguyên tắc cá thể hóa hình phạt

– Nguyên tắc công bằng

3.1.3. Các căn cứ quyết định hình phạt

Căn cứ thứ nhất: Tòa án căn cứ vào quy định của Bộ luật Hình sự

Khi QĐHP, trước hết Tòa án phải dựa vào các quy định của BLHS. Nếu không coi các quy định của BLHS là một căn cứ QĐHP thì có thể dẫn đến tình trạng Tòa án quyết định hình phạt tùy tiện, đồng thời bị cáo có thể phải chịu một hình phạt không tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội. Việc quy định căn cứ QĐHP trong BLHS sẽ tạo cơ sở pháp lý giúp cho việc QĐHP được chính xác và thống nhất trong phạm vi cả nước và tránh trường hợp lạm dụng quy định của luật trong xét xử của một số Toà án.

Căn cứ thứ hai: Tòa án căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội

Qua thực tiễn hoạt động QĐHP ở từng trường hợp cụ thể, từng hành vi phạm tội, ta thấy khi tính chất, mức độ nguy hiểm, nhân thân người phạm tội cũng như các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS khác nhau thì mức độ của việc QĐHP cũng khác nhau. Do vậy, khi QĐHP trong từng trường hợp, Tòa án phải cân nhắc “tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội”. Việc quy định tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội là căn cứ QĐHP sẽ giúp cho Tòa án có thể tuyên hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện trên thực tế.

Căn cứ thứ ba: Nhân thân người phạm tội

Việc quy định nhân thân người thân phạm tôi là một căn cứ của quyết định hình phạt là cần thiết, bởi vì qui định căn cứ này không chỉ nhằm hướng dẫn Tòa án đánh giá đúng mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội mà còn giúp Tòa án QĐHP phù hợp với khả năng cải tạo, giáo dục của bị cáo cũng như hoàn cảnh đặc biệt của bị cáo. Nhân thân người phạm tội có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định TNHS của người phạm tội. Các cơ quan điều tra, truy tố, xét xử muốn giải quyết đúng đắn vấn đề TNHS của người phạm tội phải nghiên cứu đầy đủ về nhân thân người phạm tội.

Căn cứ thứ tư: Các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự

Căn cứ này là căn cứ có tính hướng dẫn bắt buộc cho việc xem xét các căn cứ thứ hai và thứ ba. Căn cứ “các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự” chỉ là căn cứ có tính hướng dẫn cho việc đánh giá đúng hai căn cứ nói trên bởi vì nhiều tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng TNHS phản ánh mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, tình tiết thuộc về nhân thân người phạm tội. Nếu Tòa án áp dụng không đúng các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến việc đánh giá căn cứ thứ hai và thứ ba, từ đó dẫn đến việc QĐHP không đúng đối với người phạm tội. Đồng thời, trong mối liên hệ với căn cứ “các quy định của Bộ luật hình sự”, việc cân nhắc, xem xét các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng TNHS vẫn phải trên cơ sở các quy định của BLHS và không thể tách rời BLHS.

3.2. Thực tiễn quyết định hình phạt Tội chống người thi hành công vụ tại thành phố Đà Nẵng

Để góp phần đấu tranh phòng, chống Tội chống người thi hành công vụ trong giai đoạn 2010- 2014, nhìn chung TAND hai cấp thành phố Đà Nẵng đã thực hiện tốt hoạt động xét xử nói chung cũng như hoạt động QĐHP nói riêng.

Thực tiễn QĐHP Tội chống người thi hành công vụ tại thành phố Đà Nẵng (thực chất là sự phán quyết của Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân của các TAND quận và thành phố Đà Nẵng) đối với các bị cáo phạm Tội chống người thi hành công vụ đã xảy ra trên địa bàn thành phố Đà Nẵng trong 05 năm, kể từ năm 2010 đến năm 2014 đa số phù hợp với đạo đức xã hội, đúng quy định pháp luật.

Từ năm 2010 đến năm 2014, TAND hai cấp của thành phố Đà Nẵng đã xét xử tổng số 28 vụ với số lượng người phạm tội là 48. Tuy so với các tội khác, số lượng vụ việc và số người phạm tội còn ít nhưng tính chất vụ việc, số lượng người phạm tội ngày càng tăng và là tội phạm có tỷ lệ cao nhất trong nhóm tội xâm phạm trật tự quản lý hành chính.

Qua xem xét số liệu của TAND hai cấp Đà Nẵng cho thấy đã tuyên 48 bị cáo bị hình phạt tù có thời hạn trong đó có 15 trường hợp được xem xét cho hưởng án treo, không áp dụng hình thức phạt cải tạo không giam giữ, phạt tiền hay các hình phạt khác.

Đối với hình phạt tù cho hưởng án treo theo thống kê, qua kiểm tra thì nhìn chung các trường hợp cho hưởng án treo phần lớn đảm bảo đúng các quy định về nguyên tắc xử lý đối với tội phạm hình sự. Các bị cáo cho hưởng án treo đều có thân nhân tốt, lần đầu phạm tội, có nơi cư trú rõ ràng và có nhiều tình tiết giảm nhẹ

Bên cạnh những ưu điểm trên, thực tiễn quyết định hình phạt đối với Tội chống người thi hành công vụ của Tòa án nhân dân hai cấp thành phố Đà Nẵng vẫn còn khuyết điểm nhất định. Những sai sót xảy ra khi Tòa án so sánh, đánh giá không đúng về những tình tiết vụ án với những căn cứ QĐHP , những sai sót này mặc dù không gây hậu quả nặng nề như việc kết án oan đối với người vô tội song điều đó không có nghĩa là nó không nghiêm trọng mà nhất là những trường hợp hình phạt được áp dụng khi đã thi hành thì không thể thay đổi được.

Qua nghiên cứu hầu hết các bản án mà Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng đưa ra xét xử đối với tội chống người thi hành công vụ trong thời gian qua, chúng tôi cho rằng không bản án nào Tòa án QĐHP nặng hơn so với loại mức hình phạt mà đáng lẽ ra người phạm tội phải chịu theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, có một số vụ án, Tòa án đã quyết định hình phạt nhẹ, không tương xứng với tính chất và hành vi phạm tội. Nguyên nhân của việc xác định mức hình phạt nhẹ hơn có thể do chưa xác định được đầy đủ tình tiết của vụ án, chưa phản ánh hết hành vi phạm tội của bị cáo hoặc có thể do yêu cầu về chính trị, đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta trong từng thời điểm cụ thể, đặc biệt trên những lĩnh vực nhạy cảm như vấn đề đất đai liên quan tới tôn giáo điển hình là vụ án của giáo dân giáo xứ Cồn Dầu, quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng.

3.3. Những khó khăn trong quyết định hình phạt xuất phát từ hạn chế bất cập của pháp luật hình sự và kiến nghị hoàn thiện

Tác giả thấy một số khó khăn trong quyết định hình phạt xuất phát từ hạn chế, bất cập của pháp luật hình sự như sau:

– Các chế tài của Tội chống người thi hành công vụ cũng như những tội khác có dấu hiệu chống người thi hành công vụ chưa thật sự nghiêm khắc, chưa tương xứng với tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi này.

– Hiện nay hành vi chống người thi hành công vụ được cả pháp luật hình sự và pháp luật hành chính quy định.; tuy nhiên đến nay chưa có văn bản pháp luật nào hướng dẫn cụ thể để phân biệt giữa tội chống người thi hành công vụ và hành vi lăng mạ, xúc phạm người thi hành công vụ.

Một số kiến nghị sửa đổi BLHS để đạt được hiệu quả của QĐHP nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng chống tội phạm này:

– Sửa đổi mức hình phạt của Tội chống người thi hành công vụ theo hướng tăng nặng. Cụ thể, bỏ hình phạt “cải tạo không giam giữ đến ba năm”; thay thế “phạt tù từ sáu tháng đến ba năm” thành “phạt tù từ một năm đến ba năm”. Khoản 2 Điều 257 nên có khung hình phạt tù từ hai đến mười năm tù thay cho từ hai đến 7 năm tù như hiện nay.

– Phân biệt xử lý hình sự và xử lý hành chính đối với hành vi chống người thi hành công vụ.

KẾT LUẬN

Trong những năm gần đây, tình hình chống người thi hành công vụ tại Đà Nẵng cũng như nhiều địa phương trên cả nước ngày càng gia tăng, diễn biến phức tạp với tính chất và hậu quả nghiêm trọng. Thực tế cũng cho thấy, xuất phát từ việc chống người thi hành công vụ, trong nhiều vụ, các đối tượng chủ mưu, cầm đầu, kích động người dân tập trung, vây giữ người thi hành công vụ trong nhiều ngày, đưa ra yêu sách trái pháp luật, nếu không đáp ứng được thì đập phá tài sản, phương tiện của cơ quan nhà nước, gây rối trật tự công cộng, làm ảnh hưởng xấu và tạo “điểm nóng” về an ninh chính trị. Đáng lo ngại hơn, hành vi chống người thi hành công vụ đang có chiều hướng lan rộng ra nhiều hoạt động quản lý hành chính Nhà nước, nhiều địa bàn nhất là trong lĩnh vực quản lý nhà nước về an ninh trật tự, tại khu vực đô thị và các khu vực thực hiện chủ trương thu hồi đất để chuyển đổi mục đích sử dụng…Chủ thể thực hiện hảnh vi chống người thi hành công vụ ngày một trẻ hóa về độ tuổi và đa dạng về thành phần, đồng thời manh động dẫn đến việc thực hiện hành vi chống người thi hành công vụ đã thể hiện lối sống lệch chuẩn của một bộ phận không nhỏ của người dân trong xã hội.

Do vậy việc nghiên cứu những vấn đề lý luận về tội chống người thi hành công vụ, những vấn đề thực tiễn về định tội danh và quyết định hình phạt đối với Tội chống người thi hành công vụ từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng là nhằm góp phần vào công cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm chống người thi hành công vụ và hướng tới giảm thiểu loại tội phạm này trong thực tế. Tuy nhiên việc áp dụng các quy định về pháp luật hình sự về Tội chống người thi hành công vụ trong thực tế rất nhiều bất cập, thể hiện ở các quy định của BLHS còn chưa chặt chẽ, còn nhiều kẽ hở gây nên khó khăn cho các cơ quan tiến hành tố tụng trong việc áp dụng pháp luật thống nhất.

Để đấu tranh phòng, chống tội phạm Chống người thi hành công vụ có hiệu quả, đòi hỏi phải có sự phối hợp thống nhất giữa toàn bộ các cấp, các ngành, các lĩnh vực nhằm giảm thiểu tối đa hành vi này trong xã hội. Trước hết là việc hoàn thiện các quy định của BLHS về tội chống người thi hành công vụ cũng như các tội phạm khác có dấu hiệu chống người thi hành công vụ. Cùng với đó là sự nỗ lực và thực hiện một cách thống nhất giữa các cơ quan tiến hành tố tụng thì trong thời gian tới, tình hình tội phạm chống người thi hành công vụ sẽ hạn chế qua đó cũng có tác dụng động viên những người đang thực hiện công vụ tiếp tục hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình mà Đảng và Nhà nước đã giao.

Luận văn này là công trình nghiên cứu khoa học đầu tiên của tác giả, mặc dù bản thân đã cố gắng hết sức nhưng do kiến thức còn hạn chế nên trong quá trình nghiên cứu không tránh khỏi những thiếu sót. Với tinh thần học hỏi cầu tiến, tác giả rất mong nhận được sự góp ý của các Thầy, Cô và các bạn. Qua đây, tác giả muốn bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc nhất đến người hướng dẫn khoa học PGS. TS Phùng Thế Vắc đã giúp đỡ để tác giả có thể hoàn thành tốt khoá luận này.

LIỆN HỆ:

SĐT+ZALO: 0935568275

E:\DỮ LIỆU COP CỦA CHỊ YẾN\LUAN VAN VIEN HAN LAM\LUAT HINH SU\NGUYEN VU HOANG

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *