Tội tàng trữ vận chuyển mua bán trái phép chất ma túy theo pháp luật

Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng

Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng

  1. Tính cấp thiết của đề tài

Thực hiện chủ trương, đường lối đổi mới toàn diện của Đảng, đất nước ta đã đạt được những thành tựu quan trọng trên tất cả các lĩnh vực: kinh tế, chính trị, văn hóa, khoa học công nghệ, ngoại giao,… Thế và lực của Việt Nam ngày càng được củng cố vững mạnh, vị thế được khẳng định trên trường khu vực và quốc tế. Tuy nhiên, từ nội tại xã hội mang tính chất của nền kinh tế thị trường, bên cạnh những dấu hiệu tích cực mà nó mang lại cũng đã nảy sinh nhiều vấn đề tiêu cực trong đời sống xã hội, trong đó có tình hình tội phạm mà biểu hiện là số người phạm tội ngày càng tăng cả về số lượng cũng như tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội, gây ra những hậu quả nghiêm trọng, ảnh hưởng đến tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội.

Cùng với sự phát triển đi lên của đất nước và xu thế hội nhập quốc tế hiện nay, thành phố Đà Nẵng đã vươn lên trở thành một trong năm thành phố trực thuộc Trung ương của cả nước, và là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa, khoa học, giáo dục của khu vực miền Trung – Tây Nguyên, nhưng cũng không nằm ngoài sự tác động của tình hình tội phạm, đặc biệt trong những năm gần đây trên địa bàn thành phố Đà Nẵng, tội phạm tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy có xu hướng tăng nhanh và diễn biến hết sức phức tạp, ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống của người dân địa phương.

Tội phạm tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy là loại tội phạm đặc biệt nghiêm trọng có mức cao nhất của khung hình phạt là tử hình. Vì vậy, những đối tượng hoạt động tội phạm này luôn ý thức được tính nghiêm minh của pháp luật trong xử lý hành vi phạm tội, nên quá trình hoạt động chúng luôn tìm mọi cách đối phó với các lực lượng chức năng. Trước tình hình đó, công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma tuý ngày càng đối mặt với những thủ đoạn hết sức tinh vi, xảo quyệt, những hình thức biến tướng đa dạng của hành vi, những vấn đề mới phát sinh trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử dẫn đến những khó khăn cho các cơ quan tiến hành tố tụng trong việc xử lý loại tội phạm này. Thực tiễn cho thấy, có những hành vi không thể xử lý được bằng pháp luật hình sự vì thiếu văn bản hướng dẫn thi hành, hoặc có những hành vi có thể xử lý được bằng pháp luật hình sự nhưng phải xử lý về một loại tội phạm khác, làm giảm tính nghiêm khắc của pháp luật. Thêm vào đó, về mặt lý luận, xung quanh vấn đề xác định có phạm tội hay không; phạm tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma tuý hay phạm tội khác vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau, thậm chí trái ngược nhau giữa các nhà áp dụng pháp luật, đặt ra nhiều vướng mắc đòi hỏi khoa học pháp lý phải nghiên cứu, giải quyết kịp thời.

Chính vì vậy, việc xác định đúng tội danh, quyết định hình phạt hợp lý là vấn đề hết sức quan trọng trong quá trình áp dụng pháp luật hình sự nói chung và đối với tội phạm tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma tuý nói riêng. Bởi suy cho cùng, tất cả các hoạt động điều tra, truy tố, xét xử đều nhằm đạt mục đích cuối cùng là xử lý người phạm tội đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, tránh oan sai và bỏ lọt tội phạm.

Từ lý do trên, tác giả chọn đề tài: “Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng” để nghiên cứu làm đề tài luận văn của mình.

  1. Tình hình nghiên cứu
  2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích: Trên cơ sở phân tích khái niệm và các dấu hiệu pháp lý của tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy; thực tiễn định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội này trên địa bàn thành phố Đà Nẵng từ năm 2010 đến năm 2014; những hạn chế, bất cập trong định tội danh và quyết định hình phạt xuất phát từ những hạn chế, bất cập của pháp luật hình sự và những yếu tố khác, luận văn đề xuất kiến nghị hoàn thiện pháp luật hình sự nhằm định tội danh và quyết định hình phạt chính xác đối với tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy trên địa bàn thành phố Đà Nẵng trong thời gian tới.

3.2. Nhiệm vụ: Để đạt được mục đích trên, tác giả đặt ra các nhiệm vụ sau đây:

+ Khái quát lịch sử hình thành và phát triển của pháp luật hình sự Việt Nam về tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy; phân tích các dấu hiệu pháp lý hình sự của tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy theo điều 194 BLHS năm 1999, phân biệt tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy với một số tội phạm về ma túy khác.

+ Trình bày những vấn đề lý luận về định tội danh và đánh giá hoạt động định tội danh đối với tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy từ thực tiễn của thành phố Đà Nẵng từ năm 2010 đến năm 2014.

+ Trình bày những vấn đề lý luận về quyết định hình phạt và đánh giá hoạt động quyết định hình phạt đối với tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy từ thực tiễn của thành phố Đà Nẵng từ năm 2010 đến 2014.

  1. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu: Là những vấn đề lý luận và thực tiễn hoạt động định tội danh, quyết định hình phạt của các cơ quan tiến hành tố tụng đối với tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.

4.2. Phạm vi nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy dưới góc độ luật hình sự và tố tụng hình sự trong phạm vi trên địa bàn thành phố Đà Nẵng và trong khoảng thời gian từ năm 2010 đến năm 2014.

  1. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu

Luận văn nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà nước ta, cũng như của các cấp chính quyền thành phố Đà Nẵng về hoạt động phòng, chống tội phạm nói chung và tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy nói riêng.

Để đạt được mục đích nghiên cứu, luận văn đã có sự kết hợp nhiều phương pháp khác nhau, như phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê, quy nạp, diễn dịch,…

Trong sự kết hợp phương pháp luận và các phương pháp nghiên cứu cụ thể trên đây, luận văn hoàn thành nhiệm vụ nghiên cứu của mình để đạt được mục đích đã đặt ra.

  1. Ý nghĩa của luận văn

Luận văn thạc sĩ là công trình khoa học đầu tiên nghiên cứu một cách toàn diện có hệ thống dưới góc độ pháp luật hình sự về tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy trên địa bàn thành phố Đà Nẵng. Công trình này vừa có ý nghĩa về mặt lý luận, vừa có ý nghĩa vè mặt thực tiễn trong điều tra, truy tố, xét xử tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy trên địa bàn thành phố Đà Nẵng. Về mặt lý luận, luận văn có thể được dùng làm tài liệu tham khảo trong quá trình học tập và nghiên cứu của học viên. Về mặt thực tiễn, kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần nâng cao hiệu quả, chất lượng những vụ án phạm tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy nói chung và trên địa bàn thành phố Đà Nẵng nói riêng.

  1. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được cấu trúc thành ba chương.

Chương 1: Cơ sở lý luận và pháp lý của tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy

Chương 2: Định tội danh tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy trên địa bàn thành phố Đà Nẵng từ năm 2010 đến năm 2014

Chương 3: Quyết định hình phạt đối với tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy trên địa bàn thành phố Đà Nẵng từ năm 2010 đến năm 2014

Chương 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ CỦA TỘI TÀNG TRỮ, VẬN CHUYỂN, MUA BÁN TRÁI PHÉP HOẶC CHIẾM ĐOẠT CHẤT MA TÚY

1.1. Khái niệm và các dấu hiệu pháp lý của tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy

Từ khái niệm về tội phạm (khoản 1 Điều 8 BLHS năm 1999) và kết hợp với quy định tại Điều 194 BLHS năm 1999, có thể đưa ra khái niệm cụ thể như sau: “Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy là những hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong BLHS, do người có năng lực TNHS thực hiện một cách cố ý trực tiếp xâm phạm chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy”.

Dấu hiệu pháp lý của tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy được thể hiện qua 4 yếu tố cấu thành tội phạm: khách thể của tội phạm; mặt khách quan của tội phạm; chủ thể của tội phạm; mặt chủ quan của tội phạm.

* Khách thể của tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy

Các tội phạm trên xâm phạm chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm giữ chất ma tuý.

Đối tượng tác động của tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma tuý là các chất ma túy.

* Mặt khách quan của tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy

Mặt khách quan của tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma tuý thể hiện ở các dạng hành vi sau đây:

– Tàng trữ trái phép chất ma túy: là cất giữ, cất giấu bất hợp pháp chất ma túy ở bất cứ nơi nào, như trong nhà, ngoài vườn, chôn dưới đất, để trong vali, cho vào thùng xăng xe, cất dấu trong quần áo, tư trang mặc trên người hoặc theo người… mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển hay sản xuất trái phép chất ma túy. Thời gian tàng trữ dài hay ngắn không ảnh hưởng đến việc xác định tội này.

– Vận chuyển trái phép chất ma túy: là hành vi chuyển dịch bất hợp pháp chất ma túy từ nơi này đến nơi khác dưới bất kỳ hình thức nào, có thể bằng các phương tiện khác nhau như ô tô, tàu bay, tàu thủy…; trên các tuyến đường khác nhau như đường bộ, đường sắt, đường hàng không, đường thủy, đường bưu điện…; có thể để trong người như cho vào túi áo, túi quần, nuốt vào trong bụng, để trong hành lý như vali, túi xách,… mà không nhằm mục đích mua bán, tàng trữ hay sản xuất trái phép chất ma túy khác.

– Mua bán trái phép chất ma túy: là hành vi trao đổi trái phép chất ma túy dưới bất kỳ hình thức nào vì mục đích vụ lợi. Hình thức mua bán rất đa dạng, ví dụ: mua bán để lấy tiền hoặc trao đổi lấy hàng hóa khác, cho vay, khất nợ, đặt cọc, cầm cố, thanh toán tiền dịch vụ bằng chất ma túy một cách trái phép.

– Chiếm đoạt chất ma túy: là một trong các hành vi trộm cắp, lừa đảo, tham ô, lạm dụng tín nhiệm, cưỡng đoạt, cướp, cướp giật, công nhiên chiếm đoạt chất ma túy. Trường hợp người có hành vi chiếm đoạt chất ma túy nhằm mục đích bán lại chất ma túy đó cho người khác, thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự với tội danh đầy đủ đối với hành vi đã thực hiện theo Điều 194 BLHS và chỉ phải chịu một hình phạt.

* Chủ thể của tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy

Chủ thể của các tội phạm này là bất kỳ người nào có năng lực trách hình sự và đạt độ tuổi do luật định.

* Mặt chủ quan của tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy

Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy được thực hiện do lỗi cố ý trực tiếp. Động cơ phạm tội có thể do vụ lợi hoặc động cơ các nhân khác tùy thuộc vào từng hành vi phạm tội cụ thể.

1.2. Phân biệt tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy với một số tội phạm khác trong Bộ Luật hình sự

1.2.1. Phân biệt tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy với tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán hoặc chiếm đoạt tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma túy (Điều 195 BLHS)

1.2.2. Phân biệt tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy với tội vi phạm quy định về quản lý, sử dụng thuốc gây nghiện hoặc các chất ma túy khác (Điều 201 BLHS)

1.2.3. Phân biệt tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy với tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy (Điều 197 BLHS)

1.3. Khái quát lịch sử xây dựng và hoàn thiện quy định của pháp luật hình sự về tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy

1.3.1. Giai đoạn từ Cách mạng 8/1945 đến trước khi ban hành BLHS năm 1999

1.3.2. Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1999 đến nay

Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng
Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng

Chương 2

ĐỊNH TỘI DANH TỘI TÀNG TRỮ, VẬN CHUYỂN, MUA BÁN TRÁI PHÉP HOẶC CHIẾM ĐOẠT CHẤT MA TÚY TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG TỪ NĂM 2010 ĐẾN NĂM 2014

2.1. Khái quát lý luận về định tội danh

2.1.1. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa định tội danh

* Khái niệm định tội danh

Định tội danh là một dạng hoạt động nhận thức, hoạt động áp dụng pháp luật hình sự nhằm đi tới chân lý khách quan trên cơ sở xác định đúng đắn, đầy đủ các tình tiết cụ thể của hành vi phạm tội được thực hiện, nhận thức đúng nội dung quy phạm pháp luật hình sự quy định cấu thành tội phạm tương ứng và mối liên hệ tương đồng giữa các dấu hiệu của cấu thành tội phạm với các tình tiết cụ thể của hành vi phạm tội bằng các phương pháp và thông qua các giai đoạn nhất định.

* Đặc điểm định tội danh

Thứ nhất, định tội danh là một quá trình nhận thức có tính logic giữa thực tiễn và lý luận. Thể hiện ở hai khía cạnh, đó là xác định hành vi nguy hiểm cho xã hội đã thực hiện có phù hợp với cấu thành tội phạm cụ thể trong BLHS và đưa ra sự đánh giá nhất định về mặt pháp lý hình sự đối với hành vi đã thực hiện trong thực tế;

Thứ hai, quá trình hoạt động định tội danh phải tuân thủ nghiêm chỉnh các quy phạm pháp luật của luật nội dung là BLHS cũng như các quy phạm pháp luật của luật hình thức là BLTTHS;

Thứ ba, định tội danh là một dạng của hoạt động áp dụng pháp luật của các cơ quan tiến hành tố tụng (Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án) để cụ thể hóa các quy phạm pháp luật hình sự vào trong thực tế đời sống xã hội. Trên cơ sở xác định đúng đắn và đầy đủ các tình tiết của hành vi phạm tội đã thực hiện và sự nhận thức đúng đắn và đầy đủ nội dung của các QPPLHS;

Thứ tư, định tội danh với tính chất là một dạng của hoạt động thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự.

* Ý nghĩa định tội danh

Định tội danh đúng có ý nghĩa chính trị – xã hội, đạo đức và pháp luật rất lớn, là tiền đề pháp lý cho việc phân hoá trách nhiệm hình sự và cá thể hoá hình phạt một cách công minh có căn cứ pháp luật. Định tội danh đúng sẽ hỗ trợ cho việc thực hiện một loạt các nguyên tắc tiến bộ được thừa nhận trong Nhà nước pháp quyền như: Nguyên tắc pháp chế, trách nhiệm do lỗi, trách nhiệm cá nhân, bình đẳng trước pháp luật hình sự, nguyên tắc công minh nhân đạo và nguyên tắc không tránh khỏi trách nhiệm. Định tội danh đúng là một trong những cơ sở để áp dụng chính xác các QPPL tố tụng hình sự về tạm giam, về thẩm quyền điều tra, xét xử qua đó góp phần hữu hiệu cho việc bảo vệ các quyền và tự do dân chủ của công dân trong lĩnh vực tư pháp hình sự.

Định tội danh sai không chỉ làm cho việc QĐPH không đúng, không công bằng mà còn áp dụng không có căn cứ, không công bằng hoặc không áp dụng một loạt các hạn chế pháp lý khác như ADHP bổ sung; áp dụng hoặc không áp dụng đại xá, miễn TNHS, giảm thời hạn chấp hành hình phạt tù, tính toán không đúng thời hiệu, án tích,…nếu sai lầm trong việc định tội danh, dẫn đến QĐHP không phù hợp với hành vi đã thực hiện, làm cho bị cáo phải chịu những hậu quả pháp lý không đáng phải gánh chịu, vi phạm thô bạo các lợi ích hợp pháp của người bị kết án. Ngược lại, khi hành vi của người có lỗi CTTP nghiêm trọng hơn nhưng lại được định tội danh theo tội nhẹ hơn cũng không kém phần có hại và không công bằng. Trong trường hợp này, người phạm tội chịu hình phạt nhẹ hơn hành vi họ đã vi phạm. Điều đó làm giảm hiệu quả của công tác đấu tranh phòng chống tội phạm, làm giảm uy tín của cơ quan Tư pháp.

2.1.2. Cơ sở pháp lý của định tội danh

Có rất nhiều văn bản được sử dụng trong hoạt động định tội danh như: BLHS; BLTTHS; Quy phạm pháp luật hình sự; Luật phòng chống ma túy; Nghị quyết của Quốc hội; Nghị quyết của UBTVQH; Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán TANDTC; Thông tư liên ngành của TANDTC, VKSNDTC, BCA, BTP. Tuy nhiên, trong số các văn bản trên thì BLHS có vai trò rất quan trọng đối với định tội danh, là cơ sở pháp lý trực tiếp cho toàn bộ quá trình định tội danh. Các văn bản pháp luật còn lại chỉ với tính chất là cơ sở pháp lý bổ trợ cho quá trình này.

2.2. Thực tiễn định tội danh tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy trên địa bàn thành phố Đà Nẵng

2.2.1. Định tội danh tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy theo cấu thành tội phạm cơ bản

* Định tội danh tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy theo khách thể của tội phạm

* Định tội danh tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy theo mặt khách quan của tội phạm

* Định tội danh tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy theo chủ thể của tội phạm

* Định tội danh tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy theo mặt chủ quan của tội phạm

2.2.2. Định tội danh tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy trên địa bàn thành phố Đà Nẵng theo cấu thành tội phạm tăng nặng

* Định tội danh đối với tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy theo khoản 2 Điều 194 BLHS

* Định tội danh tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy theo khoản 3, khoản 4 Điều 194 BLHS

2.2.3. Định tội danh trong trường hợp đồng phạm tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy trên địa bàn thành phố Đà Nẵng

* Người tổ chức

* Người thực hành

* Người giúp sức

* Người xúi giục

2.2.4. Đánh giá thành tựu, hạn chế, bất cập trong định tội danh tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy, nguyên nhân của chúng và hướng khắc phục

* Đánh giá thành tựu, hạn chế, bất cập trong định tội danh tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy

Thực tiễn XXST vụ án hình sự trong thời gian qua (từ năm 2010 đến năm 2014) trên địa bàn thành phố Đà Nẵng cho thấy, tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy là một loại tội phạm khá phổ biến, tăng lên nhanh chóng qua các năm, có tỷ lệ số vụ án, số bị cáo tăng cao hơn rất nhiều so với tổng số vụ án, số bị cáo bị đưa ra xét xử và chiếm tỷ lệ gần như tuyệt đối trong nhóm các tội phạm về ma túy. Việc định tội danh của các cơ quan tiến hành tố tụng đối với loại tội phạm này là khá chính xác. Phần lớn tỷ lệ các vụ án tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy trên địa bàn thành phố Đà Nẵng có kháng cáo chỉ nhằm mục đích là xin giảm nhẹ mức hình phạt. Hoạt động định tội danh được các cơ quan tiến hành tố tụng thành phố Đà Nẵng thực hiện một cách nghiêm túc, đúng theo quy định của pháp luật.

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được trong những năm qua, hoạt động định tội danh đối với tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy trên địa bàn thành phố Đà Nẵng còn bộc lộ một số hạn chế, bất cập nhất định, như một số vụ án xác định không đúng tội danh đã khởi tố sai tội danh, một số vụ án chứng cứ yếu nhưng vẫn ra quyết định khởi tố sau đó phải đình chỉ vụ án.

* Nguyên nhân của những hạn chế, bất cập của định tội danh tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy

Thứ nhất, quy định điều luật chưa thật sự chặt chẽ, hợp lý

Tại khoản 1 Điều 194 BLHS là cấu thành tội phạm cơ bản nhưng trong điều luật không mô tả hành vi khách quan như thế nào. Trong khi đó điều 194 BLHS lại quy định bốn tội danh độc lập, đó là tội tàng trữ trái phép chất ma túy, tội vận chuyển trái phép chất ma túy, tội mua bán trái phép chất ma túy, tội chiếm đoạt chất ma túy. Vì thế dễ dẫn đến sai lầm khi định tội danh. Việc mua bán trái phép chất ma túy bao gồm nhiều hành vi khác nhau, như tàng trữ trái phép chất ma túy, vận chuyển trái phép chất ma túy, mua bán trái phép chất ma túy hoặc chiếm đoạt chất ma túy. Nhưng xét về tính chất, hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy để mua bán trái phép chất ma túy hoàn toàn khác hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy thông thường; hành vi vận chuyển trái phép chất ma túy để mua bán trái phép chất ma túy cũng khác hành vi vận chuyển trái phép chất ma túy thông thường. Tàng trữ, vận chuyển trái phép chất ma túy thông thường thì không có mục đích là bán trái phép chất ma túy. Quy định các tội phạm này trong một điều luật là không hợp lý vì như thế sẽ không thấy hết sự khác nhau về tính chất của các hành vi đó, không đảm bảo nguyên tắc cá thể hóa TNHS, gây ra sự nhầm lẫn trong thực tiễn.

Thứ hai, về một số tình tiết là yếu tố định khung hình phạt.

Việc áp dụng tình tiết định khung nhiều lần quy định tại điểm b khoản 2 điều 194 BLHS còn khó khăn. Đối với các trường hợp mua, bán nhiều lần thường là các đối tượng nghiện ma tuý vừa sử dụng, vừa bán lẻ, khi bị bắt và chứng minh có việc mua bán 2 lần mỗi lần chỉ 0,1gam Hêrôin thì bị truy tố, xét xử ở khoản 2 Điều 194 BLHS. Như vậy so với định lượng được quy định tại các khoản khác của Điều 194 BLHS thì hành vi mua bán nhiều lần như trên là quá nghiêm khắc, không phù hợp.

Thứ ba, những vướng mắc từ hướng dẫn tại Thông tư liên tịch số 17/2007/TTLT ngày 24/12/2007 của BCA, VKSNDTC, TANDTC, BTP.

+ Về việc giám định hàm lượng chất ma túy:

Theo quy định: “trong mọi trường hợp, khi thu giữ được các chất nghi là chất ma túy thì đều phải trưng cầu giám định để xác định loại, hàm lượng, trọng lượng chất ma túy” nhưng phần lớn các vụ án không được giám định hàm lượng vì chỉ có Viện khoa học hình sự, Bộ Công an mới làm được điều này, còn ở địa phương Phòng Kỹ thuật hình sự chưa có đủ máy móc, trang thiết bị kỹ thuật để tiến hành giám định được hàm lượng chất ma túy. Hơn nữa, việc phải chờ kết quả giám định của Viện khoa học hình sự, Bộ Công an dẫn đến kéo dài thời gian giải quyết tin báo tội phạm.

+ Việc tính trọng lượng chất ma túy:

Việc tính trọng lượng ma túy trong một số vụ án cũng chưa thống nhất, có vụ án căn cứ vào hàm lượng (tinh chất) ma túy nhưng có vụ án lại căn cứ trọng lượng thực tế (gồm tinh chất và tạp chất) thu giữ được để xem xét trách nhiệm hình sự, dẫn đến việc đánh giá tính chất, mức độ phạm tội trong các vụ án cũng khác nhau.

BLHS quy định trọng lượng chất ma túy được xác định bằng đơn vị gram, kilogram. Trong thực tế có vụ án không thu giữ được tang vật mà chỉ dựa trên lời khai của các đối tượng xác định trọng lượng chất ma túy bằng đơn vị cây, chỉ, phân, tép… mà chưa xác định và quy đổi thành đơn vị tính theo quy định của BLHS nên không đủ căn cứ để định tội, do đó có một số trường hợp để lọt tội phạm.

Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng
Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng

+ Về phạm tội nhiều lần

Trường hợp một người thực hiện nhiều hành vi phạm tội mà các hành vi đó có liên quan chặt chẽ với nhau (hành vi phạm tội này là điều kiện để thực hiện hoặc là hệ quả tất yếu của hành vi phạm tội kia) thì có vụ án áp dụng phần I của Thông tư liên tịch số 17/2007/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC-BTP ngày 24/12/2007 hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XVIII “Các tội phạm về ma túy” thì xử lý bị cáo với tội danh đầy đủ các hành vi mà bị cáo đã thực hiện, có vụ án áp dụng phần II của Thông tư thì chỉ xử lý bị cáo về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Do nhận thức về Thông tư liên tịch số 17 giữa Tòa án và các cơ quan tiến hành tố tụng có khác nhau như trên nên việc giải quyết các vụ án về ma túy ở các Tòa án có khác nhau, còn lúng túng trong việc điều tra, truy tố, xét xử.

Thứ tư, trình độ chuyên môn của một số Điều tra viên, Kiểm sát viên và Thẩm phán còn hạn chế, chưa nắm vững BLHS, BLTTHS và một số văn bản hướng dẫn khác dẫn đến sai sót trong việc định tội danh.

Thứ năm, diễn biến tình hình tội phạm ngày càng hết sức phức tạp, đa dạng, các đối tượng phạm tội ma túy ngày càng hoạt động tinh vi, xảo quyệt và manh động. Trong quá trình tiến hành hoạt động phạm tội, các đối tượng ngày càng có xu hướng hình thành đường dây, tổ chức cấu kết rất chặt chẽ.

Thứ sáu, đội ngũ cán bộ giải quyết các vụ án còn chịu nhiều áp lực và còn thiếu so với yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm. Công tác đào tạo, bồi dưỡng và chính sách xã hội ưu đãi đối với cán bộ giải quyết án chưa thực sự được quan tâm. Điều kiện cơ sở vật chất, phương tiện kỹ thuật còn hạn chế chưa đáp ứng được công tác phục vụ đấu tranh phòng, chống tội phạm.

* Hướng khắc phục:

Từ những phân tích trên đây, tác giả kiến nghị hướng khắc phục những hạn chế, bất cập trong định tội danh đối với tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy như sau:

– Tách tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy (Điều 194 BLHS) thành Tội mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy (Điều 194) và Tội tàng trữ, vận chuyển trái phép chất ma túy (Điều 194a). Bỏ hình phạt tử hình đối với tội Tàng trữ, vận chuyển trái phép chất ma túy là để xác định rõ tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội làm cơ sở quy định mức hình phạt cho phù hợp, góp phần thực hiện chủ trương của Đảng về hạn chế áp dụng hình phạt tử hình. Trên thực tế có những vụ tàng trữ, vận chuyển trái phép chất ma túy có số lượng đặc biệt lớn nếu chứng minh có sự đồng phạm với hành vi mua bán trái phép chất ma túy thì sẽ bị xử lý về tội mua bán trái phép chất ma túy với hình phạt cao nhất là tử hình, nếu tàng trữ, vận chuyển thuê để kiếm tiền thì hành phạt tù chung thân cũng đủ để răn đe, phòng ngừa chung.

Bỏ từ “Mua” trong tội “Mua bán trái phép chất ma túy” quy định tại Điều 194 BLHS. Thực tế chưa có trường hợp nào bị xử lý về hành vi “mua ma túy”, bởi người mua ma túy thì một là bị truy cứu về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, hai là bị truy cứu về tội Vận chuyển trái phép chất ma túy, ba là tội Tổ chức sử dụng ma túy… nên tác giả kiến nghị bỏ từ “Mua” trong tội “Mua bán trái phép chất ma túy” và sửa lại thành tội “Bán trái phép chất ma túy” là phù hợp. Cụ thể: Điều 194 tội bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy tại khoản 1 là: “Người nào bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma tuý thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm”.

– Đề nghị nghiên cứu thành lập một cơ quan chuyên trách về giám định, kết luận các loại chất ma túy để kịp thời khắc phục trong công tác đấu tranh với loại tội phạm này, đặc biệt trong điều kiện ngày càng xuất hiện nhiều chất ma túy mới.

– Đề nghị cơ quan giám định tư pháp cần đưa ra kết luận chính xác về loại ma túy được giám định xếp hàng thứ bao nhiêu trong danh mục các chất ma túy; thường xuyên nghiên cứu, rà soát bổ sung thêm một số chất ma túy mới cho phù hợp với tình hình đấu tranh phòng, chống tội phạm.

– Tăng cường cơ sở vật chất, trang bị đầy đủ thiết bị kỹ thuật cho Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Toà án; có chế độ ưu đãi đối với những cán bộ Điều tra viên, Kiểm sát viên và Thẩm phán trực tiếp làm công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm này.

– Đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, đạo đức nghề nghiệp đối với cán bộ Điều tra viên, Kiểm sát viên và Thẩm phán.

Chương 3

QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT ĐỐI VỚI TỘI TÀNG TRỮ, VẬN CHUYỂN, MUA BÁN TRÁI PHÉP HOẶC CHIẾM ĐOẠT CHẤT MA TÚY TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG TỪ NĂM 2010 ĐẾN NĂM 2014

3.1. Khái quát lý luận quyết định hình phạt

3.1.1. Khái niệm và ý nghĩa của quyết định hình phạt

* Khái niệm quyết định hình phạt

Quyết định hình phạt là một giai đoạn, một nội dung của áp dụng pháp luật hình sự thể hiện ở việc Tòa án lựa chọn loại và mức hình phạt cụ thể được quy định trong điều luật (khoản của điều luật) theo một thủ tục nhất định để áp dụng đối với người phạm tội thể hiện trong bản án buộc tội.

* Ý nghĩa của quyết định hình phạt

QĐHP có ý nghĩa đặc biệt quan trọng về chính trị và pháp luật. Chỉ khi hình phạt được quyết định một cách chính xác và công bằng thì mục đích của hình phạt mới đạt được, tức là có tác dụng giáo dục và cải tạo người phạm tội, ngăn ngừa phạm tội mới và giáo dục người khác. Hình phạt được quyết định quá nhẹ so với tính chất và mức độ nguy hiểm của tội phạm đã được thực hiện, sẽ sinh ra ở người phạm tội và ở những người khác thái độ xem thường pháp luật. Hình phạt được quyết định quá nặng sẽ gây ra ở người bị án sự không tin tưởng vào tính công bằng của pháp luật và sự công minh của các cơ quan THTT. Cả hai tình trạng đó đều dẫn đến hậu quả là làm giảm ý nghĩa phòng ngừa riêng và phòng ngừa chung của hình phạt. QĐHP đúng đắn sẽ góp phần tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, trật tự và kỷ cương xã hội.

3.1.2. Các nguyên tắc quyết định hình phạt

* Nguyên tắc pháp chế XHCN

* Nguyên tắc nhân đạo XHCN

* Nguyên tắc cá thể hóa hình phạt

* Nguyên tắc công bằng

3.1.3. Các căn cứ quyết định hình phạt

* Căn cứ vào các quy định của Bộ luật hình sự (tức là căn cứ vào các quy định của Phần chung và Phần các tội phạm).

* Cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm đã thực hiện

* Cân nhắc đặc điểm nhân thân người phạm tội.

* Cân nhắc các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng TNHS

3.2. Thực tiễn quyết định hình phạt tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy trên địa bàn thành phố Đà Nẵng

3.2.1. Quyết định hình phạt đối với tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy theo các quy định của Bộ luật hình sự

3.2.2. Quyết định hình phạt đối với tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy theo tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội

3.2.3. Quyết định hình phạt đối với tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy theo đặc điểm nhân thân người phạm tội

3.2.4. Quyết định hình phạt đối với tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy theo các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự

3.2.5. Đánh giá những thành tựu, hạn chế, bất cập trong quyết định hình phạt tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy, nguyên nhân của chúng và hướng khắc phục

* Đánh giá những thành tựu, hạn chế, bất cập trong quyết định hình phạt đối với tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy:

Nhìn chung, thực tiễn QĐHP đối với tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy trên địa bàn thành phố Đà Nẵng (từ năm 2010 đến 2014) thấy rằng, khi quyết định hình phạt TAND các cấp thành phố Đà Nẵng đều căn cứ vào các quy định của BLHS, cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi, nhân thân người phạm tội và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS cho nên phần lớn những hình phạt áp dụng đối với các bị cáo là phù hợp, đúng pháp luật, đảm bảo tính nghiêm minh, công bằng, được nhân dân đồng tình, đáp ứng yêu cầu về đấu tranh phòng, chống tội phạm ma túy, phục vụ tốt nhiệm vụ chính trị địa phương. Tuy nhiên, hoạt động QĐHP vẫn còn sai sót: thứ nhất, sai sót trong việc không áp dụng hoặc áp dụng không đúng các quy định của BLHS; thứ hai, sai sót trong việc đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội và nhân thân người phạm tội nên đã quyết định hình phạt quá mức nghiêm khắc hoặc quá nhẹ đối với người phạm tội; thứ ba, sai sót chủ yếu và có tính phổ biến trong việc quyết định hình phạt là không áp dụng, áp dụng không đúng hoặc áp dụng các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng TNHS một cách tùy tiện, thiếu căn cứ.

* Nguyên nhân của những hạn chế, bất cập trong quyết định hình phạt tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy và hướng khắc phục

Thứ nhất, nguyên nhân khách quan: do các quy định về tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy chưa phù hợp với thực tiễn, chưa được giải thích kịp thời những trường hợp vướng mắc. Điều luật quy định về mức tối thiểu và mức tối đa trong khung hình phạt là quá rộng nên trong hoạt động QĐHP của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân còn mang tính tùy nghi, có khi là hình phạt quá nhẹ và cũng có khi là hình phạt quá nặng

Thứ hai, nguyên nhân chủ quan: do đội ngũ cán bộ ngành Toà án bên cạnh việc giải quyết các loại án hình sự, còn phải giải quyết các loại án khác, như kinh tế, dân sự, lao động, hôn nhân gia đình, … cho nên áp lực về việc giải quyết án đúng theo quy định pháp luật; một số Thẩm phán chưa nêu cao tinh thần trách nhiệm, ý thức pháp luật trong công tác, không thực hiện đúng các yêu cầu của pháp luật khi xét xử vụ án hình sự, việc nghiên cứu chưa sâu, chưa kỹ hồ sơ vụ án; sự hiểu biết về pháp luật của Hội thẩm nhân dân hiện nay còn rất hạn chế.

Ngoài ra, tình hình tội phạm nói chung và tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy nói riêng trên địa bàn thành phố Đà Nẵng ngày càng diễn biến phức tạp, đòi hỏi của xã hội đối với hoạt động ngành TAND ngày càng cao trong công tác chuyên môn.

* Hướng khắc phục:

Từ những phân tích trên đây, tác giả kiến nghị hướng khắc phục những hạn chế, bất cập trong quyết định hình phạt đối với tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy như sau:

Thứ nhất, hoàn thiện các quy định về hình phạt trong pháp luật hình sự.

Trong mỗi điểm của khoản 1 Điều 46 BLHS và khoản 1 Điều 48 BLHS không chỉ quy định một tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS mà có thể quy định 2 hoặc 3 tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS, như tại điểm g khoản 1 Điều 48 BLHS quy định ba tình tiết tăng nặng: “phạm tội nhiều lần”, “trường hợp tái phạm”, “trường hợp tái phạm nguy hiểm”; tại điểm p khoản 1 Điều 46 BLHS quy định hai tình tiết giảm nhẹ: “người phạm tội thành khẩn khai báo ” và “người phạm tội ăn năn hối cải”.

Cần có những quy định bổ sung vào căn cứ QĐHP một số vấn đề mà BLHS hiện hành chưa quy định, như thêm một số tình tiết giảm nhẹ TNHS tại Điều 46 BLHS: “người phạm tội đầu thú”; “người phạm tội là con thương binh, liệt sĩ, gia đình có công với đất nước” để thể hiện tinh thần “đền ơn đáp nghĩa”.

Cần rút ngắn khoảng cách giữa mức tối thiểu và tối đa của từng khung hình phạt trong điều luật nhằm thu hẹp khoảng cách của các khung hình phạt cho hợp lý, tạo điều kiện nâng cao hiệu quả hình phạt, tránh được sự tùy tiện khi QĐHP, đồng thời để đảm bảo tạo khả năng cho cơ quan tiến hành tố tụng và người áp dụng pháp luật cân nhắc được những tình tiết, hoàn cảnh xảy ra trong cuộc sống.

Thứ hai, nâng cao trình độ năng lực, chất lượng đội ngũ Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân. Đổi mới quy định tiêu chuẩn tuyển chọn Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân. Đặc biệt, Hội thẩm nhân dân phải được quy định rõ ràng về tiêu chuẩn đạo đức, trình độ pháp luật và trình độ nghiệp vụ.

Thứ ba, cải cách chế độ tiền lương, chính sách đãi ngộ đối với cán bộ, công chức ngành Toà án để Thẩm phán, cán bộ công chức yên tâm công tác; tăng cường công tác quản lý cán bộ, thường xuyên tiến hành thanh kiểm tra, kiểm sát hoạt động xét xử của Thẩm phán; mở rộng cơ chế giám sát của nhân dân đối với hoạt động xét xử của Toà án; tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, phương tiện làm việc của TAND các cấp, đặc biệt là TAND cấp huyện.

Thứ tư, thường xuyên thực hiện công tác quy hoạch, tuyển dụng, luân chuyển cán bộ, đảm bảo đủ biên chế đáp ứng yêu cầu công tác trước mắt cũng như lâu dài. Thường xuyên kiểm tra, sát hạch định kỳ đội ngũ Thẩm phán về trình độ chuyên môn, có kế hoạch cử Thẩm phán đi học, nghiên cứu chuyên sâu nhằm xây dựng nguồn Thẩm phán chất lượng cao.

Thứ năm, tăng cường công tác tổng kết rút kinh nghiệm để kịp thời đưa ra những hướng xét xử phù hợp.

KẾT LUẬN

Thông qua việc nghiên cứu dưới góc độ khoa học pháp lý hình sự về tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy theo pháp luật hình sự Việt Nam và thực tiễn hoạt động xét xử tội phạm này trên địa bàn thành phố Đà Nẵng từ năm 2010 đến 2014, luận văn đã làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận của tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy và thực trạng hoạt động định tội danh, quyết định hình phạt trên địa bàn thành phố Đà Nẵng. Kết quả đạt được cho phép chúng tôi đi đến một số kết luận sau đây:

Từ việc nghiên cứu khái niệm chung về tội phạm trong BLHS, tác giả đã đưa ra được khái niệm tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy “là những hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong BLHS, do người có năng lực TNHS thực hiện một cách cố ý trực tiếp xâm phạm chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy”. Phân tích về dấu hiệu pháp lý của tộiphạm này, theo đó khách thể của tội phạm là quan hệ xã hội thể hiện chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy. Đối tượng tác động của tội phạm này là chất ma túy. Về mặt khách quan tội phạm được thể hiện ở hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, vận chuyển trái phép chất ma túy, mua bán trái phép chât ma túy hoặc chiếm đoạt chất ma. Về mặt chủ quan của tội phạm là được thực hiện do lỗi cố ý trực tiếp, động cơ phạm tội có thể là vụ lợi hoặc do động cơ khác, việc xác định động cơ phạm tội có ý nghĩa rất quan trọng trong hoạt động định tội danh. Về chủ thể là bất kỳ người nào có năng lực TNHS và đạt độ tuổi do luật định.

Trong thời gian qua tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy trên địa bàn thành phố Đà Nẵng diễn biến hết sức phức tạp, số lượng vụ án ngày càng tăng, số người phạm tội ngày càng nhiều; gây hoang mang lo lắng trong quần chúng nhân dân, ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế và ổn định chính trị địa phương.

Từ thực tiễn của các cơ quan THTT trong hoạt động giải quyết các vụ án tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy thì hoạt động định tội danh là một trong những hoạt động rất quan trọng trong việc xác định một người có phải chịu TNHS cho hành vi của mình gây ra hay không, do vậy hoạt động định tội danh đối với tàng trữ trái phép chất ma túy, vận chuyển trái phép chất ma túy là một quá trình nhận thức lý luận có tính lôgic, đồng thời là một trong những dạng của hoạt động thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự, được tiến hành trên cơ sở các chứng cứ, tài liệu thu thập được và các tình tiết thực tế của vụ án để đối chiếu, so sánh, kiểm tra nhằm xác định sự phù hợp giữa các dấu hiệu của những hành vi phạm tội đã được thực hiện với các dấu hiệu của cấu thành tội phạm tương ứng do BLHS quy định.

Quyết định hình phạt với tư cách là một trong những hoạt động áp dụng pháp luật hình sự, do Tòa án thực hiện sau khi đã định tội danh và tùy thuộc vào từng trường hợp để quyết định loại hình phạt, mức hình phạt cụ thể trong phạm vi giới hạn của khung hình phạt do luật định áp dụng cho chính cá nhân người phạm tội, phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội. Để đảm bảo pháp chế XHCN, hoạt động quyết định hình phạt phải được thực hiện dựa trên các căn cứ theo quy định của pháp luật. Căn cứ quyết định là những đòi hỏi cụ thể, có tính khách quan do BLHS quy định mà Hội đồng xét xử bắt buộc phải tuân thủ để không chỉ đảm bảo cho hình phạt được quyết định một cách khách quan, toàn diện, đúng pháp luật mà còn nhằm đạt được những mục đích của hình phạt ở mức cao nhất khi áp dụng đối với người phạm tội bị kết án. Việc tuân thủ căn cứ quyết định hình phạt sẽ đảm bảo cho hình phạt được quyết định tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội, đảm bảo tính hợp lý và có căn cứ pháp luật của hoạt động quyết định hình phạt. Ngoài ra, việc tuân thủ căn cứ quyết định hình phạt là điều kiện tiên quyết để đạt được mục đích của hình phạt.

Từ thực tiễn hoạt động định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội tàng trữ trái phép chất ma túy, vận chuyển trái phép chất ma túy trên địa bàn thành phố Đà Nẵng trong thời gian qua cho thấy, công tác giải quyết, xét xử các loại vụ án luôn được TAND các cấp quan tâm, chú trọng. Thực tế là số vụ án bị huỷ, sửa theo thủ tục phúc thẩm là rất ít. Điều này cho thấy sự nỗ lực rất lớn từ phía các cơ quan THTT thành phố trong việc khắc phục những điều kiện, hoàn cảnh khác nhau để đưa ra những hướng xử lý phù hợp, đáp ứng yêu cầu của thực tiễn xét xử.

Qua nghiên cứu, tìm hiểu các quy định của pháp luật cũng như thực tiễn hoạt động xét xử đối với tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy, ở mỗi phần tác giả không chỉ phân tích các quy định đó, những điểm hạn chế, bất cập chưa hợp lí mà tác giả cũng đã đưa ra quan điểm cá nhân và kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định pháp luật hình sự về tội tàng trữ trái phép chất ma túy, vận chuyển trái phép chất ma túy. Vì vậy trong phạm vi phần này, tác giả xin tổng hợp lại một số kiến nghị như sau:

Thứ nhất, cần hoàn thiện quy định pháp luật về tội tàng trữ trái phép chất ma túy, vận chuyển trái phép chất ma túy liên quan đến định tội danh như sau: Tách tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy (Điều 194 BLHS) thành Tội mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy (Điều 194) và Tội tàng trữ, vận chuyển trái phép chất ma túy (Điều 194a). Bỏ hình phạt tử hình đối với tội Tàng trữ, vận chuyển trái phép chất ma túy là để xác định rõ tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội làm cơ sở quy định mức hình phạt cho phù hợp, góp phần thực hiện chủ trương của Đảng về hạn chế áp dụng hình phạt tử hình. Trên thực tế có những vụ tàng trữ, vận chuyển trái phép chất ma túy có số lượng đặc biệt lớn nếu chứng minh có sự đồng phạm với hành vi mua bán trái phép chất ma túy thì sẽ bị xử lý về tội mua bán trái phép chất ma túy với hình phạt cao nhất là tử hình, nếu tàng trữ, vận chuyển thuê để kiếm tiền thì hành phạt tù chung thân cũng đủ để răn đe, phòng ngừa chung.

Bỏ từ “Mua” trong tội “Mua bán trái phép chất ma túy” quy định tại Điều 194 BLHS. Thực tế chưa có trường hợp nào bị xử lý về hành vi “mua ma túy”, bởi người mua ma túy thì một là bị truy cứu về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, hai là bị truy cứu về tội Vận chuyển trái phép chất ma túy, ba là tội Tổ chức sử dụng ma túy… nên tác giả kiến nghị bỏ từ “Mua” trong tội “Mua bán trái phép chất ma túy” và sửa lại thành tội “Bán trái phép chất ma túy” là phù hợp. Cụ thể: Điều 194 tội bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy tại khoản 1 là: “Người nào bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma tuý thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm”.

Thứ hai, cần hoàn thiện quy định pháp luật về tội tàng trữ trái phép chất ma túy, vận chuyển trái phép chất ma túy liên quan đến quyết định hình phạt như sau: Cần rút ngắn khoảng cách giữa mức tối thiểu và tối đa của từng khung hình phạt trong điều luật (Điều 194 BLHS) nhằm thu hẹp khoảng cách của các khung hình phạt cho hợp lý, tạo điều kiện nâng cao hiệu quả hình phạt, tránh được sự tùy tiện khi QĐHP, đồng thời để đảm bảo tạo khả năng cho cơ quan tiến hành tố tụng và người áp dụng pháp luật cân nhắc được những tình tiết, hoàn cảnh xảy ra trong cuộc sống.

Trong mỗi điểm của khoản 1 Điều 46 BLHS và khoản 1 Điều 48 BLHS không chỉ quy định một tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS mà có thể quy định 2 hoặc 3 tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS, như tại điểm g khoản 1 Điều 48 BLHS quy định ba tình tiết tăng nặng: “phạm tội nhiều lần”, “trường hợp tái phạm”, “trường hợp tái phạm nguy hiểm”; tại điểm p khoản 1 Điều 46 BLHS quy định hai tình tiết giảm nhẹ: “người phạm tội thành khẩn khai báo ” và “người phạm tội ăn năn hối cải”.

Cần có những quy định bổ sung vào căn cứ QĐHP một số vấn đề mà BLHS hiện hành chưa quy định, như thêm một số tình tiết giảm nhẹ TNHS tại Điều 46 BLHS: “người phạm tội đầu thú”; “người phạm tội là con thương binh, liệt sĩ, gia đình có công với đất nước” để thể hiện tinh thần “đền ơn đáp nghĩa”.

Với những gì đã thể hiện trong luận văn, tác giả mong muốn góp một phần nhỏ bé của mình vào hoạt động đấu tranh, phòng chống tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy trên địa bàn thành phố Đà Nẵng, xây dựng Đà Nẵng vẫn mãi là “Thành phố đáng sống” không có tệ nạn xã hội, đặc biệt là tội phạm về ma túy.

Với khả năng hiểu biết, thời gian nghiên cứu có hạn, quá trình thực hiện đề tài không tránh khỏi những thiếu sót nhất định. Vì vậy, tác giả rất mong nhận được ý kiến đóng góp của quý thầy cô giáo để tác giả có thể tiếp tục hoàn thiện hơn đối với vấn đề mình nghiên cứu trong tương lai.

LIỆN HỆ:

SĐT+ZALO: 0935568275

E:\DỮ LIỆU COP CỦA CHỊ YẾN\LUAN VAN VIEN HAN LAM\LUAT HINH SU\PHAM TRUNG HIEU

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *