Biện pháp quản lý hoạt động đào tạo nghề cho lao động nông thôn tại các trung tâm GDNN – GDTX cấp huyện trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi

Biện pháp quản lý hoạt động đào tạo nghề cho lao động nông thôn tại các trung tâm GDNN – GDTX cấp huyện trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi

Biện pháp quản lý hoạt động đào tạo nghề cho lao động nông thôn tại các trung tâm GDNN – GDTX cấp huyện trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi

1. Lý do chọn đề tài

Một trong những mốc quan trọng trong cuộc đời mỗi người, quyết định sự thành công hay thất bại trong tương lai là việc lựa chọn nghề nghiệp. Tuy nhiên, hiện nay lực lượng lao động nông thôn (LĐNT) thường chọn nghề một cách ngẫu nhiên, theo cảm tính, không có những hiểu biết cần thiết về nghề mà mình có ý định lựa chọn, thiếu ý thức đúng đắn về ngành nghề. Do đó, thiếu ý thức phấn đấu vươn lên trong nghề nghiệp, thậm chí có người học nghề rồi lại bỏ nghề, ảnh hưởng đến chất lượng đào tạo, phát triển nguồn nhân lực, vừa lãng phí kinh phí đào tạo của nhà nước, vừa có hại cho sự phát triển của cá nhân.

Ở nước ta, quá trình CNH-HĐH được tiến hành trong điều kiện tồn tại nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, vận hành theo cơ chế thị trường định hướng XHCN. Sản xuất hàng hóa phát triển làm cho thị trường lao động mở rộng, nhu cầu học tập tăng lên, mặt khác cũng làm thay đổi quan niệm về giá trị, ảnh hưởng đến việc lựa chọn ngành nghề, động cơ học tập, các mối quan hệ trong Trung tâm và ngoài xã hội.

Quảng Ngãi là tỉnh có qui mô dân số và nguồn lao động khá lớn. Dân số tính đến hết năm 2015 là 1.246.165 người. Số người trong độ tuổi lao động là 779.000 người, trong đó khu vực thành thị 112.782 người chiếm14,67 %, khu vực nông thôn 656.218 người chiếm 85,33%, lực lượng lao động trong độ tuổi ở nông thôn chiếm tỉ lệ rất lớn. Tuy nhiên, nguồn lao động này chủ yếu tập trung sản xuất trong lĩnh vực nông nghiệp, tỉ lệ lao động qua đào tạo nghề thấp (chiếm khoảng 37%), ít có cơ hội để phát huy khả năng cống hiến cho sự phát triển nông thôn bền vững theo hướng CNH, HĐH. Quảng Ngãi trong những năm đến với sự phát triển của khu kinh tế Dung quất, khu công nghiệp VSIP,… sẽ làm thay đổi mạnh mẽ cơ cấu kinh tế, trong đó cơ cấu công nghiệp – xây dựng chiếm khoảng 50% vào năm 2020. Do đó đòi hỏi cao về phát triển nguồn nhân lực, trong đó dạy nghề cho LĐNT là giải pháp hết sức quan trọng.

Hoạt động đào tạo nghề LĐNT ở tỉnh Quảng Ngãi trong thời gian qua được sự quan tâm của các cấp, các ngành; CSVC, TBDN đã được chú trọng đầu tư; nguồn lực dành cho dạy nghề ngày càng được bổ sung, qui mô dạy nghề được nâng lên; vấn đề đa dạng hóa các loại hình, hình thức đào tạo, phương pháp đào tạo, chất lượng đào tạo nghề đã có sự chuyển biến tích cực,….Bên cạnh đó hoạt động đào tạo nghề LĐNT còn nhiều vấn đề bất cập; công tác quản lý, chỉ đạo điều hành của các cấp chính quyền chưa đồng bộ; nhận thức của xã hội về đào tạo nghề CHO LĐNT chưa đồng đểu; các trung tâm GDNN-GDTX mới được giao chức năng dạy nghề trình độ sơ cấp, thiếu CBQL, thiếu giáo viên đứng lớp (đặc biệt là giáo viên cơ hữu), quản lý dạy và học nghề còn nhiều hạn chế; một số địa phương và người dân chưa xác định được nghề cụ thể để phù hợp với sự phát triển KT-XH của từng địa phương và của bản thân mình, nên chưa khuyến khích được lao động tham gia học nghề,…Do đó chất lượng và hiệu quả đào tạo nghề chưa cao, chưa đáp ứng tốt yêu cầu nguồn nhân lực của địa phương. Từ các lý do trên, tôi chọn đề tài nghiên cứu : Biện pháp quản lý hoạt động đào tạo nghề cho lao động nông thôn tại các trung tâm GDNN – GDTX cấp huyện trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi.

2. Mục đích nghiên cứu

Từ kết quả nghiên cứu lí luận, khảo sát và đánh giá thực trạng quản lý hoạt động đào tạo nghề cho lao động nông thôn, luận văn đề xuất những biện pháp quản lý nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động đào tạo nghề cho lao động nông thôn tại các trung tâm GDNN-GDTX trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi trong hiện nay.

3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu

3.1. Khách thể nghiên cứu

Quản lý hoạt động đào tạo nghề cho LĐNT tại các TTGDNN – GDTX trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi hiện nay.

3.2. Đối tượng nghiên cứu

Biện pháp quản lý hoạt động đào tạo nghề cho lao động nông thôn tại các trung tâm GDNN – GDTX trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi.

4. Giả thuyết khoa học

Công tác quản lý hoạt động đào tạo nghề cho LĐNT có vai trò hết sức quan trọng. Tuy nhiên, trên thực tế, thực trạng công tác này của các trung tâm ở tỉnh Quảng Ngãi hiện nay còn bộc lộ một số yếu kém, bất cập trên các bình diện, từ tư vấn nghề nghiệp, quản lý hoạt động đào tạo nghể cho đến CSVC chưa đáp ứng yêu cầu … Do đó, chất lượng và hiệu quả công tác đào tạo nghề cho LĐNT chưa cao. Nếu đề xuất được những biện pháp có tính khả thi, sẽ góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác quản lý hoạt động đào tạo nghề cho LĐNT tại các trung tâm GDNN-GDTX trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi.

5. Nhiệm vụ nghiên cứu

5.1. Xây dựng cơ sở lý luận về công tác quản lý hoạt động đào tạo nghề cho LĐNT tại các trung tâm.

5.2. Khảo sát, phân tích thực trạng công tác quản lý đào tạo nghề cho LĐNT tại các trung tâm GDNN-GDTX trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi.

5.3. Đề xuất các biện pháp quản lý hoạt động đào tạo nghề cho LĐNT tại các trung tâm GDNN-GDTX trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi.

6. Phương pháp nghiên cứu

Để thực hiện mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu, luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:

6.1. Nhóm các phương pháp nghiên cứu lý luận

Nghiên cứu, phân tích, tổng hợp các văn kiện, văn bản, các Nghị quyết, các tài liệu có liên quan đến đề tài, nhằm thu thập thông tin để xây dựng cơ sở lý luận về quản lý hoạt động đào tạo nghề cho LĐNT của các trung tâm GDNN-GDTX.

6.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn

– Sử dụng các phương pháp: Quan sát, điều tra, phỏng vấn, trò chuyện,… nhằm khảo sát, đánh giá thực trạng và xây dựng cơ sở thực tiễn cho việc đề xuất các biện pháp.

– Sử dụng phương pháp lấy ý kiến chuyên gia: Lấy ý kiến của các chuyên gia nhằm khảo nghiệm tính cấp thiết và khả thi của các biện pháp đề xuất.

6.3. Phương pháp thống kê toán học

Sử dụng phương pháp này nhằm xử lý số liệu đã thu thập được trong quá trình nghiên cứu.

7. Phạm vi nghiên cứu

Đề tài tập trung nghiên cứu hoạt động quản lý đào tạo nghề cho LĐNT tại các trung tâm GDNN-GDTX trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi.

8. Cấu trúc luận văn

Luận văn được chia làm 3 phần

* Mở đầu

* Nội dung nghiên cứu gồm 3 chương

– Chương 1: Cơ sở lý luận của công tác quản lý hoạt động đào tạo nghề cho LĐNT tại các trung tâm GDNN-GDTX.

– Chương 2: Thực trạng quản lý hoạt động đào tạo nghề cho LĐNT tại các Trung tâm GDNN-GDTX trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi.

– Chương 3: Biện pháp quản lý hoạt động đào tạo nghề cho LĐNT tại các Trung tâm GDNN-GDTX trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi.

* Kết luận và khuyến nghị

– Danh mục tài liệu tham khảo

– Phụ lục

CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA CÔNG TÁC QUẢN LÝ

HOẠT ĐỘNG ĐÀO TẠO NGHỀ CHO LAO ĐỘNG

NÔNG THÔN TẠI CÁC TRUNG TÂM GDNN – GDTX

Biện pháp quản lý hoạt động đào tạo nghề cho lao động nông thôn tại các trung tâm GDNN – GDTX cấp huyện trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi
Biện pháp quản lý hoạt động đào tạo nghề cho lao động nông thôn tại các trung tâm GDNN – GDTX cấp huyện trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi

1.1. KHÁI QUÁT LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ

1.2. CÁC KHÁI NIỆM CƠ BẢN

1.2.1. Khái niệm hoạt động đào tạo nghề

Dạy nghề là thuật ngữ nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trên phương diện nghề có 2 thuật ngữ là đào tạo nghề và dạy nghề. Đào tạo nghề gồm hai quá trình có quan hệ hữu cơ với nhau. Đó là dạy nghề và học nghề

Dạy nghề hiểu theo nghĩa chung nhất là các hoạt động tryền nghề đến người học nghề. Hiểu theo nghĩa đầy đủ, đó là quá trình giảng viên truyền bá những kiến thức về lý thuyết và thực hành cho người lao động để đạt được một trình độ nhất định.

Để hiểu rõ hơn khái niệm dạy nghề, cũng cần hiểu thêm về khái niệm nghề. Cho đến nay thuật ngữ “nghề” được hiểu và định nghĩa theo nhiều cách khác nhau có thể hệ thống và phân tích một số khái niệm về nghề ở một số nước trên thế giới như sau: [24,tr177]

Các nhà khoa học Nga đưa ra khái niệm : “Nghề là một loại hoạt động lao động đòi hỏi có sự đào tạo nhất định và thường là nguồn gốc của sự sinh tồn”. Ở Pháp, khái niệm niệm nghề được hiểu “là một loại lao động có thói quen về kỹ năng, kỹ xảo của một người để từ đó tìm được phương tiện sống”. Ở Anh khái niệm nghề dược quan niệm cao hơn cho rằng nghề “là công việc chuyên môn đòi hỏi một sự đào tạo trong khoa học nghệ thuật”

Khái niệm nghề ở Việt Nam: “Nghề là công việc chuyên làm theo sự phân công lao động xã hội”

Có nhiều cách tiếp cận khác nhau về khái niệm nghề, nhưng chung nhất “Nghề là một dạng xác định của hoạt động lao động trong hệ thống phân công lao động xã hội; là tổng hợp những kiến thức và kỹ năng trong lao động mà con người tiếp thu được do kết quả đào tạo chuyên môn và tích lũy kinh nghiệm trong lao động mà một người lao động cần có để thực hiện một hoạt động cụ thể trong một lĩnh vực nhất định” [27,tr17]

Mặt dù các khái niệm nghề trên được hiểu dưới nhiều góc độ khác nhau, song chúng ta có thể nhận thấy một số nét đặc trưng sau :

Nghề là hoạt động, là công việc lao động của con người được lặp đi, lặp lại.

Nghề được hình thành do sự phân công lao động xã hội, phù hợp với yêu cầu xã hội và là phương tiện để sinh sống.

Nghề là lao động kỹ năng, kỹ xảo chuyên biệt có giá trị trao đổi trong xã hội, đòi hỏi phải có một quá trình đào tạo nhất định. Vì vậy đào tạo nghề, dạy nghề là yêu cầu tất yếu bắt nguồn từ chính bản chất, đăc trưng của nó.

Từ những phân tích trên, dạy nghề tuy là hoạt động, nhưng gắn với nó là cả một hệ thống và được xem xét một cách tổng thể trên các phương diện sau:

Hệ thống mạng lưới dạy nghề, những chủ thể của quá trình dạy nghề: Hệ thống dạy nghề ở mỗi quốc gia, mỗi vùng, địa phương và các cơ sở sản xuất kinh doanh rất đa dạng. Đó là hệ thống của các trường nghề, bao gồm các trường cao đẳng nghề, trường trung cấp nghề và các trung tâm GDNN-GDTX. Đó cũng có thể là các tổ chức khuyến nông, lâm, ngư, cùng làm nhiệm vụ chung là khuyến khích các hoạt động gắn với các ngành phát triển, trong đó có các hoạt động chuyển giao tiến bộ công nghệ và dạy nghề gắn với quá trình chuyển giao đó. Đó cũng có thể là các tổ chức hội nghề nghiệp, như hội nuôi ong, hội làm vườn, hội sinh vật cảnh, hội cơ khí, hội tự động hóa cũng có nội dung hoạt động chuyển giao tiến bộ khoa học công nghệ và nâng cao trình độ tay nghề của các hội viên. Đó cũng có thể là các tổ chức chính trị như hội nông dân, hội phụ nữ, hội cựu chiến binh. Thậm chí đó là các doanh nghiệp, trung tâm gia đình dạy nghề dưới hình thức truyền nghề.

Hệ thống cơ sở vật chất phục vụ cho dạy nghề. Đó là những diều kiện rất cần thiết cho hoạt động đào tạo nghề. Dạy nghề là dạy và rèn luyện kỹ năng lao động; vì vậy, dạy nghề cần có hệ thống cơ sở vật chất đồng bộ, nhất là các trang thiết bị phục vụ cho dạy nghề và rèn nghề. Kinh phí cho việc mua sắm các thiết bị thường lớn sử dụng trong hoạt động đào tạo nghề và được sử dụng thường xuyên.

Chương trình đào tạo nghề: Các chương trình đào tạo nghề được xây dựng theo từng nghề và nhóm nghề. Các chương trình hướng đến mục tiêu là trang bị cho người học những kiến thức cơ bản và rèn luyện kỹ năng nghề một cách cụ thể.

Đội ngũ cán bộ, giáo viên dạy nghề: Đây là những người trực tiếp truyền đạt các kiến thức cơ bản về nghề; đồng thời cũng là những người hướng dẫn nghề và rèn luyện tay nghề. Vì vậy, đội ngũ cán bộ dạy nghề phải là những người nắm vững lý thuyết, đồng thời giỏi về thực hành.

Những người học nghề là đối tượng của hoạt động đào tạo nghề, nằm trong phạm trù học nghề. Tuy nhiên, đây là trung tâm của cả hệ thống dạy nghề hướng tới. Mục tiêu của những người học nghề là có nghề để tham gia vào quá trình hoạt động kinh tế – xã hội. Vì vậy, mục tiêu của hệ thống dạy nghề là đáp ứng mục tiêu của những người học nghề. Với ý nghĩa đó, dạy nghề phải căn cứ vào đối tượng, vào những người học nghề để tổ chức hệ thống dạy nghề.

1.2.2. Khái niệm đào tạo nghề cho lao động nông thôn

Nông thôn là cùng lãnh thổ rộng lớn, trong đó hoạt động nông nghiệp đóng vai trò quan trọng, nông dân là bộ phận dân cư chủ yếu của nguồn nhân lực nông thôn. Sự khác biệt giữa khái niệm dạy nghề nói chung và đào tạo nghề cho lao động nông thôn là ở đối tượng của dạy nghề, những người lao động nông thôn và những điều kiện gắn với quá trình dạy nghề đó. Từ phân tích trên có thể đưa ra khái niệm đào tạo nghề cho lao động nông thôn như sau:

Đào tạo nghề cho lao động nông thôn là quá trình giảng viên truyền bá những kiến thức về lý thuyết và thực hành để những người lao động nông thôn có được một trình độ kỹ năng, kỹ xảo, sự khéo léo thành thục nhất định về nghề nghiệp đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội nông thôn.

Đào tạo nghề cho lao động nông thôn, trước hết có sự khác biệt với dạy nghề nói chung đối tượng dạy, đó là những người lao động ở nông thôn. Từ sự khác biệt về đối tượng dạy nghề đã tạo ra những sự khác biệt khác của các hoạt động đào tạo nghề và cả hệ thống tổ chức dạy nghề. Cụ thể:

Hệ thống đào tạo nghề cho lao động nông thôn: Hệ thống đào tạo nghề cho lao động nông thôn bao gồm tất cả những chủ đề tham gia vào quá trình dạy nghề. Tuy nhiên, những chủ thể này cần có sự chủ động và tiếp cận trực tiếp đến người học vì đặc tính của lao động nông thôn và những điều kiện cho học nghề của người học có những hạn chế nhất định. Với sự khác biệt này, những tổ chức dạy nghề nông thôn như: các trung tâm GDNN-GDTX cấp huyện, các tổ chức khuyến nông, lâm, ngư; các tổ chức chính trị ở nông thôn như hội nông dân, hội phụ nữ thường phát huy có hiệu quả hơn trong đào tạo nghề cho lao động nông thôn. Những tổ chức dạy nghề cấp cao hơn như các trường Cao đẳng nghề, Trung cấp nghề cũng có vai trò đào tạo nghề cho lao động nông thôn, nhưng tập trung vào nhóm ngành phi nông nghiệp và mức độ phát huy hạn chế hơn.

Chương trình đào đạo nghề: chương trình đào tạo nghề cho lao động nông thôn cần cụ thể và dễ hiểu hơn. Thậm chí đào tạo nghề cho lao động nông thôn vùng sâu, vùng xa cho đồng bào dân tộc ít người cần theo phương thức cầm tay chỉ việc, hết sức cụ thể, không tách rời mà gắn liền lý thuyết với thực hành theo từng kỹ năng nghề. Thời gian tổ chức các lớp dạy nghề thường ngắn, vào những thời điểm thích hợp, thường là những lúc nông nhàn.

Điều kiện cho dạy và học nghề: Nông dân là những người có điều kiện sống khó khăn nên kinh phí học nghề dưới dạng học phí thường sử dụng ngân sách hoặc qua các chương trình hỗ trợ. Thậm chí, có một số đối tượng như người nghèo, các đối tượng chính sách khác còn phải hỗ trợ chi phí cho người học mới có thể tổ chức được. Vì vậy, xã hội hóa dạy nghề giảm bớt gánh nặng kinh phí mới hy vọng nâng cao trình độ nghề cho lao động nông thôn – khu vực có số lượng người cần đào tạo nghề rất lớn.

1.2.3. Phân loại đào tạo nghề cho lao động nông thôn

Đào tạo nghề cho lao động nông thôn với đối tượng đa dạng, có những đặc điểm, đặc thù riêng. Vì vậy, đây là hoạt động rất phong phú và phức tạp, có thể phân thành các loại hoạt động khác nhau, tùy theo các tiêu chí phân loại. [26]

– Theo đối tượng dạy nghề có thể phân thành:

+ Dạy nghề cho lao động quản lý: Giám đốc, đốc công, tổ trưởng.

+ Dạy nghề cho lao động trực tiếp: Dạy nghề cho nông dân, cho thợ thủ công và lao động dịch vụ.

– Theo phương thức dạy nghề có thể phân thành: Dạy nghề và truyền nghề. Dạy nghề là truyền bá những kiến thức về lý thuyết và thực hành để những người lao động nông thôn có được một trình độ, kỹ năng, kỹ xảo, sự khéo léo thuần thục nhất định về nghề nghiệp đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội nông thôn. Dạy nghề gắn với các tổ chức chuyên hoạt động đào tạo nghề. Truyền nghề là truyền bá những kỹ năng thực hành để những người lao động nông thôn có được một trình độ, kỹ năng, kỹ xảo, sự khéo léo, thành thục nhất định về nghề nghiệp.

– Theo mức độ của truyền bá kiến thức nghề: Có đào tạo, đào tạo lại, bồi dưỡng nghề.

+ Đạo tạo nghề mới: Là đào tạo những người chưa có nghề, gồm những người đến tuổi lao động chưa được học nghề, hoặc những người trong độ tuổi lao động nhưng trước đó chưa được học nghề. Đào tạo mới nhằm đáp ứng tăng thêm lao động đào tạo nghề cho xã hội.

+ Đào tạo lại nghề: Là đào tạo đối với những người đã có nghề, có chuyên môn nhưng do yêu cầu mới của sản xuất và tiến bộ kỹ thuật dẫn đến việc thay đổi cơ cấu ngành nghề, trình độ chuyên môn. Một số công nhân được đào tạo lại cho phù hợp với cơ cấu ngành nghề và trình độ kỹ thuật mới. Đào tạo lại thường được hiểu là quá trình nhằm tạo cho người lao động có cơ hội để học tập một lĩnh vực chuyên môn mới để thay đổi nghề.

+ Bồi dưỡng nâng cao tay nghề: Bồi dưỡng có thể coi là qua trình cập nhật kiến thức còn thiếu, đã lạc hậu, bổ túc nghề, đào tạo thêm hoặc cũng cố các kỹ năng nghề nghiệp theo từng chuyên môn và thường được xác nhận bằng một chứng chỉ hay nâng lên bậc cao hơn.

– Xét theo thời gian của dạy nghề và các kết quả của người học đạt được: có Cao đăng nghề, Trung cấp nghề và bồi dưỡng nghề. Tương ứng với các cấp độ của dạy nghề có bằng Cao đẳng nghề, Trung cấp nghề, Sơ cấp nghề và chứng chỉ đào tạo.

1.2.4. Khái niệm quản lý và chức năng quản lý:

– Khái niệm quản lý: Quản lý là tác động có định hướng, có chủ đích của chủ thể quản lý đến khách thể quản lý (người bị quản lý) trong một tổ chức nhằm làm cho tổ chức vận hành và đạt được mục đích của tổ chức. [18,tr.130]

– Khái niệm quản lý giáo dục: Có nhiều quan niệm khác nhau.

+ Quản lý giáo dục là tác động có ý thức của chủ thể quản lý đến khách thể quản lý, nhằm đưa hoạt động giáo dục tới mục đích đã định, trên cơ sở nhận thức và vận dụng những quy luật khách quan của hệ thống giáo dục quốc dân.

+ Quản lý giáo dục theo nghĩa tổng quan là hoạt động điều hành, phối hợp với các lực lượng xã hội, nhằm đẩy mạnh công tác đào tạo thế hệ trẻ theo yêu cầu phát triển của xã hội [1,tr.124]

– Chức năng quản lý: Quan điểm chung, hoạt động quản lý có bốn chức năng [1,tr.13]

+ Chức năng lập kế hoạch: Lập kế hoạch là chức năng cơ bản nhất trong chức năng quản lý, là các khởi điểm của một chu trình quản lý. Lập kế hoạch là quá trình xác lập mục tiêu, thời gian, biện pháp, dự báo trước kế hoạch và quyết định phương hướng để thực hiện mục tiêu đó. Khả năng thực hiện chức năng lập kế hoạch dựa trên các kỹ năng nhận thức, sự hiểu biết và ra quyết định của chủ thể quản lý.

+ Chức năng tổ chức: Tổ chức là thiết lập và quản lý các mối quan hệ một quá trình phân công, phối hợp các nhiệm vụ và nguồn lực.

Tổ chức quản lý là sự liên kết giữa những cá nhân, những quá trình, những hoạt động trong hệ thống để đạt được các mục tiêu đã đề ra dựa trên cơ sở các nguyên tắc của quản lý hệ thống.

+ Chức năng chỉ đạo: Chỉ đạo là một quá trình chủ thể quản lý sữ dụng quyền lực quản lý của mình để tác động, gây ảnh hưởng đến các cá thể (thành viên trong tổ chức) một cách có chủ đích để họ tự nguyện thực hiện tốt các công việc nhằm thực hiện mục tiêu chung đã đề ra.

+ Chức năng kiểm tra: Kiểm tra là chức năng quan trọng của người lãnh đạo. Kiểm tra là quá trình thiết lập và thực hiện các cơ chế thích hợp nhằm phát hiện các sai sót, vướn mắc của hệ thống trong quá trình hoạt động. Bằng cách thông qua cá nhân, một nhóm hoặc một tổ chức theo dõi, giám sát thường xuyên các thành quả hoạt động và để tìm kiếm cơ hội, các nguồn lức có thể khai thác được. Đồng thời có sự xem xét, đánh giá cụ thể định ra các tiêu chuẩn để sửa chữa, uốn nắn khi cần thiết nhằm thúc đẩy hệ thống sớm đạt được mục tiêu đã định.

Kiểm tra là nhiệm vụ trọng yếu của người quản lý. Quản lý mà không kiểm tra thì coi như chưa hoàn thành nhiệm vụ cơ bản.

1.3. SỰ CẦN THIẾT VÀ CÁC YÊU CẦU VỀ DẠY NGHỀ CHO LAO ĐỘNG NÔNG THÔN

1.3.1. Sự cần thiết phát triển dạy nghề cho lao động nông thôn

Dạy nghề là một trong các nội dung quan trọng của sự phát triển nguồn nhân lực nói chung, nguồn nhân lực nông thôn nói riêng. Điều đó bắt nguồn từ chính đặc điểm của nguồn lao động nông thôn và yêu cầu của quá trình biến đổi kinh tế – xã hội nông thôn theo hướng CNH, HĐH.

a. CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn và sự cần thiết phải đào tạo nghề cho lao động nông thôn

CNH, HĐH là quy luật có tính phổ biến trong phát triển kinh tế, xã hội của cả nước. Sự thành công của CNH, HĐH đất nước phụ thuộc vào CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn. Vì vậy, CNH, HĐH đất nước nói chung và CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn nói riêng đã được nghiên cứu khá kỹ và có rất nhiều công trình công bố ở Việt Nam cũng như các nước trên thế giới.

Để làm rõ khái niệm về CNH nông nghiệp, nông thôn, nhiều nhà nghiên cứu đã phân biệt sự khác nhau giữa phát triển công nghiệp nông thôn và CNH nông nghiệp, nông thôn.

Theo các tác giả Nguyễn Kế Tuấn và Chu Hữu Quý: “công nghiệp nông thôn là một bộ phận trong hệ thống công nghiệp thống nhất, bao gồm các quy nghiệp có quy mô, trình độ trang bị kỹ thuật khác nhau gắn bó chặt chẽ với nông nghiệp và nông thôn, được phân bố chủ yếu trên địa bàn nông thôn”. Còn “CNH nông nghiệp là quá trình chuyển biến từ nền nông nghiệp sản xuất nhỏ, lạc hậu, phân tán sang nền nông nghiệp sản xuất lớn với trình độ chuyên canh và thâm canh cao, tiến hành sản xuất và quản lý sản xuất – kinh doanh với trình độ công nghiệp và công nghiệp tiên tiến, áp dụng rộng rãi thủy lợi hóa, cơ khí hóa, hóa học hóa, điện khí hóa, sinh học hóa cao hơn và bước đầu áp dụng cả tự động hóa và tin học hóa. Quá trình này là lâu dài, không thể 5- 10 năm mà ít nhất vài ba chục năm hoặc lâu hơn nữa, như một số nước quanh ta đã và đang trải qua”.

CNH nông nghiệp có sự khác biệt với CNH nông thôn, cụ thể: CNH nông nghiệp là một quá trình biến đổi toàn diện trong một xã hội rông lớn – nông thôn, bao quát mọi hoạt động kinh tế, xã hội, văn hóa, chính trị. Đó là một quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng phát triển nông nghiệp làm nền tảng, phát triển công nghiệp ngày càng tiến bộ và hệ thống dịch vụ ngày càng đầy đủ và hữu hiệu. Đó cũng là quá trình phát triển hê thống hạ tầng kinh tế, xã hội theo hướng hiện đại, các lĩnh vực văn hóa, giáo dục, y tế được nâng cấp, các quan hệ xã hội được hoàn thiện, tạo lối sống công nghiệp năng động, cởi mở, văn minh. Còn CNH nông nghiệp, nông thôn là thuật ngữ chỉ quá trình với rất nhiều hoạt động về kinh tế phù hợp với xu thế phát tiển của xã hội. Trong khi đó, công nghiệp nông thôn là thuật ngữ chỉ yếu tố cấu thành kinh tế nông thôn.

Đối với nước ta, ngay từ ngày đầu của thập kỷ 60, Đảng và Nhà nước đã có chủ trương CNH Xã hội chủ nghĩa đã tạo những tiền đề vật chất cho Xã hội chủ nghĩa. Trong nông nghiệp, nông thôn chủ trương thực hiện cơ giới hóa, thủy lợi hóa và điện khí hóa là những nội dung cơ bản của CNH.

Quan niệm mới về CNH, cần phải hiểu đầy đủ hơn, CNH nông nghiệp, nông thôn là một quá trình với nội dung chủ yếu là: Trang bị cơ sở vật chất kỹ thuật cho nông nghiệp, nông thôn (thực hiện cuộc cách mạng về cơ giới hóa, thủy lợi hóa, hóa học hóa, điện khí hóa…) tạo điều kiện tăng năng suất lao động, hạ giá thành và nâng cao chất lượng sản phẩm trong nông nghiệp, khai thác hợp lý các nguồn lực.

– Hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn: Có nhiều quan điểm về HĐH nói chung, HĐH nông nghiệp, nông thôn nói riêng. Tuy nhiên, chúng tôi cho rằng: CNH, HĐH nền kinh tế nói chung, nông nghiệp nông thôn nói riêng là xu hướng phát triển có quy luật, là 2 quá trình kế tiếp nhau, nhưng có sự gắn kết với nhau trong điều kiện ngày nay khi khoa học và công nghệ có bước phát triển mạnh mẽ và sâu rộng, nhất là ở những nước có nền kinh tế chưa phát triển như nước ta và một số nước trong khu vực.

HĐH nông thôn, bước tiếp theo CNH, là quá trình trang thiết bị cơ sở vật chất hiện đại, tổ chức lại sản xuất các ngành kinh tế, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế nông thôn hợp lý đạt hiệu quả kinh tế cao, nâng cao năng suất lao động, bảo vệ môi trường sinh thái; xây dựng xã hội nông thôn dân chủ, công bằng, văn minh, nâng cao đời sống vật chất tinh thần của người dân nông thôn. HĐH nông nghiệp, nông thôn bao gồm tất cả các nội dung chủ yếu như sau:

+ Hiện đại hóa các ngành kinh tế: HĐH các ngành kinh tế là quá trình phát triển sản xuất bằng việc ứng dụng công nghệ hiện đại, phương pháp tiên tiến vào các ngành công nghiệp, xây dựng, dịch vụ và nông nghiệp để trở thành một nền sản xuất hiện đại, tạo ra năng suất cao, chất lượng cao, giá thành hạ.

Kinh tế nông thôn bao gồm ba lĩnh vực cơ bản: Công nghệp (bao gồm cả tiểu thủ công nghiệp và xây dựng), nông nghiệp và dịch vụ. HĐH các ngành kinh tế đóng vai trò quyết định đến các nội dung khác của HĐH nông thôn, nhất là HĐH về mặt xã hội. Bởi vậy HĐH tạo ra năng suất lao động cao, sản xuất ra nhiều của cải cho xã hội, làm thay đổi xã hội nông thôn. Đối với tỉnh Quảng Ngãi hiện nay, nhiều nội dung của CNH vẫn chưa hoàn thành, nhưng HĐH nông thôn nói chung, các ngành kinh tế cần phải nhanh chóng thực hiện, bới vì các điều kiện cần và đủ cho HĐH đã hội tụ khá đủ.

+ Hiện đại hóa kết cấu hạ tầng nông thôn: các ngành kinh tế muốn phát triển thì cơ sở hạ tầng cũng phải phát triển tương ứng, cơ sở hạ tầng phải đi trước một bước để thúc đẩy các ngành kinh tế phát triển. Do đặc thù của sản xuất nông nghiệp, đối tượng là động, thực vật diễn ra trong môi trường, gắn chặt với các điều kiện tự nhiên rất khác nhau và xuất phát điểm của nông nghiệp thấp cho nên công nghiệp hóa diễn ra thường chậm hơn các ngành công nghiệp và dịch vụ; vì vậy, cần có sự ưu tiên đầu tư trong giai đoạn đầu và lưu ý đến sự tác động của đô thị hóa.

+ Nâng cao trình độ văn hóa, khoa học – kỹ thuật : đẩy mạnh việc ứng dụng khoa học công nghệ tiên tiến vào sản xuất và nâng cao trình độ cho người lao động đóng vai trò hết sức quan trọng trong quá trình CNH, HĐH; đồng thời phải nâng cao trình độ dân trí xây dựng nếp sống, tác phong mới cho phù hợp với quá trình phát triển và những yêu cầu hiện đại hóa các ngành kinh tế ở nông thôn. Như vậy, phát triển nguồn nhân lực nói chung, dạy nghề cho lao động nông nghiệp, nông thôn nói riêng vừa là yêu cầu, vừa là nội dung của qúa trình CNH-HĐH nông nghiệp nông thôn. Đó được coi như một trong các yêu cầu, sự cần thiết khách quan phải đào tạo nghề cho lao động nông thôn. Bởi vì CNH, HĐH đặt ra các yêu cầu phát triển kinh tế xã hội và đòi hỏi trình độ nguồn lao động phải thích ứng.

b. Vai trò của đào tạo nghề đối với phát triển kinh tế – xã hội nông thôn

Tiến hành CNH, HĐH nền kinh tế nói chung, nông nghiệp nông thôn nói riêng là tất yếu khách quan. Điều đó được xem xét trên hai mặt: yêu cầu của nền kinh tế cũng như nông nghiệp, nông thôn đối với CNH, HĐH; khả năng đáp ứng các yêu cầu đó của nền kinh tế và nông nghiệp, nông thôn.

Về yêu cầu của nền kinh tế nông nghiệp, nông thôn đối với CNH. HĐH: Về logic, CNH là con dường phát triển kinh tế tất yếu của những nước từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn, trong đó có nước ta. Điều đó bắt nguồn từ mối quan hệ giữa các yếu tố về lực lượng sản xuất với năng xuất lao động, giữa yêu cầu của khai thác các nguồn lực trong điều kiện nhu cầu xã hội ngày càng tăng cao. Trong điều kiện của nền kinh tế thị trường, khi sản xuất có mối liên hệ và có tính cạnh tranh cao đòi hỏi nền kinh tế cũng như nông nghiệp nông thôn phải khai thác lợi thế, tăng năng xuất lao động hạ giá thành sản phẩm.

Về khả năng đáp ứng các yêu cầu của nền kinh tế và nông nghiệp, nông thôn đối với CNH: trước hết, đó là các thành tựu của khoa học và công nghệ đã tạo ra các khả năng để thực hiện CNH-HĐH. Về điều này đã chứng minh, hiện nay ở các nước tiên tiến, điện tử và tin học đã phát triển ở trình độ rất cao. Nó đã và đang đưa lại những biến đổi có tính chất cách mạng trong sản xuất, thương mại và dịch vụ.

Ngay trong nông nghiệp, một ngành được coi là có những hạn chế trong quá trình áp dụng các tiến bộ khoa học và công nghệ vào sản xuất cũng đạt được những kết quả khả quan nhờ áp dụng những tiến bộ của điện tử và tin học. Ở đó, ngoài việc sử dụng máy móc vào các khâu sản xuất, bảo quản, chế biến; một hướng mang tính văn minh trí tuệ là tạo ra trung tâm Giống mới có năng suất, chất lượng và độ an toàn thực phẩm cao đang được áp dụng ngày càng rộng rãi.

1.3.2. Các yêu cầu cơ bản về đào tạo nghề cho lao động nông thôn trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

a. Về đặc điểm của nguồn lao động nông thôn và yêu cầu về đào tạo nghề cho lao động nông thôn

Đặc điểm về nguồn lao động nông thôn: Nguồn lao động nông thôn có đặc điểm là: Số lượng dồi dào, nhưng chất lượng thấp và di chuyển cơ học ngày càng lớn. Cụ thể:

Về số lượng: Nguồn lao động nông thôn đó là tổng số sức lao động với tư cách là một yếu tố của quá trình lao động sản xuất trên địa bàn nông thôn. Tuy nhiên, con người ngoài tư cách là yếu tố của quá trình lao động sản xuất còn là thành viên của xã hội, tham gia các hoạt động xã hội, đảm bảo tái sản xuất tự nhiên lao động,….. Vì vậy, thể lực của con người được xem như là yếu tố sản xuất, kinh doanh theo những chừng mực nhất định, tùy thuộc vào thực trạng thể lực con người theo đặc tính chung (giới tính, tuổi tác…) và những biểu hiện cụ thể của từng người (phát triển bình thường hay bị tàn tật….) và từng trạng thái kinh tế xã hội của từng nước.

Chính vì vậy, số lượng sức lao động và số lượng nguồn lao động nói chung, ở nông thôn nói riêng được đo bằng số lượng người lao động theo những quy định nhất định, được gọi là lao động quy đổi. Sỡ dĩ số lượng nguồn lao động được đo bằng lao động quy đổi vì nó bao gồm nhiều loại lao động khác nhau. Bộ phận cấu thành quan trọng nhất của nguồn lao động là nguồn lao động trong độ tuổi quy định gọi tắt là lao động trong độ tuổi lao động.

Theo quy định chung, độ tuổi lao động tính từ 16 đến 60 đối với nam và 16 đến 55 đối vói nữ. Tuy là trong độ tuổi lao động, nhưng vì nguồn lao động là toàn thể những thành viên trong xã hội có khả năng tham gia lao động, nên chỉ tính những người có khả năng lao động. Vì vậy, những người tàn tật không còn khả năng lao động, mặc dù trong độ tuổi quy định nhưng không được tính vào số lượng nguồn lao động.

Ngoài những người trong độ tuổi quy định, số lượng nguồn lao động còn bao gồm những người ngoài độ tuổi lao động nhưng thực tế tham gia lao động. Theo quy định hiện hành, ngoài độ tuổi lao động bao gồm:

Trên độ tuổi quy định: Nam 61 tuổi trở lên, nữ 56 tuổi trở lên.

Dưới độ tuổi lao động: Nam , nữ từ 13 tuổi đến 15 tuổi.

Với cách hiểu trên số lượng nguồn lao động nông thôn hết sức dồi dào, nhất là ở những nước có trình độ phát triển thấp như nước ta. Sở dĩ nguồn lao động nông thôn dồi dào về số lượng là do nông thôn là bộ phận lành thổ rộng lớn, là nơi cư trú phần lớn bộ phận dân cư của đất nước. Mặt khác, trong quá trình phát triển, sự di chuyển dân cư ra khỏi nông thôn phụ thuộc vào sự phát triển của đô thị, các khu công nghiệp và các ngành phi nông nghiệp. Trong đó, tỷ lệ phát triển tự nhiên khá cao; vì vậy, lực lượng lao động ra khỏi nông thôn thường thấp hơn hoặc tương đương với tỷ lệ tăng tự nhiên.

Về chất lượng: nguồn nhân lực trong nông nghiệp, nông thôn nhìn chung có trình độ văn hóa và chuyên môn kỹ thuật thấp và không đồng đều so với các lĩnh vực khác của nền kinh tế quốc dân. Điều đó, chủ yếu do điều kiện sản xuất và sinh sống của dân cư nông thôn chi phối.

Trên thực tế, do cuộc sống ở nông thôn, nhất là vùng núi, vùng sâu, vùng xa hêt sức khó khăn: Không có điều kiện đến trường nên hiện tại một số bộ phận đáng kể (khoảng 6%) số lao động ở nông thôn vẵn chưa biết chữ; một số bộ phận khác do trước đây chỉ mới đi học được một vài năm nên hiện đang bị tái bù chữ; số lao động có trình độ tiểu học trở lên chỉ chiểm 80,31%, trong đó tốt nghiệp phổ thông cơ sở là 33,15%, tốt nghiệp phổ thông trung học là 9,47%. Trình độ văn hóa thấp làm hạn chế khả năng tiếp thu kiến thức và áp dụng tiến bộ khoa học công nghệ vào sản xuát, đồng thời cũng gây không ít khó khăn cản trở cho việc đào tạo để chuyển đổi nghề, chuyển dịch lao động sang các lĩnh vực khác của nền kinh tế. Chính vì vậy, chính sách phát triển nguồn nhân lực nông nghiệp, nông thôn, trước hết là đào tạo nghề cho lao động nông thôn cần khuyến khích, không chỉ các hoạt động đào tạo tập huấn kỹ năng nghề nghiệp mà còn cả hoạt động nâng cao trình độ văn hóa cho người lao động (học chữ, phổ cập tiểu học…), đặc biệt ưu tiên các vùng kinh tế khó khăn, vùng sâu vùng sa. Chính sách cần đảm bảo sao cho người lao động trong những vùng khó khăn không những không trả tiền học phí mà còn được hỗ trợ các tài liệu và dụng cụ học tập cần thiết. Đồng thời, các hoạt động đào tạo phát triển nguồn nhân lực cần được lồng ghép trong các chương trình, dự án phát triển để tạo ra hiệu quả cao và lâu dài cho vốn đầu tư.

Đặc điểm của hoạt động lao động ở nông thôn: Trong nông thôn, sản xuất nông nghiệp là hoạt động chủ yếu. Chính đặc điểm của sản xuất nông nghiệp đã chi phối lao động nông thôn. Nguồn nhân lực trong nông nghiệp, nông thôn (đặc biệt là bộ phận lao động sản xuất trực tiếp) làm việc có tính chất thời vụ. Tính chất thời vụ của sản xuất nông nghiệp, đặc biệt trong sản xuất trồng trọt đòi hỏi việc tổ chức đào tạo nghề, tập huấn các kiến thức liên quan về cây trồng, vật nuôi cũng phải được sắp xếp phù hợp và kịp với thời vụ thì mới đạt hiểu quả cao. Đặc điểm về tính thời vụ này cũng dẫn đến một bộ phận lớn người lao động nông nghiệp, nông thôn cần có thêm việc làm trong những tháng nông nhàn để tăng thu nhập đáp ứng nhu cầu cuộc sống. Vì vậy, đào tạo nghề cho lao động nông thôn cần khuyến khích không chỉ các hoạt động đào tạo, bồi dưỡng kiến thức và kỹ năng làm nghề nông, lâm, ngư (hoạt động khuyến nông, lâm, ngư) mà còn cả các hoạt động khuyến công (tiểu thủ công nghiệp) và khuyến thương (thương mại và dịch vụ) nhằm giúp người lao động có thể tạo thêm việc làm. Đặc biệt, khu vực nông thôn nước ta hiện vẫn còn khoảng 7 triệu lao động chưa có hoặc còn thiếu việc làm, cộng thêm với khoảng 400.000 người đến tuổi lao động mỗi năm, trong khi đó tỷ lệ sử dụng thời gian lao động ở nông thôn mới đạt khoảng 75%, do đó việc đào tạo Nguồn nhân lực nông thôn để đáp ứng yêu cầu chuyển đổi nghè nghiệp ngày càng cao. Vì vậy, đào tạo nghề cho lao động nông thôn là vấn đề rất cần thiết và cấp bách.

b. Đặc điểm về xu hướng biến động của nguồn lao động nông thôn và yêu cầu đào tạo nghề cho lao động nông thôn

Nguồn lao động nông thôn có xu hướng biến động tăng về tự nhiên và biến động giảm do di chuyển cơ học. Xu hướng biến động trên đặt ra những yêu cầu cụ thể đối với phát triển nguồn lao động nông thôn, trước hết là yêu cầu đối với đào tạo nghề cho lao động nông thôn. Cụ thể:

– Nguồn nhân lực nông nghiệp, nông thôn có xu hướng giảm dần cả về số lượng và tỷ trọng trong tổng nguồn nhân lực xã hội.

Đây là xu hướng có tính quy luật của nguồn nhân lực nông nghiệp, nông thôn trong quá trình thực hiện CNH, HĐH đất nước. Xu hướng này vừa giảm số lượng, vừa giảm chất lượng cho nguồn lao động nông thôn. Trong khi đó nhu cầu của xã hội về các sản phẩm nông nghiệp thì vẫn ngày càng tăng cả về số lượng và chất lượng. Điều này đặt ra yêu cầu phải nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nông thôn và ngay cả trong nông nghiệp để có thể đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của xã hội.

Phát triển nguồn nhân lực nông thôn, đặc biệt đào tạo nghề cho lao động nông thôn có vai trò trong việc góp phần thỏa mãn yêu cầu nâng cao chất lượng của nguồn nhân lực. Nó không chỉ đáp ứng yêu cầu nâng cao chất lượng lao động cho những ngành khác, mà còn đáp ứng yêu cầu ngày càng cao trong nông nghiệp. Ngoài khuyến khích hoạt động đào tạo, bồi dưỡng, chính sách phát triển nguồn nhân lực cần phải gắn kết với các chính sách về thù lao và phân phối lại thu nhập để có thể thu hút và giữ lại những lao động có trình độ cao, có sức khỏe tót làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn.

– Nguồn nhân lực nông nghiệp, nông thôn có độ tuổi trung bình ngày càng tăng do các lao động trẻ, khỏe chuyển sang các hoạt động phi nông nghiệp và ra khỏi kinh tế nông thôn.

Độ tuổi trung bình có xu hướng tăng lên của nguồn nhân lực nông nghiệp, nông thôn đặt ra áp lực thực hiện cơ giới hóa nông nghiệp nhằm giảm bớt cường độ lao động. Độ tuổi trung bình cao cũng có thể dẫn đến hạn chế việc tiếp thu ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ mới và thực hiện đổi mới các phương thức sản xuất, kinh doanh trong nông nghiệp. Vì vậy, chính sách phát triển nguồn nhân lực, nhất là đào tạo nghề cho lao động nông thôn phải chú trọng cả việc tăng cường nhận thức của người dân nhằm thay đổi nếp nghĩ, nếp làm đã hình thành và tồn tại từ lâu trong nền nông nghiệp sản xuất nhỏ. Đặc biệt chú trọng các đối tượng với độ tuổi khác nhau để lựa chọn nghề và dạy nghề.

– Nhằm đáp ứng nhu cầu lao động của các lĩnh vực công nghiệp, xây dựng và dịch vụ, đồng thời để kiếm thêm thu nhập cho gia đình, phần đông lao động nam giới chuyển khỏi nông nghiệp và rồi nông thôn đến làm việc trong các khu công nghiệp hoặc ra thành thị. Nguồn Lao động nữ (đặc biệt lao động phụ nữ) ngày càng tăng do họ phải ở lại nông thôn để làm việc đồng áng và chăm lo gia đình. Đây là đặc điểm cần phải xem xét đến trong chính sách phát triển Nguồn nhân lực nông nghiệp, nông thôn nhằm góp phần tạo điều kiện cho lao động phụ nữ được học tập và tiếp cận khoa học cộng nghệ phục vụ sản xuất và đời sống, tránh trường hợp đào tạo, tập huấn không đúng đối tượng.

– Nguồn nhân lực nông nghiệp, nông thôn ngày có tính cơ động hơn: Do lao động nông nghiệp có tính thời vụ nên trong những tháng nông nhàn thường có một số bộ phận lao động nông nghiệp di cchuyển ra thành phố hoặc các khu công nghiệp để kiếm thêm việc làm. Đến thời vụ, họ lại trở về với công việc nhà nông. Sự di chuyển này diễn ra thường xuyên làm cho lao động nông nghiệp trở nên ngày càng năng động hơn để có thể thích nghi với các công việc phi nông nghiệp khi có nhu cầu. Điều này đòi hỏi đào tạo nghề cho lao động nông thôn phải làm sao giúp cho người lao động vừa giỏi về nghề nông nhưng cũng phải biết thêm một hoặc một vài nghề phụ khác để có thêm việc làm tạo thu nhập. Đặc biệt ở nước ta, diện tích đất nông nghiệp bình quân một lao động vào loại thấp nhất thế giới nên việc tạo thêm việc làm phi nông nghiệp cho người lao động nông thôn ngày càng trở nên quan trọng hơn.

1.3.3. Các nhân tố ảnh hưởng hoạt động đào tạo nghề cho lao động nông thôn

a. Các nhân tố về điều kiện tự nhiên

– Về đất đai và các tài nguyên thiên nhiên: Quỷ đất của mỗi quốc gia, mỗi địa phương, mỗi đơn vị kinh doanh xem xét trên khía cạnh số lượng, chất lượng, địa hình… là diều kiện rất quan trọng ảnh hưởng đến quy mô sản xuất – kinh doanh, đến giải quyết việc làm. Đất tham gia vào tất cả hoạt động của các ngành, nền kinh tế quốc dân, tuy ở mỗi ngành đất tham gia với tư cách pháp nhân. Trong công nghiệp và các ngành phi nông nghiệp khác, đất tuy hoạt động với tư cách là chỗ dựa, địa điểm của các công trình, nhưng quỹ đất của các ngành ảnh hưởng rất lớn đến quy mô hoạt động của chúng. Bởi vì công nghiệp và các ngành phi nông nghiệp phần lớn hoạt động ở thành phố, thành thị, hình thành các khu sản xuất tập trung. Đất ở đây có giá trị rất lớn và được quy hoạch phát triển thời gian dài. Bên cạnh yếu tố vốn lớn để có lượng đất mở rộng công trình, giới hạn tự nhiên ở các khu công nghiệp, thành phố thường là giới hạn mở rộng quy mô kinh doanh của doanh nghiệp.

Đối với sản xuất nông nghiệp, đất là tư liệu sản xuất chủ yếu. Đặc biệt, đất đai có những điều kiện sinh hóa khác nhau, chúng lại gắn rất chặt với các điều kiên thời tiết khí hậu. Vì vậy, mỗi loại đất chỉ phù hợp với những loại cây trồng vật nuôi nhất định. Từ sự phân tích trên cho thấy, đất tạo nên hệ thống ngành nghề nông nghiệp, buộc dạy nghề phải tuân thủ. Đất trồng cây gì, dạy nghề gì phải bám sát để đào tạo cho phù hợp.

– Về điều kiện thời tiết khí hậu: Nhìn chung, các điều kiện thời tiết khí hậu có ảnh hưởng đến sự phát triển của tất cả các nganh kinh tế (nhưng mức độ ảnh hưởng có khác nhau), trong đó mức độ ảnh hưởng rõ rệt nhất là sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp và một số ngành khai thác khoáng sản. Sự diễn biến thất thường của thời tiết khí hậu có tác động rất lớn đến sự phát triển kinh tế nông thôn, nhất là nông nghiệp. Vì vậy, nhận biết những diễn biến thất thường của thời tiết khí hậu để hạn chế những tác động xấu, chủ động khai thác những tác động tích cực có vai trò quan trọng. Muốn nhận biết được những diễn biến đó, đòi hỏi người lao động nông nghiệp phải hiểu biết, phải có kiến thức về những lĩnh vực đó. Những diễn biến đó ở mỗi vùng, mỗi địa phương có biểu hiện khác nhau. Như vậy có thể nói, điều kiện thời tiết là nhân tố ảnh hưởng đến đào tạo nghề cho lao động nông thôn. Ngoài ra, các điều kiện thời tiết ở từng vùng nông thôn có ảnh hưởng đến thời vụ sản xuất, vì vậy thời gian tổ chức các lớp đào tạo nghề cho lao động nông thôn phải vào những lúc nông nhàn.

b. Các nhân tố về điều kiện kinh tế – xã hội

Mức tăng trưởng kinh tế: Để phát triển kinh tế – xã hội, các điều kiện như nguồn lao động, cơ sở hạ tầng, vốn… là những điều kiện hết sức quan trọng. Xét trên phương diện phát triển nguồn nhân lực và dạy nghề, các điều kiện kinh tế được biểu hiện ở trình độ phát triển kinh tế hay mức tăng trưởng kinh tế là những nhân tố tác động trực tiếp. Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng về lượng của những đối tượng chính đặc trưng cho một trạng thái kinh tế nhất định. Trước hết là tổng sản phẩm quốc dân (GNP) hay tổng sản phẩm quốc nội (GDP) và có tính đến mối liên quan đến dân số, lao động và việc làm (GNP hoặc GDP tính bình quân đầu người).

Ở Việt Nam, thời kỳ năm 1976-1985 tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân hàng năm chỉ đạt 2.0 %, trong khi tốc độ tăng dân số bình quân hàng năm 2.4%, nên mức thu nhập bình quân đầu người giảm 0.4% mỗi năm. Nền kinh tế tăng trưởng thấp, làm không đủ ăn và dựa vào nguồn lực bên ngoài ngày càng lớn. Trong những năm đó, chế độ phân phối vẫn mang nặng tính chất bình quân đã làm triệt tiêu động lực của người lao động, công bằng xã hội bị vi phạm, kinh tế nước ta rơi vào khủng hoảng nặng nề triền miên.

Từ khi Đảng Cộng Sản Việt Nam khởi sướng công cuộc đổi mới tại Đại Hội VI năm 1986, tốc độ tăng trưởng kinh tế đã được nâng lên đáng kể. Trong 5 năm 1986-1990, thu nhập quốc dân tăng 21%, bình quân mỗi năm tăng 4.2%, thu nhập bình quân đầu người tăng với nhịp độ 1.65% trong điều kiện dân số vẫn tăng cao với nhịp điệu 2.2%. Tốc độ tăng GDP hàng năm thời kỳ 1986-1990 là 3.9%, thời kỳ 1991-1995 là 8.2%, năm 1996: 9.34%, 1997: 8.8%, 1998: 5.8%. cơ cấu kinh tế đã có bước chuyển đổi: tỷ trọng công nghiệp và xây dựng trong GDP từ 22.6% năm 1990 lên 31.7% năm 1997, tỷ trọng dịch vụ từ 36.8% lên 42.0%, tỷ trọng nông nghiệp (gồm cả lâm, ngư nghiệp), từ 38.7% năm 1990 giảm xuống còn 25.7% năm 1997. Nền kinh tế bắt đầu có tích lũy nội bộ, với tỷ lệ tích lũy/GDP tăng dần: 5.1 % năm 1990; 10.1% năm 1991; 13.8% năm 1992; 14.8% năm 1993; 17.8% năm 1995; 23% năm 1996 và 20.0% năm 1997. Kinh tế nông nghiệp vốn nặng về tự cấp, tự túc trước đây cũng đã có tích lũy từ 7-9% GDP mỗi năm. Nền kinh tế có tích lũy đã làm tăng tiềm lực nguồn vốn đầu tư tái sản xuất mở rộng lên trên 27% GDP những năm gần đây.

Sự biến cố tích cực của nền kinh tế đã tạo nguồn thu ngân sách và thu nhập của người dân, trong đó người dân nông thôn tăng khá nhanh. Đây là điều kiện quan trọng tạo nguồn vốn để nhà nước đầu tư xây dựng hạ tầng, trang thiết bị cho hệ thống đào tạo nói chung, hệ thống các cơ sở dạy nghề nói riêng. Mặt khác, thu nhập của người dân tăng dần dẫn đến phần chi cho giáo dục và học nghề của người dân cũng tăng lên. Giáo dục và đào tạo đã trở thành lĩnh vực nhạy cảm và có sức lan tỏa nhanh, vì nó tác động đến hầu hết các bộ phận dân cư xã hội. Vì vậy, điều kiện kinh tế trước hết là sự phát triển kinh tế là nhân tố mạnh và trực tiếp ảnh hưởng đến đào tạo nguồn nhân lực, đặc biệt là đào tạo nghề cho lao động nông thôn.

– Trình độ dân trí: Trình độ dân trí vừa là nhân tố ảnh hưởng vừa là đối tượng của phát triển nguồn nhân lực nói chung, đào tạo nghề cho lao động nông thôn nói riêng. Trình độ dân trí là đối tượng của dạy nghề, vì dạy nghề chính là nội dung của nâng cao dân trí, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Nhưng trình độ dân trí cũng là nhân tố ảnh hưởng đến phát triển nguồn nhân lực và dạy nghề cho người lao động.

Về lý thuyết, trình độ dân trí được phản ảnh bởi trình độ văn hóa, trình độ chuyên môn, ý thức pháp luật và cách thức ứng xử trong các quan hệ xã hội của người dân trong xã hội. Như vậy, trình độ chuyên môn là một nội dung của trình độ dân trí và nâng cao trình độ dân trí là nâng cao trình đọ chuyên môn. Trình độ chuyên môn là nội dung của hoạt động đào tạo nghề. Tuy nhiên trên thực tế, số lượng người cần dạy nghề phụ thuộc vào yêu cầu của xã hội, của các ngành, các lĩnh vực sản xuất kinh doanh cần những người lao động với trình độ chuyên môn nào. Mặt khác, số lượng người cần dạy nghề phụ thuộc vào trình độ của nguồn lao động. Trong điều kiện hầu hết lao động nông thôn có trình độ văn hóa thấp, có kiến thức nghề, nhận thức về kinh tế thi trường còn hạn chế, hiểu biết về ý thức về pháp luật chưa cao. Thực tế đó sẽ tạo nên sức ép rất lớn trong công tác đào tạo nghề cho lao động nông thôn. Vì vậy, việc coi trình độ dân trí là nhân tố ảnh hưởng đến đào tạo nghề cho lao động nông thôn là hoàn toàn có cơ sở. Nhận thức được điều đó cho phép dạy nghề xác định được số lượng người cần học nghề, nội dung, chương trình cần phải dạy và công tác dạy nghề sẽ đáp ứng được nhu cầu của thực tế đòi hỏi.

– Quan hệ kinh tế đối ngoại và bối cảnh kinh tế thế giới: hiện nay với sự tác động của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật và quá trình toàn cầu hóa, sự phân công lao động quốc tế đang diễn ra mạnh mẽ. Trên thế giới xuất hiện việc di chuyển lao động và chuyển giao công nghệ từ quốc gia này qua quốc gia khác. Phát triển thương mại và giao lưu văn hóa cũng diễn ra mạnh mẽ giữa các quốc gia. Để phát triển kinh tế, các quốc gia không thể không mở rông mối quan hệ với các quốc gia khác nhằm phát huy thế mạnh của quốc gia mình và tận dụng những thành tựu và nguồn lực của quốc gia khác.

Đối với vấn đề dạy nghề, quan hệ kinh tế quốc tế góp phần thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào sản xuất trong nước, tạo việc làm và góp phần nâng cao trình độ chuyên môn kỹ thuật cho người lao động. Nó còn góp phần mở mang thị trường đối với các sản phẩm trong nước, thúc đẩy mở rộng quy mô sản xuất thu hút thêm nhiều lao động, tạo thêm nhiều việc làm.

Ngoài ra, đối với các nước đang phát triển, xuất khẩu lao động dư thừa là một hướng đi quan trọng trong giải quyết việc làm và nâng cao tay nghề cho ngườ lao động. Vì vậy, quan hệ kinh tế đối ngoại và bối cảnh kinh tế của thế giới có ảnh hưởng đến đào tạo nghề cho lao động nông thôn. Trên thực tế, các trung tâm GDNN-GDTX ở các địa phương và ở Trung ương đã chú trọng đến dạy nghề phục vụ xuất khẩu.

– Nhân tố về cơ chế chính sách: Cơ chế chính sách là các nhân tố tác động trực tiếp đến các hoạt động đào tạo nghề nói chung, đào tạo nghề cho lao động nông thôn nói riêng. Trong hệ thống chính sách liên quan đến người lao động, chính sách việc làm và đi theo nó là chính sách dạy nghề là một trong những chính sách cơ bản với mọi quốc gia nhằm góp phần đảm bảo an toàn, ổn định và phát triển xã hội. Chính sách việc làm và dạy nghề là một hệ thống có biện pháp có tác động mở rộng cơ hội để lực lượng lao động của toàn xã hội tiếp cận. Dạy nghề là điều kiện để cho người lao động tiếp cận đến việc làm, có việc làm và được thu hút vào các nghề được tạo ra.

LIỆN HỆ:

SĐT+ZALO: 0935568275

E:\DỮ LIỆU COP CỦA CHỊ YẾN\DAI HOC DA NANG\GIAO DUC HOC\K30 DA NANG\TANG NGOC THIEN

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *