Xét xử sơ thẩm vụ án xâm phạm sở hữu từ thực tiễn tỉnh Quảng Ngãi

Xét xử sơ thẩm vụ án xâm phạm sở hữu từ thực tiễn tỉnh Quảng Ngãi

Xét xử sơ thẩm vụ án xâm phạm sở hữu từ thực tiễn tỉnh Quảng Ngãi

1. Tính cấp thiết của đề tài

Điều 102 Hiến pháp năm 2013 quy định Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp. Hoạt động xét xử của TAND được thực hiện theo chế độ hai cấp xét xử: sơ thẩm và phúc thẩm. Theo đó, xét xử sơ thẩm là một từ Hán Việt, có nghĩa là lần đầu tiên đưa vụ án ra xét xử tại một Tòa án có thẩm quyền [4, tr.870]. Xét xử phúc thẩm là việc Tòa án cấp trên trực tiếp xét xử lại vụ án hoặc xét lại quyết định sơ thẩm mà bản án, quyết định sơ thẩm đối với vụ án đó chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo hoặc kháng nghị [30, Đ330]. Trong đó, xét xử sở thẩm là cấp xét xử đầu tiên tại Tòa án và có vai trò hết sức quan trọng bởi nếu như hoạt động xét xử sơ thẩm được tiến hành hiệu quả, đúng trình tự thủ tục, tuân thủ các nguyên tắc tố tụng thì sẽ hạn chế các vụ việc bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm và giám đốc thẩm; từ đó việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự được thực hiện nhanh chóng, hiệu quả, góp phần giảm thiểu tối đa thời gian và chi phí cho việc tiến hành tố tụng của đương sự và Nhà nước.

Quá trình xét xử vụ án hình sự nói chung và hoạt động xét xử vụ án xâm phạm sở hữu trong giai đoạn xét xử sơ thẩm nói riêng là hoạt động tư duy và thực tiễn vô cùng phức tạp, quyết định tính đúng đắn trong phán quyết của Tòa án khi xét xử vụ án hình sự. Thực tiễn cho thấy, trong những năm qua công tác xét xử của Tòa án đã đạt được những kết quả đáng ghi nhận. Hàng năm, các Tòa án đã xét xử hàng ngàn vụ án hình sự theo thủ tục sơ thẩm. Mặc dù vậy, trong hoạt động xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự trong thời gian qua vẫn còn tồn tại nhiều vướng mắc, bất cập vì những lý do khác nhau. Những hạn chế này đã gây ra những thiệt hại về vật chất lẫn tinh thần cho các bên có liên quan, làm giảm uy tín của các Tòa án trong việc thực thiện chức năng thực hiện quyền tư pháp, bảo vệ quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.

Mặt khác, giữa lý luận khoa học pháp lý và thực tiễn áp dụng pháp luật còn có khoảng cách đòi hỏi phải có sự nghiên cứu chuyên sâu để tiếp tục làm sáng tỏ một số nội dung cơ bản của hoạt động xét xử vụ án hình sự và nhất là vụ án xâm phạm sở hữu trong xét xử sơ thẩm để đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp hiện nay. Vì vậy, tác giả chọn đề tài “Xét xử sơ thẩm vụ án xâm phạm sở hữu từ thực tiễn tỉnh Quảng Ngãi” làm đề tài nghiên cứu luận văn thạc sỹ Luật học của mình.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

Việc nghiên cứu đề tài nhằm làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực tiễn của hoạt động xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự của Tòa án nhân dân, góp phần vào công tác xét xử sơ thẩm vụ án xâm phạm sở hữu trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi nói riêng và trong cả nước nói chung đảm bảo đúng pháp luật.

Thông qua phân tích khái niệm cũng như các dấu hiệu pháp lý các tội XPSH trong pháp luật hình sự Việt Nam; thông qua thực tiễn việc xét xử sơ thẩm đối với tội phạm này tại địa bàn tỉnh Quảng Ngãi từ đó đề xuất những giải pháp nhằm hoàn thiện và nâng cao chất lượng hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án xâm phạm sở hữu của Tòa án nhân dân.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Việc nghiên cứu và hoàn thành đề tài “Xét xử sơ thẩm vụ án xâm phạm sở hữu từ thực tiễn tỉnh Quảng Ngãi” phải thực hiện đư­ợc các nhiệm vụ sau:

Nghiên cứu, làm rõ khái niệm, tính chất và vai trò của hoạt động xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự.

Nghiên cứu, phân tích các quy định của pháp luật TTHS về giai đoạn xét xử sơ thẩm tại TAND.

Nghiên cứu, phân tích thực tiễn xét xử sơ thẩm nhóm tội phạm này trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi.

Phân tích những tồn tại, hạn chế trong xét xử về nhóm tội phạm này thông qua thực tiễn và nguyên nhân.

Nghiên cứu, đề xuất những giải pháp về hoàn thiện pháp luật để nâng cao chất lượng hoạt động xét xử sơ thẩm đối với nhóm tội này.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của luận văn là hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án xâm phạm sở hữu từ thực tiễn tỉnh Quảng Ngãi.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

Về nội dung: Do đề tài phạm vi quá rộng nên luận văn giới hạn nội dung nghiên cứu khái quát các quy định về xét xử sơ thẩm vụ án xâm phạm sở hữu tại phiên tòa sơ thẩm theo quy định tại BLTTHS 2015 và quy định về tội danh, quyết định hình phạt của việc xét xử sơ thẩm các vụ án xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt quy định tại BLHS 2015.

Tại chương 2: Xem xét thực tiễn hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt tại Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi từ năm 2016 đến năm 2020.

Về không gian: Tại TAND tỉnh Quảng Ngãi.

Về thời gian: Các số liệu, bản án được thu thập trong khoảng thời gian từ năm 2016 – 2020 (tính theo năm công tác của hệ thống Tòa án nhân dân)

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu

5.1. Phương pháp luận

Nội dung đề tài là nghiên cứu về thực trạng của hoạt động xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự tại Tòa án nhân dân và các quy định sửa đổi, bổ sung tại Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; phân tích các nguyên nhân và đề ra các giải pháp để nâng cao chất lượng hoạt động xét xử sơ thẩm các vụ án về hình sự. Do đó, việc nghiên cứu đề tài mang tính thực tiễn nhiều hơn lý luận.

5.2. Phương pháp nghiên cứu

Đề tài được thực hiện chủ yếu dựa trên phương pháp luận duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, các phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, khảo sát thực tiễn,…; đồng thời kết hợp phương pháp nghiên cứu cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng và Nhà nước về cải cách tư pháp, các văn kiện Đại hội Đảng, các văn bản pháp luật và văn bản hướng dẫn thi hành, các công trình khoa học,… để đảm bảo tính toàn diện và logic trong việc nghiên cứu đề tài.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài

6.1. Ý nghĩa lý luận

Luận văn làm rõ một số vấn đề lý luận về hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án xâm phạm sở hữu. Nghiên cứu thông qua phân tích số liệu thực tiễn trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi từ năm 2016 đến năm 2020. Qua đó thấy được những bất cập, mâu thuẫn.

6.2. Ý nghĩa thực tiễn:

Trên cơ sở đánh giá thực trạng quy định của pháp luật và thực tiễn hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án xâm phạm sở hữu, đề xuất các kiến nghị, giải pháp nhằm nâng cao chất lượng hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án XPSH.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo. Phần nội dung của luận văn gồm 3 chương như sau:

Chương 1: Các vấn đề lý luận và pháp luật về xét xử sơ thẩm vụ án xâm phạm sở hữu.

Chương 2: Thực tiễn xét xử sơ thẩm vụ án xâm phạm sở hữu tại Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi.

Chương 3: Yêu cầu và giải pháp nâng cao chất lượng xét xử sơ thẩm vụ án xâm phạm sở hữu tại Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi.

CHƯƠNG 1
CÁC VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN XÂM PHẠM SỞ HỮU

1.1. Khái niệm và đặc điểm xét xử sơ thẩm vụ án xâm phạm sở hữu

1.1.1. Khái niệm

1.1.1.1. Khái niệm xét xử sơ thẩm vụ án hình sự

Xét xử là giai đoạn trọng tâm của quá trình giải quyết vụ án hình sự, tại đây sự thật của vụ án có được làm sáng tỏ hay không, những vấn đề về bản chất của vụ án cần được làm rõ như xác định một người cụ thể có phạm tội hay không phạm tội, tội danh, hình phạt cần được áp dụng đối với họ như thế nào?

Có quan điểm cho rằng:

Xét xử vụ án hình sự là giai đoạn thứ tư và cuối cùng của hoạt động tố tụng hình sự, là giai đoạn trung tâm và quan trọng nhất của hoạt động TTHS, mà trong đó các Tòa án có thẩm quyền căn cứ vào các quy định của pháp luật TTHS tiến hành”.

“Xét xử là xem xét và xử các vụ án. Xét xử các tội phạm. Việc xét xử của Tòa án”, theo từ điển Tiếng Việt [43, tr.178]

“Xét xử sơ thẩm là lần đầu tiên đưa vụ án ra xét xử tại một Tòa án có thẩm quyền” , theo từ điển Luật học [42, tr.109]. Khái niệm này mang tính khái quát chung của cả xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự, dân sự; v.v… và đã phản ánh được nét đặc trưng của xét xử sơ thẩm là xét xử “lần đầu tiên” một vụ án được đưa ra xét xử và do “một Tòa án có thẩm quyền” tiến hành.

Theo tác giả Đinh Văn Quế: “Xét xử sơ thẩm là việc xét xử lần thứ nhất (cấp thứ nhất) do Toà án được giao thẩm quyền thực hiện theo quy định của pháp luật.”. [22]

Trên cơ sở tham khảo, nghiên cứu các quan điểm nêu trên, tác giả luận văn cho rằng: “Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là giai đoạn độc lập của tố tụng hình sự, trong đó Tòa án có thẩm quyền tiến hành xem xét, giải quyết vụ án, ra bản án, quyết định tố tụng theo quy định của pháp luật”.

1.1.1.2. Khái niệm tội phạm xâm phạm sở hữu

Tội phạm xâm phạm sở hữu là những hành vi nguy hiểm cho xã hội, do người đủ độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự và có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho quan hệ sở hữu.

Theo Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017) thì các tội XPSH quy định các loại hành vi khách quan ở các dạng sau đây:

+ Hành vi chiếm đoạt tài sản là người phạm tội cố ý chuyển dịch một cách trái pháp luật tài sản đang thuộc quyền sở hữu của chủ thể khác thành tài sản “của mình”…

+ Hành vi chiếm giữ trái phép tài sản là hành vi cố tình không giao tài sản do ngẫu nhiên mà chiếm hữu được (ví dụ như: nhặt được, được chuyển khoản nhầm,…) sau khi chủ tài sản hay người quản lý hợp pháp tài sản hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền yêu cầu.

+ Hành vi sử dụng trái phép là vì vụ lợi hoặc vì động cơ cá nhân khác mà khai thác giá trị, giá trị sử dụng các tài sản mà không được phép, không được sự đồng ý của chủ sở hữu hoặc người có chức năng quản lý về nghiệp vụ đối với loại tài sản bị khai thác trái phép đó.

+ Hành vi hủy hoại, làm hư hỏng tài sản là những hành vi được thể hiện thông qua đối tượng tác động làm mất hoàn toàn giá trị, giá trị sử dụng của tài sản (hủy hoại); làm mất giá trị từng phần có thể khôi phục được (làm hư hỏng)

+ Hành vi vô ý gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản là thiếu trách nhiệm gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản của nhà nước hoặc vô ý gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản.

Các hành vi XPSH có thể được thể hiện bằng hành động hoặc không hành động. Riêng các tội phạm có tính chất chiếm đoạt chỉ có thể được thực hiện bằng hành động. Cách thức và hình thức chiếm đoạt rất đa dạng và được mô tả, khái quát thành những tội danh cụ thể.

1.1.1.3. Khái niệm xét xử sơ thẩm vụ án xâm phạm sở hữu

Từ sự phân tích khái niệm các nội dung có liên quan phía trên về xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, có thể hiểu xét xử sơ thẩm các vụ án xâm phạm sở hữu, cũng phải tuân thủ các quy định chung nhất của Bộ luật tố tụng hình sự và Bộ luật hình sự. Tuy nhiên về kỹ năng xét xử, thì mỗi nhóm tội cũng có những đặc điểm riêng như khi xét xử các vụ án xâm phạm sở hữu cần chú ý tới đối tượng bị xâm phạm, tầm quan trọng của khách thể đặc biệt trong nhóm các tội xâm phạm về sở hữu có những tội mà ở đó hành vi phạm tội xâm phạm tới cả hai khách thể là quyền sở hữu và quyền nhân thân như tội cướp tài sản Điều 168; tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản Điều 169; tội cưỡng đoạt tài sản Điều 170; tội cướp giật tài sản Điều 171. Xem xét tới các phương thức, thủ đoạn phạm tội, chủ thể thực hiện tội phạm, nguyên nhân và điều kiện phạm tội, động cơ mục đích phạm tội để có được những kỹ năng xét xử toàn diện các vụ án xâm phạm sở hữu. Do vậy có thể hiểu xét xử sơ thẩm các vụ án xâm phạm sở hữu là: “Xét xử sơ thẩm vụ án xâm phạm sở hữu là việc Tòa án thông qua phiên toà xem xét và phán quyết, toàn diện hành vi xâm phạm sở hữu mà Viện kiểm sát đã truy tố và Toà án đã quyết định đưa ra xét xử theo trình tự, thủ tục mà pháp luật tố tụng hình sự quy định”.

1.1.2. Đặc điểm

Xét xử sơ thẩm vụ án xâm phạm sở hữu có các đặc điểm cơ bản sau:

Tại Điều 2 Hiến pháp năm 2013 khẳng định:

1. Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân.

2. Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức. 

3. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.

Là cơ quan duy nhất có chức năng xét xử, Tòa án nhân dân có quyền phán quyết cuối cùng trong hoạt động tố tụng, nhân danh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam để xác định tội phạm, hình phạt và để phân xử, giải quyết các tranh chấp về quyền và nghĩa vụ của các chủ thể quan hệ pháp luật trong đời sống xã hội thường ngày.

Với vị trí và vai trò đặc biệt quan trọng như vậy, hoạt động xét xử vụ án xâm phạm sở hữu của Tòa án nhân dân càng chính xác, khách quan, công bằng, nghiêm minh thì càng thể hiện bản chất ưu việt của Nhà nước xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân. Ngược lại, những sai lầm trong hoạt động xét xử các vụ án hình sự của Tòa án, đặc biệt là việc xét xử oan, sai đều là những sai lầm nghiêm trọng và phải trả giá rất đắt. Do đó, tính nghiêm minh và sự công bằng trong hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân luôn là một trong những biểu hiện cụ thể nhất, sinh động nhất của nền công lý đất nước và là một trong những thước đo sự tiến bộ trong việc thực hiện các quyền tự do, dân chủ của công dân và các quyền của con người dưới chế độ xã hội chủ nghĩa.

Tòa án là cơ quan duy nhất được tiến hành hoạt động xét xử vụ án hình sự. Trong hoạt động xét xử án hình sự thì chỉ duy nhất do cơ quan Tòa án tiến hành. Mục đích của hoạt động xét xử vụ án hình sự là phải xem xét toàn bộ nội dung của vụ án, thông qua bản Cáo trạng của Viện kiểm sát, trên cơ sở kiểm tra một cách toàn diện, khách quan các tài liệu, chứng cứ được tiến hành thu thập trong quá trình điều tra và đặc biệt là thực tế diễn biến của phiên tòa để Tòa án mà ở đây là Hội đồng xét xử xem xét, quyết định hành vi của một người có phải là tội phạm hay không phải là tội phạm. Đặc điểm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trong hoạt động xét xử các vụ án hình sự của TAND còn thể hiện ở chỗ, việc ban hành bản án. Đây là đặc điểm đòi hỏi Thẩm phán và Hội thẩm Tòa án nhân dân phải tôn trọng sự thật khách quan của các tình tiết vụ việc và tính tối thượng của luật pháp. Mặc dù trong cuộc sống hàng ngày khi không tham gia xét xử, thì người Thẩm phán là cán bộ, công chức của cơ quan Tòa án cũng phải tuân thủ mọi quy định của cơ quan và sự quản lý điều hành của Chánh án. Cũng tương tự như vậy, người Hội thẩm Tòa án nhân dân khi không tham gia xét xử thì cũng sống và làm việc bình thường như những công dân khác trong xã hội. Nhưng khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm Tòa án nhân dân phải thi hành bổn phận theo pháp luật mà không bị chi phối bởi bất kỳ yếu tố nào, không được phép xử án theo mệnh lệnh của bất kỳ ai, ngoài mệnh lệnh của các quy định pháp luật. Thẩm phán là một chức danh cao quý, được chủ tịch nước bổ nhiệm để thực hiện quyền tư pháp, quyết định chất lượng xét xử của Tòa án, là nền tảng của một Tòa án công bằng, vô tư, khách quan và thượng tôn pháp luật. Để bảo đảm tính độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, đòi hỏi đội ngũ Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân phải luôn trung thành với Tổ quốc, gương mẫu chấp hành Hiến pháp và pháp luật, phải là tấm gương về phụng công thủ pháp, chí công vô tư, liêm chính, độc lập, khách quan, công bằng, tận tụy với công việc.Thẩm phán phải có sự vững vàng về lập trường tư tưởng chính trị, sự am hiểu pháp luật và đời sống xã hội, cần phải kết hợp trái tim nóng và cái đầu lạnh để từ đó suy xét một cách khách quan, thận trọng, phải xử sự bản lĩnh, đúng mực, khoan dung, nhân ái, lịch thiệp và thận trọng trên cơ sở lấy pháp luật và việc tuân theo pháp luật làm tiêu chí phán quyết.

Hoạt động xét xử vụ án xâm phạm sở hữu của Tòa án nhân dân được tiến hành tại phiên tòa và mang tính công khai

Khác với hoạt động của các cơ quan nhà nước khác có thể tiến hành ở mọi địa điểm trong cơ quan thậm chí cả ngoài cơ quan, tùy theo chức năng, nhiệm vụ của từng cơ quan nhà nước. Nhưng đối với hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân thì chỉ được tiến hành tại phiên tòa kể cả xét xử tại trụ sở hoặc xét xử lưu động tại các địa phương. Phiên tòa xét xử trở thành một thuật ngữ riêng biệt của Tòa án nhân dân với các nghi thức trang trọng, các thủ tục chặt chẽ thể hiện quyền uy của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và được tiến hành một cách công khai. Phiên tòa xét xử là nơi diễn ra các hoạt động mang tính tố tụng đặc biệt mà ở đó, Hội đồng xét xử với Quốc huy của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam luôn luôn là biểu tượng không thể thiếu được để minh chứng cho quyền nhân danh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khi Tòa án nhân dân tiến hành xét xử các vụ án. Các vị trí, các chỗ ngồi được bố trí một cách phù hợp với tư cách của những người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng. Theo đó, chỗ ngồi của Hội đồng xét xử là ở vị trí cao nhất trong phòng xét xử. Các thủ tục công bố quyền và nghĩa vụ, thủ tục xét hỏi, tranh luận, nghị án, công bố bản án… luôn luôn được pháp luật tố tụng quy định chặt chẽ, chi tiết và yêu cầu những người áp dụng pháp luật phải tuân thủ tuyệt đối và nghiêm ngặt. Nó hoàn toàn không giống nơi nghị bàn của cơ quan dân cử, cũng không giống với nơi họp bàn, giải quyết công việc thường xuyên hàng ngày của cơ quan hành pháp. Phiên tòa xét xử của Tòa án nhân dân cũng là nơi quần chúng nhân dân, các cơ quan ngôn luận, báo chí trực tiếp chứng kiến và mong mỏi sự thật khách quan của vụ án được làm sáng tỏ thông qua các thủ tục dân chủ, công khai. Phiên tòa xét xử là nơi các quyền của con người, các quyền tự do dân chủ của công dân, lợi ích của Nhà nước xã hội chủ nghĩa được bảo vệ; là nơi sự thật khách quan của vụ án được xác định và là nơi công lý xã hội chủ nghĩa và công bằng xã hội được thực hiện một cách dân chủ, triệt để và nghiêm túc. Theo quy định của pháp luật tố tụng hiện hành, chỉ các vụ án cần giữ gìn bí mật nhà nước, thuần phong mỹ tục của dân tộc hoặc để giữ bí mật của các đương sự theo yêu cầu chính đáng của họ thì Tòa án xét xử không công khai. Tùy theo từng vụ việc và theo yêu cầu của người tham gia tố tụng mà Tòa án có thể quyết định xét xử kín toàn bộ hay một phần vụ án… Dù xét xử không công khai các thủ tục như xét hỏi, tranh luận nhưng phần tuyên án phải công khai. Việc kiểm tra, đánh giá chứng cứ, tài liệu đã thu thập được tiến hành công khai tại phiên tòa với các thủ tục xét hỏi, tranh luận theo quy định của pháp luật tố tụng là những biểu hiện sinh động cụ thể về tính dân chủ của phiên tòa. Là một phiên tòa xét xử án hình sự hay một phiên tòa xét xử các vụ án dân sự, hành chính đều diễn ra dưới sự điều khiển của Thẩm phán chủ tọa phiên tòa, có người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng và quần chúng nhân dân quan tâm dự theo dõi. Tính công khai của phiên tòa thể hiện ở chỗ lịch xét xử được công bố công khai trước đó ít nhất từ 15 đến 20 ngày, giấy triệu tập công khai, giờ xử án công khai và mọi công dân từ mười sáu tuổi trở lên đều có thể đến theo dõi phiên tòa xét xử chỉ với một điều kiện duy nhất là phải tôn trọng và chấp hành nội quy phòng xử án. Trong vụ án hình sự, bị cáo được tự do trình bày ý kiến của mình về việc buộc tội của cơ quan công tố, được quyền đưa ra những tài liệu chứng cứ, đề nghị Hội đồng xét xử triệu tập thêm những người mà bị cáo cho là cần thiết để chứng minh mình không phạm tội hoặc có phạm tội nhưng không đến mức độ như quy kết của bản Cáo trạng. Luật sư được đưa ra các tài liệu, chứng cứ và tranh luận với đại diện Viện kiểm sát để thực hiện quyền bào chữa cho các bị cáo. Cũng chính tính chất công khai, dân chủ của phiên tòa lại tạo điều kiện hết sức thuận lợi cho việc giám sát của các tổ chức xã hội, của quần chúng nhân dân ngoài nhiệm vụ kiểm sát xét xử trực tiếp của cơ quan Viện kiểm sát. Các quy trình áp dụng pháp luật trong hoạt động xét xử, đặc biệt là việc ban hành các quyết định, các bản án của Tòa án nhân dân luôn luôn chịu sự nhận xét, giám sát của công luận và đông đảo quần chúng nhân dân. Theo đó, trình độ, năng lực, đạo đức và kỹ năng nghề nghiệp của người Thẩm phán cũng được thể hiện công khai và chịu sự giám sát tương tự.

Hoạt động xét xử của Tòa án chỉ do Thẩm phán và Hội thẩm TAND tiến hành

Thẩm phán và Hội thẩm Tòa án nhân dân là các chức danh được Hiến pháp và pháp luật giao quyền tiến hành áp dụng pháp luật trong hoạt động xét xử các vụ án hình sự, dân sự, hành chính.

Do đó, pháp luật và thực tiễn đời sống xã hội đòi hỏi rất cao ở người Thẩm phán và Hội thẩm, đặc biệt là người Thẩm phán về trình độ, năng lực, đạo đức phẩm chất và tính trung thành với Tổ quốc, với nhân dân. Người Thẩm phán trước yêu cầu của nghề nghiệp đặc thù và để đáp ứng yêu cầu mới trong giai đoạn hiện nay cần có đầy đủ các đức tính “nhân, nghĩa, trí, dũng, liêm” cũng như phải gần dân, hiểu dân, giúp dân và học dân như lời Bác Hồ đã dạy. Hoạt động xét xử của Tòa án là hoạt động áp dụng các quy định, các chế tài có liên quan trực tiếp đến các quyền con người, các quyền tự do, dân chủ của công dân như tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản… nên người Thẩm phán và Hội thẩm Tòa án nhân dân bên cạnh những yêu cầu cần phải đạt ở mức độ cao như ý thức pháp luật, ý thức chính trị, đạo đức, kinh nghiệm sống… thì còn phải trở thành biểu tượng điển hình của việc tuân thủ triệt để Hiến pháp và pháp luật. Trong hoạt động xét xử của Tòa án thì Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân luôn phải tôn trọng nguyên tắc “xét xử tập thể và quyết định theo đa số”, đây là nguyên tắc rất quan trọng trong việc bảo đảm chất lượng trong hoạt động xét xử của Tòa án. Nó cũng giúp cho việc lựa chọn các quy định của pháp luật để áp dụng chính xác hơn, nhanh nhạy hơn qua các mức độ trình độ nhận thức pháp luật của từng thành viên của hội đồng xét xử.

1.2. Vai trò, ý nghĩa của xét xử sơ thẩm vụ án xâm phạm sở hữu

1.2.1. Vai trò của xét xử sơ thẩm vụ án xâm phạm sở hữu

Xét xử là chức năng quan trọng nhất của Tòa án nói riêng và của toàn bộ quá trình TTHS nói chung nhằm áp dụng các biện pháp cần thiết do luật định để kiểm tra lại tính hợp pháp và có căn cứ của toàn bộ các quyết định mà CQĐT và VKS đã thông qua trước khi chuyển vụ án hình sự sang Tòa án.

Hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án xâm phạm sở hữu có những đặc điểm tương đồng so với hoạt động xét xử các vụ án hình sự như sau:

Thứ nhất: Hoạt động xét xử các VAHS với vai trò kiểm tra, kiểm soát xã hội

Nhân danh Nhà nước và giải quyết tranh chấp trong đời sống xã hội kiểm tra, kiểm soát xã hội là một trong những vai trò, chức năng cơ bản của nhà nước. Bên cạnh việc thực hiện quyền lực nhà nước trong giám sát tối cao đối của cơ quan lập pháp cũng như việc kiểm tra việc thực hiện pháp luật trên quy mô toàn xã hội một cách thường xuyên của cơ quan hành pháp. Thì hoạt động xét xử của Tòa án cũng là hoạt động kiểm tra, kiểm soát xã hội với tư cách nhân danh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thể hiện như sau:

Có quyền nhân danh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, để ra những phán quyết, bảo đảm cho công lý được thực thi.

Thông qua hoạt động xét xử cùng với việc ra bản án nhân danh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Hội đồng xét xử có quyền ra kiến nghị đối với các Cơ quan, tổ chức hữu quan áp dụng những biện pháp cần thiết để khắc phục những nguyên nhân và điều kiện phát sinh tội phạm tại các cơ quan, tổ chức đó.

Thứ hai: Có vai trò bảo vệ pháp luật

Toà án là thiết chế trung tâm của quyền tư pháp do vậy, hoạt động xét xử các vụ án nói chung và các vụ án hình sự nói riêng, có vị trí và vai trò đặc biệt trong việc bảo vệ pháp luật.

Vì thế, bảo vệ pháp luật thông qua hoạt động xét xử không còn đơn thuần là phục vụ nhu cầu quản lý xã hội của nhà nước mà trở thành hoạt động quan trọng nhất, cao nhất và có tính cuối cùng để bảo vệ các giá trị cao đẹp của Nhà nước pháp quyền, bảo vệ công bằng, bình đẳng xã hội, quyền tự do dân chủ của công dân, quyền con người và dân chủ XHCN.

Thứ ba: Có vai trò bảo đảm sự công bằng

Quyền được xét xử công bằng là một trong những quyền cơ bản của con người được ghi nhận rất sớm trên thế giới cũng như ở Việt Nam, được ghi nhận trong Bộ luật Nhân quyền quốc tế, Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền của Liên Hợp quốc (UDHR), trong Công ước về các quyền dân sự, chính trị (ICCPR). Quyền được xét xử công bằng là một tập hợp các đảm bảo tố tụng nhằm đảm bảo quá trình xét xử được công bằng, bao gồm các khía cạnh như được bình đẳng trước tòa án, được suy đoán vô tội, không bị áp dụng hồi tố, không bị bỏ tù chỉ vì không hoàn thành nghĩa vụ theo hợp đồng… Quyền này sau đó cũng đã được quy định trong nhiều công ước quốc tế khác như: Công ước Châu Âu về quyền con người, quy chế tòa án hình sự quốc tế.

Với chức năng là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thì vấn đề công bằng trong hoạt động xét xử của Tòa án nói chung và trong hoạt động xét xử vụ án hình sự nói riêng, có vai trò đặc biệt quan trọng trong một nhà nước pháp quyền, là nhân tố quan trọng của nhà nước pháp quyền; là công cụ, phương tiện hữu hiệu để bảo vệ quyền con người; là cơ sở của an ninh con người, phát triển kinh tế -xã hội. Để bảo đảm sự công bằng của công dân khi bị đưa ra xét xử thì trong hoạt động xét xử các vụ án hình sự của Tòa án phải bảo đảm xét xử đúng với những hành vi mà họ gây ra, không ảnh hưởng, hạn chế đến các quyền khác của họ. Ngược lại, một người không được đảm bảo quyền được xét xử công bằng, sẽ làm hạn chế, ảnh hưởng đến các quyền khác của họ. Nếu trong hoạt động xét xử không bảo đảm được sự công bằng thì sẽ để lại nhiều hậu quả nghiêm trọng đến việc thụ hưởng các quyền con người như quyền sống, quyền tự do, quyền tài sản, quyền nhân thân… Nhà nước Việt Nam hiện đang trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, nền dân chủ ngày càng được đề cao. Và để đạt được mục tiêu đi lên nhà nước pháp quyền XHCN, thì Nhà nước phải có nhiều biện pháp để đảm bảo việc thượng tôn pháp luật trong xã hội. Việc đảm bảo quyền được xét xử công bằng là một trong những biện pháp đó, là mục tiêu mà nhà nước hướng đến trong quá trình đi lên nhà nước pháp quyền. Hoạt động xét xử có vai trò bảo đảm sự công bằng, thể hiện ngay trong các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự 2003 được sửa đổi, bổ sung năm 2015, thể hiện ở việc đảm bảo sự tham gia của những người tham gia tố tụng. Có thể khẳng định, hơn ở đâu hết, tại phiên tòa dưới sự điều hành của Hội đồng xét xử, quyền và nghĩa vụ tố tụng của những người tham gia tố tụng được quy định và được đảm bảo thực hiện đầy đủ nhất bằng thủ tục tố tụng trực tiếp, tất cả diễn biến của phiên tòa, từ khai mạc, làm thủ tục, công bố Cáo trạng, thủ tục thẩm vấn, tranh luận đều được diễn ra công khai. Tất cả những người tham gia tố tụng đều được quyền đưa ra những tài liệu, đồ vật, những chứng cứ, tài liệu và tranh luận bình đẳng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.

Thứ tư: Có vai trò bảo đảm quyền con người

Lúc sinh thời, khi nói về quyền con người của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn có một ước vọng đó là: “Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”. Chính vì vậy, tại bản Hiến pháp đầu tiên năm 1946 và các bản Hiến pháp sau này vấn đề quyền con người luôn được đề cập và là quyền cơ bản của Nhà nước ta.

Chỉ có thông qua hoạt động xét xử công khai, Hội đồng xét xử của Tòa án nhân dân mới có thẩm quyền xử lý các vi phạm pháp luật hình sự bằng chế tài nhà nước là hệ thống hình phạt quy định tại Bộ luật hình sự, giải quyết các tranh chấp bằng quyền lực nhà nước đều thuộc thẩm quyền của Tòa án. Hiến pháp 2013 quy định rõ ràng, cụ thể nhiệm vụ của TAND.

Là cơ quan có chức năng ra phán quyết về các vi phạm pháp luật nói chung và pháp luật hình sự nói riêng, Hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân bằng một Hội đồng xét xử có vai trò rất quan trọng trong bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ lợi ích nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.

Hoạt động xét xử của Tòa án có vai trò bảo vệ quyền con người bằng việc trừng phạt công bằng người thực hiện hành vi phạm tội. Tòa án thông qua hoạt động xét xử có quyền định tội và áp dụng hình phạt đối với tội phạm. Do vậy, hoạt động xét xử các vụ án hình sự không chỉ là hoạt động trừng phạt tội phạm mà còn là phương thức bảo vệ quyền con người của người bị buộc tội

Vai trò của hoạt động xét xử trong việc bảo vệ quyền con người còn được thể hiện bằng cách khôi phục quyền và lợi ích của cá nhân thông qua hoạt động xét xử. Tòa án thông qua hoạt động xét xử có quyền và trách nhiệm buộc các chủ thể khác (kể cả cơ quan nhà nước, cán bộ công chức nhà nước) phải khôi phục các quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân khi họ không thực hiện, thực hiện không đúng, không đầy đủ hoặc gây thiệt hại cho các chủ thể họ xâm phạm.

Thứ năm: Nơi tốt nhất thực hiện việc tuyên truyền, giáo dục pháp luật

Hoạt động xét xử tại phiên tòa là hoạt động trọng tâm thể hiện đầy đủ nhất bản chất quá trình tố tụng nói chung và xét xử nói riêng. Phiên tòa có sự tham gia đầy đủ của cơ quan tiến hành tố tụng là Tòa án và Viện kiểm sát, những người tiến hành tố tụng, những người tham gia tố tụng với địa vị pháp lý được xác định trong tố tụng hình sự.

Đối với các phiên tòa xét xử lưu động thì vai trò tuyên truyền, giáo dục, phổ biến pháp luật của Hội đồng xét xử càng được coi trọng điều đó thể hiện ở chỗ: thông qua hoạt động xét xử lưu động thì công tác tuyên truyền, giáo dục và phổ biến pháp luật là phương pháp dễ hiểu nhất, truyền tải được tới nhiều người, với nhiều lứa tuổi, tầng lớp khác nhau giúp mọi tầng lớp nhân dân hiểu được các quy định cấm đoán của pháp luật, giúp người dân nâng cao sự hiểu biết của đông đảo quần chúng nhân dân về các quy định của pháp luật, làm cho người dân hiểu được hành vi của bị cáo (hoặc các bị cáo) là vi phạm pháp luật và phải chịu hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ của hành vi phạm tội đó.

1.2.2. Ý nghĩa của xét xử sơ thẩm vụ án xâm phạm sở hữu

Hoạt động xét xử các vụ án hình sự có những ý nghĩa cơ bản sau:

Thứ nhất: Hoạt động xét xử sơ thẩm VAHS là giai đoạn thứ tư và là giai đoạn trung tâm và quan trọng nhất của hoạt động TTHS, mà trong đó cấp Tòa án có thẩm quyền căn cứ vào các quy định của pháp luật TTHS tiến hành xem xét về thực chất vụ án, đồng thời trên cơ sở kết quả tranh tụng công khai và dân chủ của hai bên (buộc tội và bào chữa) phán xét về vấn đề tính chất tội phạm (hay không) của hành vi, có tội (hay không) của bị cáo và cuối cùng, tuyên bản án (quyết định) của Tòa án có hiệu lực pháp luật nhằm giải quyết vấn đề trách nhiệm hình sự một cách công minh và đúng pháp luật, có căn cứ và đảm bảo sức thuyết phục.    

Thứ hai: Hoạt động xét xử là chức năng quan trọng nhất của Tòa án nói riêng và của toàn bộ quá trình TTHS nói chung nhằm áp dụng các biện pháp cần thiết do luật định để kiểm tra lại tính hợp pháp và có căn cứ của toàn bộ các quyết định mà CQĐT và VKS đã thông qua trước khi chuyển VAHS sang Tòa án.

Thứ ba: Thông qua hoạt động xét xử vụ án hình sự, Hội đồng xét xử của Tòa án với tính chất là cơ quan trọng tài tiến hành những hoạt động điều tra công khai trực tiếp, khách quan, toàn diện, đầy đủ những tài liệu, chứng cứ mang tính buộc tội hoặc gỡ tội mà cơ quan điều tra, Viện kiểm sát đã thu thập trước đó cũng như được thu thập tại giai đoạn xét xử, bằng biện pháp thẩm vấn công khai, tạo sự bình đẳng, dân chủ trong tranh tụng nhằm làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án để tuyên một bản án đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, tránh bỏ lọt tội phạm và kết án oan người vô tội.     

Thứ tư: Hoạt động xét xử là một giai đoạn tố tụng hình sự có ý nghĩa là hoạt động trọng tâm và quan trọng để tăng cường pháp chế, bảo vệ các quyền và tự do của công dân trong các giai đoạn xét xử của Tòa án nói riêng và toàn bộ hoạt động tư pháp hình sự của Nhà nước nói chung thông qua các giai đoạn tố tụng khác nhau, góp phần có hiệu quả vào cuộc đấu tranh phòng và chống tội phạm trong toàn xã hội.

Thứ năm: Hoạt động xét xử của Tòa án mang tính quyền lực nhà nước, chỉ có Tòa án trong hoạt động xét xử của mình thông qua Hội đồng xét xử mới được quyền nhân danh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tiến hành các hoạt động xét xử nhằm mục tiêu bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, thực hiện quyền tư pháp quốc gia, cũng như nhân danh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam hạn chế quyền tự do thậm chí tước đoạt cả mạng sống của một con người. Biểu hiện công lý của Tòa án, thông qua hoạt động xét xử chính là sự công bằng, khách quan, vô tư và tình người.

LIỆN HỆ:

SĐT+ZALO: 0935568275

E:\DỮ LIỆU COP CỦA CHỊ YẾN\LUAN VAN VIEN HAN LAM\VIEN HAN LAM DOT 12\SAU BAO VE/ NGO HONG NGA

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *