Nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội VPQĐ về TGGTĐB

Nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội VPQĐ về TGGTĐB

Nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội VPQĐ về TGGTĐB trên địa bàn thành phố Đà Nẵng

1. Tính cấp thiết của luận văn

Thành phố Đà Nẵng nằm ở khu vực miền Trung của đất nước, giáp với ba di sản văn hóa thế giới là cố đô Huế (tỉnh Thừa Thiên Huế), phố cổ Hội An và thánh địa Mỹ Sơn (tỉnh Quảng Nam). Với diện tích 1.284,4 km2 và dân số khoảng 1.230.000 người, Đà Nẵng gồm 8 đơn vị hành chính cấp huyện đó là 6 quận (Liên Chiểu, Thanh Khê, Hải Châu, Sơn Trà, Ngũ Hành Sơn, Cẩm Lệ) và 2 huyện (Hòa Vang và Hoàng Sa), ngoại trừ quận Cẩm Lệ, huyện Hòa Vang, các quận khác đều giáp biển Đông. Đây còn là đầu mối giao thông lớn nhất khu vực miền Trung – Tây Nguyên về đường sắt Bắc-Nam, đường thủy, đường bộ (quốc lộ 1A, 14B), sở hữu cảng hàng không quốc tế Đà Nẵng. Cùng với đó, cảng Tiên Sa là cửa ngõ ra biển quan trọng của Tây Nguyên, Lào, Campuchia, Thái Lan, Myanma và là điểm đầu – cuối của tuyến Hành lang kinh tế Đông – Tây (EWEC) và các quốc gia ASEAN.

Trong những năm qua, nhờ tập trung đầu tư cơ sở hạ tầng, kết cấu giao thông đường bộ theo hướng đồng bộ, có trọng tâm, trọng điểm mà Đà Nẵng đã có 2.440 tuyến đường với tổng chiều dài 1.463,63 km và 74 cây cầu với 181 nút đèn tín hiệu giao thông. Kinh tế – xã hội phát triển kéo theo lượng phương tiện cơ giới gia tăng nhanh. Thống kê mới nhất của Phòng CSGT Công an Đà Nẵng cho thấy thành phố đang có 966.752 xe mô tô, gắn máy và 96.600 xe ô tô cá nhân. Tuy nhiên, chính điều này cũng làm nảy sinh nhiều vấn đề phức tạp, trong đó có tình hình tai nạn giao thông (TNGT) và tình hình tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ (VPQĐ về TGGTĐB).

Đơn cử, trong giai đoạn 2016 – 2020, Tòa án Nhân dân hai cấp tại Đà Nẵng đã xử sơ thẩm 270 vụ VPQĐ về TGGTĐB với 276 bị cáo, tức trung bình mỗi năm có 54 vụ với 55,2 bị cáo đã bị xét xử về tội danh nói trên. So với tổng số các vụ phạm tội và số bị cáo đã bị xét xử trên địa bàn, số vụ phạm tội VPQĐ về TGGTĐB chiếm 4,43% và số bị cáo chiếm 4,53%.

Con số thống kê cũng cho thấy, trong số 295 vụ phạm tội VPQĐ về TGGTĐB được khởi tố, điều tra chỉ có 270 vụ được xét xử (chiếm 91,52%), số còn lại đã đình chỉ điều tra. Mặt khác việc áp dụng pháp luật trong xử lý vi phạm và tội phạm ở lĩnh vực này chưa nghiêm, chưa triệt để, còn nặng về xử phạt hành chính và thỏa thuận bồi thường dân sự, một số vụ không được tiến hành khởi tố, điều tra để truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật, ý thức của đại bộ phận quần chúng Nhân dân vẫn còn xem nhẹ các hành vi vi phạm luật giao thông đường bộ, tư tưởng “trọng tình hơn trọng lý” nên việc áp dụng pháp luật còn nhiều vướng mắc. Điều này ảnh hưởng không nhỏ đến yêu cầu xử lý đúng người, đúng tội, đúng pháp luật và tất nhiên ảnh hưởng không nhỏ đến công tác phòng ngừa, đấu tranh chống tội VPQĐ về TGGTĐB trên địa bàn Đà Nẵng, và thực tế tình hình tội này đang diễn biến phức tạp.

Ngoài hạn chế trong xử lý về hình sự đối với tội này như đã nói ở trên, còn có cả những nguyên nhân và điều kiện khác, như hạn chế của pháp luật, hạn chế trong nhận thức nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm (THTP) nói chung và của tình hình tội VPQĐ về TGGTĐB nói riêng, cần được nghiên cứu khắc phục.

Trong khi đó, về mặt lý luận, nguyên nhân và điều kiện của THTP mới chỉ được đề cập nghiên cứu đối với tội khác, hoặc đối với THTP nói chung trên địa bàn thành phố Đà Nẵng. Nói cách khác, cho đến nay, chưa có công trình nào đề cập một cách toàn diện, chuyên sâu về nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội VPQĐ về TGGTĐB trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.

Thực tế này đặt ra yêu cầu phải nghiên cứu làm rõ hơn, từ đó, đề xuất hệ thống các giải pháp nhằm khắc phục một cách có hiệu quả, tiến tới kiềm chế, kéo giảm và dần loại bỏ THTP này ra khỏi địa bàn. Do đó, học viên lựa chọn đề tài “Nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội VPQĐ về TGGTĐB trên địa bàn thành phố Đà Nẵng” để làm luận văn tốt nghiệp Thạc sỹ ngành Luật học.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

Qua phân tích những vấn đề lý luận, thực tiễn nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội VPQĐ về TGGTĐB trên địa bàn thành phố Đà Nẵng, Luận văn đề xuất một số giải pháp nhằm khắc phục những nguyên nhân và điều kiện đó, tiến tới kiềm chế, kéo giảm và dần loại bỏ THTP này ra khỏi địa bàn thành phố Đà Nẵng.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu 

Để đạt được mục đích trên, đề tài phải thực hiện một số nhiệm vụ sau: 

– Phân tích, làm rõ vấn đề lý luận về các nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội VPQĐ về TGGTĐB

– Phân tích, đánh giá thực tiễn nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội VPQĐ về TGGTĐB trên địa bàn thành phố Đà Nẵng

– Đề xuất các giải pháp khắc phục nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội VPQĐ về TGGTĐB trên địa bàn thành phố Đà Nẵng trong thời gian tới

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

  4.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của Luận văn là các quan điểm khoa học được nêu ra trong tội phạm học; thực tiễn tình hình tội VPQĐ về TGGTĐB và thực tiễn nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội này trên địa bàn thành phố Đà Nẵng; thực tiễn xử lý vi phạm pháp luật và tội phạm trong lĩnh vực giao thông đường bộ tại thành phố Đà Nẵng.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

– Về nội dung: luận văn nghiên cứu nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội VPQĐ về TGGTĐB dưới góc độ tội phạm học và phòng ngừa tội phạm trên địa bàn thành phố Đà Nẵng 

– Về không gian: thành phố Đà Nẵng

– Thời gian: giai đoạn từ năm 2016 đến năm 2020

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

5.1. Cơ sở lý luận

Sử dụng phép duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lênin; Tư tưởng Hồ Chí Minh; các quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước về phòng ngừa tội phạm, về cải cách tư pháp, về quyền con người…

5.2. Phương pháp nghiên cứu

Học viên sử dụng các phương pháp như thống kê, phân tích, tổng hợp, so sánh, nghiên cứu tài liệu, nghiên cứu án điển hình, phỏng vấn và tham khảo ý kiến chuyên gia…

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

6.1. Ý nghĩa lý luận

Kết quả nghiên cứu của Luận văn góp phần bổ sung và làm rõ hơn cơ sở lý luận về nguyên nhân và điều kiện của THTP nói chung, cũng như nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội VPQĐ về TGGTĐB, qua đó, có thể làm tài liệu cho học viên, sinh viên và những ai muốn nghiên cứu một cách có hệ thống, chuyên sâu về nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội VPQĐ về TGGTĐB nhằm phòng ngừa có hiệu quả.

6.2. Ý nghĩa thực tiễn

Kết quả nghiên cứu của luận văn là một trong những nguồn tài liệu tham khảo cho việc hoạch định chính sách phòng ngừa tội VPQĐ về TGGTĐB trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.

Luận văn còn được dùng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu, giảng dạy về hoạt động phòng ngừa tội phạm nói chung và phòng ngừa tội VPQĐ về TGGTĐB nói riêng.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, phần nội dung của luận văn được kết cấu thành 03 chương.

Chương 1: Những vấn đề lý luận về nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ.

Chương 2: Thực trạng nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.

Chương 3: Các giải pháp khắc phục nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.

CHƯƠNG 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGUYÊN NHÂN VÀ ĐIỀU KIỆN CỦA TÌNH HÌNH TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ THAM GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ

1.1. Khái niệm, bản chất, các mối liên hệ và ý nghĩa của việc nghiên cứu nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ

1.1.1. Khái niệm nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ

Theo phép biện chứng duy vật của chú nghĩa Mác – Lênin, nguyên nhân là phạm trù chỉ sự tác động qua lại giữa các mặt trong một sự vật, một hiện tượng hoặc giữa các sự vật, các hiện tượng với nhau gây ra sự biến đổi nhất định gọi là kết quả [11, tr.308]. Như vậy, về bản chất, nguyên nhân không phải là hiện tượng, sự vật nào đó, mà nguyên nhân chỉ có thể là sự tác động qua lại giữa các mặt trong một sự vật, một hiện tượng hoặc giữa các sự vật, các hiện tượng với nhau để sinh ra kết quả.

Điều kiện là những yếu tố đóng vai trò xúc tác, tuy không sản sinh ra kết quả, song tạo thuận lợi, hỗ trợ, thúc đẩy sự tương tác sinh ra kết quả [11, tr.308]. Như vậy, về bản chất, điều kiện là những sự kiện, tình huống, hoàn cảnh nhất định có vai trò thúc đẩy quá trình từ nguyên nhân gây ra kết quả.

Trên cơ sở nguyên lý chung đó, việc nhận thức nguyên nhân và điều kiện trong lĩnh vực xã hội (vốn gắn với yếu tố con người) có điểm đặc thù là “sự tác động” đó được tiến hành (thực hiện) thông qua đầu óc con người. Nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm được nhận thức gắn với cơ chế tâm lý của của họ như: nhu cầu, khả năng đáp ứng nhu cầu, định hướng giá trị, lựa chọn phương thức thỏa mãn nhu cầu…. Tuy nhiên, hiện nay, trong tội phạm học có khá nhiều quan điểm khác nhau về cái gọi là nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm. Chẳng hạn, có quan điểm cho rằng, trong cơ chế hành vi phạm tội, kết quả chính là hành vi phạm tội; còn nguyên nhân chỉ có thể là sự tác động qua lại, không phải là sự tác động trực tiếp (S-R) mà là sự tác động gián tiếp thông qua đầu óc con người, tâm lí học gọi là kích thích phương tiện (X). Vì thế, công thức của sự tác động này phải là kích thích khách thể (S), kích thích phương tiện (X), trả lời các kích thích (R) [11, tr.309]. Tổng hợp nguyên nhân của từng hành vi phạm tội cho thấy nguyên nhân của tình hình tội phạm. Quan điểm này, thiết nghĩ chưa đi đến tận cùng vấn đề nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm. Vấn đề là ở chỗ, tội phạm cụ thể là do con người thực hiện (dù chủ thể của tội phạm là pháp nhân thương mại thì thực hiện tội phạm vẫn là cá nhân), mà con người sinh ra ai cũng như nhau, không phải là người phạm tội. Thêm nữa, có người phạm tội lại có người không phạm tội, có người phạm tội này lại có người phạm tội khác…Như vậy, đối với người phạm tội, chắc chắn phải có cái gì đó tác động đến họ làm sản sinh ra ở họ “tiềm năng phạm tội”. Cái gì đó chắc chắn không phải là sự tác động mà có tên gọi: hoặc là hiện tượng tiêu cực, hoặc là yếu tố tiêu cực hoặc là nhân tố tiêu cực hoặc là tình tiết tiêu cực…Những cái gì tiêu cực đó tác động lẫn nhau và tác động đến con người trong quá trình sống của họ, làm hình thành ở họ “động cơ phạm tội” hoặc “tiềm năng phạm tội đặc điểm nhân thân tiêu cực”…Những thứ đó thúc đẩy con người thực hiện tội phạm cụ thể khi xuất hiện tình huống phạm tội cụ thể. Từ những phân tích khái quát đó, học viên chia sẽ quan điểm cho rằng “Nguyên nhân của THTP là những hiện tượng xã hội tiêu cực ở trong mối liên hệ tương tác hai mức độ sinh ra và tái sản xuất ra THTP như là hậu quả tất yếu của mình [39, tr.87].

Trong lĩnh vực phòng, chống tội phạm, sự phân biệt nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm cũng chỉ mang tính chất tương đối. Cho nên, để kìm hãm, làm giảm thiểu, dần loại bỏ tình hình tội phạm cần phải khắc phục, dần xóa bỏ không chỉ nguyên nhân mà còn cả điều kiện của tình hình tội phạm, tại vì cả nguyên nhân và điều kiện của THTP trong một tổng thể tác động mới làm phát sinh ra kết quả là THTP.

Vận dụng lý thuyết về nguyên nhân và điều kiện của triết học Mác-Lênin, các quan điểm khoa học được nêu ra trong tội phạm học và những lập luận, phân tích trên đây vào nghiên cứu cụ thể tình hình tội VPQĐ về TGGTĐB, có thể xác định: Nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội VPQĐ về TGGTĐB là những hiện tượng xã hội tiêu cực, trong sự tác động qua lại lẫn nhau và tác động với con người hình thành ở họ đặc điểm nhân thân tiêu cực (hay tính động cơ phạm tội hoặc tiềm năng phạm tội) để rồi trong sự tác động với tình huống phạm tội VPQĐ về TGGTĐB, làm phát sinh tội này trên thực tế.

1.1.2. Bản chất của nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ

Bởi tình hình tội VPQĐ về TGGTĐB là hiện tượng xã hội có nguồn gốc và bản chất xã hội, nên “những cái làm phát sinh ra nó”, tức nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội này cũng có nguồn gốc và bản chất xã hội. Cũng bởi tình hình tội VPQĐ về TGGTĐB là hiện tượng xã hội tiêu cực, nguy hiểm cho xã hội, có hại cho xã hội và “nằm trong hệ thống các mâu thuẫn xã hội”, nên nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội VPQĐ về TGGTĐB cũng là hiện tượng xã hội tiêu cực, nguy hiểm cho xã hội, có hại cho xã hội và nằm trong hệ thống các mâu thuẫn xã hội. Vì vậy, nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội VPQĐ về TGGTĐB, chẳng những có mối liên hệ chặt chẽ với chính bản thân tình hình tội này, mà còn có mối liên hệ với những hiện tượng xã hội khác thuộc nội dung nghiên cứu của tội phạm học như nhân thân người phạm tội, dự báo tình hình tội phạm, phòng ngừa tình hình tội phạm và với những mâu thuẫn xã hội.

1.1.3. Các mối liên hệ của nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ

1.1.3.1. Mối liên hệ giữa nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội vi phạm quy định về tham gia giao đường bộ với tình hình tội này

Mối liên hệ giữa nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội VPQĐ về TGGTĐB với chính bản thân tình hình tội này không chỉ được quyết định bởi chúng mà còn những vấn đề thuộc đối tượng nghiên cứu của tội phạm học, những hiện tượng xã hội tiêu cực khác, có sự thay đổi về mặt lịch sử, có tính chất nguy hiểm cho xã hội và còn có mối liên hệ tác động qua lại với các hiện tượng xã hội khác…mà còn bởi:

Thứ nhất, chính tình hình tội VPQĐ về TGGTĐB là “sản phẩm” “hệ quả” hay là “cái phản ánh” của nguyên nhân và điều kiện của nó, còn nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội VPQĐ về TGGTĐB là cái quyết định của chính tình hình tội VPQĐ về TGGTĐB. Chính vì vậy, nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội VPQĐ về TGGTĐB có mối quan hệ tác động qua lại với tình hình tội VPQĐ về TGTGTĐB và ngược lại (đây là mối hệ tác động qua lại hai chiều).

Thứ hai, tình hình tội VPQĐ về TGGTĐB là cơ sở để nhận thức nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội VPQĐ về TGGTĐB, còn nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội VPQĐ về TGGTĐB cho phép nhận thức một cách đúng đắn và toàn diện về tình hình tội VPQĐ về TGGTĐB. Phân tích về THTP thì sẽ biết được các chỉ số về lượng và chất của THTP tức thực trạng cơ cấu và tính chất của THTP, qua đó có thể làm rõ được nguyên nhân và điều kiện tình hình tội VPQĐ về TGGTĐB.

Mối quan hệ giữa tình hình tội VPQQĐ về TGGTĐB với nguyên nhân và điều kiện của nó thể hiện rõ nét thông qua phòng ngừa tình hình tội này. Thể hiện ở chỗ, muốn dần kiềm chế, giảm thiểu, dần xóa bỏ tình hình tội VPQĐ về TGGTĐB, cần phải thông qua các hoạt động phòng và chống để hạn chế, khắc phục, dần loại bỏ nguyên nhân và điều kiện làm phát sinh tình hình tội này. Đó cũng là nội dung của phòng ngừa tình hình tội phạm.

1.1.3.2. Mối liên hệ giữa nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đuờng bộ với nhân thân người phạm tội này.

Mối liên hệ giữa nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm với nhân thân người phạm tội thể hiện ở chỗ không thể nhận thức được nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm nếu thiếu việc cân nhắc bản chất, các đặc điểm và quá trình hình thành nhân thân tiêu cực của người phạm tội. Bởi tội VPQĐ về TGGTĐB là do con người cụ thể thực hiện. Nên trong cơ chế hành vi phạm tội luôn có nhân thân người phạm tội với những đặc điểm tâm sinh lý-xã hội tiêu cực của cá nhân trong sự tác động với các hiện tượng xã hội tiêu cực khác làm phát sinh tội cụ thể mà tổng hợp các tội đó là tình hình tội phạm. Những đặc điểm nhân thân người phạm tội, nhất là các đặc điểm tâm lý – đạo đức của họ vốn được quyết định bởi nhu cầu, lợi ích, nhận thức nhu cầu và định hướng giá trị của cá nhân (người phạm tội) giữ vai trò quan trọng trong sự hình thành động cơ và trong sự lựa chọn phương án hành vi phạm tội trong những tình huống phạm tội cụ thể, cho phép nhận diện nguyên nhân và điều kiện của tội cụ thể. Mối liên hệ giữa nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm và nhân thân người phạm tội còn được thể hiện ở mối quan hệ của chúng với phòng ngừa tình hình tội phạm.

Trong cơ chế hành vi phạm tội có cả những đặc điểm chủ quan của người phạm tội. Vì vậy, để nghiên cứu nguyên nhân và điều kiện phát sinh tội phạm đòi hỏi phải nghiên cứu nhân thân người phạm tội. Liên quan đến vấn đề này không thể không đồng ý với quan điểm cho rằng:”Việc phân tích các nguyên nhân và điều kiện của THTP và của tội phạm đã chỉ ra rằng không thể nhận thức, hiểu biết được các nguyên nhân và điều kiện đó nếu thiếu việc cân nhắc nhân thân người phạm tội, bản chất, các đặc điểm và quá trình hình thành nó [39, tr.126]; “Nhân thân người phạm tội là một bộ phận cấu thành tất yếu và rất quan trọng của cơ chế hành vi phạm tội, còn các hoàn cảnh của sự hình thành các đặc điểm tâm lí – xã hội tiêu cực của cá nhân xuất hiện trước các đặc điểm của cá nhân nằm trong mỗi quan hệ nhân quả với THTP” [39, tr.126].

Như vậy, càng làm rõ bao nhiêu được nhân thân người phạm tội VPQĐ về TGGTĐB thì càng hiểu rõ được bấy nhiêu nguyên nhân và điều kiện tình hình tội tội VPQĐ về TGGTĐB. Người có khả năng phạm tội cao là nhân thân của họ có nhiều đặc điểm xấu. Thực tiễn cho thấy rằng những người thực hiện hành vi phạm tội VPQĐ về TGGTĐB là những người có thái độ coi thường pháp luật, tài sản, tính mạng, sức khỏe của người khác…

1.1.3.3. Mối liên hệ giữa nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ với phòng ngừa tình hình tội này.

Mối liên hệ đó, trước hết thể hiện ở sự cần thiết phải dự báo tình hình tội phạm thông qua dự báo các nguyên nhân và điều kiện làm phát sinh ra nó mà phòng ngừa hướng vào khắc phục, hạn chế, dần xóa bỏ. Sự dự báo về tình hình tội phạm, xét về thực chất là dự báo về nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm và khả năng phòng ngừa nó trong tương lai. Kết quả dự báo về diễn biến trong tương lai của những hiện tượng xã hội tiêu cực cho phép xác định các hướng hạn chế, khắc phục, dần loại bỏ những hiện tượng xã hội tiêu cực đó. Ở nghĩa này, chính nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm là một trong cơ sở của dự báo tình hình tội phạm. Trong mối liên hệ với phòng ngừa tình hình tội phạm, dự báo tình hình tội phạm, đến lượt mình tạo ra những điều kiện cần thiết để khắc phục, hạn chế, ngăn ngừa sự xuất hiện của nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm ra khỏi đời sống xã hội trong tương lai.

Phòng ngừa tình hình tội VPQQĐ về TGGTĐB phải được tiến hành theo nguyên tắc, cơ sở và cơ chế nhất định. Việc xác định các yếu tố thuộc cơ chế phòng ngừa như nội dung phòng ngừa, chủ thể phòng ngừa, các biện pháp phòng ngừa…phải xuất phát từ những nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội VPQĐ về TGGTĐB đã được nhận thức một cách thấu đáo, toàn diện, được lập luận về mặt khoa học.

Mối liên hệ giữa nhưng bộ phận trên đây còn gắn với phạm trù tình hình tội VPQĐ về TGGTĐB, thể hiện ở chỗ, tình hình tội này là đối tượng phòng ngừa; muốn phòng ngừa được phải nhận thức được nội dung phòng ngừa là khắc phục, hạn chế, dần loại bỏ nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm ra khỏi đời sống xã hội.

Khi nghiên cứu mối liên hệ giữa nguyên nhân và điều kiện tình tội VPQĐ về TGGTĐB để xác định được đâu là địa bàn trọng yếu, trọng điểm, lĩnh vực nào yêu tố nào tác động dẫn đến tình hình tội VPQĐ về TGGTĐB diễn biến phức tạp….trên cơ sở đó các chủ thể phòng ngừa đề ra giải pháp căn cơ, chủ yếu, tập trung nguồn lực vào đâu để cho phòng ngừa tình hình tội phạm đạt hiệu quả, kiểm soát, kìm hãm hạn chế đến mức thấp nhất và dần loại bỏ tội phạm.

Phòng ngừa THTP là hoạt động đồng bộ của các cơ quan bảo vệ pháp luật, các cơ quan Nhà nước và các tổ chức xã hội xử dụng các biện pháp khác nhau nhằm kìm hãm, kiểm soát, hạn chế hướng đến thủ tiêu nguyên nhân và điều kiện tình hình tội phạm. Bản chất của phòng ngừa THTP là áp dụng các biện pháp nhằm hạn chế, kiểm soát những yếu tố là nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm.

Từ những điều phân tích, khái quát trên đây có thể thấy, nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội VPQĐ về TGGTĐB có mối quan hệ tác động qua lại với tình hình tội VPQĐ về TGGTĐB, với nhân thân người phạm tội VPQĐ về TGGTĐB và với phòng ngừa tình hình tội VPQĐ về TGGTĐB. Để nghiên cứu nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội VPQĐ về TGGTĐB cần nghiên cứu một cách thấu đáo tất cả những vấn đề nêu trên, đặc biệt là mối liên hệ giữa chúng với nhau.

1.1.3.4. Ý nghĩa của việc nghiên cứu nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ.

Kết quả nghiên cứu nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội VPQĐ về TGGTĐB có ý nghĩa lý luận và thực tiễn to lớn, thể hiện:

Thứ nhất, kết quả nghiên cứu nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội VPQĐ về TGGTĐB góp phần hoàn thiện “khung lý luận” của nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm; nâng cao nhận thức đầy đủ và chuẩn xác những vấn đề lý luận về khái niệm, bản chất, các mối liên hệ, cơ chế tác động, phân loại nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm.

Thứ hai, kết quả nghiên cứu lý luận, nhất là phân loại nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội VPQĐ về TGGTĐB cho phép nhận diện một cách có cơ sở khoa học và thực tiễn thực trạng nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội này trên một địa bàn nhất định trong khoảng thời gian nhất định.

Thứ ba, kết quả nghiên cứu nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm đặt ra những yêu cầu đối với những vấn đề cần nghiên cứu phục vụ cho phòng ngừa tình hình tội phạm như: nhân thân người người phạm tội, khía cạnh nạn nhân học trong tội phạm học, dự báo tình hình tội phạm và chính bản thân phòng ngừa tình hình tội phạm.

Như vậy, việc nghiên cứu nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội VPQĐ về TGGTĐB, xét đến cùng là cơ sở để xây dựng và tổ chức thực hiện các biện pháp phòng ngừa tình hình tội VPQĐ về TGGTĐB một cách khoa học và hiệu quả. Vấn đề là ở chỗ, chỉ trên cơ sở phân tích làm rõ nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội VPQĐ về TGGTĐB mới xây dựng được hệ thống các biện pháp phòng ngừa tình hình tội VPQĐ về TGGTĐB một cách toàn diện. Phòng ngừa tình hình tội phạm, xét đến cùng là hệ thống nhiều mức độ và các biện pháp mang tính chất Nhà nước – xã hội nhằm khắc phục các nguyên nhân và điều kiện của tội phạm hoặc làm vô hiệu hóa (làm yếu; hạn chế) chúng và bằng cách làm giảm và dần dần loại bỏ THTP [39, tr.154]. Phòng ngừa tình hình tội phạm là nhằm khắc phục những yếu kém, tồn tại, hạn chế các nguyên nhân và điều kiện của tội phạm. Đó là bản chất của phòng ngừa.

Từ trên cơ sở phân tích nguyên nhân và điều kiện để giúp cho các chủ thể liên quan công tác phòng ngừa nhận thức được đâu là yếu tố chính, đâu là nguyên nhân đâu là điều kiện tác động của tình hình tội phạm. Liên quan đến vấn đề này, học viên chia sẻ với quan điểm cho rằng, “Ta thử giả thiết, nếu tội phạm học không nghiên cứu nguyên nhân và điều kiện của THTP thì lúc này, đối tượng nghiên cứu của tội phạm học chỉ là mức độ, cơ cấu, diễn biến của THTP, bởi tội phạm học không thể có những cơ sở lý luận đề ra các biện pháp phòng chống và phòng ngừa tội phạm [38, tr.92]. Theo suy nghĩ của chúng tôi, để có được hệ thống các biện pháp phòng ngừa bao gồm các biện pháp phòng ngừa tội phạm và các biện pháp đấu tranh chống tội phạm, cần thiết phải làm rõ những nguyên nhân và điều kiện dẫn tới THTP ở nuớc ta trong những năm gần đây. Từ phân tích làm rõ đâu là nguyên nhân cơ bản, đâu là nguyên nhân chủ yếu chủ yếu phát sinh THTP khi đó mới có hoạch định chính sách phòng ngừa hữu hiệu, như: Hoạch định nguồn lực ở địa bàn nào, địa phương nào; tập trung giải quyết vào những vấn đề gì…. nhằm đấu tranh, phòng ngừa có hiệu quả với tinh hình tội phạm.

Có nhiều nguyên nhân và điều kiện khác nhau làm phát sinh tội VPQĐ về TGGTĐB, như do nạn nhân có lỗi (yếu tố nạn nhân), do tình huống tiêu cực thuận lợi, do ảnh hưởng tiêu cực từ môi trường sống, địa nguyên nhân tình hình tội phạm, do yếu tố thời thiết, do môi trường giáo dục, môi trường cộng đồng, yếu tố lợi ích kinh tế, …. Khi các yếu tố này kết hợp với nhau trong cùng một thời điểm, tác động qua lại lẫn nhau, khi đó phát sinh tội phạm.

Trong nhiều yếu tố làm phát sinh nguyên nhân và điều kiện tình hình tội VPQT về TGGTĐB thì chỉ có một số yếu tố là nguyên nhân cơ bản, chủ yếu làm phát sinh tội phạm chứ không phải yếu tố nào cũng tiềm ẩn khả năng như nhau làm phát sinh tội phạm. Ví dụ: nguyên nhân do yếu tố tồn tại bất cập hạn chế yếu kém trong công tác quản lý nhà nước về lĩnh vực TTATGT, như: Hạ tầng giao thông xống cấp, đường xá bất cập, tiêu cực trong thực thi pháp luật về đảm bảo TTATGT…; nguyên nhân do tồn tại, yếu kém của nền kinh tế – xã hội, như: nạn thất nghiệp, đói nghèo nhiều.., yếu tố do tiêu cực của người phạm tội.

Như vậy, để có những giải pháp căn cơ giúp cho cơ quan chức năng, chính quyền địa phương hoạch định được chính sách, tập trung nguồn lực, đề ra giải pháp nhằm hạn chế, kiểm soát được tình hình tội VPQĐ về TGGTĐB thì phải xác định được nguyên nhân cơ bản, nguyên nhân chủ yếu của tình hình tội VPQĐ về TGGTĐB, khi xác định được rồi mới có những giải pháp cơ bản mới chọn được địa bàn, chọn đối tượng phòng ngừa đúng, không tràng lan, dàng trãi… Ví dụ: Công tác tuyên truyền, ngoài tuyên truyền rộng rãi thì cần tập trung vào đối tượng nào; tập trung và nâng cao hiệu quả công tác TTKS xử lý VPHC về TTATGT vào hành vi nào là nguyên nhân dẫn đến TNGT và tội VPQĐ về TGGTĐB; khẩn trương khắc phục các điểm đen, các điểm tiềm ẩn TNGT; về kinh doanh vận tải: cần có giải pháp nâng cao chất lượng và công tác quản lý hoạt động kinh doanh vận tải khoa học và đúng quy định của pháp luật; hạ tầng giao thông đường bộ: phải đề ra phương án, phân bổ, cân đối ngân sách để hoàn thiện kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ……có như thế mới phần nào làm giảm được TNGT và cũng là giải pháp cơ bản phòng ngừa tình hình tội VPQĐ về TGGTĐB.

Nghiên cứu nguyên nhân và điều kiện của THTP phải gắn với địa bàn cụ thể với tính cách là “xã hội thu nhỏ”, ở đó có các quá trình kinh tế-xã hội, vắn hóa-giáo dục, tổ chức-quản lý nhà nước…diễn ra hàng giờ, hàng ngày, hàng tháng. Việc nghiên cứu những hiện tượng xã hội tiêu cực tại địa bàn đó có khả năng làm phát sinh tội VPQĐ về TGGTĐB giúp cho địa phương có cơ sở hoạch định các chính sách phát triển kinh tế – xã hội một cách phù hợp trong công tác phòng ngừa tội VPQĐ về TGGTĐB, từ đó các cơ quan chức năng có cơ sở đề ra các giải pháp phù hợp, tập trung vào đâu, lĩnh vực nào, địa bàn nào là trọng yếu, trọng điểm để có giải pháp phòng chống tội phạm có hiệu quả, giảm thiếu các tiêu cực xã hội là nguyên nhân làm phát sinh tình hình tội phạm.

Chính sách phát triển kinh tế-xã hội của địa phương có ảnh hưởng rất lớn đến tình hình tội VPQĐ về TGGTĐB. Nếu địa phương nào kinh tế – xã hội phát triển, cơ sở hạ tầng giao thông đường bộ đảm bảo, đời sống người dân được cải thiện, cuộc sống khá giả, có việc làm ổn định, mức sống cao…thì có điều kiện sử dụng các loại PTGT an toàn hơn và tất yếu người dân sẽ ý thức cao khi tham gia giao thông. Từ đó tình hình TNGT sẽ được đảm bảo và tình hình tội VPQĐ về TGGTĐB được kiểm soát tốt hơn.

Vì vậy, để góp phần tích cực trong công tác phòng ngừa tình hình tội phạm nói chung và tình hình tội VPQT về TGGTĐB nói riêng cần phải xác định những tồn tại yếu kém trong phát triển kinh tế – xã hội. Tại sao làm rỏ vấn đề này, vì lĩnh vực kinh tế – xã hội là gần như ảnh đến tất cả các yếu tố khác trong một vùng, một địa phương, một tỉnh nói rộng ra là của một đất nước. Nó là nguyên nhân chủ yếu, cơ bản phát phát sinh nguyên nhân điều kiện tội VPQĐ về TGGTĐB. Từ đó giúp cho các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ở địa phương hoạch định chính sách, tập trung nguồn lực cho công tác phòng ngừa, giảm thiểu và kiểm soát nguyên nhân tình hình tội phạm. Đề ra chính sách kinh tế, chính sách xã hội phù hợp, nâng cao đời sống người dân, tạo công ăn việc làm, tạo việc làm ổn định, nâng lương cho người lao động, tăng các phúc lợi xã hội cho người lao động, xó đói giảm nghèo, cảm hóa người lầm lỗi, các chính sách an sinh xã hội cho những người nhóm yếu…. tạo các sân chơi văn hóa nghệ thuật lành mạnh, thể dục thể thao, các điểm sinh hoạt cộng đồng, xây dựng các phong trào phòng chống tội phạm như: “4 phòng – 4 tự”; tổ dân phố không có tội phạm, không tệ nạn xã hội; gia đình văn hóa, khu phố văn hóa; diễn đàn “tuổi trẻ sống đẹp”….

1.2. Cơ chế tác động của nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội vi phạm quy định về tham gia giáo thống đường bộ

Các hiện tượng xã hội tiêu cực nếu đứng riêng rẽ, tự bản thân chúng không làm phát sinh tình hình tội phạm mà phải tác động qua lại với nhau. Tại đây xuất hiện nhu cầu nghiên cứu cơ chế tác động của chúng.

Cơ chế được hiểu là chỉnh thể, là hệ thống tổng thể cơ chế tác động tương tác của nhiều yếu tố khác nhau. Vì vậy, nghiên cứu cơ chế tác động của nguyên nhân và điều kiện tình hình tội VPQĐ về TGGTĐB là nghiên cứu sự tác động qua lại lẫn nhau của tất cả những hiện tượng xã hội (yếu tố) tiêu cực tạo ra “kết quả” là THTP.

Nói về tình hình tội VPQĐ về TGGTĐB là nói về tình hình một tội phạm cụ thể gồm tổng thể các trường hợp phạm tội này đã xảy ra và tất cả những người thực hiện chúng trong một không gian, thời gian nhất định. Như vậy, để xem xét cơ chế tác động của nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội VPQĐ về TGGTĐB, cần bắt đầu từ cơ chế hành vi phạm tội vốn được biết đến là sự tác động giữa cá nhân có đặc điểm nhân thân tiêu cực (hay là tiềm năng phạm tội hay tính động cơ phạm tội) với tình huống phạm tội, làm phát sinh hành vi phạm tội cụ thể. Cơ chế hành vi phạm tội VPQĐ về TGGTĐB, vì vậy bao hàm cả cơ chế bên trong lẫn cả cơ chế bên ngoài (xã hội). Vậy thì, đặc điểm nhân thân tiêu cực của người phạm tội từ đâu mà có? Phải chăng nó mang tính bẩm sinh, di truyền? Câu trả lời là không phải bẩm sinh, di truyền bởi đặc điểm nhân thân tiêu cực được hình thành ở cá nhân trong quá trình con người đó sống trong những môi trường, điều kiện, hoàn cảnh không thuận lợi, có nhiều hiện tượng xã hội tiêu cưc…Vì vậy, theo học viên trước khi có hành vi phạm tội VPQĐ về TGGTĐB xảy ra trên thực tế, đã có sự tác động của những hiện tượng xã hội tiêu cực đến cá nhân con người làm hình thành ở cá nhân đó nhân thân xấu. Tổng thể những hiện tượng xã hội tiêu cực tác động với nhau trong một tổng thể tạo ra “sản phẩm” là tình hình tội phạm. Những lập luận vừa được nêu ra học viên dùng để khẳng định về cơ chế tác động của nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội VPQĐ về TGGTĐB. Tội phạm học Việt Nam dần thừa nhận rằng, đối với tình hình tội phạm nói chung, bao hàm trong nó các cơ chế tác đông, đó là cơ chế bên trong, cơ chế xã hội, cơ chế nhóm và cơ chế một tội cụ thể. Trong luận văn này, học viên không đi phân tích sâu cơ chế xã hội và cơ chế nhóm của sự tác động của nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm mà tập trung vào cơ chế bên trong và cơ chế của tình hình tội cụ thể, nói ở đây là tình tội VPQĐ về TGGTĐB. Tất nhiên, cũng cần lưu ý rằng, trong cơ chế tác động của nguyên nhân và điều kiện của tình hình một tội cụ thể có cả những hiện tượng xã hội tiêu cực chung “ở tầm xã hội” và “ở tầm lĩnh vực nhất định” gắn với những mâu thuẫn xã hội ở tầm xã hội và ở tầm lĩnh vực cụ thể.

Cơ chế bên trong gồm các tương tác của nhiều yếu tố khác nhau gắn với cá nhân (con người) như nhu cầu và khả năng đáp ứng nhu cầu cá nhân được thỏa mãn, nhận thức về văn hóa, về lối sống, về xã hội, hành vi đối với xã hội của cá nhân đó…Như vậy, cơ chế bên trong của tình hình tội VPQĐ về TGGTĐB nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội VPQĐ về TGGTĐB gắn với sự lệch lạc trong nhận thức về nhu cầu, về định hướng giá trị, về lựa chọn phương thức đáp ứng nhu cầu. Bên cạnh đó là khả năng của cá nhân và của xã hội trong việc làm thõa mãn nhu cầu của họ. Vì vậy, khi đánh giá, xem xét nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội VPQĐ về TGGĐB thì phải đi từ những xuất phát đó, có thể từ môi trường gia đình, xã hội (yếu tố tiêu cực) nơi cá nhan đó sinh sống, các tệ nạn xã hội, kinh tế – xã hội khó khăn phân hóa giàu nghèo… Những hiện tượng xã hội tiêu cực này tác động với nhau hoặc tác động với những hiện tiện tiêu cực khác dần dần tạo cho cá nhân đó những nhận thức lệch chuẩn, tiêu cực (nhân thân), khi gặp tình huống hay hoàn cảnh thuận lợi (điều kiện) thì xuất hiện tính động cơ phạm tội VPQĐ về TGGTĐB và hành vi phạm tội cụ thể hóa hành vi phạm tội đó.

Bởi các trường hợp phạm tội cụ thể là rất đa dạng, nên khi nghiên cứu, phân tích cơ chế tác động của nguyên nhân và điều kiện của tội cụ thể phải nghiên cứu nhiều dạng nguyên nhân và điều kiện tội phạm khác nhau, bởi vì nhân thân của người phạm tội cũng có những đặc điểm khác nhau, như: các đặc điểm tâm sinh lý, đặc điểm về kinh tế – văn hóa-xã hội, thời gian, điạ điểm… rồi nghiên cứu khía cạnh nạn nhân trong các tình huống dẫn đến tội phạm của cá nhân thực hiện hành vi phạm tội.

Các đặc điểm về thể chất của người bị hại (nạn nhân), của vật thể và các đối tượng tác động khác, các tình huống phạm tội…cũng nằm trong cơ chế tác động của nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội mVPQĐ về TGGTĐB. Những tình huống phạm tội có thể do chính người phạm tội tạo ra trước đó, cũng có thể do hoạt động các hoạt động trái đạo đức, trái pháp luật của những người khác tạo ra. Những hạn chế, thiếu sót, vi phạm… trong các hoạt động của các cơ quan, tổ chức cũng có thể được xếp vào tình huống phạm tội. Tình huống phạm tội cũng có thể do thiên tai tạo ra. Trong số những tình huống phạm tội có thể kể đến thái độ thiếu thận trọng, vô ý, quá tự tin về an toàn cá nhân và tài sản của nạn nhân; trạng thái thể lực, tâm lý hay sự tham gia của nạn nhân vào các hoạt động bất hợp pháp…Với tính cách là tình huống phạm tội, khía cạnh nạn nhân chỉ có trong cơ chế hành vi phạm tội của một số tội cụ thể, trong đó có tội VPQĐ về TGGTĐB.

1.3. Phân loại nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ

Tội VPQĐ về TGGTĐB phát sinh bởi tổng thể các nguyên nhân và điều kiện chứ không do một nguyên nhân và điều kiện nào đó nhất định. Bởi vậy, nhu cầu đặt ra là phải tiến hành phân loại chúng để trên cơ sở đó xây dựng các biện pháp phòng ngừa có hiệu quả. Về nguyên tắc, có bao nhiêu nguyên nhân và điều kiện thì có bấy nhiêu cách phân loại và có bao nhiêu cách phân loại thì có bấy nhiệu loại và tương ứng có bấy nhiêu biện pháp phòng ngừa. Trong tội phạm học, các nhà khoa học dựa vào các căn cứ khác nhau đưa ra các cách phân loại khác nhau:

1.3.1. Phân loại căn cứ vào phạm vi và mức độ tác động của nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm

Căn cứ vào phạm vi và mức độ tác động của nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm có thể phân loại, theo mức độ nói chung, mức độ nhóm tội phạm, tội phạm cụ thể. Cách phân loại này dựa vào mối liên hệ giữa cái chung, cái riêng, cái đơn nhất của nguyên nhân và điều kiện của THTP . Mức độ khái quát cao nhất là khái niệm nguyên nhân và điều kiện của THTP nói chung và cụ thể nhất là khái niệm nguyên nhân và điều kiện của các loại tội phạm. [39, tr.90]. Theo nhận thức đó, nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội VPQĐ về TGGTĐB trên địa bàn thành phố Đà Nẵng, có:

  • Nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội trên toàn thành phố Đà Nẵng

Tội VPQĐ về TGGTĐB là một tội trong tổng số các tội phạm xảy ra trên địa bàn thành phố Đà Nẵng nên nó cũng xuất phát từ một số nguyên nhân chung làm phát sinh THTP nói chung trên địa bàn thành phố Đà Nẵng. Bàn về cách phân loại này GS. TS. Võ Khánh Vinh viết: “Các nguyên nhân và điều kiện của THTP nói chung cũng như của các loại tội phạm hoạt động, tác động trong những vùng tương đối lớn và trong phạm vi cả nước. Các nguyên nhân và điều kiện của các tội phạm cụ thể chỉ có tác động đối với tội phạm đó” [39, tr.90]

– Nguyên nhân và điều kiện của loại tội pham, nói ở đây là các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng. Trong BLHS 2015 sữa đổi 2017, tội VPQĐ về TGGTĐB thuộc nhóm tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng, Bộ luật hình sự 2015 sữa đổi đã mở rộng chủ thể từ người điều khiển phương tiện (BLHS 2015) thì BLHS 2015 sữa đổi 2017 là người tham gia giao thông. Như vậy, để rút ra được các nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội VPQĐ về TGGTĐB trên địa bàn thành phố Đà Nẵng thì ta phải đi nghiên cứu tổng hợp tất cả các nguyên nhân và điều kiện của từng hành vi phạm tội VPQĐ về TGGTĐB trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.

– Nguyên nhân và điều kiện của tội phạm cụ thể: Đây là mức độ nghiên cứu có phạm vi hẹp nhất, nghiên cứu từng hành vi phạm tội VPQĐ về TGGTĐB cụ thể. Cặp phạm trù cái chung và cái riêng trong triết học biện chứng cho thấy, muốn nhận thức được cái chung (nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội VPQĐ về TGGTĐB trên địa bàn thành phố Đà Nẵng) cần phải dựa trên cơ sở cái riêng, cái đơn nhất (từng hành vi phạm tội VPQĐ về TGGTĐB trên địa bàn thành phố Đà Nẵng).

1.3.2. Phân loại căn cứ vào nội dung của sự tác động của nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm

Theo căn cứ này, việc phân loại được tiến hành theo các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội mà ở đó xuất hiện, tồn tại những hiện tượng xã hội tiêu cực gắn với đặc trưng của từng lĩnh vực và trong sự tác động qua lại lẫn nhau và tác động đến con người hình thành ở họ tính động cơ phạm tội (hay còn gọi là đặc điểm nhân thân tiêu cực hau tiềm năng phạm tội VPQĐ về TGGTĐB, để ròi gặp phải (tác động) với các tình huống (điều kiện) phạm tội này, thực hiện hành vi phạm tội VPQĐ về TGGTĐB cụ thể. Theo cách phân loại này có các nguyên nhân và điều kiện về kinh tế, văn hóa, xã hội; tâm lý xã hội; tổ chức-quản lý…Đó là những hiện tượng xã hội tiêu cực (bất cập, hạn chế, vi phạm các chuẩn mực pháp lý và xã hội…) trong các lĩnh vực của đời sống xã hội. Về vấn đề này, học viên chia sẻ với quan điểm cho rằng “Các hiện tượng mang tính chất tâm lí xã hội thể hiện với tư cách là các nguyên nhân của THTP và của các tội phạm. Phân tích những nguyên nhân về kinh tế có thể thấy rằng, nền kinh tế có ảnh hưởng rất lớn đến tình hình tội phạm nói chung và tội VPQĐ về TGGTĐB nói riêng. Nếu nền kinh tế khó khăn, có nhiều hạn chế, tiêu cực, có những yếu tố bất cập: đời sống nhân dân khó khăn, đói nghèo, thất nghiệp, phân hóa giàu nghèo, thiếu thốn, …thì không có nguồn lực cho việc đầu tư hạ tầng giao thông hiện đại, đảm bảo an toàn, kết cấu hạ tầng giao thông lạc hậu, xuống cấp, người dân không có phương tiện giao thông hiện đại, đảm bảo an toàn để đi lại sẽ tiềm ẩn nguy cơ cao xảy ra TNGT… những nguyên nhân trên nó sẽ gián tiếp tác động làm cho tình hình tội VPQĐ về TGGTĐB ngày càng phức tạp.

Những bất cập, hạn chế, tiêu cực trong lĩnh vực văn hóa- giáo dục- xã hội… thực tiễn cho thấy rằng đa số người dân Việt Nam tham gia giao thông rất tự do tùy tiện, đi theo sở thích của mình, thích thì phóng nhanh, vượt ẩu; thích thì rẽ trái, rẽ phải; thích thì quay đầu xe bất cứ đâu; thích thì dừng cả phương tiện giữa đường nghe điện thoại; đường đôi hay một chiều nếu đi được thì cũng đi; xe máy đi trên làn xe ô tô; từ trong ngõ, hẻm bất ngờ phóng ra đường chính; không chấp hành tín hiệu đèn; bất kỳ chổ trống nào cũng được người đi xe máy hay ô tô ngay lập tức “điền” vào chổ trống…. những thói quen trên lâu đời ăn sâu vào trong tiềm thức trong tâm trí của con người Việt Nam, đó là di hại của xã hội phong kiến, không phép tắc, không theo quy tắc giao thông, tâm lý đám đông, là lối sống của nền nông nghiệp tiểu nông và xem như một “bản sắc riêng” của người Việt. Và đây cũng là một nhân tố ảnh hưởng đến tình hình đảm bảo TTATGT nói chung cũng như phòng ngừa tình hình tội VPQĐ về TGGTĐB nói riêng.

Những hạn chế, bất cập, vi phạm…trong lĩnh vực văn hóa- giáo dục- xã hội cũng có mặt trong cơ chế tác động của nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội VPQĐ về TGGTĐB. Trong trường học, môn LGTĐB chỉ tính hình thức. Nội dung giảng dạy cho từng hệ học, cấp học không phù hợp, khô khan, thiếu sinh động, học sinh, sinh viên cũng học cho xong tiết, xong giờ không xem môn luật GTĐB là một phần của cuộc sống, vì vậy việc đảm bảo an toàn giao thông và chấp hành pháp luật khi tham gia giao thông của học sinh, sinh viên hiện nay còn nhiều hạn chế. Công tác đào tạo, sát hạch ở các Trung tâm dạy lái xe còn nhiều bất cập, chưa chú trọng vào đào tạo kỹ năng lái xe cho học viên. Đào tạo theo phương pháp “cổ điển” đó là học lái xe số sàn, không được đào tạo lái xe số tự động, nên khi vận hành xe số tự động do không có kỹ năng nên nguy cơ gây TNGT rất cao và thực tế đã xảy ra nhiều vụ TNGT nghiêm trọng. Hiện nay các cơ sở đào tạo lái xe đang có hiện tượng cạnh tranh gây gắt, đua nhau giảm giá gây “loạn” phí đào tạo, tuyển sinh thiếu chặt chẽ, học viên thiếu tự giác, nghiêm túc trong việc học….môn văn hóa đạo đức ngưới lái xe và các kỹ năng khác khi lái xe chưa được chú trọng, luật GTĐB thì dạy qua loa, học viên thì học vẹt, học mẹo, giáo viên thì dạy kỹ xảo để thi dẫn đến sau khóa học thì người lái xe cũng không còn kiến thức.

Lĩnh vực giáo dục liên quan đến cả giáo dục gia đình và giáo dục nhà trường và giáo dục xã hội. Những hiện tượng xã hội tiêu cực trong môi trường gia đình, trong đó có giáo dục gia đình như gia đình khuyết thiếu (thiếu cha hoặc mẹ), gia đình không hạnh phúc, gia đình không quan tâm đến nhau, gia đình không biết cách giáo dục con cái, những hạn chế, bất cập, vi phạm…phương pháp giảng dạy mang tính thụ động, áp đặt, chất lượng và đạo đức của một số giáo viên chưa cao; quàn lý học sinh lỏng lẽo, xử lý học sinh không nghiêm, không công bằng… thì con cái, học sinh trong những gia đình đó sẽ bị tác động tiêu cực rất lớn đến việc chấp hành luật LGTĐB và pháp luật khác. Đặc biệt, những vi phạm trong lĩnh vực tham gia giao thông đường bộ, như không thuân thủ pháp luật giao thông, phóng nhanh, vượt ẩu, dừng đỗ không đúng quy định…xử lý không đúng pháp luật, không công bằng, có vi phạm…tác động giáo dục xấu đến người tham gia giáo thông đường bộ.

Những bất cập, những hiện tượng xã hội tiêu cực trong lĩnh vực tổ chức- quản lý nhà nước vẫn còn tồn tại …. Công tác xử lý vi phạm trật tự an toàn giao thông còn chưa nghiêm, hiện tượng tiêu cực giữa lực lượng CSGT, TTGT… và người lái xe đâu đấy vẫn còn diễn ra. Công tác quản lý kiểm định an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường của phương tiện chưa đạt hiệu quả …tất cả những yếu tố đó đã tác động làm phát sinh TNGT và tội VPQĐ về TGGTĐB trong thời gian qua.

Đặc biệt, tâm lý đám đông đối phó tiêu cực với yêu cầu tham gia giao thông hoặc các biện pháp được sử dụng để duy trì, bảo đảm trật tự an toàn giao thông đường bộ có mặt trong cơ chế tác động của nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội VPQĐ về TGGTĐB tại thành phố Đà Nẵng. Thống kê từ năm 2016 đến năm 2020 trong số 391 vụ án VPQĐ về TGGTĐB xảy ra, có đến 184 bị cáo điều khiển phương tiện không chấp hành pháp luật giao thông, chiếm tỷ lệ 62,37%, được biểu thị ở một số hình thức [Bảng 2.15 Phụ lục].

Cần lưu ý rằng, đặc điểm nhân thân tiêu cực hay nói cách khác là tính động cơ phạm tội hoặc tiềm năng phạm tội VPQĐ về TGGTĐB là kết quả của sự tác động của những hiện tượng xã hội tiêu cực khác nhau, song nó đến lượt mình là tiền đề làm xuất hiện những hiện tượng xã hội tiêu cực khác. Ở nghĩa này, những hiện tượng (đặc điểm) tiêu cực thuộc về cá nhân con người cũng có mặt trong cơ chế tác động của nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội VPQĐ về TGGTĐB. Về các yếu tố tâm sinh lý và nghề nghiệp, xã hội của người phạm tội. Những người mà có nhiều (hoặc càng nhiều) đặc điểm nhân thân xấu thì khi gặp tình huống tiêu cực thuận lợi hoặc ở trong môi trường sống có hiện tượng tiêu cực thì sẽ thúc đẩy người đó thực hiện hành vi phạm tội nhiều hơn. Điển hình: Vụ TNGT xảy ra lục 0h45 phút ngày 18.0.2019 do Phan Đình Hiển sinh năm 1999 trú tại 65 Âu Cơ, Hòa Khánh Bắc, Liên Chiểu, Đà Nẵng điều khiển xe mô tô lưu thông trên đường Nguyễn Sinh Sắc chở theo sau 2 người, chạy với tốc độ lớn do không làm chủ tốc độ đã tự gây tai nạn. Hậu quả hai nười ngồi sau bị chấn thương sọ não thương tật hai người là 120%. Bố mẹ ly hôn, gia đình khó khăn, thiếu thốn tình cảm từ nhỏ, chỉ học hết lớp 7, thường xuyên tụ tập với bạn bè lêu lỏng, nhậu nhẹt… và khi vụ TNGT xãy ra Minh có nồng độ cồn 0.06mg/lít khí thở. Tòa tuyên bị cáo 24 tháng tù cho hưởng án treo.

Những hiện tượng xã hội tiêu cực trong hoạt động phòng, chống tội phạm nói chung và tội VPQQĐ về TGGTĐB nói riêng, chẳng hạn như sự yếu kém, vi phạm trong khám nghiệm hiện trường, khám nhiệm tử thi và trong các hoạt động điều tra khác, trong các hoạt động truy tố, xét xử tội VPQĐ về TGGTĐB…làm giảm lòng tin của người dân vào các cơ quan bảo vệ pháp luật cũng tác động đến sự hình thành ý thức xấu của người tham gia giao thông.

Ngoài ra, trong tội phạm học Việt Nam, nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm còn được phân loại theo bản chất khách quan và chủ quan của chúng. Chẳng hạn, có quan điểm phân loại nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm theo yếu tố thuộc môi trường sống – kích thích khách thể S, các yếu tố làm phát sinh tình hình tội phạm thuộc chủ thể hành vi phạm tội – Kích thích phương tiện (X), các yếu tố làm phát sinh tình hình tội phạm thuộc quá trình phản ứng trả lời các kích thích (R) [11, tr.309]. Phân tích kỹ cách phân loại của quan điểm vừa nêu trên đây có thể thấy, đây là cách phân loại nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm thông qua cơ chế hành vi phạm tội vốn được biết đến như nguyên nhân và điều kiện của một tội cụ thể nhiều hơn là của tình hình tội phạm (thậm chí là của tình hình tội cụ thể). Như vậy, cách phân loại này, xét đến cùng cũng là cách phân loại theo bản chất khách quan và chủ quan của nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm mà thôi.

Như vậy, về nguyên tắc, có bao nhiêu cách tiếp cận thì có bấy nhiêu việc phân loại. Đồng thời, có bao nhiêu mối liên hệ cũng có bấy nhiêu cách phân loại. Tuy nhiên, theo học viên, cách phân loại nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm tối ưu nhất là cách phân loại theo nội dung tác động (tức theo lĩnh vực của đời sống xã hội): kinh tế – xã hội, chính trị – tư tưởng; tâm lý – xã hội; văn hóa – xã hội; tổ chức – quản lý…). Cách phân loại này không chỉ dựa vào mối liên hệ tác động qua lại của nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm; tính chất động của nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm, mà còn dựa vào “địa tình hình tội phạm”, “địa nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm”, “địa nhân thân người phạm tội” và “địa phòng ngừa tình hình tội phạm”…để phân loại này, thiết nghĩ là cách phân loại tối ứu bởi nó cho phép nhận diện, đánh giá chính xác hơn thực trạng nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm và quan trọng hơn là cho phép tìm kiếm các giải pháp khắc phục có hiệu quả các nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm mà học viên đề cập xem xét ở cương tiếp theo.

Kết luận Chương 1

Nhằm phục vụ cho việc nhận diện thực tiễn nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội VPQĐ về TGGTĐB trên địa bàn thành phố Đà Nẵng (tại chương 2) và đề xuất các giải pháp khắc phục chúng (tại chương 3), trong chương 1 của luận văn, học viên nghiên cứu những vấn đề lý luận như khái niệm, bản chất, các mối liên hệ, ý nghĩa, cơ chế tác động, phân loại nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội VPQĐ về TGGTĐB. Với việc sử dụng các cách tiếp cận nghiên cứu khác nhau, trong đó đáng lưu ý là triết học, xã hội học, tâm lý học, hệ thống, tội phạm học…học viên làm sáng tỏ các khía cạnh lý luận nêu trên của đề tài nghiên cứu. Phân loại nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội VPQĐ về TGGTĐB theo nội dung (lĩnh vực) tác động là cơ sở để học viên nhận dạng thực tiễn nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội nói trên ở chương tiếp theo của Luận văn này.

LIỆN HỆ:

SĐT+ZALO: 0935568275

E:\DỮ LIỆU COP CỦA CHỊ YẾN\LUAN VAN VIEN HAN LAM\VIEN HAN LAM DOT 12\SAU BAO VE/ LE CONG TUAN

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *