Giám sát của Hội đồng nhân dân cấp xã từ thực tiễn

Giám sát của Hội đồng nhân dân cấp xã từ thực tiễn

Giám sát của Hội đồng nhân dân cấp xã từ thực tiễn huyện Quế Sơn tỉnh Quảng Nam

1. Tính cấp thiết của đề tài

Cấp cơ sở (cấp xã), là cấp chính quyền địa phương thấp nhất trong hệ thống phân cấp từ Trung ương đến địa phương ở Việt Nam nhưng có vai trò quan trọng trong cơ cấu chính quyền địa phương, là cầu nối giữa Nhà nước và Nhân dân, là nơi nhân dân thực hiện quyền dân chủ của mình, đồng thời là cấp trực tiếp tổ chức thực hiện chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của nhà nước. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 quy định tại điều 113: “HĐND là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của Nhân dân, do Nhân dân địa phương bầu ra, chịu trách nhiệm trước Nhân dân địa phương và cơ quan nhà nước cấp trên”. [35, tr.49]. HĐND cấp xã là cơ quan quyền lực nhà nước ở cơ sở có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc bảo đảm quyền của nhân dân, phát huy dân chủ, đảm bảo hiệu lực hiệu quả hoạt động của bộ máy Nhà nước. Theo Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 tại Điều 33 về nhiệm vụ, quyền hạn của HĐND xã: “HĐND xã có nhiệm vụ, quyền hạn là giám sát việc tuân thủ Hiến pháp và pháp luật ở địa phương, việc thực hiện nghị quyết của HĐND xã, giám sát hoạt động của TT HĐND xã, UBND cùng cấp, Ban của HĐND cấp mình, giám sát VBQPPL của UBND cùng cấp”. Giám sát là chức năng quan trọng của HĐND. Giám sát có một vị trí, vai trò rất quan trọng, bảo đảm HĐND thực sự là cơ quan đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân; là công cụ quan trọng, nhằm giúp các cơ quan Nhà nước, các tổ chức thấy được những sai sót, bất cập trong quản lý và hoạt động của mình. Do vậy, hoạt động giám sát của HĐND đóng vai trò vô cùng quan trọng trong việc bảo đảm cho hoạt động của bộ máy Nhà nước được thực hiện chất lượng, hiệu quả.

Hoạt động giám sát của HĐND cấp xã trong thười gian qua có nhiều chuyển biến tích cực. Hàng năm đã xây dựng chương trình kế hoạch giám sát, tổ chức các đoàn giám sát khi cần thiết, trong giám sát có sự phối hợp với các cấp, các ngành. Thay mặt cho Nhân dân địa phương giám sát và quyết định những vấn đề quan trọng về kinh tế – văn hóa xã hội, quốc phòng – an ninh…, bước đầu góp phần khắc phục tính hình thức trong hoạt động của HĐND cấp xã nói chung và hoạt động giám sát nói riêng, đem lại nhiều kết quả khả quan.

Tuy nhiên trong thực tiễn, theo đánh giá của nhiều nhà khoa học, nhiều báo cáo chính thức và qua trải nghiệm thực tế của bản thân tại địa phương, hoạt động giám sát của HĐND nói chung và hoạt động của HĐND cấp xã nói riêng còn nhiều hạn chế như: Một số cấp ủy Đảng, chính quyền, các ban, ngành, đoàn thể chưa quan tâm đúng mức, toàn diện, chưa làm tốt công tác phối hợp trong giám sát, quy định của pháp luật vẫn còn nhiều bất cập chưa phù hợp với thực tiễn ở một số địa phương, việc xây dựng chương trình, cách thức tổ chức giám sát chưa thật sự khoa học, chưa phát huy và đáp ứng được vị trí, vai trò, chức năng theo quy định của Hiến pháp và Luật, một số cơ quan đơn vị, tổ chức và cá nhân chịu sự giám sát chưa thật sự coi trọng hoạt động giám sát của HĐND, các kết luận sau khi giám sát thường chung chung, thiếu đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện kết luận đó nên vẫn còn hiện tượng sau giám sát đâu lại vào đấy, một số vụ việc của các tổ chức cá nhân chưa được phát hiện kịp thời, trình độ năng lực của một số đại biểu chưa tương xứng đáp ứng kịp với yêu cầu nhiệm vụ giám sát trong tình hình mới, kỹ năng giám sát của một số đại biểu HĐND xã còn nhiều hạn chế, còn hình thức, qua loa, chưa đi vào chiều sâu, chưa kịp thời phát hiện và giám sát những vấn đề nổi cộm, bức xúc mà cử tri và Nhân dân quan tâm, các chức danh chủ chốt trong HĐND lại kiêm nhiệm, cơ sở vật chất, điều kiện tổ chức giám sát chưa đáp ứng.

Từ những thực trạng nêu trên cho thấy rằng việc nghiên cứu lý luận và thực tiễn về hoạt động giám sát của HĐND cấp xã trên địa bàn huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam theo pháp luật hiện hành được đặt ra nhằm đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát của HĐND nói chung và hoạt động giám sát của HĐND cấp xã nói riêng với mục tiêu xây dựng HĐND xã thực sự là cơ quan đại diện, cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, là cơ quan dân cử xứng đáng với niềm tin của Nhân dân.

Xuất phát từ những lý do trên tác giả lựa chọn đề tài: Giám sát của Hội đồng nhân dân cấp xã từ thực tiễn huyện Quế Sơn tỉnh Quảng Nam làm đề tài luận văn Thạc sĩ Luật học.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về hoạt động giám sát của HĐND cấp xã ở huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam. Qua đó tác giả luận văn đưa ra những quan điểm và giải pháp đẩy mạnh hoạt động giám sát của HĐND cấp xã, nhằm đảm bảo HĐND xã là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện cho nguyện vọng, ý chí và quyền làm chủ của nhân dân ở địa phương.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

– Nghiên cứu cơ sở lý luận về tổ chức và hoạt động giám sát của HĐND cấp xã.

– Đánh giá thực trạng, những ưu điểm và hạn chế trong giám sát của HĐND cấp xã từ thực tiễn huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam từ năm 2016 đến năm 2020.

– Đưa ra những quan điểm và giải pháp nâng cao hiệu quả giám sát của HĐND cấp xã đáp ứng yêu cầu trong tình hình mới ở huyện Quế Sơn tỉnh Quảng Nam.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

– Những vấn đề lịch sử, lý luận về giám sát của Hội đồng nhân dân cấp huyện.

– Thực tiễn về hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân cấp xã tại huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam.

– Quy định pháp luật liên quan đến giám sát của HĐND cấp xã.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

– Phạm vi thời gian: Luận văn khảo sát, nghiên cứu thực tiễn giám sát của HĐND cấp xã tại huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam trong giai đoạn từ năm 2016 đến 2020. Trên cơ sở đó đề ra phương hướng và giải pháp cho nhiệm kỳ 2021-2026

– Phạm vi không gian: Luận văn nghiên cứu về giám sát của HĐND cấp xã từ thực tiễn của 11 xã, 02 thị trấn trên địa bàn huyện Quế Sơn.

– Phạm vi nội dung: Nghiên cứu vấn đề lý luận, pháp luật về hội đồng nhân dân cấp xã, thực tiễn giám sát của HĐND cấp xã của huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam. Đề xuất các quan điểm, giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả giám sát của HĐND cấp xã nói chung và HĐND cấp xã tại huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam nói riêng.

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu

5.1. Phương pháp luận

Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở lý luận khoa học và các phương pháp luận của triết học Mác – Lênin, tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về Hội đồng nhân dân, chức năng giám sát của Hội đồng nhân dân.

5.2. Phương pháp nghiên cứu

Các phương pháp nghiên cứu sử dụng trong Luận văn chủ yếu là phân tích, tổng hợp, thống kê, khảo sát thực tiễn, thu thập thông tin, phương pháp khảo cứu tài liệu, lượng hóa các số liệu, phương pháp so sánh, đánh giá, phương pháp quan sát để nghiên cứu.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn

6.1. Ý nghĩa lý luận

Kết quả nghiên cứu của Luận văn có ý nghĩa cho việc nâng cao nhận thức về giám sát của Hội đồng nhân dân cấp xã qua thực tiễn huyện Quế Sơn tỉnh Quảng Nam.

Những kiến nghị, đề xuất trong luận văn có thể sẽ được xem xét vận dụng góp phần luận chứng về mặt lý luận cho việc nâng cao hiệu lực hiệu quả hoạt động của HĐND nói chung và hoạt động của HĐND xã trong giai đoạn hiện nay.

6.2. Ý nghĩa thực tiễn

Luận văn góp phần nâng cao nhận thức và hành động trong công tác lãnh chỉ đạo, thực hiện giám sát của HĐND cấp xã ở huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam, luận văn cũng có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo trong hoạt động nghiên cứu.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm ba chương:

Chương 1: Cơ sở lý luận về giám sát của Hội đồng nhân dân cấp xã.

Chương 2: Thực trạng giám sát của HĐND cấp xã tại huyện Quế Sơn tỉnh Quảng Nam.

Chương 3: Quan điểm và giải pháp nâng cao hiệu quả giám sát của HĐND cấp xã từ thực tiễn huyện Quế Sơn tỉnh Quảng Nam.

CHƯƠNG 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ GIÁM SÁT CỦA

HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN CẤP XÃ

1.1. Khái quát chung về Hội đồng nhân dân cấp xã

1.1.1. Khái niệm, vị trí, vai trò, chức năng của Hội đồng nhân dân cấp xã

1.1.1.1. Khái niệm về giám sát của HĐND cấp xã

Trong ngôn ngữ tiếng Việt, “giám sát” được hiểu như một động từ chỉ “sự theo dõi và kiểm tra xem có thực hiện đúng những điều quy định không[36, tr.305]. Trong từ điển tiếng Việt, giám sát là “theo dõi, kiểm tra việc thực thi nhiệm vụ[14, tr.728]. Trong cuốn Nhân dân giám sát các cơ quan dân cử ở Việt Nam trong thời kỳ đổi mới, giám sát mang tính quyền lực nhà nước là “sự theo dõi, quan sát hoạt động của một chủ thể quyền lực mang tính chủ động, liên tục, thường xuyên và sẵn sàng tác động bằng các biện pháp tích cực để bắt buộc và hướng hoạt động của các tổ chức quyền lực chịu sự giám sát đi đúng quỹ đạo, đúng quy chế nhằm giới hạn quyền lực, đảm bảo cho pháp luật được tuân thủ nghiêm minh[32, tr.14,15].

Tuy cách diễn đạt và biểu hiện ý nghĩa của từ “giám sát” có khác nhau nhưng các quan niệm trên đều đề cập đến những nội dung cơ bản: Giám sát là việc theo dõi, xem xét và kiểm tra một cơ quan, tổ chức, hay cá nhân nào đó trong việc thực hiện một hoạt động nào đó, một công việc, hay thực hiện pháp luật có đúng với những yêu cầu đã được xác định hay không, do đại diện cho quyền lực thực hiện hay chủ thể có quyền lực. Luật tổ chức HĐND và UBND năm 2003 có riêng một chương quy định về hoạt động giám sát của HĐND (Chương III từ Điều 57 đến Điều 81).

Từ những phân tích trên, dưới góc độ khoa học pháp lý, theo tác giả khái niệm giám sát của Hội đồng nhân dân cấp xã được hiểu là: Giám sát của HĐND cấp xã là tổng thể các hoạt động của HĐND, Thường trực HĐND, các Ban của HĐND và đại biểu HĐND xem xét, theo dõi, đánh giá hoạt động của các cơ quan tổ chức, cá nhân chịu sự giám sát trong việc thi hành Hiến pháp, luật, pháp lệnh và các văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan nhà nước cấp trên và trong việc thực hiện Nghị quyết của HĐND cấp xã. Từ đó đưa ra các kết luận và kiến nghị phương án xử lý phù hợp theo thẩm quyền để khắc phục những tồn tại, hạn chế, phát huy mọi tiềm năng của địa phương để phát triển kinh tế – xã hội, đảm bảo quốc phòng – an ninh, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng và văn minh.

Như vậy, giám sát của HĐND là hình thức thực hiện quyền giám sát của nhân dân được thực hiện bằng pháp luật là thực hiện sự ủy quyền của nhân dân để giám sát hoạt động của bộ máy nhà nước, thông qua cơ quan nhà nước là HĐND các cấp. Trong quá trình giám sát, chủ thể giám sát có quyền tiếp cận mọi đối tượng, mọi văn bản, hồ sơ theo yêu cầu giám sát. Giám sát chứa đựng những yếu tố thuộc tính của công tác kiểm tra, kiểm soát và thanh tra. Hoạt động nhằm kiểm soát thực thi quyền lực nhà nước.

1.1.1.2. Vị trí, vai trò của Hội đồng nhân dân cấp xã

– HĐND xã có vai trò, vị trí quan trọng, là cơ quan quyền lực Nhà nước ở cấp xã, đại diện cho nguyện vọng, ý chí và quyền làm chủ của Nhân dân trong xã, do Nhân dân xã bầu ra, chịu trách nhiệm trước Nhân dân và cơ quan Nhà nước cấp trên.

HĐND xã thực hiện quyền giám sát đối với hoạt động của UBND cấp xã, giám sát việc tuân theo pháp luật của cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và công dân ở cấp mình, giám sát việc thực hiện các nghị quyết của HĐND, hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân cấp xã là hết sức quan trọng trong hoạt động của cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa phương, là công cụ đảm bảo giám sát thực hiện quyền lực của cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa phương. HĐND thay mặt Nhân dân thực thi quyền lực nhà nước bằng cách căn cứ vào pháp luật, Hiến pháp, tình hình thực tế địa phương mà quyết định các biện pháp tổ chức thực hiện pháp luật, Hiến pháp, Nghị quyết của HĐND, vừa mang tính đại diện, vừa mang tính quyền lực Nhà nước, có giá trị bắt buộc chung đối với các tổ chức và công dân, cơ quan, ở địa phương. Như vậy, ngoài chức năng quyết định những vấn đề quan trọng của địa phương thì việc giám sát việc tuân theo Hiến pháp, pháp luật, Nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp xã là một trong những biện pháp cần thiết và không thể thiếu được, đóng vai trò quan trọng trong việc bảo đảm quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân [2].

HĐND xã được lựa chọn từ các đại biểu ưu tú của các tầng lớp trong xã hội, đại diện tiêu biểu nhất cho tiếng nói của các tầng lớp nhân dân trong xã, Hội đồng nhân dân quyết định những biện pháp quan trọng, những chủ trương để xây dựng và phát triển địa phương về KT-XH, củng cố QP-AN, phát triển tiềm năng của xã, không ngừng cải thiện đời sống tinh thần, vật chất của Nhân dân, thực hiện tốt nghĩa vụ của địa phương với cấp trên. HĐND xã là đơn vị gần dân nhất, hiểu rõ tâm tư, nguyện vọng và yêu cầu của nhân dân, do đó đưa ra những quyết sách đúng đắn, phù hợp với thực tiễn ở địa phương, góp phần xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân, bảo đảm quyền con nười, bảo đảm pháp chế và phát huy dân chủ tại địa phương.

1.1.1.3. Chức năng của Hội đồng nhân dân cấp xã

Năm 2015 Luật Tổ chức chính quyền địa phương quy định chức năng của chính quyền địa phương trong đó có Hội đồng nhân dân tại điều 31 gồm: Tổ chức và bảo đảm việc thi hành Hiến pháp và pháp luật trên địa bàn xã. Quyết định về các vấn đề của địa phương trong phạm vi được phân cấp, phân quyền theo quy định của Luật này và các quy định khác có liên quan. Quyết định và tổ chức thực hiện huy động các nguồn lực xã hội để xây dựng và phát triển kinh tế – xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh trên địa bàn xã, thực hiện các biện pháp nhằm phát huy quyền làm chủ của Nhân dân. Hội đồng nhân dân cấp xã có các chức năng trong tổ chức và bảo đảm việc thi hành pháp luật, Hiến pháp và trong lĩnh vực xây dựng chính quyền, an ninh, quốc phòng cụ thể: Ban hành nghị quyết về những vấn đề thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của HĐND cấp xã. Quyết định dự toán điều chỉnh dự toán ngân sách xã, thu, chi ngân sách xã, điều chỉnh dự toán ngân sách xã trong trường hợp cần thiết, phê chuẩn quyết toán ngân sách xã, dự toán thu ngân sách nhà nước trên địa bàn. Quyết định biện pháp phòng, chống quan liêu, tham nhũng trong phạm vi được phân quyền; bảo an toàn xã hội, đấu tranh, phòng, chống tội phạm, đảm bảo trật tự và các hành vi vi phạm pháp luật khác, biện pháp bảo vệ tài sản của tổ chức, cơ quan, bảo hộ tính mạng, danh dự, tự do, tài sản, nhân phẩm, các quyền, lợi ích hợp pháp khác trên địa bàn xã của công dân. Quyết định chủ trương đầu tư dự án, chương trình trong phạm vi được phân quyền của xã. Bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Chủ tịch Ủy ban nhân dân, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân và các Ủy viên Ủy ban nhân dân xã. Bãi nhiệm, bầu, miễn nhiệm đối với Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Trưởng ban, Phó Trưởng ban của Hội đồng nhân dân xã; Giám sát việc thực hiện nghị quyết của Hội đồng nhân dân xã; giám sát hoạt động của Thường trực HĐND, UBND cùng cấp,việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật ở địa phương, Ban của Hội đồng nhân dân cấp mình; giám sát văn bản quy phạm pháp luật của Ủy ban nhân dân cùng cấp. Bãi nhiệm đại biểu Hội đồng nhân dân xã và chấp nhận việc đại biểu Hội đồng nhân dân xã xin thôi làm nhiệm vụ đại biểu. Bãi bỏ một phần hoặc toàn bộ văn bản trái pháp luật của Ủy ban nhân dân, Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã. Bỏ phiếu tín nhiệm, lấy phiếu tín nhiệm, đối với người giữ chức vụ do Hội đồng nhân dân xã bầu theo quy định tại Điều 88 và Điều 89 của Luật này.

Có thể khẳng định rằng, chức năng của Hội đồng nhân dân cấp xã được quy định cụ thể tại Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015, là cơ sở để Hội đồng nhân dân cấp xã thực hiện tốt chức năng của mình trong điều kiện nước ta đẩy mạnh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trong bối cảnh hội nhập sâu rộng quốc tế. Bởi vì HĐND cấp xã giám sát hoạt động của Thường trực Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, các Ban của Hội đồng nhân dân cấp mình; giám sát văn bản quy phạm pháp luật của Ủy ban nhân dân cùng cấp và văn bản của Hội đồng nhân dân cấp xã theo quy định của pháp luật. Giám sát việc thực hiện Nghị quyết của Hội đồng nhân dân xã; việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật ở địa phương.

1.1.2. Tổ chức của Hội đồng nhân dân cấp xã

1.1.2.1. Thường trực Hội đồng nhân dân

Theo quy định của luật Tổ chức chính quyền địa phương Thường trực HĐND là cơ quan thường trực của HĐND, thực hiện quyền hạn, nhiệm vụ và các quy định khác của pháp luật có liên quan, chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước HĐND.

Nhiệm kỳ của TT HĐND theo nhiệm kỳ của HĐND cùng cấp, khi HĐND hết nhiệm kỳ, TT HĐND tiếp tục làm nhiệm vụ cho đến khi HĐND khóa mới bầu ra TT HĐND khóa mới.

Thường trực HĐND xã gồm chủ tịch HĐND và một phó chủ tịch HĐND.

Thành viên của thường trực Hội đồng nhân dân không thể đồng thời là thành viên của UBND cùng cấp.

1.1.2.2. Các ban của Hội đồng nhân dân xã

Điều 109 luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 các ban của HĐND có nhiệm vụ tham gia chuẩn bị nội dung kỳ họp của HĐND trên lĩnh vực liên quan phụ trách. Giám sát hoạt động của UBND và các cơ quan chuyên môn thuộc UBND cùng cấp trong các lĩnh vực phụ trách; giám sát văn bản quy phạm pháp luật thuộc phạm vi phụ trách, thẩm tra dự thảo báo cáo, đề án, nghị quyết liên quan đến lĩnh vực do HĐND hoặc Thường HĐND phân công phụ trách. HĐND thành lập Ban Pháp chế, Ban KT-XH, ban này gồm trưởng ban, phó ban và các ủy viên, số lượng ủy viên của ban do HĐND xã quyết định, trưởng, phó ban và các ủy viên của các ban hoạt động kiêm nhiệm. Thường trực HĐND, Ban của HĐND chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước HĐND; Báo cáo kết quả hoạt động giám sát với HĐND, trong thời gian HĐND không họp thì báo cáo công tác trước Thường trực HĐND. Nhiệm kỳ của các ban theo nhiệm kỳ của HĐND cùng cấp, khi hết nhiệm kỳ, các ban tiếp tục làm nhiệm vụ cho đến khi HĐND khóa mới bầu ra các ban của HĐND khóa mới. Đây là điểm mới về cơ cấu tổ chức của HĐND cấp xã theo quy định của luật Tổ chức chính quyền địa phương.

1.1.2.3. Đại biểu Hội đồng nhân dân

Đại biểu HĐND là người đại diện cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân địa phương, chịu trách nhiệm trước trước HĐND và cử tri địa phương về việc tực hiện quyền hạn, nhiệm vụ đại biểu của mình.

Nhiệm kỳ của đại biểu HĐND theo nhiệm kỳ của HĐND. Đại biểu HĐND bình đẳng trong quyết định và thảo luận các vấn đề thuộc quyền hạn, nhiệm vụ của HĐND. Đại biểu HĐND được bầu bổ sung bắt đầu làm nhiệm vụ đại biểu từ khi khai mạc kỳ họp tiếp sau cuộc bầu cử bổ sung đến ngày khai mạc kỳ họp thứ nhất của HĐND khóa sau.

1.2. Hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân cấp xã

1.2.1. Chủ thể giám sát của Hội đồng nhân dân cấp xã

Theo khoản 2, Điều 2 Luật hoạt động giám sát của Quốc hội và HĐND năm 2015: “Chủ thể giám sát” bao gồm Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc Hội, Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội, đoàn đại biểu Quốc hội, địa biểu Quốc hội và HĐND, TT HĐND, các ban của HĐND, tổ đại biểu HĐND, đại biểu HĐND”. Điều 2 Luật hoạt động giám sát của Quốc hội và HĐND năm 2015 tại Khoản 6: “Giám sát của HĐND bao gồm giám sát của HĐND tại kỳ họp, giám sát của TTHĐND, các ban của HĐND, tổ đại biểu HĐND và các đại biểu HĐND”. Do đó, chủ thể thực hiện quyền giám sát của HĐND cấp xã gồm:

Thứ nhất, Hội đồng nhân dân: Một tập thể các đại biểu HĐND tại phiên họp hội đồng;

Thứ hai, Thường trực HĐND;

Thứ ba, Các ban của HĐND;

Thứ tư, Đại biểu HĐND.

Thường trực HĐND lúc này chưa phải là chủ thể của hoạt động giám sát, mà mới chỉ là người đôn đốc kiểm tra các hoạt động của UBND cùng cấp cũng như vấn đề giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân ở địa phương theo luật Tổ chức HĐND và UBND năm 1994 (sửa đổi). Nhưng theo quy định của pháp luật hiện hành, chủ thể giám sát của HĐND ngày càng mở rộng và quy định chặt chẽ hơn.

1.2.2. Hình thức (cách thức) giám sát của Hội đồng nhân dân cấp xã

Theo Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 tại Điều 87 và Luật hoạt động giám sát của Quốc hội và HĐND năm 2015 tại Điều 57, thì HĐND cấp xã thực hiện quyền giám sát thông qua các hình thức:

Một là, xem xét báo cáo. Đây là hình thức giám sát trực tiếp quan trọng của HĐND cấp xã; xem xét báo cáo công tác của Thường trực HĐND, UBND cùng cấp, HĐND thực hiện việc xem xét các báo cáo hàng năm, báo cáo 6 tháng và báo cáo chuyên đề của TT HĐND, UBND cùng cấp.

Hai là, xem xét việc ban hành văn bản của UBND. HĐND xem xét các văn bản của UBND cùng cấp, HĐND có quyền hủy bỏ hoặc đình chỉ việc thi hành các văn bản trái với quy định của văn bản cơ quan Nhà nước cấp trên và nghị quyết của HĐND cùng cấp có dấu hiệu trái pháp luật hay không.

Ba là, xem xét báo cáo của UBND cùng cấp về tình hình thi hành Hiến pháp, VBQPPL của cơ quan nhà nước cấp trên và nghị quyết HĐND cùng cấp. Thông qua đó HĐND sẽ kiểm tra được việc tuân thủ Hiến pháp và pháp luật của UBND trong quá trình thực thi quyền hạn, nhiệm vụ được giao và kịp thời chấn chỉnh những sai sót;

Bốn là, giám sát chuyên đề, khi phát hiện có hành vi vi phạm pháp luật, gây thiệt hại đến lợi ích của nhà nước, quyền lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức thì thành lập đoàn giám sát về một vấn đề nhất định khi xét thấy cần thiết, đoàn giám sát có quyền yêu cầu cá nhân, tổ chức, cơ quan có thẩm quyền xem xét, xử lý trách nhiệm của tổ chức, cá nhân, cơ quan có hành vi vi phạm theo quy định của Pháp luật.

Năm là, chất vấn và nghe trả lời chất vấn. Hiến pháp 2013 tiếp tục khẳng định quyền chất vấn của đại biểu HĐND gồm chất vấn của đại biểu HĐND tại kỳ họp HĐND và giữa hai kỳ họp HĐND, đối với chủ tịch UBND, phó chủ tịch UBND, ủy viên ủy ban cùng cấp tại kỳ họp, thông qua việc trả lời của người bị chất vấn, HĐND có thể giám sát được hoạt động của các cơ quan này. Hình thức chất vấn thể hiện trực tiếp quyền giám sát của HĐND mang tính công khai, dân chủ trong hoạt động của HĐND. Chất vấn là quyền của từng đại biểu, nhưng khi đại biểu thực hiện quyền này thì có tính chất là một hoạt động giám sát của HĐND.

Sáu là, lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do HĐND bầu, quy định lấy phiếu tín nhiệm và bỏ phiếu tín nhiệm theo pháp luật Việt Nam chỉ áp dụng đối với cá nhân chứ không áp dụng đối với tập thể. Theo quy định tại Điều 88, Điều 89 Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015, đây là hình thức quan trọng nhằm tăng cường tính tích cực, phấn đấu của các chủ thể chịu sự giám sát.

Trong quá trình giám sát, HĐND cấp xã có quyền yêu cầu bãi bỏ một phần hoặc toàn bộ văn bản của UBND, chủ tịch UBND cùng cấp trái với Hiến pháp, VBQPPL của cơ quan nhà nước cấp trên và nghị quyết của HĐND cấp xã, miễn nhiệm, bãi nhiệm chủ tịch HĐND, phó chủ tịch HĐND, trưởng Ban, phó trưởng Ban của HĐND, Chủ tịch, Phó chủ tịch và Ủy viên ủy ban cấp xã. HĐND cấp xã có quyền yêu cầu UBND, chủ tịch UBND cùng cấp ban hành văn bản để thi hành Hiến pháp, pháp luật của cơ quan nhà nước cấp trên và nghị quyết của HĐND cấp xã.

Ngoài ra, HĐND cấp xã còn giám sát thông qua việc theo dõi việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân gửi đến HĐND xã, tiếp công dân và giám sát qua các đợt tiếp xúc cử tri.

Như vậy, hiệu quả giám sát của HĐND cấp xã được bảo đảm bằng hiệu quả giám sát tại kỳ họp HĐND, giám sát của TT HĐND, các ban của HĐND và các đại biểu HĐND, hoạt động chất vấn và nghe trả lời chất vấn. Đồng thời HĐND xã có trách nhiệm báo cáo về hoạt động giám sát trước cử tri của địa phương mình thông qua hoạt động tiếp xúc cử tri và hệ thống đài truyền thanh của xã để đảm bảo tính công khai minh bạch trong hoạt động giám sát.

1.2.3. Đối tượng giám sát của Hội đồng nhân dân cấp xã

Theo luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015, đối tượng giám sát của HĐND cấp xã rất phong phú và đa dạng, bao gồm tất cả các cơ quan, tổ chức, cá nhân ở địa phương bao gồm:

– Thường trực HĐND, UBND cùng cấp, ban của HĐND.

– Chủ tịch HĐND.

– Chủ tịch UBND các thành viên khác của UBND và cơ quan chuyên môn thuộc UBND.

– Các tổ chức cá nhân khác ở địa phương.

1.2.4. Nội dung giám sát của Hội đồng nhân dân cấp xã

HĐND quyết định nội dung giám sát theo đề nghị của Thường trực HĐND trình trên cơ cở các kiến nghị của Ban Kinh tế, Ban Pháp chế, đại biểu HĐND, UBMTTQVN xã và ý kiến kiến nghị của cử tri địa phương.

Luật hoạt động giám sát của Quốc hội và HĐND năm 2015 tại Điều 5 và luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 tại Điều 87, giám sát của HĐND xã gồm:

– Giám sát việc thực hiện Nghị quyết của Hội đồng nhân dân

Nghị quyết của HĐND cấp xã có vai trò rất quan trọng trong định hướng phát triển KT-XH ở địa phương. Nghị quyết của HĐND cấp xã ban hành nhằm triển khai thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước, nghị quyết của Đảng bộ xã, phản ánh ý chí, nguyện vọng của nhân dân. Trong quá trình giám sát nếu phát hiện những sai sót trong quá trình tổ chức thực hiện nghị quyết thì HĐND cấp xã sẽ có những điều chỉnh kịp thời. Do đó việc giám sát đối với việc thực hiện Nghị quyết của HĐND cấp xã là nội dung không thể thiếu nhằm kịp thời gỡ bỏ những khó khăn, vướng mắt phát sinh trong quá trình thực hiện nghị quyết, nhằm đảm bảo Nghị quyết đi vào thực tiễn. HĐND có quyền yêu cầu xem xét báo cáo của UBND cùng cấp về tình hình thi hành nghị quyết của HĐND cấp xã đề ra. Vì theo quy định mỗi năm HĐND xã họp ít nhất 02 kỳ, trong mỗi kỳ họp đều ban hành các nghị quyết như: Nghị quyết phê chuẩn thu chi ngân sách của địa phương hằng năm, nghị quyết phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh quốc phòng, các nghị quyết chuyên đề…

– HĐND giám sát hoạt động của TT HĐND, UBND cùng cấp và Ban của HĐND cấp xã

Hằng năm HĐND thường có hai kỳ họp (6 tháng, 01 năm), trừ trường hợp cần thiết có kỳ họp bất thường. Giám sát của HĐND được thực hiện thông qua việc: Chất vấn trực tiếp tại kỳ họp, hình thức này mang lại hiệu quả cao, HĐND nghe và xem xét việc trả lời chất vấn của chủ tịch HĐND, UBND các thành viên của UBND, các cơ quan chuyên môn thuộc UBND. Thông qua chất vấn, HĐND xem xét trách nhiệm của các cá nhân của những người được chất vấn. Đây là phương thức giám sát quan trọng giúp HĐND nhận thông tin chính thức từ phía cơ quan đó.

Tại các kỳ họp HĐND, thường trực HĐND, Ban Kinh tế – xã hội, Ban Pháp chế HĐND, UBND phải báo cáo bằng văn bản trước HĐND, HĐND xem xét các báo cáo tại kỳ họp. Thông qua việc xem xét, thảo luận các báo cáo công tác, HĐND nắm bắt thông tin một cách đầy đủ, toàn diện về hoạt động của các cơ quan này, khi xem xét các báo cáo, HĐND phải tập trung làm sáng tỏ tính chính xác và thực tiễn của các báo cáo nhằm xác định đúng các vấn đề cần tập trung giải quyết, kết quả đạt được và những khó khăn, tồn tại hạn chế. Từ đó đánh giá khách quan kết quả thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan nhà nước theo quy định của pháp luật và Nghị quyết của HĐND.

– Giám sát hoạt động ban hành văn bản quy phạm pháp luật của UBND cùng cấp

Hoạt động của UBND cấp xã là thực thi nghị quyết của HĐND cùng cấp và các văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên. Vì thế, việc giám sát hoạt động ban hành văn bản QPPL của UBND cùng cấp là một nội dung vô cùng cần thiết, do đó đòi hỏi hệ thống văn bản của UBND cấp xã ban hành phải đảm bảo tính chính xác về hình thức, nội dung, thẩm quyền, đáp ứng được yêu cầu trong quá trình thực thi công vụ. Nhằm kịp thời phát hiện những sai phạm trong ban hành văn bản, các chủ thể có thẩm quyền giám sát trong lĩnh vực này thường theo dõi việc ban hành văn bản của UBND cùng cấp, xem xét các báo cáo nhằm đình chỉ hoặc hủy bỏ thi hành nếu phát hiện có sai phạm.

Hoạt động giám sát của HĐND cấp xã bao quát toàn bộ hoạt động quản lý nhà nước trên tất cả các lĩnh vực QP-AN, KT-XH, xây dựng củng cố chính quyền thực hiện pháp luật, bảo đảm phát huy quyền làm chủ của Nhân dân tại địa phương rất rộng. Hoạt động giám sát của HĐND cấp xã hiện nay tuân theo luật hoạt động giám sát của Quốc hội và HĐND năm 2015. Đồng thời cũng khác với giám sát của của các cá nhân công dân, giám sát của UBMTTQVN và đó là những hoạt động không mang tính quyền lực. Tuy nhiên hoạt động giám sát của HĐND cấp xã có một số nội dung khác so với giám sát của Quốc hội, HĐND cấp tỉnh, cấp huyện ở phạm vi hẹp hơn.

– Giám sát việc tuân theo hiến pháp và pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự giám sát

Trên thực tế pháp luật của nhà nước, nghị quyết của HĐND có đi vào cuộc sống, trở thành hiện thực hay không, không chỉ thông qua hoạt động ban hành các văn bản hướng dẫn, thi hành đảm bảo đúng đắn, kịp thời, phù hợp, mà còn phụ thuộc vào quá trình tổ chức thực hiện có mang lại hiệu quả hay không? Có hợp hiến, hợp pháp hay không? Vì vậy giám sát việc tuân thủ hiến pháp, pháp luật của cơ quan Nhà nước của tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang và công dân ở địa phương là một nội dung giám sát của HĐND, nhằm kịp thời phát hiện vi phạm pháp luật trong hoạt động thực tiễn của các đối tượng này để có biện pháp ngăn chặn đảm bảo, kịp thời cho pháp luật được thực hiện thống nhất nghiêm chỉnh. Đây là quá trình HĐND xem xét việc áp dumnnHĐND xem xét việc áp dụng pháp luật trong tổ chức và hoạt động thực tiễn của các tổ chức, cá nhân, cơ quan thuộc quyền giám sát, vì vậy phạm vi giám sát của HĐND trong lĩnh vực này rất rộng.

– Việc ban hành Quyết định chương trình giám sát của Hội đồng nhân dân cấp xã theo luật định

Quyết định ban hành chương trình giám sát được thông qua trong các kỳ họp của HĐND cấp xã được thông qua trong các cuộc họp của TT HĐND cấp xã trên cơ sở kiến nghị của UBMTTQVN cùng cấp và ý kiến của cử tri địa phương, của đại biểu HĐND, hai Ban HĐND, HĐND cấp xã ban hành Quyết định chương trình giám sát định kỳ, giám sát chuyên đề hoặc giám sát theo vụ việc được quyết định theo đề nghị của TT HĐND trình.

Tại huyện Quế Sơn, có 13 xã, thị trấn trong đó có 01 xã và 02 thị trấn đạt xã loại 1, 01 xã đạt xã loại 3, còn lại xã loại 02. Qua thực tiễn cho thấy, nếu như địa phương nào xảy ra nhiều khiếu nại, tố cáo, tranh chấp, hay ý kiến của nhân dân địa phương về một vấn đề đang xảy ra thì HĐND cấp xã ban hành Quyết định chương trình giám sát chuyên đề hoặc giám sát theo vụ việc. Hàng năm HĐND cấp xã đều ban hành Quyết định chương trình giám sát định kỳ, trong đó đề cập đến chương trình, nội dung giám sát cũng như các hình thức giám sát tại địa phương.

Bảng 2.1. Bảng thống kê số lượng ban hành quyết định chương trình giám sát của HĐND cấp xã tại huyện Quế Sơn năm 2016 -2020

STTCác xã, thị trấn của huyện Quế SơnGiám sát

Định kỳ

Giám sát

chuyên đề

Thị Trấn Đông Phú89
Thị Trấn Hương An810
Xã Quế Xuân 188
Xã Quế Xuân 286
Xã Quế Phú88
Xã Quế Mỹ810
Xã Quế Thuận88
Xã Quế Châu88
Xã Quế Hiệp86
Xã Quế Minh86
Xã Quế Phong87
Xã Quế Long87
Xã Quế An86

Nguồn: Báo cáo của UBND huyện Quế Sơn năm 2016-2020

1.2.5. Trình tự, thủ tục giám sát của Hội đồng nhân dân cấp xã

Để thực hiện chức năng giám sát chính xác, nhanh chóng và kịp thời thì quá trình giám sát của HĐND cấp xã cần phải thực hiện theo đúng thủ tục, trình tự và quy định cụ thể, vì giám sát là chức năng quan trọng của HĐND, đo đó trình tự, thủ tục giám sát của HĐND như sau:

Thứ nhất, Hằng năm Ban Kinh tế và ban Pháp Chế HĐND xã, các đại biểu HĐND xã, UBMTTQVN xã và cử tri địa phương gửi đề nghị, kiến nghị giám sát đến TT HĐND xã, thời gian chậm nhất là 01 ngày của tháng 03 năm trước, đề nghị kiến nghị giám sát phải nêu rõ nội dung, sự cần thiết, đối tượng, phạm vi giám sát, văn phòng HĐND-UBND xã tổng hợp đề nghị, kiến nghị giám sát và báo cáo cho TT HĐND xã, trên cơ sở đó TT HĐND xã thảo luận và dự kiến chương trình giám sát của HĐND để trình HĐND xem xét quyết định, thời gian chậm nhất là 10 ngày trước ngày khai mạc kỳ họp giữa năm của HĐND xã.

Thứ hai, cấp xã quyết định chương trình giám sát hằng năm của mình theo trình tự sau:

TT HĐND xã trình bày tờ trình dự kiến chương trình giám sát tại kỳ họp HĐND cấp xã;

HĐND cấp xã sẽ biểu quyết thông qua chương trình giám sát của HĐND xã tại kỳ họp HĐND xã.

Thứ ba, TTHĐND cấp xã tổ chức thực hiện chương trình giám sát của HĐND cấp xã, trừ trường hợp giám sát chuyên đề.

Thứ tư, TT HĐND cấp xã báo cáo kết quả thực hiện hoạt động giám sát hằng năm của HĐND tại kỳ họp giữa năm sau của HĐND xã.

1.2.6. Hệ quả pháp lý của hoạt động giám sát của HĐND cấp xã

Hậu quả pháp lý của hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân cấp xã luôn được thể hiện dưới hình thức văn bản (báo cáo hoặc thông báo), là sự thể hiện ý chí của HĐND cấp xã đối với kết quả của hoạt động giám sát, đó là những nội dung, kết quả hoạt động giám sát thường xuyên hoặc chuyên đề và những kiến nghị, đề xuất với các cơ quan chức năng để nghị quyết của HĐND được thực hiện nghiêm túc trong thực tiễn. Các biện pháp, chế tài thể hiện nội dung hậu quả pháp lý của hoạt động giám sát, nghị quyết về việc bỏ phiếu tín nhiệm, miễn nhiệm, bãi nhiệm Chủ tịch, Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Trưởng các Ban của Hội đồng nhân dân, Chủ tịch, Phó Chủ tịch và các thành viên khác của Ủy ban nhân dân cùng cấp. Tại kỳ họp HĐND, báo cáo về hoạt động giám sát sẽ được các đại biểu HĐND xem xét thông qua, trong đó có các biện pháp tác động đến đối tượng chịu sự giám sát của HĐND.

1.3. Các yếu tố tác động đến giám sát của Hội đồng nhân dân cấp xã

1.3.1. Các quy định của pháp luật về giám sát của HĐND cấp xã

Pháp luật dù hiện đại nhưng nếu không phù hợp cũng khó đảm bảo hiệu quả hoạt động giám sát của HĐND, cơ sở pháp lý quan trọng nhất là các quy định của pháp luật bởi các quy định đó trao quyền và minh định cụ thể chủ thể, nguồn lực và nghĩa vụ, quy trình, cơ chế để đảm bảo thực hiện các hình thức của giám sát.

Nếu Luật không quy định một cách cụ thể về hoạt động giám sát của HĐND thì việc ghi nhận chức năng giám sát của HĐND trong Hiến pháp cũng chỉ là hình thức [30]. Đây là yếu tố đầu tiên tác động lớn đến hiệu quả giám sát của HĐND nói chung và HĐND cấp xã nói riêng. Điều này đã được minh chứng trong thực tiễn phát triển của Luật Tổ chức HĐND & UBND năm 2003 với nhiều bất cập, chưa phù hợp và được hoàn thiện bởi Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân năm 2015 và cùng với đó là Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015.

1.3.2. Kế hoạch, chương trình, phương thức giám sát của HĐND cấp xã

Xây dựng chương trình, kế hoạch, lựa chọn phương thức giám sát phù hợp tạo điều kiện đảm bảo thế chủ động cho HĐND khi thực hiện nhiệm vụ, chức năng đồng thời là một trong những yếu tố góp phần nâng cao hiệu quả giám sát. HĐND xã cần ra nghị quyết tổ chức giám sát, xây dựng chương trình giám sát hàng năm, kế hoạch giám sát hàng quý, hàng tháng của thường trực, các ban, các đại biểu và kế hoạch giám sát cụ thể bằng nội dung cũng như những cuộc giám sát đột xuất theo yêu cầu của cử tri, dư luận xã hội thông báo sớm về nội dung, thời gian và cách thức tổ chức thực hiện, các thành viên của đoàn giám sát phải nắm vững mục đích yêu cầu, phương pháp giám sát. Khi xây dựng chương trình giám sát nội dung giám sát phải tập trung vào những vấn đề thiết thực, bức xúc và đang được đông đảo cử tri ở địa phương quan tâm, cần phải có trọng điểm, trọng tâm. Cũng cần phải thấy rằng mọi cố gắng trong việc xây dựng chương trình, lập kế hoạch và lựa chọn hình thức giám sát có thể sẽ không đem lại một kết quả nào nếu HĐND thiếu kiểm tra, đôn đốc các kết luận sau khi giám sát. Một trong những điều kiện nâng cao hiệu lực, hiệu quả giám sát hiện nay đó là việc đôn đốc, kiểm tra các kết luận sau giám sát buộc đối tượng bị giám sát phải kịp thời chấn chỉnh hoạt động của mình theo đúng quy định của pháp luật và nghị quyết của HĐND.

1.3.3. Tổ chức, hoạt động của thường trực và các ban của Hội đồng nhân dân cấp xã

HĐND ngày càng chú ý hoàn thiện về mặt tổ chức để thực hiện tốt chức năng giám sát của mình. Từ khi HĐND không có thường trực, mới chỉ có một ban thư ký đại biểu, đến nay HĐND đã thành lập các cơ quan của mình: Thường trực HĐND, ban Kinh tế, ban Pháp chế HĐND, phần nào đáp ứng được nhu cầu công việc trước mắt. Với đặc điểm đại biểu HĐND nói chung và đại biểu HĐND cấp xã nói riêng làm việc theo chế độ kiêm nhiệm nên ảnh hưởng rất lớn, trực tiếp đến hiệu quả hoạt động của HĐND nói chung và giám sát nói riêng. HĐND là một cơ quan mang tính chất đại diện ở địa phương, nên về mặt tổ chức lâu nay vẫn chưa được chú ý cả về lý luận và thực tiễn. Cần phải chú ý đến bộ phận giúp việc cho thường trực HĐND, tập trung nghiên cứu đổi mới về mặt tổ chức bộ máy của Hội đồng. Hơn nữa yếu tố này đòi hỏi phải có bộ máy HĐND hoạt động tốt đủ khả năng thực hiện một cách tốt với chức năng giám sát quyền hạn của mình.

1.3.4. Bản lĩnh, năng lực và trách nhiệm thực hiện chức năng giám sát của đại biểu Hội đồng nhân dân cấp xã

Giám sát là một việc phức tạp và khó khăn, bên cạnh người đại biểu còn phải có kỹ năng, trình độ, bản lĩnh và trách nhiệm khi tiến hành các hoạt động giám sát, nắm vững các quy định pháp luật về vấn đề giám sát.. Cần đảm bảo về mặt số lượng, năng lực của các đại biểu HĐND trong khi thực hiện chức năng giám sát có vai trò rất lớn đến kết quả giám sát cũng như việc thực thi kết quả đó. Đại biểu HĐND là nguồn gốc của mọi vấn đề liên quan đến hiệu quả và chất lượng giám sát của cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa phương. Muốn vậy, các đại biểu dân cử phải luôn ý thức được đây là một trong những điều kiện chủ quan mà bất cứ một người đại biểu nào cũng phải tự trau dồi nâng cao nghiệp vụ, phải có đủ tâm, tầm và đủ tài, bởi người làm công tác giám sát, ngoài việc công nhận cái đúng, còn phải chỉ rõ và đề ra những kiến nghị, những biện pháp hữu hiệu để loại bỏ cho được cái tiêu cực, trái pháp luật. Người đại biểu nhân dân phải có bản lĩnh vững vàng, có trình độ, quan điểm và phương pháp làm việc khoa học, hợp lý, hợp tình, có cách nhìn sáng suốt, không nể nang né tránh, giám nói thẳng nói thật, phải vì lợi ích của dân của Nhà nước để phát hiện sai trái của người khác của các ngành chức năng, [4, tr.19].

1.3.5. Điều kiện vật chất, chi phí cho hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân cấp xã

Điều kiện vật chất, kinh phí cũng đóng vai trò quan trọng trong hoạt động giám sát; cần phải đầu tư nhiều hơn nữa các trang thiết bị cần thiết, khắc phục tình trạng khó khăn lâu nay trong công việc giám sát là thiếu nguồn thông tin cập nhật. Nếu có đầu tư thoả đáng sẽ góp phần tích cực nâng cao hiệu quả giám sát của HĐND, đầu tư chi phí cho hoạt động giám sát của HĐND theo yêu cầu của từng nội dung hoạt động. Đối với các chức danh kiêm nhiệm của HĐND nên có quy định được hưởng phụ cấp kiêm nhiệm phù hợp để họ nâng cao tinh thần trách nhiệm của mình. Bởi nhiều khi chỉ với mức kinh phí hạn hẹp cũng có thể đem lại hiệu quả cao nếu tìm ra những hình thức phương pháp thích hợp, tổ chức thực hiện tốt. Khi nói tới hiệu quả của bất kỳ hoạt động nào thì đòi hỏi phải tính đến mức đầu tư, chi phí hợp lý, tối ưu.

Tiểu kết Chương 1

Từ sự phân tích một cách sâu sắc, cụ thể về vai trò, vị trí, chức năng của Hội đồng nhân dân, cho thấy Hội đồng nhân dân cấp xã là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của Nhân dân, giữ vị trí quan trọng trong bộ máy nhà nước. Hội đồng nhân dân, Thường trực Hội đồng nhân dân, các Ban của Hội đồng nhân dân, Tổ đại biểu Hội đồng nhân dân, đại biểu Hội đồng nhân dân cũng như các cơ quan nhà nước khác, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, người có thẩm quyền phải nhận thức đúng về hoạt động giám sát. Với chức năng giám sát của Hội đồng nhân dân cấp xã, là cơ sở đảm bảo cho việc Hiến pháp, pháp luật, các chính sách của cấp trên, Nghị quyết của Hội đồng nhân dân cùng cấp được thực hiện nghiêm túc trong thực tiễn cuộc sống. Có như vậy, hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân nói chung và Hội đồng nhân dân cấp xã nói riêng mới được nâng lên, khắc phục tính hình thức trong hoạt động của Hội đồng nhân dân, tạo ra những chuyển biến tích cực nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả trong hoạt động của bộ máy nhà nước ở địa phương, góp phần xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh.

LIỆN HỆ:

SĐT+ZALO: 0935568275

E:\DỮ LIỆU COP CỦA CHỊ YẾN\LUAN VAN VIEN HAN LAM\VIEN HAN LAM DOT 12\SAU BAO VE/ NGO THI HOANG ANH

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *