Quyền tố tụng của bị cáo từ thực tiễn xét xử sơ thẩm của Tòa án nhân dân

Quyền tố tụng của bị cáo từ thực tiễn xét xử sơ thẩm của Tòa án nhân dân

Quyền tố tụng của bị cáo từ thực tiễn xét xử sơ thẩm của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Đị

1. Tính cấp thiết của đề tài

  Quyền con người là những giá trị, chuẩn mực tuyệt đối, có tính khách quan gắn bó với nhau trong mối tương quan biện chứng, vừa mang tính phổ biến nhưng cũng có tính đặc thù, tính lịch sử – xã hội được thể hiện trong các lĩnh vực chính trị, dân sự và kinh tế, văn hóa, xã hội được ghi nhận và bảo vệ bởi luật quốc gia và luật quốc tế. Bảo đảm quyền con người là trách nhiệm của các quốc gia. Hiến pháp 2013 quy định TAND là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp. Để đảm bảo việc xét xử được chính xác, khách quan, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, giảm thiểu những oan, sai trong hoạt động xét xử các vụ án hình sự, pháp luật tố tụng hình sự quy định TAND thực hiện nguyên tắc hai cấp xét xử, các cấp xét xử hiện nay là cấp xét xử sơ thẩm và cấp xét xử phúc thẩm.

Tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, bị cáo được thực hiện quyền của mình tại phiên tòa như trình bày lời khai, trình bày ý kiến, không buộc phải đưa ra lời khai chống lại mình, quyền tự bào chữa, nhờ người bào chữa. Các quyền của bị cáo tại phiên tòa xét xử sơ thẩm hình sự không mặc nhiên được thực hiện khi bị cáo tham gia quan hệ pháp luật về tố tụng hình sự (TTHS). Để các quyền của bị cáo trở thành hiện thực, để bị cáo thụ hưởng, sử dụng các quyền của mình cần phải có sự bảo đảm từ phía Nhà nước được biểu hiện thông qua hành vi của cơ quan và những người tiến hành, người tham gia tố tụng và các chủ thể khác.

Tuy nhiên, trên thực tế, trong hoạt động xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự các quyền tố tụng của bị cáo ở một số phiên tòa xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự của TAND tỉnh Bình Định chưa thật sự được bảo đảm, một số Thẩm phán, HTND, KSV chưa có ý thức tôn trọng và bảo vệ các quyền của bị cáo hoặc yếu về năng lực chuyên môn, trong khi một số quy định pháp luật còn bất cập, gây khó khăn cho bị cáo thực hiện các quyền của mình cũng như người bào chữa cho bị cáo chưa hoàn toàn được độc lập để phát huy tốt vai trò trong nhiệm vụ bảo vệ các bị cáo. Trước yêu cầu của xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, xuất phát từ thực trạng bảo đảm quyền của bị cáo trong hoạt động xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự của TAND cấp tỉnh thời gian qua còn nhiều bất cập,vi phạm nghiêm trọng quyền con người, quyền công dân. Từ những luận giải trên, tác giả chọn đề tài: “Quyền tố tụng của bị cáo từ thực tiễn xét xử sơ thẩm của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định” làm luận văn thạc sĩ, chuyên ngành Luật hình sự và tố tụng hình sự; Mã số: 8.38.01.04.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

– Nghiên cứu làm sáng tỏ cơ sở lý luận và các quy định của PLHS về quyền tố tụng của bị cáo.

– Phân tích, đánh giá thực trạng thực hiện quyền tố tụng của bị cáo trong xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định. Trên cơ sở đó chỉ ra những hạn chế, và nguyên nhân trong thực hiện quyền tố tụng của bị cáo trong xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự.

– Đề xuất những giải pháp cơ bản, thiết thực nhằm bảo đảm quyền tố tụng của bị cáo trong xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

– Nghiên cứu những vấn đề lý luận về quyền tố tụng của bị cáo trong xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự của Tòa án nhân dân tỉnh.

– Làm rõ quy định của pháp luật hình sự về quyền tố tụng của bị cáo và đánh giá thực tiễn thực hiện quyền tố tụng của bị cáo trong xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định từ năm 2016 đến năm 2020.

– Làm sáng tỏ mục tiêu, yêu cầu và các giải pháp bảo đảm quyền tố tụng của bị cáo trong xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của luận văn là quyền tố tụng của bị cáo trong giai đoạn xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định, được thể hiện trong quy định của pháp luật và việc thực hiện pháp luật của các chủ thể có liên quan như Thẩm phán, HTND, KSV, luật sư tại phiên toà.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

+ Phạm vi về nội dung: Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về quyền tố tụng của bị cáo (thể nhân) dưới góc độ của pháp luật hình sự Việt Nam.

+ Phạm vi về không gian: Luận văn nghiên cứu về quyền tố tụng của bị cáo từ thực tiễn xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định.

+ Phạm vi về thời gian: Từ năm 2016 đến năm 2020.

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

5.1. Cơ sở lý luận

Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lênin về nhà nước và pháp luật nói chung, nhà nước và pháp luật XHCN nói riêng; tư tưởng Hồ Chí Minh về về Nhà nước và pháp luật, đường lối của Đảng về cải cách tư pháp, bảo đảm quyền con người trong xét xử các vụ án hình sự; các quan điểm của Đảng, Nhà nước ta về nhà nước pháp quyền và vấn đề quyền con người. Bên cạnh đó, luận văn còn được nghiên cứu trên cơ sở sử dụng tổng hợp các phương pháp như: Lý luận chung về pháp luật, pháp luật hình sự,lý luận về quyền con người…

5.1. Phương pháp nghiên cứu

– Phương pháp nghiên cứu tài liệu: Phương pháp này được sử dụng để nghiên cứu các công trình khoa học có liên quan đến đề tài luận văn, các văn bản pháp lý quy định về quyền tố tụng của bị cáo, các báo cáo sơ kết, tổng kết của của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định trong giai đoạn 05 năm từ năm 2016 đến năm 2020.

– Phương pháp thống kê, so sánh số liệu: Sử dụng để điều tra, khảo sát thực tế và thống kê, đánh giá thực trạng thực hiện quyền tố tụng của bị cáo trong xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định từ năm 2016 đến năm 2020.

  • Phương pháp phân tích và tổng hợp: Phương pháp này được sử dụng trong nghiên cứu khái quát những vấn đề lý luận bảo đảm quyền tố tụng của bị cáo trong hoạt động xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự của TAND tỉnh Bình Định; đánh giá những ưu điểm, hạn chế của thực trạng thực hiện quyền tố tụng của bị cáo trong hoạt động xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự của TAND tỉnh Bình Định; đề xuất các giải pháp bảo đảm quyền tố tụng của bị cáo trong hoạt động xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự của TAND tỉnh Bình Định.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

6.1. Ý nghĩa lý luận

Thông qua quá trình nghiên cứu và hoàn thành luận văn, luận văn góp phần hoàn thiện thêm một số vấn đề lý luận về quyền của bị cáo; khi đó có thể được sử dụng làm tài liệu lý luận và thực tiễn giúp cho các cơ quan tiến hành tố tụng tham khảo, rút kinh nghiệm trong thực hiện và bảo đảm quyền tố tụng của bị cáo trong xét sơ thẩm các vụ án hình sự.

6.2. Ý nghĩa thực tiễn

Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ góp phần giúp cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và các chủ thể có liên quan khác nói chung, tỉnh Bình Định nói riêng, nhận thức đúng đắn, đầy đủ quyền tố tụng của bị cáo, từ đó giúp cho những chủ thể tiến hành tố tụng này hiểu và vận dụng đúng đắn những vấn đề liên quan đến quyền tố tụng của bị cáo, qua đó thực hiện đầy đủ trách nhiệm của mình trong hoạt động xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự của TAND cấp tỉnh.

Ngoài ra, luận văn còn là tài liệu tham khảo cho các giảng viên, học viên, người hoạt động thực tiễn khi nghiên cứu, áp dụng pháp luật có liên quan đến những vấn đề có liên quan đến Luật hình sự nói chung, quyền tố tụng của bị cáo trong xét sơ thẩm các vụ án hình sự nói riêng.

7. Kết cấu của luận văn

Kết cấu của luận văn ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục thì luận văn được xây dựng có cấu trúc gồm 3 chương:

Chương 1: Một số vấn đề lý luận về quyền tố tụng của bị cáo trong xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự của Tòa án nhân dân cấp tỉnh.

Chương 2: Thực trạng thực hiện quyền tố tụng của bị cáo trong xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định.

Chương 3: Mục tiêu, yêu cầu và các giải pháp bảo đảm quyền tố tụng của bị cáo trong xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định.

CHƯƠNG 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN TỐ TỤNG CỦA BỊ CÁO TRONG XÉT XỬ SƠ THẨM CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ

1.1. Khái niệm, đặc điểm quyền tố tụng của bị cáo trong xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự của Tòa án nhân dân cấp tỉnh

Ở cấp độ quốc tế, theo định nghĩa của Văn phòng Cao ủy Liên hợp quốc về quyền con người, quyền con người là những bảo đảm pháp lý toàn cầu, bảo vệ các cá nhân và các nhóm chống lại những hành động hoặc sự bỏ mặc mà làm tổn hại đến nhân phẩm, những sự được phép và tự do cơ bản của con người [7, tr.37].

Các cơ quan và chuyên gia Việt Nam có những định nghĩa về quyền con người không hoàn toàn giống nhau, nhưng nhìn chung, quyền con người là những nhu cầu, lợi ích tự nhiên, vốn có của con người được ghi nhận và bảo vệ bởi pháp luật quốc gia và pháp lý quốc tế [7, tr.38].

Khi nghiên cứu vấn đề quyền con người, một khái niệm được đề cập nhiều và có liên quan trực tiếp với khái niệm này là khái niệm quyền công dân. Xét về nguồn gốc, quyền công dân xuất hiện muộn hơn, là một trong những thành tựu của nhân loại trong cuộc cách mạng tư sản đấu tranh chống lại chế độ phong kiến. Hiện nay, trên diễn đàn khoa học vẫn tồn tại một số khái niệm khác nhau về quyền công dân:

Theo từ điển tiếng Việt thì “quyền công dân” được hiểu là “quyền của người công dân được thừa nhận, bao gồm quyền tự do dân chủ và các quyền kinh tế văn hóa – xã hội” [16]. Như vậy, có thể hiểu “quyền công dân” là quyền con người, được các nhà nước thừa nhận và áp dụng cho công dân của mình, là tập hợp những quyền được Hiến pháp và pháp luật của mỗi Nhà nước quy định và đảm bảo thực hiện. Theo quan niệm của Mác, quyền công dân là những quyền chính trị, những quyền cá nhân con người, với tư cách là thành viên “xã hội công dân”. Như vậy, khái niệm “quyền công dân” xuất hiện sau sự xuất hiện của khái niệm “quyền con người” và được gắn liền với thời điểm ra đời của nhà nước tư sản và duy trì, phát triển đến xã hội ngày nay. Ở các nước Xã hội chủ nghĩa trước đây, khái niệm về quyền con người, quyền công dân ít khi được đề cập, cho nên có quan niệm quyền con người và quyền công dân là đồng nhất. Việt Nam cũng vậy, hầu hết trong các bản Hiến pháp đều không ghi nhận về quyền con người (trừ Hiến pháp năm 1992 và Hiến pháp năm 2013), chỉ ghi nhận về quyền và nghĩa vụ của công dân. Lần đầu tiên Hiến pháp năm 1992, tại Điều 50 ghi nhận về quyền con người: “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa và xã hội được tôn trọng, thể hiện ở các quyền công dân và được quy định trong Hiến pháp và luật” – ở đây vẫn chưa có sự phân định rạch ròi giữa quyền con người và quyền công dân, quyền công dân như là hình thức pháp lý của quyền con người.

Quyền con người có phạm vi và nội dung rất rộng, được chia ra thành các nhóm theo những tiêu chí khác nhau. Có thể chia ra thành năm nhóm nhỏ hơn (gồm các quyền dân sự, chính trị, kinh tế, xã hội và văn hóa), trong đó các quyền dân sự thông thường bao gồm quyền sống; quyền bất khả xâm phạm về thân thể, danh dự, nhân phẩm; quyền tự do đi lại; các quyền về tài sản…); các quyền chính trị bao gồm quyền bầu cử, quyền ứng cử, quyền tham gia quản lý xã hội…; các quyền kinh tế bao gồm quyền được hưởng mức sống thích đáng; quyền tự do kinh doanh; quyền lao động…; các quyền xã hội bao gồm quyền được hưởng an sinh xã hội…; và các quyền văn hoá bao gồm quyền được giáo dục, quyền được tham gia và hưởng thụ đời sống văn hoá…). Tuy nhiên, cần lưu ý là sự phân chia các quyền con người thành các nhóm chỉ mang tính chất tương đối, bởi lẽ một số quyền có thể được xếp vào nhiều hơn một nhóm [7, tr.62].

Trong lịch sử lập hiến của Việt Nam, quyền của con người luôn được cụ thể hóa bằng những quyền cơ bản của công dân và các quyền pháp lý khác (trong đó có quyền tố tụng của bị cáo) và bao giờ cũng được xem là một chế định pháp luật rất quan trọng – đây là một trong những chế định thể hiện bản chất dân chủ, tiến bộ của một nhà nước, thể hiện mối quan hệ giữa Nhà nước với công dân cùng với các cá nhân trong xã hội. Thông qua đó, có thể xác định được mức độ dân chủ của một nhà nước, một xã hội.Vì vậy, những nhà lập pháp Việt Nam luôn hoàn thiện chế định pháp luật về quyền cơ bản của công dân trong đạo luật cơ bản của Nhà nước là Hiến pháp và luôn gắn liền với nghĩa vụ của công dân [16] .

Hiến pháp năm 2013 được Quốc hội Việt Nam thông qua ngày 28/11/2013 với nhiều sửa đổi, bổ sung quan trọng trong chế định quyền con người, quyền công dân. Một trong số những sửa đổi, bổ sung đó là Hiến pháp năm 2013 đã không còn đồng nhất quyền con người với quyền công dân như Hiến pháp năm 1992. Hiến pháp năm 2013 đã quy định rõ những quyền [chỉ] dành cho công dân và những quyền dành cho tất cả mọi người [1162].

Khi một người thực hiện hành vi vi phạm pháp luật được quy định trong Bộ luật hình sự đến mức phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự, do yêu cầu của công tác đấu tranh, phòng chống tội phạm các cơ quan tố tụng áp dụng các biện pháp ngăn chặn và ban hành các quyết định áp dụng pháp luật để tạm giữ, tạm giam, điều tra, truy tố và xét xử. Trong mỗi giai đoạn tố tụng, người thực hiện hành vi phạm tội đó có những tư cách nhất định. Từ khi bị can bị Tòa án ra quyết định xét xử vụ án thì tư cách bị cáo của người đó xuất hiện [8, tr.44]. Như vậy có thể hiểu bị cáo là người bị tình nghi thực hiện hành vi phạm tội. Hành vi đó được quy định trong Bộ luật hình sự, bị VKS truy tố bằng cáo trạng thông qua quyết định truy tố và bị Tòa án đưa ra xét xử.Với tư cách là cá nhân, công dân, trên cơ sở nguyên tắc suy đoán vô tội, bị cáo mới chỉ bị coi là người bị tình nghi đã thực hiện tội phạm. Do vậy bị cáo cũng có các quyền con người theo quy định trong các lĩnh vực chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa và xã hội. Nhà nước cũng như các chủ thể khác phải tôn trọng và đảm bảo thực hiện các quyền đó trên thực tế.

Quyền của bị cáo trong hoạt động xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự của Tòa án ở Mỹ thông qua việc ghi nhận các quyền của bị cáo trong pháp luật; đồng thời, bảo đảm quyền của bị cáo được thực hiện qua hoạt động xét xử của Tòa án, ở đó Tòa án được đặt ở vị trí là trọng tài để phán quyết trên cơ sở xem xét các chứng cứ, tài liệu và quá trình tranh luận giữa bên buộc tội (Công tố) và gỡ tội (Bào chữa). Quyền của bị cáo trong hoạt động xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự của Tòa án ở Mỹ chú đến quyền tranh luận, quyền tranh tụng; quyền bào chữa; quyền đối chất; quyền xét xử kịp thời; quyền được tiếp cận với dịch vụ trợ giúp pháp lý tốt nhất. So với TTHS ở Việt Nam, hệ thống TTHS ở Mỹ thừa nhận mội số quyền khác như quyền được đối chất với nhân chứng; quyền im lặng (bất cứ bị cáo nào cũng không bị buộc làm nhân chứng để chống lại mình), quyền tiếp xúc với người bào chữa…

Bộ luật TTHS Trung Quốc ghi nhận các nguyên tắc bảo đảm quyền của bị cáo trong hoạt động xét xử vụ án hình sự. Theo đó,TAND sơ cấp và trung cấp xét xử sơ thẩm bởi một HĐXX gồm ba Thẩm phán hoặc các Thẩm phán và các HTND tối đa là ba. TAND cấp cao và TAND tối cao xét xử sơ thẩm dưới sự điều hành của HĐXX gồm từ ba đến bảy Thẩm phán hoặc các Thẩm phán và các HTND tối đa là từ ba đến bảy người (Điều 147). Nguyên tắc xét xử có HTND tham gia.Nghị án được biểu quyết theo đa số.Khi nghị án, nếu HĐXX có quan điểm khác nhau thì quyết định theo đa số, nhưng phải ghi ý kiến thiểu số vào biên bản.

Tại Việt Nam, hiện nay có nhiều quan niệm khác nhau về quyền của bị cáo. Chẳng hạn có ý kiến cho rằng quyền của bị cáo là những bảo đảm pháp lý được ghi nhận trong pháp luật, cho phép bị cáo sử dụng các quyền đó để thực hiện các quyền khác hay chống lại sự vi phạm các quyền khác. Tuy nhiên, quan niệm được nhiều học giả thừa nhận cho rằng quyền của bị cáo là sự cụ thể hóa các quyền cơ bản của con người, quyền công dân khi một người thực hiện hành vi phạm tội được quy định trong Bộ luật hình sự, đã bị VKS ra quyết định truy tố và Tòa án ra quyết định đưa vụ án hình sự ra xét xử. Vì thế, Nhà nước, các cơ quan nhà nước, người tiến hành tố tụng và các chủ thể khác có trách nhiệm phải bảo đảm các quyền của bị cáo.

Như vậy, có thể hiểu quyền tố tụng của bị cáo là những nhu cầu, giá trị và lợi ích hợp pháp của bị cáo, phù hợp với chuẩn mực quốc gia và quốc tế được quy định trong Hiến pháp và các văn bản quy phạm pháp luật khi tham gia vào quan hệ pháp luật tố tụng hình sự trong giai đoạn xét xử.

Từ khái niệm trên, có thể nhận diện một số đặc điểm về quyền tố tụng của bị cáo tại phiên tòa xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự của TAND cấp tỉnh như sau:

– Căn cứ vào mức độ nghiêm trọng, tính chất của tội phạm được quy định trong Bộ luật hình sự được thể hiện qua các chế tài áp dụng đối với các tội phạm đó. Theo đó, Bộ luật TTHS quy định về thẩm quyền xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự của TAND cấp huyện và TAND cấp tỉnh là khác nhau. So với cấp huyện, các vụ án hình sự mà Tòa án cấp tỉnh tiến hành xét xử sơ thẩm là những vụ án đặc biệt nghiêm trọng mà mức cao nhất của khung hình phạt là trên 15 năm tù, hoặc những vụ án không thuộc thẩm quyền của Tòa án cấp huyện theo quy định của pháp luật. Tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của Tòa án cấp tỉnh, bị cáo đối diện với sự buộc tội của Nhà nước với mức hình phạt nghiêm khắc nhất, trên 15 năm tù, tù chung thân hoặc tử hình. Hoặc các tội phạm xâm hại đến các khách thể quan trọng mà Bộ luật hình sự bảo vệ. Đó là các tội xâm phạm an ninh quốc gia; tội phá hoại hoà bình, chống loài người và tội phạm chiến tranh; Tội giết người; Tội làm chết người trong khi thi hành công vụ; Tội vi phạm quy định điều khiển tàu bay… Bị áp dụng những hình phạt nghiêm khắc nhất điều đó cũng có nghĩa là quyền của bị cáo có nguy cơ bị xâm phạm ở mức nghiêm trọng nhất nếu những người tiến hành tố tụng thực hiện không hết trách nhiệm, vi phạm luật tố tụng để xảy ra những oan, sai. Như vậy, để bảo đảm tốt các quyền của bị cáo năng lực, trách nhiệm của TAND cấp tỉnh và các chủ thể khác phải yêu cầu cao hơn so với cấp huyện.

– TAND cấp tỉnh xét xử sơ thẩm những vụ án nghiêm trọng liên quan đến những hành vi phạm tội xâm phạm chủ quyền của Tổ quốc, an ninh quốc gia, chống phá chế độ; những vụ án có hành vi phạm tội liên quan đến phá vỡ khối đại đoàn kết dân tộc; các hành vi phạm tội liên quan đến hoạt động tôn giáo trên địa bàn; các hành vi phạm tội có yếu tố nước ngoài; những hành vi phạm tội xảy ra trên máy bay, tàu bay, hay những tội phạm có tính tổ chức ảnh hưởng đến tình hình kinh tế, chính trị an ninh ở địa phương… Như vậy, để bảo đảm quyền của bị cáo tại các phiên tòa xét xử các sơ thẩm các vụ án hình sự TAND cấp yêu cầu đặt ra là phải nâng cao chất lượng của người tiến hành tố tụng như Thẩm phán, HTND, KSV; đồng thời, TAND cấp tỉnh phải bảo đảm chất lượng của những người tham gia tố tụng như người bào chữa, người giám định, người phiên dịch. để bảo đảm tốt hơn quyền của các bị cáo.

– So với TAND cấp huyện, TAND cấp tỉnh xét xử sơ thẩm những vụ án hình sự mà bị cáo là Kiểm sát viên, Điều tra viên, Thẩm phán, cán bộ lãnh đạo chủ chốt, vụ án có yếu tố nước ngoài. Đối với những vụ án như vậy TAND cấp tỉnh phải nghiên cứu kỹ hồ sơ, tìm hiểu, nắm bắt nhân thân của bị cáo để có những phán quyết bảo đảm đúng pháp luật nhưng cũng phải đúng chính sách của Đảng và Nhà nước trong đấu tranh phòng, chống tội phạm đối với các bị cáo. Ngoài ra, vì vụ án phức tạp, liên quan đến nhiều cấp, nhiều ngành cần phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan tố tụng với nhau để giải quyết vụ án kịp thời, đúng pháp luật, hiệu quả như phối hợp trong công tác triệu tập bị cáo, thực hiện nhiệm vụ trích xuất bị cáo đang ở trại tạm giam, tìm và cử HTND, phiên dịch…

– Nội dung các quyền của bị cáo được bảo đảm tại phiên tòa hình sự của TAND cấp tỉnh so với vụ án hình sự xét xử tại TAND cấp huyện: so với vụ án hình sự ở cấp huyện, ở phiên tòa sơ thẩm hình sự cấp tỉnh, một số quyền của bị cáo phải được bảo đảm, bắt buộc người tiến hành tố tụng phải tôn trọng và thực hiện, nếu không sẽ vi phạm luật tố tụng. Chẳng hạn, một số vụ án hình sự sơ thẩm tại TAND cấp tỉnh có khung hình phạt là tử hình phải có luật sư bào chữa cho bị cáo. Nếu bị cáo không yêu cầu luật sư bào chữa thì Tòa án phải cử luật sư để bào chữa cho họ. Hay đối với các vụ án bị cáo là người chưa thành viên, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất nhưng bị cáo hoặc người đại diện hợp pháp của họ không mời người bào chữa thì cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và các cơ quan khác phải mời luật sư bào chữa cho bị cáo.

1.2. Hệ thống các quyền tố tụng của bị cáo trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự theo quy định của pháp luật của quốc tế và Việt Nam

1.2.1. Quyền tố tụng của bị cáo trong xét xử hình sự theo quy định của pháp luật quốc tế

Quyền tố tụng của bị cáo trong xét xử hình sự thuộc phạm trù quyền con người, trong các công ước quốc tế quyền con người được ghi nhận như [50]:

Lịch sử phát triển quyền con người cho thấy xu hướng bảo vệ các bị cáo đối mặt với hình phạt. Do đó, nhiều quyền cơ bản đã sớm được pháp luật ghi nhận để đạt được sự bảo vệ đó. Hiến chương của Toà án quân sự quốc tế (IMT) ghi nhận quyền của các bị cáo được đảm bảo quyền xét xử công bằng. Sau đó, các quyền cơ bản của một cá nhân trong TTHS đã được quy định trong UDHR, Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị (ICCPR) và các văn kiện nhân quyền khu vực.

Quyền của bị cáo bắt nguồn từ một nguyên tắc cơ bản của luật hình sự là suy đoán vô tội. Nguyên tắc này được nêu tại Điều 14 ICCPR và được thừa nhận tại Điều 66 Quy chế ICC, Điều 20 Quy chế ICTR và Điều 21 Quy chế ICTY. Theo quy định này, các cơ quan công quyền có nghĩa vụ phải loại bỏ “định kiến về kết quả của một phiên tòa”. ECHR đã phán quyết rằng, quy định này yêu cầu các công chức không được “tuyên bố chính thức rằng ai đó có tội”, trừ khi có quyết định của tòa án.

Quyền bình đẳng trước tòa án Quyền này được quy định tại Điều 14 Công ước. Quyền về xét xử công bằng là một tập hợp các thủ tục tố tụng nhằm bảo đảm quá trình xét xử được công bằng, 16 trong đó bao gồm các khía cạnh như được bình đẳng trước tòa án, được suy đoán vô tội, bảo đảm quyền bào chữa, sử dụng ngôn ngữ mẹ đẻ, không bị buộc phải nhận tội…

Quyền được xét xử công bằng. Việc đối xử với một người khi họ bị buộc tội phản ánh rõ nhà nước tôn trọng nhân quyền đến mức nào, bởi vậy, quyền được xét xử công bằng đã được coi là một hòn đá tảng của các xã hội dân chủ. Giống như đặc tính của mọi nhân quyền là phụ thuộc lẫn nhau, quyền được xét xử công bằng với các quyền khác có mối quan hệ hai chiều. Một phiên toà công bằng là yếu tố thiết yếu để bảo đảm các quyền cơ bản khác của con người như quyền sống, quyền được an toàn về thân thể, tự do ngôn luận… Ngược lại, trong một xã hội không dân chủ, các quyền cơ bản của con người không được tôn trọng thì khó có thể có chuyện mọi người đều được xét xử công bằng. Quan hệ chặt chẽ giữa quyền được xét xử công bằng với pháp trị và dân chủ cũng đã được khẳng định chính thức trong Tuyên ngôn Dakar về quyền được xét xử công bằng tại châu Phi.

Quyền bình đẳng và được xét xử độc lập, công khai, không thiên vị. Bình đẳng thể hiện ở sự bình đẳng về quyền giữa các bên buộc tội với bên gỡ tội có quyền như nhau trong việc đưa ra chứng cứ, yêu cầu. Toà án phải độc lập, không thiên vị là yếu tố quan trọng bảo đảm sự công bằng.

Quyền được suy đoán vô tội, tại Pháp Tuyên ngôn nhân quyền khẳng định mọi người đều được coi là vô tội cho đến khi bị tuyên bố phạm tội, việc tạo nên định kiến cũng cần phải tránh như việc còng tay, mặc đồng phục trại giam, cạo trọc đầu.

Quyền bào chữa, có vai trò quan trọng, bảo vệ các quyền khác, trong khi xét xử mọi người phải được bảo đảm thực hiện quyền bào chữa như quyền biết lý do buộc tội, quyền tự bào chữa, nhờ người bào chữa, trợ giúp pháp lý, xét xử nhanh chóng…

Quyền được xét xử theo thủ tục riêng của người chưa thành niên, cộng đồng quốc tế đã quan tâm, bảo vệ người chưa thành niên về mặt pháp lý vì họ bị hạn chế về thể chất và tâm sinh lý, các quy tắc quốc tế đã bảo đảm cho quyền xét xử của người chưa thành niên như: Quy tắc của Liên hợp quốc về bảo vệ người chưa thành niên bị tước quyền tự do, Công ước về quyền trẻ em, Quy tắc tiêu chuẩn tối thiểu của Liên hợp quốc về tư pháp người chưa thành niên.

Quyền kháng cáo, quy định tại Điều 14/5 ICCPR: người bị kết án có quyền yêu cầu Toà án cấp cao hơn xem xét lại bản án, hình phạt mà Toà án cấp dưới đã tuyên.

1.2.2. Quyền tố tụng của bị cáo trong xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự theo quy định của pháp luật Việt Nam.

1.2.2.1. Quyền tố tụng của bị cáo từ khi TAND cấp tỉnh quyết định đưa vụ án sơ thẩm hình sự ra xét xử đến khi bắt đầu phiên tòa.

Giai đoạn từ khi TAND cấp tỉnh quyết định đưa vụ án sơ thẩm hình sự ra xét xử đến khi bắt đầu phiên tòa các quyền của bị cáo đã được hiến pháp và pháp luật ghi nhận tại khoản 2 Điều 61 BLTTHS 2015 như sau:

– Quyền được nhận nhận quyết định đưa vụ án ra xét xử; quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế; quyết định đình chỉ vụ án; bản án, quyết định của Tòa án và các quyết định tố tụng khác theo quy định: Thông qua quyết định đưa vụ án ra xét xử bị cáo có thể biết được thời gian, địa điểm mở phiên tòa, người tiến hành tố tụng, tội danh họ bị đưa ra xét xử, vật chứng cần đưa ra xem xét tại phiên toà …. Những quyết định này là căn cứ pháp lý để bị cáo có thể thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình.

– Quyền tham gia phiên toà: Trong các giai đoạn của tố tụng hình sự thì phiên tòa xét xử sơ thẩm là giai đoạn trung tâm quan trọng nhất. Tại phiên tòa sơ thẩm Tòa án phải giải quyết tất cả các vấn đề của vụ án, trên cơ sở những chứng cứ đã được kiểm tra công khai, toà án ra bản án xác định bị cáo có tội hay không có tội. Trong quá trình xét xử, KSV, người tiến hành tố tụng, bị cáo có quyền bình đẳng đánh giá chứng cứ, đưa ra chứng cứ, yêu cầu làm rõ sự thật khách quan vụ án. Vì vậy, quyền tham gia phiên toà sẽ đảm bảo cho bị cáo thực hiện đầy đủ các quyền tố tụng khác của mình. Sự có mặt của bị cáo tại phiên tòa là quyền và nghĩa vụ của bị cáo vì họ là người bị truy cứu trách nhiệm hình sự và có quyền bào chữa trước tòa. Sự có mặt của bị cáo tại phiên toà là bắt buộc, nhằm thực hiện nguyên tăc xét xử trực tiếp; bảo đảm cho Tòa án xác định sự thật khách quan và tạo điều kiện thuận lợi cho bị cáo thực hiện quyền bào chữa tại phiên tòa theo quy định của pháp luật. Bị cáo có nghĩa vụ phải có mặt tại phiên tòa trong thời gian xét xử vụ án. Ngoài việc có mặt bị cáo còn phải khai báo trung thực tại phiên Tòa tạo điều kiện thuận lợi cho Tòa án xem xét xác định sự thật khách quan của vụ án và giúp cho bị cáo được thực hiện quyền bào chữa theo quy định của pháp luật một cách thuận lợi. Tòa án chỉ có thể xét xử vắng mặt bị cáo trong các trường hợp như sau: Trường hợp bị cáo trốn tránh và việc truy nã không có kết quả mà trước đó Tòa án đã tạm đình chỉ vụ án và yêu cầu cơ quan điều tra truy nã bị cáo; Trường hợp bị cáo phải đang ở nước ngoài (không ở Việt Nam) và Tòa án không thể triệu tập bị cáo đến phiên tòa; Trường hợp Hội đồng xét xử đã chấp nhận yêu cầu đề nghị xét xử vắng mặt của bị cáo; Trường hợp bị cáo vắng mặt không vì lý do bất khả kháng, không do trở ngại khách quan mà sự vắng mặt này không gây trở ngại cho quá trình xét xử.

– Quyền được thông báo, giải thích về quyền và nghĩa vụ: Khi bắt đầu phiên tòa Chủ toạ phải phải hướng dẫn cho bị cáo hiểu và đảm bảo thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình.

– Quyền đề nghị giám định, định giá tài sản: Việc định giá tài sản có ý nghĩa lớn đối với việc giải quyết đúng đắn vụ án hình sự, góp phần giúp cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng định tội, định khung hình phạt một cách chính xác. Xác định giá trị tài sản bị xâm phạm là một trong những cơ sở cho việc kết luận hành vi có tội hay không, cũng như việc áp dụng đúng khung hình phạt, mức hình phạt và việc giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự. Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải xem xét, ra văn bản yêu cầu định giá tài sản trong thời hạn 07 ngày kể từ ngày nhận được đề nghị định giá tài sản của bị cáo.

– Quyền đề nghị thay đổi người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người giám định, người định giá tài sản, người phiên dịch, người dịch thuật là một trong những quyền tố tụng quan trọng nhằm đảm bảo cho tố tụng hình sự được tiến hành một cách khách quan, vô tư. Vì vậy để bảo đảm cho vụ án được xét xử khách quan, vô tư và bảo đảm các quyền của bị cáo thì pháp luật cho phép bị cáo có quyền đề nghị thay đổi. Quyền đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng có thể được thực hiện ở bất kỳ thời điểm nào trong tố tụng hình sự trước khi Hội đồng xét xử bắt đầu xét hỏi tại phiên tòa.

– Quyền đề nghị triệu tập người làm chứng, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người giám định, người định giá tài sản, người tham gia tố tụng khác và người có thẩm quyền tiến hành tố tụng tham gia phiên tòa để bảo vệ quyền lợi của mình, nếu xét thấy cần làm rõ những tình tiết của vụ án bị cáo có quyền đề nghị triệu tập người người làm chứng, người giám định, và các đối tượng khác theo quy định pháp luật để bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của mình

– Quyền đưa ra đồ vật, chứng cứ, tài liệu và yêu cầu: Trong quá trình xét xử, việc xác định đúng đắn tính khách quan của chứng cứ có ý nghĩa rất quan trọng trong chứng minh tội phạm dùng làm căn cứ để xác định có hay không có hành vi phạm tội, người thực hiện hành vi phạm tội và các tình tiết khác có ý nghĩa trong việc giải quyết vụ án. Bị cáo sử dụng quyền được đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu để chứng minh và bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình, nhằm làm sáng tỏ sự thật khách quan. Toà án dựa vào những tin tức chứa đựng trong các tài liệu, vật chứng đó và trên cơ sở tranh tụng công khai tại phiên toà để đánh giá chứng cứ làm cơ sở cho việc ra phán quyết đúng pháp luật, đảm bảo công bằng và bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho bị cáo. Các quyền yêu cầu của bị cáo như yêu cầu đưa thêm vật chứng, yêu cầu triệu tập thêm người làm chứng, yêu cầu hoãn phiên toà… đều được Tòa án tiếp nhận và xem xét giải quyết.

– Quyền trình bày ý kiến về đồ vật, chứng cứ, tài liệu liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền đánh giá, kiểm tra: Mọi sự kiện, tình tiết của vụ án phải được cơ quan và người có thẩm quyền xem xét, giải quyết. Việc quy định bị cáo có quyền. Quyền trình bày ý kiến về đồ vật, chứng cứ, tài liệu liên quan tạo điều kiện cho bị cáo có thể tham gia vào quá trình chứng minh, giải quyết vụ án hình sự, có thể tự mình chứng minh nếu mình không phạm tội hay chứng minh các tình tiết giảm nhẹ hình phạt cho mình.

1.2.2.2. Quyền tố tụng của bị cáo ở giai đoạn xét hỏi

– Quyền trình bày ý kiến, lời khai, không buộc đưa ra lời khai chống lại mình, nhận mình có tội: Theo quy định trên, có thể hiểu bị cáo có quyền chủ động về việc khai báo. Những gì bị cáo thấy bất lợi cho mình, bị cáo có thể không buộc phải khai báo cũng như không buộc phải nhận mình có tội trước cơ quan tiến hành tố tụng hình sự; quyền trình bày lời khai là quyền của bị cáo mà không phải là nghĩa vụ bắt buộc, bị cáo có thể trình bày lời khai hoặc không. Việc không trình bày lời khai thể hiện ở việc bị cáo im lặng trước cơ quan tiến hành tố tụng, đồng nghĩa với việc người bị buộc tội có quyền không khai những điều chứa đựng thông tin bất lợi cho bản thân mình. Quy định này có thể hiểu tương đương với quyền im lặng. Bị cáo có toàn quyền và độc lập ý chí, tự chủ trong việc khai báo, trình bày lời khai mà không phải là nghĩa vụ bắt buộc và cơ quan, người tiến hành tố tụng, các chủ thể khác không được ép buộc bị cáo phải khai báo. Bị cáo có quyền im lặng tính từ thời điểm Tòa án quyết định đưa vụ án hình sự ra xét xử, cho đến khi Tòa án thực hiện các thủ tục bắt đầu phiên tòa, xét hỏi, tranh luận, nghị án và tuyên án. Tuy nhiên, trong quá trình đó, quyền im lặng của bị cáo không có nghĩa là bị cáo có quyền không giao tiếp, quyền không trả lời câu hỏi của người tiến hành tố tụng mà bị cáo thực hiện quyền im lặng có thể với một hoặc nhiều chủ thể bằng việc từ chối trả lời, từ chối đưa ra lời khai nếu lời khai có chứa đựng thông tin chống lại họ hoặc buộc họ phải nhận mình có tội. Ngược lại, đối với các câu hỏi khác không chứa đựng thông tin chống lại hoặc buộc bị cáo phải nhận mình có tội thì bị cáo không cần thực hiện quyền im lặng. Điều đó có nghĩa là quyền im lặng không mâu thuẫn với quyền khai báo hay loại trừ quyền khai báo mà tại phiên tòa bị cáo có quyền khai báo. Việc bị cáo không trả lời cơ quan, người tiến hành tố tụng những điều bất lợi cho bản thân sẽ không bị coi là tình tiết tăng nặng. Quyền không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội của bị cáo là một yếu tố quan trọng bảo đảm phiên tòa hình sự được diễn ra công bằng, tiến bộ. Quy định này bảo đảm tính minh bạch của pháp luật, bảo vệ quyền bị cáo, giải quyết được nhiều bất cập trong các vụ án mà các cơ quan tiến hành tố tụng sử dụng lời khai bất lợi cho bị cáo hoặc chỉ sử dụng duy nhất lời nhận tội của họ để kết tội họ khi đưa ra truy tố, xét xử.

– Quyền tự mình hỏi người tham gia phiên tòa nếu được chủ tọa đồng ý hay nghị chủ tọa phiên tòa hỏi: Quyền bị cáo được đề nghị chủ toạ phiên toà hỏi hay tự mình hỏi người tham gia phiên toà là một phương thức thực hiện một nguyên tắc của tố tụng hình sự là “bình đẳng trước tòa án”.

1.2.2.3. Quyền tố tụng của bị cáo ở giai đoạn tranh luận

– Quyền tự bào chữa, nhờ người bào chữa: Bị cáo có thể tự mình bào chữa hoặc nhờ người bào chữa. Bị cáo (người bào chữa ) sử dụng các quyền luật định để làm sáng tỏ những tình tiết chứng minh cho sự vô tội hoặc làm giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cũng như những tình tiết khác có lợi cho bị cáo, hướng tới việc bác bỏ một phần hoặc toàn bộ sự buộc tội của cơ quan tiến hành tố tụng; đảm bảo các quyền và lợi ích được pháp luật bảo vệ của bị cáo. Quy định này đảm bảo quyền của người bị buộc tội và nâng cao trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng, đảm bảo cho hoạt động tố tụng hình sự được thực hiện dân chủ, khách quan, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho bị cáo và hạn chế oan, sai.

– Quyền tranh luận tại phiên tòa: được tiến hành ngay sau khi kết thúc việc xét hỏi tại phiên tòa. Sau lời luận tội của Kiểm sát viên, lời buộc tội của bị hại hoặc đại diện hợp pháp của họ là lời bào chữa của bị cáo hoặc người bào chữa cho bị cáo trình bày, bị cáo (người bào chữa) có quyền trình bày ý kiến, đưa ra chứng cứ, tài liệu và lập luận của mình để đối đáp với Kiểm sát viên về những chứng cứ xác định có tội, chứng cứ xác định vô tội, nhân thân và vai trò của bị cáo trong vụ án, những tình tiết tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, mức hình phạt và những tình tiết khác, bị cáo cũng có quyền đưa ra đề nghị của mình. Bị cáo có quyền tranh luận và đối đáp với những ý kiến, của các chủ thể khác, điều này thể hiện vai trò chủ động của bị cáo giúp bị cáo thực hiện quyền tự bào chữa đảm bảo nguyên tắc bình đẳng trước Tòa án, việc xét xử được thực hiện toàn diện, đầy đủ và khách quan.

– Quyền nói lời sau cùng trước khi nghị án:

Khi Thẩm phán chủ tọa phiên tòa công bố kết thúc phần tranh luận chuyển sang nghị án, cho phép bị cáo nói lời sau cùng. Bị cáo được nói lời sau cùng để trình bày tâm tư, nguyện vọng của mình về việc giải quyết vụ án về những vấn đề mà cho là cần thiết nhất đối với mình để hội đồng xét xử xem xét khi nghị án. Trong khi bị cáo nói lời sau cùng, Hội đồng xét xử không được đặt câu hỏi và hạn chế thời gian trình bày của bị cáo nhưng có quyền yêu cầu bị cáo không nhắc lại chi tiết những vấn đề đã được xét hỏi, không được trình bày những điểm không liên quan đến vụ án.

1.2.2.4. Quyền tố tụng của bị cáo ở giai đoạn nghị án và tuyên án.

– Quyền xem biên bản phiên tòa và yêu cầu sửa đổi, bổ sung:

Để đảm bảo tính chính xác, khách quan và để bị cáo bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, sau khi phiên tòa kết thúc và chủ tọa phiên tòa cùng Thư ký Tòa án ký vào biên bản thì bị cáo có quyền được xem biên bản phiên tòa. Bị cáo cũng có quyền yêu cầu sửa đổi, bổ sung và Thư ký Tòa án phải ghi sửa đổi, bổ sung đó vào biên bản phiên tòa.

– Quyền kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án: Bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm ảnh hưởng trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của bị cáo do đó pháp luật quy định bị cáo có quyền kháng cáo toàn bộ nội dung hoặc một phần của bản án của cấp sơ thẩm. Kháng cáo là một trong những cơ sở pháp lý làm phát sinh thủ tục xét xử phúc thẩm vụ án hình sự, nhưng kháng cáo cũng là quyền tố tụng quan trọng, được pháp luật TTHS Việt Nam ghi nhận và bảo đảm thực hiện để bị cáo được được bày tỏ trong đơn kháng cáo sự không đồng ý của mình đối với phán quyết của Toà án đã xét xử sơ thẩm và đề nghị Toà án cấp trên trực tiếp của Toà án đã ra phán quyết (bản án hay quyết định hình sự) đó xét xử lại theo trình tự phúc thẩm.

– Quyền khiếu nại hành vi tố tụng, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng: Cơ quan, người có thẩm quyền phải tiếp nhận, giải quyết và gửi văn bản giải quyết khiếu nại cho bị cáo và khắc phục. Những quyết định được ban hành hoặc hành vi được thực hiện bởi cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trái pháp luật làm xâm hại đến quyền và lợi ích chính đáng của bị cáo sẽ dẫn đến việc áp dụng pháp luật đối với họ, ảnh hưởng trực tiếp đến quyền nhân thân và các quyền lợi chính đáng bị cáo. Đây là quy định mang tính chất dân chủ, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức trong các giai đoạn Tòa án giải quyết vụ việc.

E:\DỮ LIỆU COP CỦA CHỊ YẾN\LUAN VAN VIEN HAN LAM\VIEN HAN LAM DOT 12\SAU BAO VE/ NGUYEN TH MISA

LIỆN HỆ:

SĐT+ZALO: 0935568275

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *