Cải cách thủ tục hành chính từ thực tiễn huyện Quế Sơn

Cải cách thủ tục hành chính từ thực tiễn huyện Quế Sơn

Cải cách thủ tục hành chính từ thực tiễn huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam

1. Tính cấp thiết của đề tài

Cải cách hành chính là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và phát triển các mặt đời sống xã hội, là một nội dung cốt yếu để nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động quản lý nhà nước. Thời gian qua CCHC được ghi nhận là một khâu then chốt đánh dấu bước ngoặc trong xây dựng Nhà nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đảng đã đề ra quan điểm, chủ trương và thường xuyên đưa ra đường lối chỉ đạo và ban hành các chính sách trong lĩnh vực cải cách hành chính.

Công tác cải cách hành chính ở Việt Nam được triển khai thực hiện từ năm 1995 với Chương trình Cải cách hành chính lần đầu tiên được thông qua tại Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa VII. Tiếp đến là Chương trình tổng thể cải cách hành chính giai đoạn 2001-2010, 2011-2020. Trong đó, cải cách thủ tục hành chính được nhận định là một nhiệm vụ quan trọng được đặt ra ngay từ giai đoạn đầu của tiến trình cải cách hành chính nhà nước, bởi thủ tục hành chính không chỉ liên quan đến công việc nội bộ của một cơ quan, một cấp chính quyền, mà còn liên quan đến các tổ chức và công dân trong mối quan hệ với Nhà nước.

Thời gian qua, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách, văn bản quy phạm pháp luật về lĩnh vực cải cách hành chính nói chung và cải cách thủ tục hành chính nói riêng. Chính vì vậy, mục tiêu và yêu cầu của cải cách thủ tục hành chính là phải đạt được một bước chuyển biến căn bản trong quan hệ về giải quyết công việc của công dân và tổ chức, cụ thể là phải phát hiện và xoá bỏ những thủ tục hành chính thiếu đồng bộ, chồng chéo, rườm rà, phức tạp đã và đang gây trở ngại trong việc tiếp nhận và xử lý công việc giữa cơ quan nhà nước với tổ chức, công dân; tạo môi trường kinh doanh bình đẳng, thông thoáng, thuận lợi, minh bạch nhằm giảm thiểu chi phí về thời gian và kinh phí của các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế trong việc tuân thủ thủ tục hành chính.

Quế Sơn là một huyện trung du miền núi nằm về phía Tây Bắc tỉnh Quảng Nam, vị trí địa lý thuận lợi, tài nguyên khoáng dồi dào, phong phú, huyện Quế Sơn có tiềm năng phát triển về kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng mạnh mẽ. Với mục đích xây dựng một nền hành chính hiện đại, trong sạch, vững mạnh, hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng được yêu cầu quản lý nhà nước trên tất cả các lĩnh vực hiện tại và trong tương lai, góp phần cùng địa phương khắc phục lạc hậu, yếu kém, cùng với cả tỉnh, cả nước thực hiện thắng lợi nhiệm vụ cải cách hành chính giai đoạn 2011-2020, bản thân tôi chọn đề tài: “Cải cách thủ tục hành chính từ thực tiễn huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam” làm đề tài nghiên cứu của Luận văn. Đề tài này tập trung đi sâu nghiên cứu, đánh giá thực trạng, đề xuất những giải pháp và kiến nghị nhằm góp phần đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính trên địa bàn huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

Mục đích nghiên cứu tổng quát của đề tài là xây dựng cơ sở khoa học nhằm đề xuất giải pháp đẩy mạnh công tác cải cách thủ tục hành chính trên địa bàn huyện.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

– Phân tích, đánh giá thực trạng công tác cải cách thủ tục hành chính của các cấp chính quyền trên địa bàn huyện từ thực tiễn huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam. Chỉ ra những thành tựu, hạn chế và những nguyên nhân dẫn đến hạn chế trong công cuộc cải cách thủ tục hành chính ở địa phương.

Đề xuất định hướng và một số giải pháp nhằm đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính trên địa bàn huyện nói chung, và của huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam nói riêng.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Cải cách thủ tục hành chính nhà nước tại cơ quan hành chính cấp huyện

4.2. Phạm vi nghiên cứu

– Phạm vi nội dung: Nội dung cải cách thủ tục hành chính và đánh giá quá trình, kết quả thực hiện cải cách thủ tục hành chính trên địa bàn huyện.

– Phạm vi không gian: huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam.

– Phạm vi thời gian: công tác cải cách thủ tục hành chính từ năm 2011 đến nay.

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

5.1. Cơ sở lý luận

Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và những vấn đề liên quan tới hoạt động của bộ máy hành chính nhà nước, công cuộc cải cách hành chính.

5.2. Phương pháp nghiên cứu

Các phương pháp nghiên cứu cụ thể của luận văn bao gồm: Phương pháp phân tích, tổng hợp; phương pháp so sánh; phương pháp thống kê; phương pháp kết hợp lý luận với thực tiễn…

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

6.1. Ý nghĩa lý luận

Kết quả nghiên cứu của Luận văn góp phần bổ sung vào việc hệ thống hóa sơ sở lý luận về cải cách hành chính và cải cách thủ tục hành chính nhà nước và ở địa phương.

6.2.Ý nghĩa thực tiễn

Kết quả nghiên cứu của Luận văn có giá trị ứng dụng trong đẩy mạnh thực hiện cải cách thủ tục hành chính tại huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam, có thể được dùng làm tài liệu tham khảo trong hoạt động nghiên cứu, giảng dạy, học tập tại các cơ sở đào tạo luật học và đối với hoạt động thực tiễn công cuộc cải cách thủ tục hành chính cấp huyện.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, luận văn được kết cấu xây dựng gồm có 03 chương:

Chương 1: Cơ sở lý luận về cải cách thủ tục hành chính ở Việt Nam

Chương 2: Thực trạng cải cách thủ tục hành chính trên địa bàn huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam

Chương 3: Phương hướng và giải pháp đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính từ thực tiễn huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam

CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CẢI CÁCH THỦ TỤC HÀNH CHÍNH
Ở VIỆT NAM

1.1. Khái niệm, mục tiêu, nhiệm vụ của cải cách hành chính ở Việt Nam

1.1.1. Khái niệm cải cách hành chính

Cải cách hành chính là vấn đề mang tính toàn cầu, từ lâu đã thu hút được sự quan tâm của hầu hết các quốc gia trên thế giới. Mỗi quốc gia có cách nhìn nhận khác nhau về CCHC, nhưng tựu trung lại, CCHC đều xuất phát từ những yêu cầu tất yếu trong thực tiễn, đó là: yêu cầu của phát triển kinh tế – xã hội (KT-XH); yêu cầu của việc cải tạo, điều chỉnh cơ cấu hành chính; kết quả sự tác động của tiến bộ khoa học công nghệ vào quản lý hành chính nhà nước. Về mặt lý thuyết, trên thế giới tồn tại nhiều quan điểm khác nhau về cải cách hành chính do cách tiếp cận ở nhiều góc độ khác nhau.

Theo nghĩa rộng, cải cách hành chính có thể hiểu là một quá trình thay đổi cơ bản, lâu dài, liên tục bao gồm cơ cấu của quyền lực hành pháp và tất cả các hoạt động có ý thức của bộ máy nhà nước nhằm đạt được sự hợp tác giữa các bộ phận và các nhân vì mục đích chung của cộng đồng và phối hợp các nguồn lực để tạo ra hiệu lực, hiệu quả quản lý và các sản phẩm (dịch vụ hoặc hàng hóa) phục vụ nhân dân thông qua các phương thức tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước.

Theo nghĩa hẹp, CCHC được hiểu là những thay đổi được thiết kế có chủ định nhằm cải tiến một cách cơ bản các khâu trong hoạt động quản lý của bộ máy nhà nước như kế hoạch, định chế, tổ chức, công tác cán bộ, tài chính, chỉ huy, phối hợp, kiểm tra, thông tin và đánh giá.

Theo tài liệu của Liên Hợp Quốc (1971) thì cải cách hành chính là những cố gắng có chủ định nhằm đưa những thay đổi cơ bản vào hệ thống hành chính nhà nước thông qua các cải cách có hệ thống hoặc các phương thức để cải tiến ít nhất một trong bốn yếu tố cấu thành của nền hành chính công: Thể chế, cơ cấu tổ chức, nhân sự, và tài chính công.

Theo Bộ Nội vụ: Cải cách hành chính là một sự thay đổi có kế hoạch, theo một mục tiêu nhất định, được xác định bởi cơ quan nhà nước có thẩm quyền;

Từ các cách hiểu trên, có thể đưa ra khái niệm chung nhất, CCHC là những thay đổi có chủ định nhằm hoàn thiện thể chế của nền hành chính; cơ cấu tổ chức và cơ chế vận hành của bộ máy hành chính các cấp và đội ngũ công chức hành chính; tài chính công để nâng cao hiệu lực, năng lực và hiệu quả hoạt động của nền hành chính công phục vụ dân.

1.1.2. Mục tiêu của cải cách hành chính

Trong giai đoạn 2001 – 2010, mục tiêu chung của CCHC nhà nước là: “xây dựng một nền hành chính dân chủ, trong sạch, vững mạnh, chuyên nghiệp, hiện đại hóa, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả theo nguyên tắc của nhà nước pháp quyền XHCN dưới sự lãnh đạo của Đảng;

Trên cơ sở những kết quả đạt được của CCHC 10 năm (giai đoạn 2001 – 2010) và yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội cũng như nhu cầu, đòi hỏi của nhân dân và xã hội về một nền hành chính phục vụ, hiện đại, cần phải tiếp tục đẩy mạnh CCHC, triển khai đồng bộ các nhiệm vụ CCHC, Chính phủ đã xác định mục tiêu chung của CCHC giai đoạn 2011 – 2020 với trọng tâm là: Cải cách thể chế; xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, chú trọng cải cách chính sách tiền lương nhằm tạo động lực thực sự để cán bộ, công chức, viên chức thực thi công vụ có chất lượng và hiệu quả cao; nâng cao chất lượng dịch vụ hành chính và chất lượng dịch vụ công.

Trong giai đoạn 2011 – 2020, các mục tiêu cụ thể CCHC được xác định, bao gồm:

Một là, xây dựng, hoàn thiện hệ thống thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN nhằm giải phóng lực lượng sản xuất, huy động và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực cho phát triển đất nước.

Hai là, bảo đảm thực hiện trên thực tế quyền dân chủ của Nhân dân, bảo vệ quyền con người, gắn quyền con người với quyền, lợi ích của dân tộc, đất nước.

Ba là, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có đủ phẩm chất, năng lực và trình độ, đáp ứng yêu cầu phục vụ Nhân dân và sự phát triển của đất nước.

1.1.3. Nhiệm vụ của cải cách hành chính ở Việt Nam giai đoạn 2011-2020

Một là, cải cách thể chế hành chính, là sự thiết lập và thực thi các qui tắc và thủ tục nhằm cải thiện chất lượng của nền hành chính nhà nước, cụ thể là cải thiện các mối quan hệ giữa nhà nước và xã hội, nhằm tạo điều kiện cho “cơ chế kinh tế thị trường theo định hướng XHCN” hoạt động có hiệu quả.

Hai là, cải cách thủ tục hành chính, đây là khâu đột quá trong công cuộc CCHC ở Việt Nam, nhằm tăng cường, củng cố mối quan hệt giữa nhà nước với nhân dân và các tổ chức kinh tế xã hội, tăng cường sự tham gia của người dân và tổ chức vào quản lý nhà nước. CCTTHC sẽ tạo sự chuyển biến của toàn bộ hệ thống nền hành chính quốc gia, từ đó thúc đẩy toàn bộ hệ thống hành chính phát triển.

Ba là, cải cách tổ chức bộ máy hành chính nhà nước, đây là quá trình sắp xếp, tổ chức lại các cơ quan, đơn vị ở trung ương và địa phương để không còn sự chồng chéo, bỏ trống hoặc trùng lắp về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn giữa các cơ quan hành chính nhà nước; trách nhiệm, quyền hạn của chính quyền địa phương các cấp được phân định hợp lý, nhằm mục đích nâng cao hiệu quả hoạt động, đáp ứng tốt hơn nhu cầu phục vụ nhân dân, phục vụ xã hội.

Bốn là, xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, vừa đáp ứng đủ số lượng, cơ cấu hợp lý, có đủ trình độ và năng lực thi hành công vụ, phục vụ nhân dân và phục vụ sự nghiệp phát triển của đất nước;

1.2. Khái niệm, sự cần thiết, mục tiêu và nội dung của cải cách thủ tục hành chính

1.2.1. Khái niệm thủ tục hành chính

* Khái niệm

Để giải quyết một công việc nhất định đều cần có những thủ tục phù hợp. Theo nghĩa thông thường, thủ tục có nghĩa là trình tự, phương cách giải quyết công việc theo một trình tự nhất định, một thể thống nhất. Cũng có thể hiểu thủ tục là những quy tắc, chế độ, nguyên tắc hay quy định chung phải tuân theo khi làm việc công.

Hoạt động quản lý Nhà nước được thể hiện qua các quy định quản lý Nhà nước đó là những quy phạm pháp lý để hướng dẫn hoạt động quản lý Nhà nước, quản lý hoạt động của con người. Những quy phạm pháp lý này được cụ thể hóa bằng các thủ tục. Do đó, thủ tục là loại kế hoạch quy định trình tự, cách thức khi sử dụng thẩm quyền của từng cơ quan để giải quyết công việc. Khoa học pháp lý gọi đó là những quy phạm thủ tục, quy phạm này gồm các bộ phận: Thủ tục lập pháp, thủ tục tố tụng tư pháp và thủ tục hành chính. Thủ tục hành chính được đặt ra để các cơ quan Nhà nước có thể thực hiện mọi hình thức hoạt động cần thiết của mình, trong đó bao gồm cả trình tự thành lập các công sở, trình tự bổ nhiệm, bãi nhiệm, điều động viên chức, trình tự lập quy, áp dụng quy phạm để đảm bảo các quyền của chủ thể và xử lý vi phạm, trình tự điều hành, tổ chức các hoạt động tác nghiệp hành chính.

Tóm lại, có rất nhiều định nghĩa khác nhau về thủ tục hành chính, tuy nhiên có thể hiểu một cách tổng quát nhất: Thủ tục hành chính là trình tự về thời gian, không gian, cách thức giải quyết công việc của các cơ quan hành chính nhà nước trong mối quan hệ với các cơ quan, tổ chức và cá nhân.

* Vai trò của thủ tục hành chính

Thứ nhất, thủ tục hành chính đảm bảo cho các quy phạm quy định trong các quyết định hành chính được thi hành thuận lợi. Thủ tục càng có tính cơ bản thì ý nghĩa càng lớn bởi vì các thủ tục cơ bản thường tác động đến giai đoạn cuối cùng của quyết định hành chính, đến hiệu quả của việc thực hiện chúng.

Thứ hai, thủ tục hành chính đảm bảo cho việc thi hành các quyết định được thống nhất và có thể kiểm tra được tính hợp pháp, hợp lý cũng như các hệ quả do việc thực hiện các quy định hành chính tạo ra.

Thứ ba, thủ tục hành chính khi được xây dựng và vận dụng một cách hợp lý sẽ tạo khả năng sáng tạo trong việc thực hiện các quyết định quản lý đó được thông qua, đem lại hiệu quả thiết thực cho quản lý Nhà nước.

Nhìn một cách tổng quát, TTHC có vai trò như một chiếc cầu nối quan trọng giữa cơ quan Nhà nước với nhân dân, với các tổ chức khác. Chiếc cầu nối này có khả năng làm bền chặt các mối quan hệ, làm cho Nhà nước ta thực sự là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Nhưng nếu xây dựng thiếu tính khoa học, áp dụng tùy tiện vào đời sống thì chính thủ tục hành chính sẽ làm xa cách nhân dân với Nhà nước và hậu quả của nó là làm niềm tin của người dân với chính quyền tiếp tục bị giảm sút.

Thủ tục hành chính trên một phương diện nhất định là sự biểu hiện trình độ văn hóa của tổ chức. Đây là văn hóa giao tiếp trong bộ máy Nhà nước nó cho thấy mức độ văn minh của một nền hành chính phát triển, vì lẽ đó, trong những năm qua nhà nước ta đã có những nỗ lực mạnh mẽ trong cải cách thủ tục hành chính tạo điều kiện thuận lợi trong giải quyết những công việc liên quan đến công nhân, tổ chức.

1.2.2. Sự cần thiết cải cách thủ tục hành chính

Thứ nhất, cải cách thủ tục hành chính là một nội dung của cải cách hành chính, nhưng là nội dung phản ánh rõ nhất mối quan hệ giữa nhà nước và công dân, đồng thời là nội dung có nhiều bức xúc nhất của người dân, doanh nghiệp, cũng như có nhiều yêu cầu đổi mới trong quá trình hội nhập kinh tế.

Thứ hai, trong điều kiện nguồn lực còn nhiều khó khăn nên chưa thể cùng một lúc thực hiện được nhiều nội dung cải cách như: cải cách tài chính công, cải cách tiền lương, cải cách tổ chức bộ máy… thì việc lựa chọn khâu cải cách thủ tục hành chính sẽ mang lại hiệu quả thiết thực nhất.

Thứ ba, CCTTHC có tác động to lớn đối với việc thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội. Thông qua việc CCTTHC sẽ gỡ bỏ những rào cản về thủ tục hành chính đối với môi trường kinh doanh và đời sống của người dân, giúp cắt giảm chi phí và rủi ro của người dân và doanh nghiệp trong việc thực hiện thủ tục hành chính.

1.2.3. Mục tiêu và nội dung của cải cách thủ tục hành chính giai đoạn 2011-2020

1.2.3.1. Mục tiêu của cải cách thủ tục hành chính

Tổng thể chương trình CCHC nhà nước thời kỳ 2011-2020 đặt ra mục tiêu trong của cải cách thủ tục hành chính, chia làm hai giai đoạn, trong giai đoạn đầu của 5 năm 2011-2015, đó là: (1) Thủ tục hành chính liên quan đến cá nhân, tổ chức được cải cách cơ bản theo hướng gọn nhẹ, đơn giản; (2) Cơ chế một cửa, một cửa liên thông được triển khai 100% vào năm 2013 tại tất cả các cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương; bảo đảm sự hài lòng của cá nhân, tổ chức đối với sự phục vụ của cơ quan hành chính nhà nước đạt mức trên 60%; (3) Từng bước nâng cao chất lượng dịch vụ sự nghiệp công, bảo đảm sự hài lòng của cá nhân đối với dịch vụ do đơn vị sự nghiệp công cung cấp trong các lĩnh vực giáo dục, y tế đạt mức trên 60% vào năm 2015.

Giai đoạn tiếp theo của thời kỳ 2016-2020, Chính phủ đề ra mục tiêu cải cách thủ tục hành chính là: (1) Thủ tục hành chính được cải cách cơ bản, mức độ hài lòng của nhân dân và doanh nghiệp về thủ tục hành chính đạt mức trên 80% vào năm 2020; (2) Sự hài lòng của cá nhân, tổ chức đối với dịch vụ do đơn vị sự nghiệp công cung cấp trên các lĩnh vực giáo dục, y tế đạt mức trên 80% vào năm 2020; sự hài lòng của người dân và doanh nghiệp đạt mức trên 80% vào năm 2020.

1.2.3.2. Nội dung cải cách thủ tục hành chính giai đoạn 2011-2020

Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2011-2020 đã xác định các nhiệm vụ trọng tâm của CCHC, đây cũng là các nội dung cải cách thủ tục hành chính được sử dụng trong khuôn khổ luận văn này để phân tích thực trạng ở chương 2, đó là:

a) Cắt giảm và nâng cao chất lượng thủ tục hành chính trong tất cả các lĩnh vực quản lý nhà nước, nhất là thủ tục hành chính liên quan tới người dân, doanh nghiệp;

b) Cải cách thủ tục hành chính để tiếp tục cải thiện môi trường kinh doanh, giải phóng mọi nguồn lực của xã hội và nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, bảo đảm điều kiện cho nền kinh tế của đất nước phát triển nhanh, bền vững.

c) Cải cách thủ tục hành chính giữa các cơ quan hành chính nhà nước, các ngành, các cấp và trong nội bộ từng cơ quan hành chính nhà nước;

d) Kiểm soát chặt chẽ việc ban hành mới các thủ tục hành chính theo quy định của pháp luật;

đ) Công khai, minh bạch tất cả các thủ tục hành chính bằng các hình thức thiết thực và thích hợp; thực hiện thống nhất, đồng bộ cách tính chi phí mà cá nhân, tổ chức phải bỏ ra khi giải quyết thủ tục hành chính tại cơ quan hành chính nhà nước;

e) Tiếp nhận, phân loại, xử lý phản ánh, kiến nghị, đề xuất của cá nhân, tổ chức về các quy định hành chính để hỗ trợ việc nâng cao chất lượng các quy định hành chính và giám sát việc thực hiện thủ tục hành chính của các cơ quan hành chính nhà nước các cấp.

1.2.4. Phương thức cải cách thủ tục hành chính

Để thực hiện cải cách thủ tục hành chính, một trong những phương thức được áp dụng trong giai đoạn hiện nay là cơ chế “một cửa”, “một cửa liên thông”, đây được xem là giải pháp đổi mới về phương thức làm việc của cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương các cấp, nhằm tạo chuyển biến cơ bản trong quan hệ giữa cơ quan hành chính nhà nước với các tổ chức và công dân.

Việc tiếp tục cải cách, đơn giản hóa thủ tục hành chính gắn với việc thực hiện cơ chế “một cửa” đã được triển khai từ năm 2003. Cơ chế “một cửa” tại cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương đã tạo ra một cách thức giải quyết công việc hiệu quả cho công dân, tổ chức, đã thể chế hóa mối quan hệ giữa chính quyền và công dân thông qua việc thực hiện cơ chế “một cửa”. Tại cấp tỉnh, 4 sở bắt buộc thực hiện cơ chế này là: Sở Kế hoạch và Đầu tư, Sở Lao động – Thương binh và Xã hội, Sở Tài nguyên và Môi trường, Sở Xây dựng, đồng thời uỷ ban nhân dân cấp huyện, cấp xã cũng phải thực hiện quy chế này. Cơ chế “một cửa” cấp huyện, cấp xã giải quyết những thủ tục hành chính về cấp giấy phép đăng ký kinh doanh, giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và đất đai, giấy phép xây dựng, các quyết định đầu tư, đăng ký hộ khẩu và các vấn đề liên quan đến chính sách xã hội. Có thể nhận thấy cơ chế “một cửa” là giải pháp đổi mới hữu hiệu về phương thức làm việc của cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương các cấp, nhằm tạo chuyển biến cơ bản trong quan hệ giữa cơ quan hành chính nhà nước với các tổ chức và công dân, đơn giản hóa các thủ tục hành chính, giảm phiền hà, chi phí, thời gian, công sức; đồng thời, điều chỉnh một bước về tổ chức bộ máy và đổi mới, cải tiến chế độ làm việc và quan hệ công tác trong cơ quan hành chính nhà nước.

Đến năm 2007, cơ chế “một cửa liên thông” được triển khai thực hiện tại cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương nhằm tiếp tục thay đổi phương thức làm việc của cơ quan hành chính nhà nước các cấp ở địa phương, giảm phiền hà, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, đem lại lợi ích cho người dân và doanh nghiệp. Thực chất, cơ chế “một cửa liên thông” là cơ chế giải quyết công việc của tổ chức, cá nhân thuộc trách nhiệm, thẩm quyền của nhiều cơ quan hành chính nhà nước cùng cấp hoặc giữa các cấp hành chính từ hướng dẫn, tiếp nhận giấy tờ, hồ sơ, giải quyết đến trả kết quả được thực hiện tại một đầu mối là bộ phận tiếp nhận và trả kết quả của một cơ quan hành chính nhà nước. Trên thực tế có nhiều loại hồ sơ hành chính có liên quan đến thẩm quyền giải quyết của nhiều cấp, nhiều cơ quan, phải qua nhiều đầu mối mới có kết quả cuối cùng. Cơ chế “một cửa liên thông” đặt ra yêu cầu các cơ quan nhà nước có trách nhiệm phối hợp trong quy trình xử lý hồ sơ, không để tổ chức, công dân cầm hồ sơ đi từ cơ quan này tới cơ quan khác. Người dân có nhu cầu chỉ phải nộp hồ sơ và nhận lại kết quả tại một đầu mối. Những cải cách này đã giúp cho cơ quan hành chính nhà nước phục vụ ngày càng tốt hơn những nhu cầu của người dân.

Cải cách thủ tục hành chính thông qua thực hiện cơ chế “một cửa”, “một cửa liên thông” đã giảm việc đi lại của người dân, doanh nghiệp, giảm thời gian giải quyết thủ tục hành chính, số hồ sơ hành chính giải quyết đúng hẹn đạt tỷ lệ cao, công khai, minh bạch, bình đẳng, tạo thuận lợi hơn cho các nhà đầu tư, tổ chức và doanh nghiệp trên các lĩnh vực cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, dự án đầu tư xây dựng cơ bản, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất…

1.3. Các điều kiện bảo đảm hoạt động cải cách thủ tục hành chính

1.3.1. Bảo đảm về chính trị

Hệ thống chính trị ở Việt Nam là nhất nguyên, do Đảng Cộng sản lãnh đạo mọi mặt hoạt động, trong đó có vấn đề cải cách hành chính. Cải cách hành chính là một chủ trương trong đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam kể từ năm 1995 cho đến nay. Chủ trương cải cách hành chính đã được xác định trong một loạt các Nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương và trong các văn kiện Đại hội VII cho đến Đại hội XI. Nghị quyết Trung ương 7 (khoá VIII) đề ra chủ trương tiến hành sắp xếp lại tổ chức bộ máy đảng và các tổ chức trong hệ thống chính trị gắn liền với cải cách hành chính theo hướng tinh gọn, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả.

Đại hội IX (năm 2001) bên cạnh việc khẳng định mục tiêu xây dựng nền hành chính nhà nước dân chủ, trong sạch, vững mạnh, từng bước hiện đại hoá đã đưa ra một loạt chủ trương, giải pháp có ý nghĩa quan trọng trong cải cách hành chính thời gian tới như điều chỉnh chức năng và cải tiến phương thức hoạt động của Chính phủ, nguyên tắc bộ quản lý đa ngành, đa lĩnh vực;

Năm 2007 là năm đánh dấu một mốc thời gian quan trọng về chủ trương cải cách hành chính của Đảng, đây là năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng thông qua Nghị quyết Số: 17-NQ/TW ngày 01/8/2007 về đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lí của bộ máy nhà nước (tại Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khoá X) – đây là Nghị quyết riêng về cải cách hành chính đầu tiên của Đảng.

Đại hội XI của Đảng đã tiếp tục xác định CCHC là một trong 7 nhiệm vụ trọng tâm của cả nhiệm kỳ. Đại hội XII của Đảng ta tiếp tục đề cao và nhấn mạnh nhiều chủ trương lớn, trong đó có công tác CCHC và đã định hướng bằng việc ban hành Nghị quyết số 18-NQ/TW và Nghị quyết số 19-NQ/TW ngày 25/10/2017 tại Hội nghị Trung ương lần thứ 6, khóa XII về một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính và xây dựng nền hành chính nhà nước góp phần đẩy mạnh đổi mới sáng tạo, phát triển nhanh và bền vững đất nước. Đây là cơ sở quan trọng để đảm bảo về mặt chính trị trong công cuộc CCTTHC.

1.3.2. Bảo đảm bằng pháp lý

Để công cuộc cải cách thủ tục hành chính được thực hiện có hiệu quả, trên thực tế cần có tính ràng buộc pháp lý. Để triển khai các quan điểm và chủ trương này, Chính phủ – với vị trí là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất – đóng vai trò quan trọng trong chỉ đạo triển khai cải cách hành chính của đất nước. Chính phủ đã cụ thể hóa các chủ trương của Đảng thành các chương trình, kế hoạch cải cách hành chính nhà nước.

Để chỉ đạo triển khai CCHC nhà nước, năm 2007, Chính phủ đã kiện toàn Ban Chỉ đạo cải cách hành chính của Chính phủ trên cơ sở Ban Chỉ đạo cải cách hành chính của Chính phủ thành lập theo Quyết định số 200/1998/QĐ-TTg ngày 14 tháng 10 năm 1998 của Thủ tướng Chính phủ. Ban Chỉ đạo CCHC của Chính phủ là tổ chức phối hợp liên ngành, có chức năng giúp Thủ tướng Chính phủ nghiên cứu, chỉ đạo các bộ, ngành, địa phương triển khai thực hiện theo chương trình, kế hoạch của Chính Phủ.

Để đảm bảo về mặt pháp lý cho công cuộc CCHC, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 30c/NQ-CP ngày 08 tháng 11 năm 2011 về ban hành chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2011-2020, được sửa đổi, bổ sung theo Nghị quyết số 76/NQ-CP ngày 13/6/2013. (Quyết định số 225/QĐ-TTg ngày 04 tháng 02 năm 2016 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt kế hoạch cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2016-2020). Trên cơ sở đó, hàng năm, Ban Chỉ đạo cải cách hành chính của Chính phủ ban hành kế hoạch hoạt động của Ban, xác định rõ mục tiêu, yêu cầu và nội dung triển khai thực hiện trong năm.

1.3.3. Bảo đảm bằng nguồn lực

Nguồn nhân lực:

Đảng ta luôn khẳng định con người là gốc rễ, là nhân tố mang tính quyết định và quan trọng nhất. Trong đó, số lượng, cơ cấu và chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức là yếu tố quyết định hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước. Để công cuộc CCHC nói chung và CCTTHC nói riêng đạt được mục tiêu xây dựng một nền hành chính chuyên nghiệp, yêu cầu phải xây dựng và phát triển nguồn nhân lực tương ứng, không chỉ đáp ứng về trình độ, năng lực chuyên môn, ý thức chấp hành kỷ luật, kỷ cương và văn hóa công vụ, mà cần phải bố trí, sắp xếp vị trí làm việc phù hợp.

Nguồn vật lực, tài chính:

Nguồn vật lực, tài chính là yếu tố hết sức quan trọng – không thể thiếu để góp phần triển khai thực hiện công cuộc CCHC nói chung và CCTTHC nói riêng. Trong xu hướng đó, công cuộc CCTTHC đòi hỏi ứng dụng những thành tựu khoa học công nghệ mới, đặc biệt là CNTT trong thực hiện nhiệm vụ, điều này đòi hỏi đầu tư về nền tảng kỹ thuật, trang bị cơ sở vật chất và nguồn tài chính đi kèm, đồng thời đào tạo nâng cao năng lực, trình độ của đội ngũ cán bộ, công chức đáp ứng tình hình mới.

LIỆN HỆ:

SĐT+ZALO: 0935568275

E:\DỮ LIỆU COP CỦA CHỊ YẾN\LUAN VAN VIEN HAN LAM\VIEN HAN LAM DOT 12\SAU BAO VE/ NGUYEN THI THANH THUY

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *