Vai trò của lực lượng Cảnh sát nhân dân trong phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản

Vai trò của lực lượng Cảnh sát nhân dân trong phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản

Vai trò của lực lượng Cảnh sát nhân dân trong phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng

  1. Tính cấp thiết của đề tài

Đà Nẵng là thành phố lớn nhất khu vực miền Trung – Tây Nguyên, nằm trong vùng Duyên hải Nam Trung Bộ Việt Nam, đóng vai trò hạt nhân, quan trọng trong Vùng kinh tế trọng điểm miền Trung, đồng thời cũng là một trong năm thành phố trực thuộc Trung ương, đô thị loại I, trung tâm cấp quốc gia, cùng với Hải Phòng và Cần Thơ. Thành phố Đà Nẵng là thành phố tổng hợp đa ngành, đa lĩnh vực; với vai trò là trung tâm chính trị, kinh tế – xã hội, công nghiệp, tài chính, du lịch, dịch vụ, văn hóa, giáo dục – đào tạo, y tế chất lượng cao, khoa học – công nghệ, khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo của khu vực Miền Trung – Tây Nguyên và cả nước; trung tâm tổ chức các sự kiện tầm khu vực và quốc tế. Tuy nhiên, cùng với quá trình phát triển và thành tựu đã đạt được, tình hình tội phạm nói chung, tình hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng nói riêng diễn biến hết sức phức tạp, khó lường, ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình đảm bảo an ninh trật tự, an toàn xã hội và đời sống của nhân dân.

Theo số liệu thống kê của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Nẵng, từ năm 2016 đến năm 2020, trên địa bàn thành phố xảy ra 151 vụ án cướp giật tài sản, đã điều tra, khám phá 92 vụ, với 120 đối tượng. Nhìn chung, số lượng các vụ án cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng chiếm tỷ lệ không cao trong tổng số vụ phạm pháp hình sự nhưng lại có những diễn biến khá phức tạp, khó lường, tính chất, mức độ phạm tội hết sức tinh vi, xảo quyệt, thành phần đối tượng phạm tội rất đa dạng, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh chính trị và trật tự an tòa xã hội, gây căm phẫn, bất bình trong quần chúng nhân dân. Mặc dù trong thời gian qua, các cơ quan Nhà nước, các tổ chức chính trị – xã hội có rất nhiều hoạt động phòng ngừa, đấu tranh các loại tội phạm nhưng tình hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng vẫn đang là mối lo ngại lớn của toàn xã hội.

Có thể khẳng định, phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản là hoạt động của các cơ quan Nhà nước, các tổ chức xã hội và mọi công dân bằng nhiều biện pháp làm giảm, hạn chế và từng bước loại trừ, triệt tiêu những nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội cướp giật tài sản nhằm hướng đến mục đích ngăn chặn, loại trừ tội cướp giật tài sản ra khỏi đời sống xã hội. Như vậy, phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản là hoạt động rất đa dạng, phức tạp với sự tham gia của nhiều lực lượng, tổ chức xã hội. Tuy nhiên, trong phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản thì vai trò nòng cốt, xung kích thuộc về lực lượng Công an nhân dân mà trực tiếp là lực lượng Cảnh sát nhân dân. Những năm qua, vai trò của của lực lượng Cảnh sát nhân dân trong phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng được thể hiện trên nhiều phương diện, lĩnh vực, hoạt động cụ thể, kết quả đạt được rất đáng khích lệ. Mặc dù vậy, một số nội dung hoạt động thể hiện vai trò của lực lượng Cảnh sát nhân dân trong phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản như công tác tham mưu, hướng dẫn; công tác tuyên truyền, vận động, tuần tra kiểm soát; công tác điều tra, khám phá, xử lý tội phạm cướp giật tài sản; công tác phối hợp giữa lực lượng Cảnh sát nhân dân với các lực lượng khác trong phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản còn bộc lộ những hạn chế, thiếu sót nhất định cần có sự nghiên cứu thấu đáo, khoa học và hết sức thực hiện để từng bước nâng cao hiệu quả. Với mục đích nghiên cứu để có những hiểu biết sâu sắc về lý luận cũng như thực tiễn thể hiện vai trò của lực lượng Cảnh sát nhân dân trong phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng những năm qua, đánh giá đúng đắn toàn diện về thực trạng, trên cơ sở đó đề xuất các giải pháp, tác giả chọn nghiên cứu đề tài: “Vai trò của lực lượng Cảnh sát nhân dân trong phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng” làm luận văn thạc sĩ luật học, chuyên ngành tội phạm học và phòng ngừa tội phạm.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

Trên cơ sở làm rõ lý luận và thực trạng vai trò của lực lượng Cảnh sát nhân dân trong phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng, đề xuất giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Để đạt được mục tiêu nghiên cứu, Luận văn phải giải quyết các nhiệm vụ:

– Nghiên cứu hệ thống hóa những vấn đề lý luận và pháp luật về vai trò của lực lượng Cảnh sát nhân dân trong phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản;

– Nghiên cứu khảo sát làm rõ thực trạng vai trò của lực lượng Cảnh sát nhân dân trong phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng;

– Dự báo tình hình và đề xuất một số giải pháp nâng cao vai trò của lực lượng Cảnh sát nhân dân trong phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Vai trò của lực lượng Cảnh sát nhân dân trong phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

– Phạm vi nội dung: Vai trò của lực lượng Cảnh sát nhân dân trong phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản.

– Phạm vi chủ thể: Lực lượng Cảnh sát nhân dân.

– Phạm vi không gian: Thành phố Đà Nẵng.

– Phạm vi thời gian: Các số liệu sử dụng trong đề tài được thu thập từ năm 2016 đến năm 2020.

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

5.1. Cơ sở lý luận

Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng và Nhà nước về đấu tranh phòng, chống tội phạm, bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự an toàn xã hội; dựa trên những thành tựu của các ngành khoa học như: Triết học, Tội phạm học và Điều tra tội phạm, Tâm lý học, Xã hội học, Luật học…

5.2. Phương pháp nghiên cứu

– Phương pháp thống kê: Phương pháp này dùng để thu thập, xử lý và phân tích số liệu về tình hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng từ năm 2016 đến năm 2020.

– Phương pháp tổng kết kinh nghiệm: Tổng kết thực tiễn các hoạt động thể hiện vai trò của lực lượng Cảnh sát nhân dân trong phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng thông qua báo cáo tổng kết, các chuyên đề về phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản.

– Phương pháp phân tích, tổng hợp: Từ các thông tin, tài liệu thu thập được, tiến hành phân tích để làm rõ tình hình, đặc điểm đặc trưng của tội phạm cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng từ năm 2016 đến năm 2020. Đánh giá thực trạng thể hiện vai trò của lực lượng Cảnh sát nhân dân trong phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.

– Phương pháp nghiên cứu tài liệu: Nghiên cứu, đánh giá các tài liệu có liên quan đến đề tài nghiên cứu, phục vụ cho việc xây dựng luận cứ lý thuyết và luận cứ thực tiễn của đề tài sẽ được đề đề cập trong chương 1.

– Phương pháp nghiên cứu điển hình: Tập trung nghiên cứu 35 bản kết luận điều tra và 35 bản án về tội cướp giật tài sản xảy ra trên địa bàn thành phố Đà Nẵng từ năm 2016 đến năm 2020.

– Phương pháp chuyên gia: Lấy ý kiến các nhà khoa học có chuyên môn sâu về lĩnh vực nghiên cứu để bổ sung, hoàn chỉnh kết quả nghiên cứu của đề tài.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

6.1. Ý nghĩa lý luận

Kết quả Luận văn sẽ là tài liệu nghiên cứu của cán bộ, giáo viên, học viên các cơ sở đào tạo về luật.

6.2. Ý nghĩa thực tiễn

Trong thực tế, kết quả Luận văn đề xuất giải pháp nâng cao vai trò của lực lượng Cảnh sát nhân dân trong phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng những năm tới.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn được cấu trúc làm 03 chương:

Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật về vai trò của lực lượng Cảnh sát nhân dân trong phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản

Chương 2: Thực trạng vai trò của lực lượng Cảnh sát nhân dân trong phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng

Chương 3: Dự báo và giải pháp nâng cao vai trò của lực lượng Cảnh sát nhân dân trong phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng

CHƯƠNG 1

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ VAI TRÒ CỦA LỰC LƯỢNG CẢNH SÁT NHÂN DÂN TRONG PHÒNG NGỪA

TÌNH HÌNH TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN

1.1. Nhận thức về phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản

1.1.1. Khái niệm, nhiệm vụ, yêu cầu và nguyên tắc phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản

1.1.1.1. Khái niệm phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản

Có thể khẳng định, để xây dựng được khái niệm về phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản cần xuất phát và dựa trên nền tảng tri thức về phòng ngừa tội phạm nói chung, gắn liền với đặc trưng về loại tội phạm cướp giật tài sản. Tiếp cận nghiên cứu các công trình khoa học đã được công bố về lĩnh vực tội phạm học và phòng ngừa tội phạm cho thấy, đến nay xung quanh khái niệm phòng ngừa tội phạm tồn tại một số quan niệm điển hình, chẳng hạn:

Theo GS.TS Nguyễn Xuân Yêm thì: Phòng ngừa tội phạm là không để tội phạm xảy ra và gây hậu quả cho xã hội, không để cho con người sống trong xã hội phải đối mặt và gánh chịu những hình phạt nghiêm khắc của luật pháp. Nếu một người đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội đến mức phải chịu hình phạt theo quy định của Bộ Luật hình sự hiện hành thì phải được phát hiện kịp thời, điều tra khám phá để truy tố, xét xử theo quy định, tiến hành các biện pháp quản lý, giáo dục và cải tạo người phạm tội trở thành công dân có ích cho xã hội [32].

Theo Giáo trình Tội phạm học của Trường Đại học CSND năm 2008 thì: Phòng ngừa tội phạm không chỉ bao gồm các hoạt động nhằm thủ tiêu nguyên nhân và điều kiện phạm tội, không để cho tội phạm xảy ra mà còn bao gồm cả những hoạt động ngăn chặn tội phạm, phát hiện điều tra khám phá tội phạm, truy tố, xét xử nghiêm minh các hành vi phạm tội nhằm trừng trị giáo dục người phạm tội trở thành người công dân có ích cho xã hội. Truy cứu trách nhiệm hình sự cũng là một hình thức phòng ngừa tội phạm chủ động và có hiệu quả. Việc trừng trị người phạm tội và ngăn chặn không cho họ thực hiện hành vi phạm tội mới còn có ý nghĩa tác động đối với những người xung quanh, khiến cho họ từ bỏ ý định phạm tội, từ bỏ sự chuẩn bị hay tiến hành một tội phạm nào đó. Việc truy tố, xét xử và buộc người phạm tội phải chịu một hình phạt không những có ý nghĩa phòng ngừa cá biệt mà còn có ý nghĩa phòng ngừa chung…. Tuy nhiên, phòng ngừa tội phạm còn được thể hiện ở việc cải thiện các điều kiện kinh tế, xã hội, xóa bỏ các nguyên nhân và điều kiện phạm tội, hình thành các điều kiện tích cực cho sự phát triển, hoàn thiện nhân cách con người. Như vậy, phòng ngừa tội phạm không những ngăn ngừa tội phạm xảy ra mà còn trừng trị người phạm tội và giáo dục cải tạo họ thành công dân có ích cho xã hội.

Giáo trình Tội phạm học của GS.TS Đỗ Ngọc Quang chỉ ra phòng ngừa tội phạm theo hai nghĩa: Nghĩa rộng, bằng mọi cách để ngăn chặn tội phạm, kịp thời phát hiện tội phạm, xử lý nghiêm minh các trường hợp phạm tội và cuối cùng là cải tạo giáo dục người phạm tội, đưa họ trở thành những công dân có ích cho xã hội. Theo nghĩa hẹp, phòng ngừa tội phạm là không cho tội phạm xảy ra, không để cho tội phạm gây hậu quả cho xã hội, không để cho các thành viên của xã hội phải chịu hình phạt của pháp luật, tiết kiệm được những chi phí cần thiết cho Nhà nước trong công tác điều tra, truy tố, xét xử và cải tạo giáo dục người phạm tội [29]. Như vậy, theo quan niệm này công tác phòng ngừa tội phạm khác với công tác điều tra khám phá, xử lý tội phạm.

Theo GS.TS Võ Khánh Vinh thì: Phòng ngừa tình hình tội phạm là hệ thống nhiều mức độ các biện pháp mang tính chất Nhà nước, xã hội và Nhà nước – xã hội nhằm khắc phục các nguyên nhân và điều kiện của tội phạm hoặc làm vô hiệu hóa (làm yếu; hạn chế) chúng và bằng cách đó làm giảm và dần dần loại bỏ tình hình tội phạm[28]. Phòng ngừa tội phạm là hoạt động được tiến hành bằng nhiều biện pháp để phát hiện nguyên nhân, điều kiện của tội phạm, nhằm xóa bỏ, hạn chế hoặc làm mất tác dụng của nó, không để tội phạm xảy ra, tiến tới thủ tiêu hiện tượng tội phạm trong xã hội tương lai; đồng thời cũng tức là không để tội phạm xảy ra và gây nên những hậu quả nguy hiểm cho xã hội, không để cho các thành viên của xã hội phải chịu hình phạt. Nếu tội phạm xảy ra thì phải kịp thời phát hiện xử lý để bảo đảm cho người phạm tội không thể tránh khỏi hình phạt, không để lọt tội phạm, tiến hành giáo dục và cải tạo những người phạm tội trở thành những công dân có ích cho xã hội.

Từ việc tiếp thu những luận cứ khoa học nêu trên, xuất phát từ đặc điểm đặc trưng của tình hình tội cướp giật tài sản, tác giả cho rằng: Phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản là hoạt động của các cơ quan Nhà nước, các tổ chức xã hội và mọi công dân bằng nhiều biện pháp khác nhau hướng đến loại trừ, triệt tiêu những nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội cướp giật tài sản nhằm ngăn chặn, hạn chế làm giảm và từng bước loại trừ tội cướp giật tài sản ra khỏi đời sống xã hội.

1.1.1.2. Nhiệm vụ phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản

Có thể khẳng định, phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản là nhiệm vụ cấp bách, hết sức quan trọng và cần thiết, góp phần bảo đảm an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội trong mỗi giai đoạn phát triển của xã hội và cuộc sống thường ngày của người dân.

Phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản là hoạt động hết sức đặc thù, bởi lẽ nó được tiến hành đối với một loại tội phạm đặc thù, với đối tượng đặc thù và trên địa bàn rất đặc thù.

Nhiệm vụ phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản gồm:

+ Làm rõ nguyên nhân, điều kiện của tình hình tội cướp giật tài sản, tức là xác định cho được những hiện tượng xã hội tiêu cực làm hình thành nên động cơ thúc đẩy một cá nhân thực hiện hành vi phạm tội và những yếu tố xã hội làm hình thành nhu cầu lợi ích, định hướng giá trị xã hội lệch lạc cùng với những yếu tố tạo thuận lợi cho việc thực hiện hành vi phạm tội cướp giật tài sản. Các hiện tượng xã hội tiêu cực làm nảy sinh hoặc tạo thuận lợi cho tình hình tội cướp giật tài sản xảy ra trong thực tế rất phức tạp, có sự đan xen vào nhau; mặt khác nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội cướp giật tài sản không thể tách rời nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm nói chung. Vì vậy, đề cập đến nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội cướp giật tài sản, có thể tiếp cận, nghiên cứu, phân tích, luận giải, xem xét những hiện tượng xã hội tiêu cực đóng vai trò làm phát sinh tội phạm nói chung.

+ Đề xuất các phương pháp, giải pháp phòng ngừa cụ thể:

Trên cơ sở nghiên cứu làm rõ nguyên nhân, điều kiện của tình hình tội cướp giật tài sản thì nhiệm vụ tiếp theo của phòng ngừa tình hình tội phạm đó là soạn thảo, đề xuất các phương pháp, giải pháp nhằm tác động làm mất đi các nguyên nhân, điều kiện.

+ Tổ chức hoạt động phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản:

Tiếp đến là tổ chức hoạt động phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản bằng việc nghiên cứu nắm vững các đặc điểm, quy luật hình thành ý định, động cơ, mục đích phạm tội, phương thức thủ đoạn hoạt động của đối tượng phạm tội; lập kế hoạch phòng ngừa, đề xuất các biện pháp phòng ngừa gắn với xây dựng môi trường giáo dục nhân cách, trong việc quản lý con người, quản lý đối tượng có nguy cơ phạm tội, trong ngăn chặn tội phạm, xác định trách nhiệm và cơ chế phối hợp giữa các cấp, các đơn vị cụ thể trong phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản; đề xuất, kiến nghị ban hành các chủ trương, các văn bản pháp luật để nâng cao hiệu quả phòng ngừa. Ở phạm vi, cấp độ chung nhất, hoạt động phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản có thể bao gồm các biện pháp như: Tăng cường giáo dục, tuyên truyền nếp sống lành mạnh; loại trừ ảnh hưởng tiêu cực của các tệ nạn xã hội; tăng cường công tác quản lý an ninh trật tự, quản lý xã hội; giải quyết việc làm cho những người trong độ tuổi lao động; phát động phong trào nâng cao ý thức trách nhiệm đấu tranh phòng, chống tình hình tội cướp giật tài sản trong nhân dân; tăng cường công tác đấu tranh phòng, chống tình hình tội cướp giật tài sản của các cơ quan bảo vệ pháp luật.

+ Xây dựng được chiến lược dài hạn, hoạch định kế hoạch hành động:

Phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản là chủ đề nhận được sự quan tâm của đông đảo người dân, của toàn bộ hệ thống chính trị, chính quyền cơ sở thời gian vừa qua, hiện tại và trong những năm sắp tới. Chính vì thế, cần phải xây dựng được chiến lược dài hạn, hoạch định kế hoạch hành động cụ thể, chi tiết, huy động sức mạnh của toàn xã hội, của mỗi nhà trường, gia đình trong việc thực hiện đồng bộ các biện pháp nhằm ngăn chặn tình hình tội cướp giật tài sản trong thực tiễn đời sống xã hội.

1.1.1.3. Yêu cầu phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản

Hoạt động phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản phải đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp, thường xuyên của các cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương.

Hoạt động phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản phải được tiến hành dưới sự chủ trì của Cơ quan Công an, Viện kiểm sát nhân dân, Tòa án nhân dân, là lực lượng chủ công, chịu trách nhiệm chính trong xây dựng kế hoạch, tổ chức hoạt động phòng ngừa, đầu mối gắn kết các chủ thể khác.

Hoạt động phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản phải được tiến hành một cách thường xuyên, liên tục, có trọng tâm, trọng điểm.

Hoạt động phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản phải có sự tham gia phối hợp của tất cả các chủ thể, phát huy sức mạnh của toàn bộ hệ thống chính trị, của toàn xã hội, đặc biệt là phong trào quần chúng bảo vệ an ninh tổ quốc.

Hoạt động phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản cần được tiến hành toàn diện, đồng bộ, kết hợp nhuần nhuyễn giữa phòng ngừa xã hội và phòng ngừa nghiệp vụ. Đồng thời, cần được đảm bảo về nhân sự và nguồn kinh phí cũng như cơ sở pháp lý, cơ chế phối hợp cần thiết.

1.1.1.4. Nguyên tắc phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản

Theo từ điển Tiếng Việt phổ thông thì, nguyên tắc là những quy định, phép tắc, tiêu chuẩn làm cơ sở, làm chỗ dựa để xem xét, làm việc [36]. Như vậy, nguyên tắc là toàn bộ những quan điểm, tư tưởng chỉ đạo hoạt động của con người, chỉ đạo mối quan hệ giữa con người với con người và giữa con người với xã hội. Hoạt động phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản muốn đạt kết quả tốt phải được tiến hành trên cơ sở quán triệt và tuân thủ một số nguyên tắc sau đây:

Phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản phải được tiến hành dựa trên cơ sở quan điểm, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước, bảo đảm tôn trọng quyền con người, quyền công dân, duy trì trật tự an toàn xã hội.

Phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản phải chú trọng làm tốt công tác tham mưu cho các cấp ủy Đảng, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân các cấp trong việc huy động sức mạnh của hệ thống chính trị và toàn xã hội, trong đó Công an nhân dân, Viện Kiểm sát, Tòa án giữ vai trò nòng cốt, xung kích, đi đầu.

Phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản phải triệt để khai thác, phát huy hiệu quả quan hệ phối hợp giữa các cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương và các ban ngành đoàn thể trong đề xuất và tổ chức thực hiện các biện pháp phòng ngừa.

Phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản phải gắn liền với việc tăng cường công tác thông tin, tuyên truyền, hướng dẫn, vận động quyền chúng nhân dân cùng tham gia.

Phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản phải gắn liền với việc nâng cao hiệu quả công tác điều tra, khám phá và xử lý nghiêm khắc, nhanh chóng, kịp thời mọi hành vi phạm tội cướp giật tài sản.

1.1.2. Chủ thể tiến hành phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản

Hoạt động phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản không chỉ do lực lượng Công an nhân dân đảm nhận mà đòi hỏi phải có sự tham gia của nhiều ngành, nhiều cấp, nhiều lực lượng, của các tổ chức Đảng, cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội, tổ chức quần chúng và mọi công dân. Nhưng do chức năng, nhiệm vụ, vị trí hoạt động của từng ngành, từng cấp, từng lực lượng khác nhau nên vai trò và việc thực hiện nhiệm vụ của mỗi chủ thể trong hoạt động phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản có sự khác nhau [35]. Cụ thể:

1.1.2.1. Chủ thể xây dựng chính sách, mục tiêu, định hướng phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản (Quốc hội, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân)

Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quốc hội thực hiện quyền lập hiến, quyền lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước. Bên cạnh việc xây dựng và ban hành chính sách, pháp luật về phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản, Quốc hội còn tiến hành giám sát tối cao việc thực hiện chính sách, pháp luật về phòng chống tội phạm.

Trong hoạt động phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn cụ thể, các cấp ủy Đảng giữ vai trò lãnh đạo hoạt động phòng ngừa tội phạm, nghe báo cáo của các ngành, các lực lượng về tình hình tình hình tội cướp giật tài sản xảy ra trong phạm vi lĩnh vực, địa phương của mình, đề ra chủ trương, phương hướng hoạt động phòng ngừa có hiệu quả. Đồng thời, kiểm tra, giám sát hoạt động phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản để có sự lãnh đạo kịp thời, sửa chữa, khắc phục những sai lầm, thiếu sót trong quản lý xã hội, kinh doanh, sản xuất, sử dụng lao động, đảm bảo cho hoạt động phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản đi đúng hướng, thiết thực và đạt hiệu quả cao.

Quyết định số 623/QĐ-TTg ngày 14/4/2016 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt chiến lược quốc gia phòng, chống tội phạm giai đoạn 2016 – 2020 và định hướng đến năm 2030 đề ra các quan điểm chỉ đạo, mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp tạo tiền đề thuận lợi cho việc thực hiện các giải pháp phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản. Bên cạnh đó, các cấp ủy Đảng, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân các cấp tại từng địa phương căn cứ vào tình hình cụ thể ở mỗi giai đoạn, thời kỳ chủ động ban hành các văn bản pháp luật phục vụ có hiệu quả công tác phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản.

Hội đồng nhân dân các cấp là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, có thẩm quyền ra các nghị quyết chỉ đạo, tổ chức hoạt động phòng ngừa tội phạm nói chung cũng như hoạt động phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản nói riêng. Vì vậy, Hội đồng nhân dân được coi là chủ thể quan trọng trong hoạt động phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản. Hội đồng nhân dân tham gia vào chương trình quốc gia phòng, chống tội phạm, tập trung chỉ đạo tổ chức thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội liên quan đến hoạt động phòng ngừa tội phạm; chỉ đạo việc thực hiện chương trình phòng ngừa tội phạm trong phạm vi địa phương mình quản lý. Thành lập và lãnh đạo các tổ chuyên trách phòng ngừa tội phạm, hướng dẫn, tổ chức các tập thể, quần chúng nhân dân tham gia vào các hoạt động giáo dục, giám sát các đối tượng có biểu hiện tiêu cực, người có tiền án, tiền sự đang sinh sống hoặc cư trú trên địa bàn mà địa phương quản lý, kịp thời giải quyết những mâu thuẫn trong cuộc sống của cộng đồng dân cư, ngăn chặn được các hành vi tiêu cực dễ dẫn đến việc nảy sinh tội phạm cướp giật tài sản.

Ủy ban nhân dân các cấp là cơ quan hành chính nhà nước nằm trong hệ thống hành chính của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Đây là cơ quan hành chính nhà nước địa phương, cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân các cấp, chịu trách nhiệm trước Hội đồng nhân dân và cơ quan nhà nước ở Trung ương.

1.1.2.2. Chủ thể có chức năng, nhiệm vụ trực tiếp thực hiện hoạt động phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản (Cơ quan Công an, Viện kiểm sát, Tòa án)

Cơ quan Công an, Viện kiểm sát, Tòa án là những thiết chế có nhiệm vụ trực tiếp đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm cướp giật tài sản, giữ gìn an ninh chính trị, trật tự và an toàn xã hội.

Điều 67 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 quy định: “Nhà nước xây dựng Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, làm nòng cốt trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia và bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, đấu tranh phòng, chống tội phạm” [19].

Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 quy định: Trong phạm vi trách nhiệm của mình, cơ quan nhà nước phải áp dụng các biện pháp phòng ngừa tội phạm, phối hợp với cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong việc đấu tranh phòng, chống tội phạm [20]. Thủ trưởng cơ quan nhà nước phải chịu trách nhiệm về việc không thông báo hoặc cung cấp thông tin sai sự thật về hành vi phạm tội xảy ra trong cơ quan và trong lĩnh vực quản lý của mình cho Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát. Tổ chức, cá nhân có quyền và nghĩa vụ phát hiện, tố giác, báo tin về tội phạm; tham gia đấu tranh phòng, chống tội phạm. Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng có trách nhiệm tạo điều kiện để cơ quan nhà nước, tổ chức và cá nhân tham gia đấu tranh phòng, chống tội phạm. Đặc biệt, trong quá trình tiến hành tố tụng hình sự, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng có trách nhiệm phát hiện nguyên nhân và điều kiện phạm tội, yêu cầu, kiến nghị cơ quan, tổ chức hữu quan áp dụng các biện pháp khắc phục và phòng ngừa.

Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 quy định: Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp [22]. Tòa án nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Đồng thời, Tòa án nhân dân phối hợp với cơ quan, tổ chức phát huy tác dụng giáo dục của phiên tòa và tạo điều kiện thuận lợi cho việc thi hành bản án, quyết định của Tòa án nhân dân. Tòa án nhân dân cùng với cơ quan, tổ chức nghiên cứu, đề xuất các chủ trương, chính sách, pháp luật về phòng, chống vi phạm pháp luật và tội phạm, bảo đảm an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội. Trong trường hợp cần thiết, cùng với việc ra bản án, quyết định, Tòa án nhân dân kiến nghị yêu cầu cơ quan, tổ chức áp dụng biện pháp khắc phục nguyên nhân, điều kiện phát sinh tội phạm hoặc vi phạm pháp luật tại cơ quan, tổ chức đó. Cơ quan, tổ chức nhận được kiến nghị có trách nhiệm thực hiện và trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận được kiến nghị phải thông báo cho Tòa án về kết quả giải quyết kiến nghị.

Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014 quy định: Viện kiểm sát nhân dân là cơ quan thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam [23]. Viện kiểm sát nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ Hiến pháp và pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất. Viện kiểm sát nhân dân có trách nhiệm phối hợp với cơ quan Công an, Tòa án, Thi hành án, Thanh tra, Kiểm toán, các cơ quan nhà nước khác, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận để phòng, chống tội phạm có hiệu quả; xử lý kịp thời, nghiêm minh các loại tội phạm và vi phạm pháp luật; phổ biến, giáo dục pháp luật; xây dựng pháp luật; nghiên cứu tội phạm và vi phạm pháp luật [18].

Luật Công an nhân dân năm 2018 quy định: Công an nhân dân là lực lượng vũ trang nhân dân làm nòng cốt trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, đấu tranh phòng, chống tội phạm và vi phạm pháp luật về an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội [24]. Công an nhân dân có chức năng tham mưu với Đảng, Nhà nước về bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, đấu tranh phòng, chống tội phạm và vi phạm pháp luật về an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội; thực hiện quản lý nhà nước về bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, đấu tranh phòng, chống tội phạm và vi phạm pháp luật về an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội; đấu tranh phòng, chống âm mưu, hoạt động của các thế lực thù địch, các loại tội phạm và vi phạm pháp luật về an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội.

Xuất phát từ các cơ sở pháp lý đó, cụ thể trên thực tiễn:

+ Cơ quan Công an tổ chức các hoạt động phòng ngừa tội phạm trong lĩnh vực mà mình có trách nhiệm quản lý thông qua hoạt động kiểm tra, kiểm soát nghề, nhân khẩu, hộ khẩu, vũ khí, phòng, chống cháy nổ…, quản lý các đối tượng có nhân thân xấu, đối tượng hình sự “không vững vàng” trong cuộc sống để có biện pháp phòng ngừa riêng, phối hợp, phát hiện, điều tra tội phạm đảm bảo không để lọt tội phạm; truy nã người phạm tội bỏ trốn nhằm trốn tránh pháp luật; giám sát, giáo dục người đang chấp hành án tại địa phương nơi người bị kết án cư trú hay tại cơ quan chuyên môn; hướng dẫn các tổ chức tự quản ở địa phương nắm bắt các thao tác nghiệp vụ, phương pháp thực hiện các biện pháp phòng ngừa tội phạm…. Hoạt động phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản của cơ quan Công an thực hiện chủ yếu thông qua các hình thức cơ bản như: Tổ chức hoạt động và kế hoạch phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản tại khu vực mình phụ trách; quản lý chặt chẽ các đối tượng hình sự, các đối tượng có tiền án, tiền sự; kịp thời truy nã các đối tượng phạm tội còn lẩn trốn; phối hợp với các cơ quan hữu quan lên kế hoạch và thực hiện kế hoạch phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản; tổ chức và đào tạo hệ thống chuyên gia phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản chuyên trách; phối hợp chặt chẽ với Viện kiểm sát và Tòa án trong việc tuyên truyền, hướng dẫn và huy động các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội và Nhân dân vào hoạt động phòng ngừa, ngăn chặn tình hình tội cướp giật tài sản.

+ Viện kiểm sát nhân dân với chức năng của mình, bên cạnh việc thực hành quyền công tố trong các vụ án cướp giật tài sản, Viện kiểm sát còn kiểm sát việc tuân thủ pháp luật trong các hoạt động tư pháp; giám sát việc thực hiện các biện pháp và chương trình phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản; kiểm tra, giám sát công tác cải tạo, giáo dục người phạm tội; phối hợp với các cơ quan bảo vệ pháp luật và các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản. Thông qua kiểm sát hoạt động điều tra cũng như trực tiếp điều tra các vụ án cướp giật tài sản, Viện kiểm sát nhân dân xác định được nguyên nhân, điều kiện của tình hình tình hình tội cướp giật tài sản và các đặc điểm thuộc nhân thân người phạm tội, kiến nghị các cơ quan hữu quan áp dụng biện pháp phòng ngừa hiệu quả.

+ Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thông qua hoạt động xét xử và một số hoạt động khác, Tòa án góp phần to lớn vào hoạt động phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản. Vai trò của Tòa án nhân dân trong phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản thể hiện thông qua việc xét xử các vụ án cướp giật tài sản, làm rõ nguyên nhân và điều kiện phạm tội từ đó áp dụng các biện pháp nhằm khắc phục hoặc yêu cầu các cơ quan, tổ chức, cá nhân khắc phục nguyên nhân và điều kiện phạm tội đó, giáo dục ý thức tuân thủ pháp luật của mọi người trong xã hội, tạo điều kiện để công dân và tổ chức thực hiện các biện pháp phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản. Đặc biệt, Tòa án nhân dân còn trực tiếp đề xuất, kiến nghị với các cấp ủy Đảng, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân các cấp về việc ban hành và thực hiện các chính sách xã hội liên quan đến phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản.

1.1.2.3. Chủ thể tham gia phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản (Mặt trận, các ban ngành, đoàn thể, gia đình, nhà trường)

Trong hoạt động phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản, vai trò của Mặt trận, các ban ngành, đoàn thể, gia đình, nhà trường có ý nghĩa to lớn và là nhân tố, tiền đề để triển khai thực hiện có hiệu quả các biện pháp, giải pháp phòng ngừa.

Điều 46 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 quy định: “Công dân có nghĩa vụ tuân theo Hiến pháp và pháp luật; tham gia bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội và chấp hành những quy tắc sinh hoạt công cộng” [19, tr.11].

Điều 64 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 quy định: “Bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa là sự nghiệp của toàn dân. Nhà nước củng cố và tăng cường nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân mà nòng cốt là lực lượng vũ trang nhân dân; phát huy sức mạnh tổng hợp của đất nước để bảo vệ vững chắc Tổ quốc, góp phần bảo vệ hòa bình ở khu vực và trên thế giới. Cơ quan, tổ chức, công dân phải thực hiện đầy đủ nhiệm vụ quốc phòng và an ninh” [19, tr.14].

Xuất phát từ đặc thù về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được giao mà mỗi thiết chế trong hệ thống thực hiện những công việc, phần việc cụ thể tạo thành hoạt động chung nhằm hướng đến phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản ở phạm vi và mức độ khác nhau. Có thể khẳng định, trong phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản điều quan trọng và cần thiết là phải có sự phối hợp đồng bộ, chặt chẽ, thường xuyên, liên tục giữa các chủ thể nêu trên. Việc phối hợp giữa các chủ thể để phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản là một yêu cầu tất yếu, khách quan. Một mặt nhằm tăng cường sức mạnh tổng hợp của toàn xã hội, tính tổ chức chặt chẽ trong quá trình áp dụng các biện pháp phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản. Mặt khác, quá trình phối hợp cho phép tổng hợp, phân tích đánh giá toàn diện thông tin về tình hình tội cướp giật tài sản, kết quả phòng, chống tình hình tội cướp giật tài sản, nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội cướp giật tài sản. Đồng thời, sự phối hợp giữa các chủ thể còn hướng vào việc đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục sâu rộng cho quần chúng nhân dân về các quy định của Nhà nước liên quan đến phòng, chống tình hình tội cướp giật tài sản để quần chúng không tham gia hoặc tiếp tay, che giấu tình hình tội cướp giật tài sản, tích cực tham gia phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản góp phần tăng cường hiệu quả quản lý Nhà nước trên lĩnh vực này.

1.2. Vai trò của lực lượng Cảnh sát nhân dân trong phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản

1.2.1. Khái niệm vai trò của lực lượng Cảnh sát nhân dân trong phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản

Bảo vệ an ninh chính trị, giữ gìn trật tự an toàn xã hội là nhiệm vụ cực kỳ quan trọng của Đảng và Nhà nước ta trong từng giai đoạn phát triển của cách mạng phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Do tính chất rộng rãi và quan trọng của công cuộc đấu tranh bảo vệ an ninh chính trị, giữ gìn trật tự an toàn xã hội, cho nên nó đã trở thành nhiệm vụ chính trị của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân. Tuy nhiên, trong chức năng của Nhà nước còn phải thực hiện nhiều nhiệm vụ khác nhau như phát triển kinh tế, xây dựng quốc phòng, đối ngoại, văn hóa, thể thao v.v… mà mỗi mặt nhiệm vụ đó đều có liên quan với nhau và liên hệ động chạm tới quyền lợi quốc gia và quyền lợi của cơ quan, tổ chức, cá nhân thành viên xã hội. Nhu cầu đó đòi hỏi Nhà nước tất yếu xây dựng củng cố những cơ quan chuyên trách (hay vẫn gọi là cơ quan chức năng) và xác định cho nó những chức năng nhiệm vụ cụ thể để đại diện Nhà nước tham gia điều hành quản lý trong từng lĩnh vực cụ thể (tạo thành bộ máy cơ quan chuyên trách). Đối với mỗi Nhà nước khác nhau do đặc điểm phát triển các lĩnh vực chuyên môn khác nhau và đặc điểm mỗi thời kỳ khác nhau có thể được thành lập những cơ quan chuyên trách khác nhau phù hợp với điều kiện cụ thể của đất nước [18].

Ở nước ta, lĩnh vực bảo vệ an ninh chính trị, giữ gìn trật tự an toàn xã hội là một trong những lĩnh vực đặc biệt có những đặc trưng khác với các lĩnh vực quản lý Nhà nước khác. Đó là một lĩnh vực tổng hợp bao hàm nhiều hoạt động khác nhau như: hoạt động duy trì bảo vệ trật tự pháp luật (tuyên truyền pháp luật, kiểm tra giám sát thực hiện pháp luật, điều tra xét xử các vụ án hình sự đã xảy ra…); là hoạt động của các cơ quan tư pháp (Công an, Tòa án, Viện kiểm sát); tiến hành tổ chức thực hiện những nhiệm vụ quản lý Nhà nước về an ninh trật tự (quản lý con người, quản lý nghề nghiệp, phương tiện, trật tự an toàn xã hội…); là chức năng của cơ quan hành pháp của Nhà nước, hoạt động đấu tranh chống tội phạm; trấn áp phản cách mạng, bảo vệ biên giới v.v…; là hoạt động của cơ quan bạo lực chuyên chính mang tính vũ trang (lực lượng vũ trang của Nhà nước). Từ những đặc trưng như vậy, Nhà nước và Đảng ta ngay từ những ngày đầu thành lập đã giao phó trọng trách cho lực lượng Công an nhân dân và các lực lượng chuyên chính khác thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh chính trị, giữ gìn trật tự an toàn xã hội. Bác Hô đã nêu trong Hồ Chí Minh – Giữ gìn an ninh trật tự – 10/10/1954: “Giữ gìn an ninh trật tự trước hết là công việc của Công an, Bộ đội, Cảnh sát…”. Để xác định phân công trách nhiệm cụ thể hơn người còn chỉ rõ trong Hồ Chí Minh- Nói chuyện tại Hội nghị Công an toàn quốc Lần thứ 10- 1/1956: “Nhân dân ta có hai lực lượng: Một là quân đội, để đánh giặc ngoại xâm, để bảo vệ tổ quốc, giữ gìn hòa bình. Một lực lượng nữa là Công an, để chống kẻ địch trong nước, chống bọn phá hoại. Có lúc chiến tranh, có lúc hòa bình. Lúc chiến tranh thì quân đội đánh giặc, lúc hòa bình thì tập luyện còn công an thì phải đánh địch thường xuyên, lúc có chiến tranh có việc, lúc hòa bình lại càng nhiều việc. Còn chủ nghĩa đế quốc, còn giai cấp bóc lột là còn bọn phá hoại. Chúng nhằm phá hoại các nước Xã hội chủ nghĩa… Vì vậy, công việc Công an phải thường xuyên, không phải có từng đợt từng lúc”. Như vậy, Bác Hồ và Đảng ta đã xác định rõ ràng ranh giới trách nhiệm của mỗi công cụ bạo lực: Quân đội và Công an. Khi xác định nhiệm vụ và phạm vi công tác của Công an nhân dân Bác Hồ còn chỉ rõ trong Hồ Chí Minh- Bài nói chuyện tại Hội nghị Cán bộ ngành Công an 29/4/1963: “Công an cách mạng là một vũ khí sắc bén của chuyên chính vô sản. Cho nên nhiệm vụ Công an là cực kỳ quan trọng. Nó phải giữ gìn trật tự trị an, bảo vệ cho Nhân dân ta an cư lạc nghiệp, để xây dựng thắng lợi chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc làm cơ sở vững mạnh cho cuộc đấu tranh thống nhất nước nhà”.

Những điều căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh thể hiện quan điểm của Người về bảo vệ an ninh chính trị, giữ gìn trật tự an toàn xã hội và vai trò vị trí của ngành Công an nhân dân đã được Đảng ta quán triệt tiếp tục trong đường lối của mình. Khi nói về nhiệm vụ bảo vệ an ninh chính trị, giữ gìn trật tự an toàn xã hội, trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc Lần thứ V (1982), Đảng ta chú trọng đến việc xây dựng lực lượng Công an nhân dân: “Để làm được nhiệm vụ đó, phải xây dựng lực lượng Công an nhân dân trong sạch, vững mạnh về mọi mặt, thật sự là công cụ sắc bén của chuyên chính vô sản, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, với Nhà nước và nhân dân, có lực lượng chuyên trách, chính qui hiện đại, vững về chính trị, giỏi về nghiệp vụ, có trình độ khoa học kỹ thuật khá, được trang bị chuyên môn cần thiết, có cơ sở quần chúng rộng khắp đảm bảo hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ… phối hợp tốt giữa các ngành Công an, Viện kiểm sát, Tư pháp trong việc tăng cường pháp chế; phối hợp tốt giữa lực lượng Công an nhân dân với quân đội nhân dân, dân quân tự vệ và lực lượng quần chúng trong việc giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội”. Từ những vấn đề đã nêu ra và phân tích trên đây, có thể rút ra những kết luận như sau:

Thứ nhất: Bảo vệ an ninh chính trị, giữ gìn trật tự an toàn xã hội luôn luôn là một lĩnh vực hoạt động quan trọng mang tính tất yếu của Đảng và Nhà nước ta, nhằm góp phần đảm bảo thắng lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc của cách mạng Việt Nam.

Thứ hai: Bảo vệ an ninh chính trị, giữ gìn trật tự an toàn xã hội đã trở thành một nhiệm vụ cực kỳ quan trọng của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta trong mỗi giai đoạn phát triển của cách mạng, vì vậy nó đòi hỏi trách nhiệm tham gia của mọi cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội và mỗi công dân.

Thứ ba: Nhiệm vụ an ninh chính trị, giữ gìn trật tự an toàn xã hội do đặc điểm riêng của nó là phải đấu tranh trấn áp đối với một số đối tượng ngoan cố nguy hiểm là bọn phản cách mạng trong nước, các thế lực thù địch chống phá cách mạng từ bên ngoài và các loại tội phạm xâm phạm đến an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, vì vậy cần phải sử dụng đến các cơ quan bạo lực chuyên chính như: Công an, Tòa án, Viện kiểm sát, Quân đội… Những cơ quan này là công cụ đặc biệt của Đảng và Nhà nước trong đấu tranh bảo vệ an ninh chính trị, giữ gìn trật tự an toàn xã hội.

Thứ tư: Trong hệ thống các cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội tham gia đấu tranh bảo vệ an ninh chính trị, giữ gìn trật tự an toàn xã hội, thì cơ quan Công an được Đảng và Nhà nước ta xác định là lực lượng nòng cốt xung kích, có trách nhiệm tham mưu, hướng dẫn các lực lượng Nhà nước xã hội khác tham gia. Để thực hiện được trọng trách đó, cơ quan Công an nhân dân phải xây dựng cho mình có lực lượng mạnh mẽ đủ sức bảo vệ an ninh trật tự của đất nước, đồng thời cần phải phối hợp chặt chẽ với các cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội khác đặc biệt là với hệ thống cơ quan chuyên chính như: Tòa án, Viện kiểm sát và Quân đội nhân dân.

Công an nhân dân Việt Nam là một lực lượng trong hệ thống chuyên chính vô sản, công cụ bạo lực trọng yếu của Nhà nước để bảo vệ Đảng, bảo vệ chính quyền nhân dân, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân đã được hình thành và phát triển cùng với sự nghiệp cách mạng của Đảng và Nhà nước ta. Xuất thân từ những tổ chức “tự vệ đỏ”, “đội danh dự trừ gian” trước cách mạng do các tổ chức Đảng cộng sản thành lập tổ chức, sau khi cách mạng thành công những tổ chức này được xây dựng và củng cố ngày càng trưởng thành, hoàn thiện với quá trình như sau: Ngày 21/02/1946 chủ tịch nước ra Sắc lệnh 23/SL thành lập Việt Nam Công an vụ; ngày 16/02/1953 Sắc lệnh 141/SL đổi tên thành Thứ Bộ Công an; đến tháng 8/1953 Chính phủ ra Nghị quyết thành lập Bộ Công an. Từ đó đến nay ngành Công an luôn luôn được sự quan tâm lãnh đạo của Đảng và Nhà nước về việc hoàn thiện bộ máy Công an nhân dân, xác định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn phù hợp với tình hình thực tế của mỗi giai đoạn cách mạng. Sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng và Nhà nước đối với công tác bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội và xây dựng lực lượng Công an thể hiện, trước hết trong việc tổng kết công tác đấu tranh chống tội phạm, bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, đề ra các chủ trương, nguyên tắc, biện pháp đấu tranh trong lĩnh vực này. Những quan điểm đó được thể hiện tập trung trong các Nghị quyết của Đảng như: Nghị quyết 39/NQ/TW ngày 20/01/1962 về tăng cường đấu tranh chống phản cách mạng; Nghị quyết 31/NQ/TW ngày 02/12/1980 về nhiệm vụ bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trong tình hình mới và các chỉ thị về từng mặt công tác đấu tranh bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội khác như chỉ thị về đấu tranh chống tham nhũng, chỉ thị về đấu tranh bài trừ tệ nạn xã hội… Về mặt Nhà nước đã thông qua và ban hành nhiều văn bản pháp lý quan trọng để quy định về tổ chức, xây dựng cơ cấu bộ máy Công an nhân dân, phân công chức năng, nhiệm vụ của ngành Công an nhân dân. Đó là các văn bản như: Pháp lệnh Cảnh sát nhân dân, pháp lệnh phòng cháy, chữa cháy, pháp lệnh tình báo, Nghị định 32/CP, Nghị định 250/HĐBT, Nghị định 37/1998/NĐ-CP về chức năng nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy Bộ Công an, Luật Công an nhân dân. Từ nội dung những văn bản trên đã tạo ra các cơ sở lý luận và cơ sở pháp lý chỉ đạo hoạt động của ngành Công an nhân dân.

Như đã phân tích ở phần trên, hoạt động của các cơ quan Nhà nước, các tổ chức xã hội và mọi công dân bằng nhiều biện pháp phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản. Đây là hoạt động đa dạng, phức tạp với sự tham gia đông đảo của các lực lượng, tổ chức xã hội. Vì vậy, để phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản, cần phải nghiên cứu làm rõ các nguyên nhân, điều kiện của tình hình tội phạm cướp giật tài sản; đề ra biện pháp phòng chống và tổ chức tiến hành các hoạt động phòng chống tội phạm cướp giật tài sản. Bên cạnh đó, phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản là việc sử dụng đồng bộ nhiều lực lượng, nhiều biện pháp nhằm khắc phục những sơ hở, thiếu sót không để đối tượng phạm tội cướp giật tài sản có thể lợi dụng hoạt động phạm tội. Cần phải nghiên cứu những đặc điểm đặc trưng của tội phạm cướp giật tài sản để thấy được những nguyên nhân trực tiếp làm nảy sinh, phát triển loại tội phạm này, từ đó khắc phục nhằm ngăn chặn không để cho chúng có thể xảy ra. Trong phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản thì vai trò nòng cốt, xung kích thuộc về lực lượng Công an nhân dân mà trực tiếp là lực lượng Cảnh sát nhân dân.

Lực lượng Cảnh sát nhân dân là lực lượng nòng cốt của Nhà nước trong sự nghiệp bảo vệ trật tự, an toàn xã hội. Trong phạm vi chức năng của mình, lực lượng Cảnh sát nhân dân có nhiệm vụ phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm và các vi phạm pháp luật về trật tự, an toàn xã hội nhằm bảo vệ cuộc sống tự do, hạnh phúc, lao động hoà bình của Nhân dân, tính mạng, tài sản, các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, bảo đảm hoạt động bình thường của các cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội; bảo vệ chế độ kinh tế, sở hữu xã hội chủ nghĩa, góp phần xây dựng ý thức tôn trọng pháp các lực lượng vũ trang khác và với các cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội và dựa vào sức mạnh của toàn dân để thực hiện nhiệm vụ. Đồng thời, các lực lượng vũ trang, cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội và mỗi công dân có trách nhiệm cộng tác, giúp đỡ lực lượng Cảnh sát nhân dân làm tròn nhiệm vụ được giao.

Như vậy, vai trò của của lực lượng Cảnh sát nhân dân trong phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản là chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể được pháp luật quy định cho lực lượng Cảnh sát nhân dân và được triển khai tổ chức thực hiện trên thực tế với một hệ thống tổ chức, bộ máy, trang bị phương tiện, kỹ thuật về chuyên môn – nghiệp vụ và các phương tiện hoạt động khác nhằm loại trừ, triệt tiêu những nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội cướp giật tài sản từ đó ngăn chặn, hạn chế làm giảm và từng bước loại trừ tội cướp giật tài sản ra khỏi đời sống xã hội.

E:\DỮ LIỆU COP CỦA CHỊ YẾN\LUAN VAN VIEN HAN LAM\VIEN HAN LAM DOT 12\SAU BAO VE/ NGUYEN THIEN HOANG

LIỆN HỆ:

SĐT+ZALO: 0935568275

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *