Phòng ngừa tình hình tái phạm tội về ma túy trên địa bàn thành phố Đà Nẵng

Phòng ngừa tình hình tái phạm tội về ma túy trên địa bàn thành phố Đà Nẵng

Phòng ngừa tình hình tái phạm tội về ma túy trên địa bàn thành phố Đà Nẵng

1. Tính cấp thiết của đề tài

Thành phố Đà Nẵng là đô thị trung tâm của miền Trung, có vị trí chiến lược về kinh tế, chính trị và an ninh quốc phòng. Trong những năm qua, cùng với sự phát triển vượt bậc về kinh tế so với các đô thị khác trong khu vực, thành phố Đà Nẵng cũng được đánh giá là điểm đến an toàn, “thành phố đáng sống” cho du lịch, học tập, làm việc. Bên cạnh sự phát triển về kinh tế – xã hội, tình hình tội phạm và tệ nạn ma túy ở thành phố Đà Nẵng cũng diễn biến phức tạp.

Theo thống kê của Ban chỉ đạo thực hiện Chỉ thị số 37-CT/TU của Thành ủy Đà Nẵng [50], trong 5 năm từ 2016 đến 2020, các lực lượng chuyên trách phòng chống ma túy đã phát hiện, bắt giữ 1.119 vụ/1.586 đối tượng phạm tội về ma túy; thu giữ 79,5kg ma túy, 3 súng, 3 lựu đạn, 18 ô tô, 388 xe máy, 884 điện thoại, 3 tỷ đồng cùng nhiều tang vật khác. Trong đó, đã triệt phá nhiều đường dây vận chuyển, mua bán ma túy với số lượng lớn vào thành phố, đã khởi tố xét xử 1.119 vụ/1.586 bị can, nhiều hơn 476 vụ/671 đối tượng (tăng 117%), 65,1kg ma túy (tăng 452%) so với giai đoạn 2010 – 2015. Qua các đợt ra quân kiểm tra, Công an thành phố Đà Nẵng đã phát hiện 14.904 trường hợp sử dụng trái phép chất ma túy, nhiều hơn 9.970 trường hợp (tăng 202%) so với giai đoạn 2010 – 2015. Trong đó, số tái nghiện chiếm 20,7%; số nghiện mới chiếm 11,2%; số mới phát hiện chiếm 54% và số ngoại tỉnh chiếm 14,1%. Thành phố Đà Nẵng đã tổ chức cai nghiện bắt buộc cho 3.791 lượt người, có 884 lượt người đi cai nghiện tự nguyện; có 56/56 xã, phường thành lập Tổ cai nghiện ma túy.

Tuy nhiên theo Thành ủy Đà Nẵng đánh giá, công tác phòng chống ma túy trên thực tế vẫn còn nhiều tồn tại, hạn chế. Cụ thể: Việc phòng, chống ma túy chủ yếu giao cho lực lượng Công an nên kết quả chưa cao; công tác cai nghiện tại gia đình, cộng đồng chưa được quan tâm đúng mức nên số người cai nghiện còn hạn chế, chưa hiệu quả; công tác quản lý sau cai nghiện còn nhiều khó khăn. Đặc biệt, tỷ lệ tái phạm tội và tái nghiện ma túy còn khá cao.

Tái phạm tội và tái nghiện ma túy là chỉ số quan trọng đánh giá hiệu quả công tác phòng ngừa tình hình tội phạm về ma túy trên địa bàn thành phố Đà Nẵng. Để nâng cao hiệu quả phòng ngừa tình hình tội phạm về ma túy nói chung, cần nghiên cứu, đánh giá về tình hình tái phạm tội, tái nghiện ma túy trên cơ sở khoa học chuyên ngành. Muốn phòng ngừa tình hình tái phạm tội về ma túy có hiệu quả thì cần nhận thức đúng đắn, sâu sắc về khái niệm, mục đích, ý nghĩa, cơ sở, chủ thể, nội dung, biện pháp của phòng ngừa tái phạm tội để xác định thực trạng tình hình tái phạm tội về ma túy tại địa phương. Từ đó, xây dựng các giải pháp phòng ngừa một cách hiệu quả. Đây là cơ sở quan trọng để xét xử các vụ án một cách chính xác; đồng thời, cũng là cơ sở đề ra các biện pháp giáo dục, cải tạo hiệu quả đối với người phạm tội về ma túy cũng như phòng ngừa tình hình tái phạm tội về ma túy.

Việc nghiên cứu về phòng ngừa tình hình tái phạm tội về ma túy trên địa bàn thành phố Đà Nẵng một cách toàn diện, sâu sắc cần xuất phát từ các vấn đề lý luận về phòng ngừa tái phạm tội nói chung để đánh giá thực trạng phòng ngừa tình hình tái phạm tội về ma túy gắn với các yếu tố tự nhiên – kinh tế – xã hội cụ thể, đánh giá đúng các kết quả và xác định rõ các hạn chế, yếu kém trong hoạt động này. Từ đó, tìm ra nguyên nhân của hạn chế, yếu kém để xây dựng các giải pháp tăng cường hiệu quả phòng ngừa tình hình tái phạm tội về ma túy trên địa bàn thành phố Đà Nẵng. Việc này là cần thiết, vừa có ý nghĩa lý luận vừa có tính thực tiễn.

Vì vậy, đề tài “Phòng ngừa tình hình tái phạm tội về ma túy trên địa bàn thành phố Đà Nẵng” đã được tác giả chọn làm Luận văn Thạc sĩ luật học của mình.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

Luận văn nghiên cứu về thực trạng hoạt động phòng ngừa tình hình tái phạm tội về ma túy trên địa bàn thành phố Đà Nẵng. Từ đó, đề xuất các giải pháp cụ thể, thiết thực góp phần nâng cao hiệu quả phòng ngừa tình hình tái phạm tội về ma túy trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Để đạt được những mục tiêu trên, luận văn tập trung thực hiện những nhiệm vụ sau:

Thứ nhất, làm sáng tỏ các vấn đề lý luận về phòng ngừa tình hình tái phạm tội về ma túy: Khái niệm tái phạm tội; khái niệm tình hình tái phạm tội; đặc trưng của phòng ngừa tình hình tái phạm tội; các cơ sở, nội dung, chủ thể, biện pháp phòng ngừa tình hình tái phạm tội.

Thứ hai, đánh giá tình hình tái phạm tội, thực trạng phòng ngừa tình hình tái phạm tội về ma túy trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.

Thứ ba, dự báo tình hình tái phạm tội về ma túy, hoạt động phòng ngừa tình hình tái phạm tội về ma túy trên địa bàn thành phố Đà Nẵng thời gian tới. Từ đó, đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả phòng ngừa.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các vấn đề lý luận về phòng ngừa tình hình tái phạm tội nói chung và lý luận về phòng ngừa tình hình tái phạm tội về ma túy nói riêng; thực tiễn phòng ngừa tình hình tái phạm tội về ma túy trên địa bàn thành phố Đà Nẵng giai đoạn 2016 – 2020.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

– Về nội dung: Luận văn nghiên cứu dưới góc độ Tội phạm học trong phạm vi chuyên ngành “Tội phạm học và Phòng ngừa tội phạm”.

– Về thời gian: Luận văn sử dụng số liệu nghiên cứu trong phạm vi 5 năm từ năm 2016 đến năm 2020.

– Về địa bàn: Luận văn nghiên cứu hoạt động phòng ngừa tình hình tái phạm tội về ma túy trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.

– Về tội danh: Luận văn nghiên cứu tình hình tái phạm tội về ma túy quy định tại Chương XVII (từ Điều 192 đến Điều 201) BLHS 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009 và Chương XX (từ Điều 247 đến Điều 259) BLHS 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

5.1. Cơ sở lý luận

Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các nguyên lý của Chủ nghĩa Duy vật biện chứng; quan điểm của Đảng và Nhà nước về vấn đề tội phạm và tái phạm tội trong xã hội, vấn đề đấu tranh phòng, chống tái phạm tội; các tri thức khoa học của Tội phạm học, Pháp luật hình sự, khoa học Điều tra hình sự (trong đó, tri thức của Tội phạm học là chủ yếu).

5.2. Phương pháp nghiên cứu

Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu đặc thù của Tội phạm học, cụ thể như sau: Phương pháp thống kê; phương pháp mô tả bằng bảng, biểu; phương pháp so sánh, quy nạp, diễn dịch; phương pháp phân tích tổng hợp; phương pháp nghiên cứu bản án; phương pháp nghiên cứu điển hình; phương pháp phỏng vấn chuyên gia.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

6.1. Ý nghĩa lý luận

Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần làm rõ hơn lý luận Tội phạm học về phòng ngừa tình hình tội phạm nói chung và phòng ngừa tình hình tái phạm tội về ma túy trên địa bàn thành phố Đà Nẵng nói riêng.

6.2. Ý nghĩa thực tiễn

Dựa trên kết quả nghiên cứu của luận văn, những người làm công tác pháp luật có thể tham khảo, vận dụng vào việc tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức cho nhân dân, góp phần đẩy mạnh phong trào “Toàn dân bảo vệ ANTQ” trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.

Luận văn có thể sử dụng trong đấu tranh phòng, chống tội phạm về ma túy; nâng cao hiệu quả hoạt động phòng ngừa tình hình tái phạm tội về ma túy trên địa bàn thành phố Đà Nẵng. Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể sử dụng tham khảo cho hoạt động phòng ngừa tình hình tái phạm các tội phạm khác và phòng ngừa tình hình tái phạm tội nói chung trên địa bàn thành phố Đà Nẵng. Từ đó, góp phần thực hiện có hiệu quả “Chiến lược phòng, chống tội phạm giai đoạn 2016 – 2025 và định hướng đến năm 2030 trên địa bàn thành phố Đà Nẵng” theo Quyết định số 5393/QĐ-UBND ngày 10/8/2016 của UBND thành phố Đà Nẵng [57].

Ngoài ra, luận văn còn có thể được sử dụng như một nguồn tài liệu tham khảo cho hoạt động nghiên cứu, giảng dạy và học tập.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận chương, kết luận, bảng chữ viết tắt, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, phần nội dung của luận văn được cấu trúc thành 3 chương, cụ thể như sau:

Chương 1: Những vấn đề lý luận về phòng ngừa tình hình tái phạm tội.

Chương 2: Thực trạng phòng ngừa tình hình tái phạm tội về ma túy trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.

Chương 3: Giải pháp tăng cường phòng ngừa tình hình tái phạm tội về ma túy trên địa bàn thành phố Đà Nẵng trong thời gian tới.

CHƯƠNG 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÒNG NGỪA

TÌNH HÌNH TÁI PHẠM TỘI VỀ MA TÚY

1.1. Khái niệm tái phạm tội về ma túy

1.1.1. Khái niệm tái phạm tội

1.1.1.1. Khái niệm tái phạm tội

Trong khoa học pháp lý và hệ thống văn bản pháp luật ở Việt Nam, thuật ngữ “tái phạm tội” xuất hiện khá ít. Một khái niệm khác gần gũi với nó là “tái phạm” được sử dụng phổ biến hơn. Vì vậy, trước khi xem xét thuật ngữ “tái phạm tội”, chúng ta cần hiểu rõ về “tái phạm”.

Trong các nghiên cứu quốc tế, từ “tái phạm” xuất hiện tương đối nhiều, cụ thể: Trong tiếng Nga, “повторять ошибку” nghĩa là “tái phạm sai lầm”; trong tiếng Pháp “récidive” và tiếng Anh “recidivism” có nguồn gốc từ cùng một từ trong tiếng Latin là “recidivus” nghĩa là “xâm phạm lại”; trong tiếng Trung Quốc “累犯” (lěifàn) nghĩa là “nhiều lần phạm tội” hàm chứa từ “lũy” (, lěi) nghĩa là “liên tục, nhiều lần” và từ “phạm” (, fàn) nghĩa là “xâm phạm” [63, tr.338, 733]. Như vậy trong nhiều trường hợp, thuật ngữ “tái phạm” bao hàm nghĩa “tái phạm tội” chứ không phân biệt cụ thể. Điển hình cho sự không phân biệt cụ thể này là: Trong khi TS. G.V. Đa-Scốp nhận định “Tái phạm là một khái niệm pháp lý và rất có ý nghĩa trong tội phạm học… Tái phạm là phạm tội từ hai lần trở lên – kẻ tái phạm là kẻ phạm tội mới trong khi án tích về tội cũ chưa được xóa bỏ” [48, tr.77] thì nhà Tội phạm học người Mỹ Michael D. Maltz lại cho rằng “Người tái phạm là người sau khi mãn hạn tù (vì đã thực hiện một tội phạm) không hoàn lương mà thay vào đó họ lặp lại lối ứng xử cũ và tiếp tục phạm tội” [38, tr.54].

Trong những nghiên cứu ở Việt Nam, thuật ngữ “tái phạm” cũng xuất hiện thường xuyên, chẳng hạn như: Theo từ điển tiếng Việt của Viện ngôn ngữ học “tái phạm” nghĩa là “phạm lại tội cũ, sai lầm cũ” [64, tr.885]; theo từ điển Việt Nam của tác giả Thanh Nghị thì “tái phạm” nghĩa là “phạm tội lần nữa” [29, tr.1165]; còn theo từ điển Hán Việt của tác giả Đào Duy Anh thì “tái phạm” nghĩa là “phạm tội lần thứ hai” [1, tr.225].

Ngoài ra, “tái phạm” còn được nhiều ngành luật trong hệ thống pháp luật Việt Nam điều chỉnh. Với mỗi ngành luật, quy định về “tái phạm” cũng có điểm khác nhau, cụ thể: Khoản 3 Điều 125 Bộ luật Lao động năm 2019 quy định: “Tái phạm là trường hợp người lao động lặp lại hành vi vi phạm đã bị xử lý kỷ luật mà chưa được xóa kỷ luật…”. Khoản 5 Điều 2 Luật Xử lý VPHC năm 2012 quy định: “Tái phạm là việc cá nhân, tổ chức đã bị xử lý VPHC nhưng chưa hết thời hạn được coi là chưa bị xử lý VPHC… mà lại thực hiện hành vi VPHC đã bị xử lý”. Khoản 1 Điều 49 BLHS 1999 quy định: “Tái phạm là trường hợp đã bị kết án, chưa được xoá án tích mà lại phạm tội do cố ý hoặc phạm tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng do vô ý”. Khoản 1 Điều 53 BLHS 2015 quy định: “Tái phạm là trường hợp đã bị kết án, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý hoặc thực hiện hành vi phạm tội về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do vô ý”.

Mặc dù thuật ngữ “tái phạm” theo quy định của các ngành luật nêu trên đã thể hiện “sự lặp lại của hành vi” với những dấu hiệu khác nhau nhưng việc định nghĩa “tái phạm vi phạm” dưới góc độ pháp luật lao động, hành chính, hình sự là không đồng nhất với khái niệm “tái phạm tội” trong Tội phạm học. TS. Vũ Đức Trung có quan điểm: “Hoàn toàn có nội dung của tái phạm được quy định tại Điều 49 BLHS năm 1999 sửa đổi bổ sung năm 2009. Việc sử dụng cụm từ tái phạm tội nhằm phân biệt với tái phạm vi phạm pháp luật khác” [51, tr.18]. Theo tác giả, quan điểm này chưa nêu đúng bản chất của “tái phạm tội” mà chỉ đề cập đến một khía cạnh nhỏ nhất của nó là phân biệt tái phạm tội với tái phạm vi phạm pháp luật. Điều này khiến người đọc nhầm lẫn khái niệm “tái phạm tội” trong Tội phạm học với khái niệm “tái phạm” trong Luật hình sự. TS. Lê Tuấn Anh cho rằng: “Tái phạm tội là trường hợp đã bị kết án về một tội mà lại phạm tội mới” [2, tr.36]. Tác giả thống nhất với khái niệm này vì mặc dù ngắn gọn nhưng lại khá chính xác khi nêu được bản chất của “tái phạm tội” chính là trường hợp một chủ thể đã bị kết án bằng một bản án có hiệu lực pháp luật, lại tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội mới, không kể đó là tội gì cũng như không kể chủ thể đã được xóa án tích hay chưa.

1.1.1.2. Bản chất của tái phạm tội

Tái phạm tội về bản chất là tiếp tục phạm tội, sau khi đã có bản án có hiệu lực pháp luật. Tái phạm tội thể hiện tính xu hướng coi thường pháp luật, coi thường các giá trị đạo đức, thể hiện bản chất khó có thể giáo dục, cải tạo để trở thành người có ích cho xã hội. Thời điểm người phạm tội tiếp tục phạm tội có thể ngay sau khi có bản án có hiệu lực pháp luật, cũng có thể rất lâu sau khi thi hành xong bản án (thậm chí đã xóa án tích) tùy thuộc vào từng nguyên nhân, điều kiện cụ thể. Mặc dù xóa án tích là quy định thể hiện tính nhân văn của Nhà nước đối với những người đã bị kết án hình sự, giúp họ làm lại cuộc đời và hòa nhập với cộng đồng. Tuy nhiên, việc xóa án tích chỉ làm “trong sạch” về lý lịch tư pháp của người phạm tội chứ không làm triệt tiêu những nguyên nhân, điều kiện cụ thể dẫn đến việc tái phạm tội. Việc người phạm tội được xóa án tích không loại trừ khả năng người đó sẽ không tiếp tục phạm tội trong tương lai. Nghiên cứu những trường hợp tái phạm tội vì vậy sẽ giúp cho việc làm rõ nguyên nhân dẫn đến tình trạng này để có thể đề ra những biện pháp hữu hiệu nhất nhằm phòng ngừa khả năng tái phạm tội.

Không thể coi một người là tái phạm tội nếu trước đó, người này chưa từng phạm tội. Khoản 1 Điều 31 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự luật định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật”. Điều 13 BLTTHS 2015 quy định: “Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật”. Theo đó, một người chỉ bị coi là phạm tội khi đã có bản án có hiệu lực pháp luật. Như vậy, “tái phạm tội” chỉ xảy ra khi một người đã từng thực hiện một hành vi phạm tội, đã bị kết án bằng bản án có hiệu lực pháp luật mà lại tiếp tục thực hiện một hành vi phạm tội khác. Để làm rõ hơn khái niệm tái phạm tội, cần xem xét một số trường hợp sau:

– Trường hợp người được miễn trách nhiệm hình sự sau đó lại phạm tội

Miễn TNHS là trường hợp người đã thực hiện tội phạm nhưng do đáp ứng các điều kiện nhất định mà không phải chịu hậu quả của việc thực hiện tội phạm đó. BLHS 2015 quy định các trường hợp miễn TNHS tại Điều 16, Điều 29, khoản 2 Điều 91, khoản 4 Điều 110, khoản 4 Điều 247, đoạn 2 khoản 7 Điều 364, khoản 6 Điều 365 và khoản 2 Điều 390. Bản chất pháp lý của miễn TNHS là chế định nhân đạo được áp dụng đối với người mà hành vi của người đó đã thỏa mãn các dấu hiệu của một cấu thành tội phạm cụ thể trong BLHS nhưng do người này có các điều kiện nhất định nên được miễn TNHS. Ví dụ: Khi tiến hành điều tra, truy tố hoặc xét xử, do có sự thay đổi chính sách, pháp luật làm cho hành vi phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa hoặc khi có quyết định đại xá thì người đã thực hiện hành vi phạm tội được miễn TNHS (quy định tại khoản 1 Điều 29 BLHS 2015).

Miễn TNHS chỉ áp dụng cho người mà hành vi của họ đã có đủ yếu tố cấu thành tội phạm. Bản chất của miễn TNHS là miễn các hậu quả pháp lý bất lợi cho một người đã thực hiện hành vi phạm tội khi có đầy đủ các điều kiện theo quy định. Như vậy, về nguyên tắc, người được miễn TNHS là người đã 1 lần thực hiện hành vi phạm tội. Theo quy định hiện hành của BLTTHS 2015 thì thẩm quyền áp dụng miễn TNHS do Cơ quan điều tra (với sự phê chuẩn của Viện kiểm sát), Viện kiểm sát và Tòa án quyết định trong giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử. Như vậy, nếu việc miễn TNHS do Cơ quan điều tra hoặc Viện kiểm sát tiến hành (trong giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố), người được miễn TNHS không bị tuyên bằng bản án của Tòa. Trường hợp này, người được miễn TNHS không được coi là tái phạm tội khi thực hiện hành vi phạm tội 1 lần nữa. Nếu việc miễn TNHS do Tòa án thực hiện trong giai đoạn xét xử (bị tuyên án nhưng miễn TNHS) thì người được miễn TNHS được coi là tái phạm tội khi thực hiện hành vi phạm tội 1 lần nữa. Nhận thức như vậy vẫn chưa thật hợp lý, vì như trên đã nói, miễn TNHS chỉ áp dụng cho người đã thực hiện hành vi có đủ yếu tố cấu thành tội phạm. Tuy nhiên, căn cứ vào Hiến pháp và BLTTHS thì một người chỉ bị coi là có tội khi có bản án có hiệu lực pháp luật.

– Trường hợp người được miễn hình phạt sau đó lại phạm tội

Điều 59 BLHS 2015 quy định: “Người phạm tội có thể được miễn hình phạt nếu thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 54 của Bộ luật này mà đáng được khoan hồng đặc biệt nhưng chưa đến mức được miễn TNHS”. Bản chất pháp lý của miễn hình phạt là chế định nhân đạo được áp dụng đối với người mà hành vi của người đó đã thỏa mãn các yếu tố cấu thành tội phạm cụ thể trong BLHS và bị xử phạt bằng bản án của Tòa án nhưng do người này có các điều kiện nhất định nên được miễn hình phạt (quy định tại Điều 59 BLHS). Người được miễn hình phạt vì vậy là người đã từng một lần thực hiện hành vi phạm tội và khi họ lại thực hiện hành vi phạm tội thì được coi là tái phạm tội.

1.1.1.3. Phân biệt tái phạm tội với tái phạm, tái phạm nguy hiểm, phạm tội nhiều lần, phạm nhiều tội

– Phân biệt tái phạm tội với tái phạm, tái phạm nguy hiểm

Điều 53 BLHS 2015 quy định: “1) Tái phạm là trường hợp đã bị kết án, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý hoặc thực hiện hành vi phạm tội về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do vô ý. 2) Những trường hợp sau đây được coi là tái phạm nguy hiểm: a) Đã bị kết án về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do cố ý, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do cố ý; b) Đã tái phạm, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý.”

“Tái phạm tội” giống “tái phạm”“tái phạm nguy hiểm” ở chỗ: Đều là người đã bị kết án mà lại thực hiện hành vi phạm tội đủ yếu tố cấu thành tội phạm. Tuy nhiên, “tái phạm tội” khác “tái phạm”, “tái phạm nguy hiểm” ở 2 điểm sau: Thứ nhất, trường hợp được coi là “tái phạm tội” là trường hợp đã bị kết án lại tiếp tục phạm tội không phân biệt đã được xóa án tích hay chưa được xóa án tích; còn trường hợp “tái phạm”, “tái phạm nguy hiểm” là trường hợp đã bị kết án, chưa được xóa án tích mà lại phạm tội mới. Thứ hai, về hành vi phạm tội mới: Trường hợp “tái phạm tội” không phân biệt hành vi phạm tội mới với lỗi cố ý hay vô ý, thuộc loại tội phạm ít nghiêm trọng hay tội phạm nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng; còn trường hợp “tái phạm” đòi hỏi hành vi phạm tội mới phải là tội phạm được thực hiện với lỗi cố ý hoặc tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng với lỗi vô ý; “tái phạm nguy hiểm” đòi hỏi đã bị kết án về tội rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do cố ý, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do cố ý; đã tái phạm, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý. Điều này cho thấy sự khác biệt giữa khái niệm “tái phạm tội” với khái niệm “tái phạm”, “tái phạm nguy hiểm” trong BLHS chính là: “Tái phạm tội” chỉ quan tâm tới số lần phạm tội mà không cần quan tâm đến yếu tố án tích, lỗi và loại tội phạm mà chủ thể đã thực hiện sau khi đã có bản án có hiệu lực pháp luật về một tội phạm đã thực hiện.

Khái niệm “tái phạm tội” trong Tội phạm học rộng hơn và bao hàm các trường hợp của “tái phạm”, “tái phạm nguy hiểm”.

– Phân biệt tái phạm tội với phạm tội nhiều lần

Theo BLHS 1999, “phạm tội nhiều lần” được xác định là một trong những tình tiết tăng nặng TNHS quy định tại điểm g khoản 1 Điều 48 BLHS (phần chung) và là tình tiết định khung tăng nặng của 48 điều luật ở phần các tội phạm cụ thể (khi không là tình tiết tăng nặng TNHS – khoản 2 Điều 48). Tuy nhiên, BLHS 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) không còn quy định tình tiết “phạm tội nhiều lần” mà sửa thành “phạm tội 2 lần trở lên” và được xác định là một trong những tình tiết tăng nặng TNHS quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 BLHS (khi không là dấu hiệu định tội hoặc định khung hình phạt – khoản 2 Điều 52), tình tiết định khung tăng nặng tại 80 điều luật cụ thể ở phần các tội phạm (trong đó có 2 điều luật quy định “phạm tội 2 lần trở lên” là tình tiết định khung tăng nặng tại khoản 3 Điều 337, Điều 382).

Qua so sánh, tác giả nhận thấy phần lớn các điều luật của BLHS 1999 có quy định “phạm tội nhiều lần” là tình tiết định khung tăng nặng vẫn được giữ nguyên trong BLHS 2015, tuy nhiên có sự thay đổi thuật ngữ “phạm tội nhiều lần” bằng thuật ngữ “phạm tội 2 lần trở lên” và ghi rõ trong điều luật. Tóm lại, “phạm tội 2 lần trở lên” được xác định: 1) Là tình tiết tăng nặng TNHS được quy định tại phần chung của BLHS. 2) Là tình tiết định khung tăng nặng được quy định tại một số điều luật cụ thể trong phần các tội phạm của BLHS. 3) Chỉ khi phạm tội nhiều lần hoặc phạm tội 2 lần trở lên không được quy định là tình tiết định khung tăng nặng trong điều luật cụ thể thì mới được xác định là tình tiết tăng nặng TNHS.

Với đặc trưng trên, có thể thấy giữa “phạm tội nhiều lần” (BLHS 1999), “phạm tội 2 lần trở lên” (BLHS 2015) với “tái phạm tội” giống ở chỗ chủ thể đã nhiều lần thực hiện hành vi phạm tội, có nghĩa là chủ thể đó đã phạm tội từ 2 lần trở lên mà mỗi lần hành vi đều thỏa mãn đầy đủ các dấu hiệu của cấu thành tội phạm. Tuy nhiên, “phạm tội nhiều lần” khác “tái phạm tội” ở 2 điểm: Thứ nhất, hành vi của chủ thể có đầy đủ các dấu hiệu của 2 tội phạm trở lên mà những tội ấy quy định tại cùng 1 điều hoặc 1 khoản của điều luật. Còn tái phạm tội thì hành vi phạm tội sau này có thể là hành vi phạm vào 1 tội quy định tại cùng 1 điều luật hoặc phạm 1 tội mới khác với tội đã phạm trước đó; Thứ hai, “phạm tội nhiều lần” khác tái phạm tội là người thực hiện hành vi phạm tội ở lần thứ nhất chưa bị xử lý bằng 1 bản án đã có hiệu lực pháp luật. Còn “tái phạm tội” tuy cũng nhiều lần phạm tội, nhưng lần phạm tội đầu tiên đã bị kết án bằng 1 bản án có hiệu lực pháp luật.

– Phân biệt tái phạm tội với phạm nhiều tội

“Phạm nhiều tội” là khái niệm của Pháp luật hình sự có liên quan trực tiếp đến vấn đề quyết định hình phạt. Phạm nhiều tội là trường hợp (chủ thể) có nhiều hành vi phạm tội độc lập hoặc chỉ thực hiện một hành vi phạm tội nhưng hành vi đó thỏa mãn nhiều cấu thành tội phạm khác nhau (phạm nhiều tội khác nhau). BLHS 1985 đã quy định rõ cách quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội nhưng lại không có quy định cụ thể về trường hợp phạm nhiều tội. BLHS 1999, BLHS 2015 cũng không có quy định này. Từ thực tế xét xử, phạm nhiều tội có 2 trường hợp: 1) Người phạm tội có nhiều hành vi phạm tội khác nhau và mỗi hành vi này cấu thành một tội riêng. Những hành vi phạm tội này có thể có mối liên quan với nhau hoặc không. Ví dụ: Thủ kho có hành vi tham ô tài sản, sau đó lại đốt kho để che giấu hành vi tham ô của mình (phạm tội huỷ hoại tài sản). 2) Người phạm tội có một hành vi phạm tội nhưng hành vi này lại cấu thành nhiều tội khác nhau. Ví dụ: Hành vi dùng vũ lực cố ý tước đoạt tính mạng của chủ tài sản để chiếm đoạt tài sản sẽ cấu thành 2 tội khác nhau: Tội giết người và Tội cướp tài sản.

Cũng có trường hợp người phạm tội thực hiện nhiều hành vi phạm tội quy định tại các điều luật khác nhau nhưng bị xử lý theo tội danh của một điều luật, gồm: 1) Một người thực hiện nhiều hành vi phạm tội quy định tại các điều luật khác nhau mà các hành vi đó có liên quan chặt chẽ với nhau (hành vi phạm tội này là điều kiện để thực hiện hoặc là hệ quả tất yếu của hành vi phạm tội kia) nếu các tội phạm đó không bằng nhau thì người phạm tội bị truy cứu TNHS về hành vi phạm tội theo điều luật có quy định tội nặng hơn. 2) Một người thực hiện nhiều hành vi phạm tội quy định tại các điều luật khác nhau mà các hành vi đó có liên quan chặt chẽ với nhau (hành vi phạm tội này là điều kiện để thực hiện hoặc là hệ quả tất yếu của hành vi phạm tội kia) nếu các tội phạm đó bằng nhau thì người phạm tội bị truy cứu TNHS về hành vi phạm tội được thực hiện đầu tiên theo tội danh tương ứng (quy định tại Thông tư liên tịch số 08-2015/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC-BTP). Những trường hợp này không được coi là “phạm nhiều tội”.

Như vậy so với “tái phạm tội”, “phạm nhiều tội” khác ở chỗ trường hợp phạm nhiều tội, chủ thể tội phạm chỉ thực hiện “1 lần” đã cấu thành nhiều tội và người phạm tội chưa bị xét xử, chưa bị kết án về tội nào trong số các tội trên, còn “tái phạm tội” là trường hợp người phạm tội đã bị xét xử về 1 tội phạm bằng 1 bản án đã có hiệu lực pháp luật mà còn tiếp tục phạm tội “lần thứ 2”.

1.1.2. Tái phạm tội về ma túy

– Khái niệm tội phạm về ma túy

Tội phạm về ma túy các hành vi nguy hiểm cho xã hội, do người có năng lực TNHS thực hiện với lỗi cố ý, xâm phạm chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy được quy định trong BLHS tại Chương XX, từ Điều 247 đến Điều 259. Tội phạm về ma tuý bao gồm nhiều loại hành vi phạm tội khác nhau nhưng đều có chung 2 đặc điểm cơ bản: 1) Tính nguy hiểm cho xã hội của các tội phạm về ma tuý thể hiện ở sự đe dọa nghiêm trọng đến sức khoẻ và sự phát triển bình thường của con người cũng như đến hạnh phúc gia đình và trật tự công cộng nói chung; 2) Các tội phạm về ma tuý đều có chung đối tượng là các chất ma tuý (hoặc liên quan đến các chất ma tuý). Đó là các chất có khả năng gây nghiện cao cho người sử dụng làm cho người nghiện không chỉ bị lệ thuộc vào chất đó mà còn làm cho họ bị tổn hại về nhiều mặt và thậm chí còn có thể đẩy họ vào con đường phạm tội để có tiền thoả mãn cơn nghiện.

– Khái niệm tái phạm tội về ma túy

Tái phạm tội về ma túy là một hiện tượng xã hội tiêu cực thể hiện sự thất bại trong giáo dục, cải tạo người đã từng phạm tội về ma túy trở thành người có ích cho xã hội. Hiện tượng này đi ngược lại lợi ích xã hội, gây ra thiệt hại về nhiều mặt cho xã hội, ảnh hưởng xấu đến tình hình ANCT và TTATXH. Từ khái niệm về tái phạm tội, có thể định nghĩa tái phạm tội về ma túy như sau: Tái phạm tội về ma túy là trường hợp đã bị kết án về một trong các tội phạm về ma túy quy định trong BLHS, mà lại phạm một tội mới thuộc một trong các tội phạm về ma túy.

– Đặc trưng của tái phạm tội về ma túy

Khác với tái phạm tội nói chung, tái phạm tội về ma túy có điểm đặc thù: Người bị coi là tái phạm tội về ma túy là người mà trước đó đã bị Tòa án kết án về một trong các tội phạm về ma túy quy định tại Chương XX của BLHS, sau đó lại thực hiện hành vi phạm tội mới về một trong các tội phạm về ma túy (thuộc Chương XX BLHS 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017).

1.2. Phòng ngừa tình hình tái phạm tội về ma túy

1.2.1. Khái niệm, mục đích, ý nghĩa của phòng ngừa tình hình tái phạm tội về ma túy

1.2.1.1. Khái niệm phòng ngừa tình hình tái phạm tội về ma túy

Nghiên cứu về phòng ngừa tái phạm tội, GS.TS. Nguyễn Xuân Yêm và đồng nghiệp cho rằng “hoạt động phòng ngừa tái phạm tội đối với người đã chấp hành xong bản án hình sự là hình thức phòng ngừa cá biệt của các biện pháp phòng ngừa tội phạm” [67, tr.1511]. TS. Nguyễn Văn Hoàng cũng cho rằng “phòng ngừa tái phạm tội thực chất là một bộ phận, một nội dung của hoạt động phòng ngừa tội phạm nói chung” [32, tr.32]. TS. Vũ Đức Trung thì khẳng định phòng ngừa tình trạng tái phạm tội là “hướng vào việc thủ tiêu nguyên nhân và điều kiện tình trạng tái phạm tội nhằm từng bước ngăn chặn, hạn chế, đẩy lùi tình trạng tái phạm tội trong xã hội” [51, tr.39]. Tuy có những khác biệt song các nhà nghiên cứu trên đều khẳng định phòng ngừa tái phạm tội là một bộ phận của hoạt động phòng ngừa tội phạm nói chung, được tiến hành bởi các cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội và mỗi công dân nhằm mục đích ngăn chặn tội phạm, hạn chế, loại trừ nguyên nhân, điều kiện làm phát sinh tội phạm.

Theo đó, mục tiêu cơ bản của phòng ngừa tái phạm tội là áp dụng đồng bộ các biện pháp nhắm đến những người đã bị từng một lần thực hiện hành vi phạm tội để họ không phạm tội trở lại, khắc phục và loại trừ nguyên nhân, điều kiện của tái phạm tội. Nếu phòng ngừa tái phạm là áp dụng các biện phạm nhắm đến những người đã bị kết án (quy định tại khoản 1 Điều 53 BLHS 2015) để họ không phạm tội mới thì phòng ngừa tái phạm tội là tác động đến tất cả những người đã từng 1 lần thực hiện hành vi phạm tội, đã bị kết án (kể cả người này đã được xóa án tích) để họ không thực hiện một lần nữa hành vi phạm tội. Vì vậy, biện pháp phòng ngừa tái phạm tội không chỉ hướng đến người có nguy cơ tái phạm (quy định tại khoản 1 Điều 53 BLHS 2015) mà kể cả người đã xóa án tích hoặc người không thuộc trường hợp tái phạm tội (người được miễn TNHS) và người được miễn hình phạt.

Như vậy, có thể định nghĩa: Phòng ngừa tình hình tái phạm tội về ma túy là việc áp dụng tổng hợp nhiều biện pháp khác nhau nhằm hướng tới việc thủ tiêu nguyên nhân và điều kiện tái phạm tội về ma túy, ngăn ngừa người đã bị kết án về ma túy lại tiếp tục phạm một trong các tội phạm về ma túy.

Phòng ngừa tình hình tái phạm tội về ma túy có những đặc điểm sau:

– Về chủ thể phòng ngừa: Chủ thể thực hiện phòng ngừa tình hình tái phạm tội về ma túy tương đồng với chủ thể phòng ngừa tội phạm, đó là các cơ quan Nhà nước, cá nhân có thẩm quyền, các tổ chức xã hội, mỗi người dân và chính bản thân người phạm tội. Trong đó, chủ thể quan trọng và trước tiên là các cơ quan ban hành chính sách, pháp luật; cơ quan chuyên trách phòng, chống tội phạm và tái phạm tội; gia đình và cơ quan, chính quyền địa phương trong việc giáo dục, cải tạo, giám sát, động viên người từng phạm tội và bị kết án về ma túy không tái phạm tội.

– Về đối tượng phòng ngừa: Đối tượng phòng ngừa tình hình tái phạm tội về ma túy là những người đã có hành vi phạm tội về ma túy và đã bị kết án (bao gồm: Người chấp hành xong án phạt tù trở về địa phương; người đang chấp hành các hình phạt khác tại địa phương như: Cải tạo không giam giữ, án treo…; người đang chấp hành án trong trại giam…; kể cả người đã được xóa án tích).

1.2.1.2. Mục đích, ý nghĩa phòng ngừa tình hình tái phạm tội về ma túy

– Về mục đích

Mục đích phòng ngừa tình hình tái phạm tội về ma túy là hướng đến việc hạn chế đến mức thấp nhất tình trạng tái phạm tội về ma túy. Tức là, áp dụng các biện pháp để làm cho một người đã từng thực hiện hành vi phạm tội về ma túy sẽ không tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội về ma túy. Phòng ngừa tình hình tái phạm tội về ma túy cần sử dụng các biện pháp phù hợp để tác động làm thay đổi nhận thức của những người đang hoặc sẽ có ý định tái phạm tội về ma túy, để họ từ bỏ ý định và hành vi phạm tội; sử dụng tổng hợp các biện pháp không để tiếp tục hình thành và tồn tại các nguyên nhân, điều kiện tái phạm tội về ma túy, hạn chế, cô lập, tiến tới triệt tiêu các nguyên nhân, điều kiện dẫn đến tái phạm tội về ma túy.

– Về ý nghĩa

+ Ý nghĩa chính trị: Tái phạm tội về ma túy là một hiện tượng đặc biệt của tội phạm, vừa thể hiện sự kém hiệu quả trong công tác phòng ngừa tội phạm, vừa thể hiện sự không phù hợp của các biện pháp tác động đến người đã từng phạm tội về ma túy. Hiện tượng này đi ngược lợi ích xã hội, gây ra thiệt hại về nhiều mặt cho xã hội, ảnh hưởng xấu đến tình hình ANCT và TTATXH. Tội phạm về ma túy thường liên quan đến nhiều loại tội phạm khác, như: Tội trộm cắp tài sản, tội cướp giật tài sản… và các tệ nạn xã hội, như: Mại dâm, sử dụng trái phép chất ma túy… Phòng ngừa nhằm giảm thiểu tình hình tái phạm tội về ma túy nói riêng và tái phạm tội nói chung sẽ góp phần đảm bảo ANCT, TTATXH, tạo niềm tin của nhân dân vào chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước.

+ Ý nghĩa kinh tế: Công tác phòng, chống tái phạm tội về ma túy có liên hệ mật thiết với công tác cai nghiện, chữa bệnh cho người sử dụng ma túy; giáo dục, dạy nghề cho người từng phạm tội về ma túy; tuyên truyền phòng, chống ma túy… đòi hỏi huy động nguồn lực con người, tài chính to lớn, lâu dài. Làm tốt công tác phòng ngừa tình hình tái phạm tội về ma túy, sẽ giảm áp lực cho các công tác nói trên, Nhà nước sẽ tập trung được nguồn lực đầu tư cho những lĩnh vực khác và tận dụng được nguồn nhân lực từ chính những người từng phạm tội về ma túy. Bên cạnh đó, số tiền hàng năm được người nghiện trên khắp cả nước chi tiêu cho ma túy rất lớn. Làm tốt công tác phòng ngừa tình hình tái phạm tội về ma túy, số tiền trên có thể được sử dụng vào mục đích khác tích cực hơn, góp phần cải thiện cuộc sống của bản thân, gia đình họ. Ngoài ra, để một người tái phạm tội về ma túy, Nhà nước sẽ phải chi một khoản kinh phí không nhỏ cho việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án đối với những người này. Khi người này phải chấp hành hình phạt, nhất là hình phạt tù thì gia đình và xã hội lại mất đi một nguồn lao động có thể làm ra kinh tế giúp cho đời sống của chính gia đình họ và đỡ gánh nặng cho xã hội.

+ Ý nghĩa xã hội: Ma túy và tệ nạn ma túy có tác hại to lớn, lâu dài không chỉ đối với bản thân người nghiện mà còn đối với xã hội. Người nghiện ma tuý bị suy giảm sức lao động, giảm hoặc mất khả năng lao động và khả năng tập trung trí óc, dễ mắc các bệnh truyền nhiễm (HIV/AIDS, HPV…) do dùng chung dụng cụ tiêm chích ma túy. Người tái phạm tội về ma túy, người nghiện ma túy có độ tuổi từ 18 đến 30, đây là nguồn lực chính đóng góp vào phát triển kinh tế – xã hội đất nước và đảm bảo giống nòi. Làm tốt công tác này góp phần bảo đảm nguồn lực xã hội, bảo đảm sức khỏe con người khỏi hủy hoại của ma túy. Mặt khác, để phòng ngừa tái phạm tội về ma túy đòi hỏi người đã từng phạm tội về ma túy, sau khi chấp hành xong hình phạt, trở về học tập, sinh sống và làm ăn cần tích cực sửa chữa lỗi lầm ngay trong môi trường sống hàng ngày dưới sự giám sát, giáo dục, động viên, tạo điều kiện của cơ quan, tổ chức, đoàn thể, xã hội, gia đình nơi người đó làm việc, công tác, học tập hoặc cư trú. Vai trò của các cơ quan có thẩm quyền, gia đình và nhân dân tham gia trong việc giúp đỡ, giám sát, giáo dục những người này là rất quan trọng, góp phần họ có điều kiện lao động, tu dưỡng, rèn luyện tại địa phương để hoàn lương và sớm hoà nhập với cộng đồng.

1.2.2. Cơ sở phòng ngừa tình hình tái phạm tội về ma túy

1.2.2.1. Cơ sở chính trị

Cơ sở chính trị trong phòng ngừa tình hình tái phạm chính là những chủ trương, đường lối của Đảng về phòng ngừa tình hình tội phạm nói chung, phòng ngừa tái phạm tội về ma túy nói riêng được thể hiện tại các văn kiện Đại hội Đảng, các Nghị quyết của Bộ Chính trị và các văn bản triển khai của cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương. Nội dung của các văn kiện này chính là kim chỉ nam để Đảng ủy các cấp triển khai chỉ đạo, lãnh đạo các hoạt động phòng, chống tội phạm tại từng địa phương. Trên cơ sở các đường lối chủ trương của Đảng, chính quyền các cấp sẽ hiện thực hóa bằng các chiến lược, kế hoạch, chương trình hành động cụ thể nhằm đấu tranh phòng, chống có hiệu quả đối với tình hình tội phạm nói chung và tình hình tái phạm tội về ma túy nói riêng.

1.2.2.2. Cơ sở lý luận

Cơ sở lý luận của phòng ngừa tái phạm tội về ma túy chính là toàn bộ nền tảng lý luận về phòng ngừa tình hình tội phạm mà trước hết là những nền tảng lý luận của Chủ nghĩa Mác – Lê nin về phòng ngừa tội phạm. C. Mác (Karl Marx) và Ph. Ăngghen (Friedrich Engels) cho rằng: Phương hướng cơ bản nhất của đấu tranh phòng, chống tội phạm là hoạt động phòng ngừa. Điểm xuất phát là phải tổ chức lại xã hội, thực hiện tốt chính sách xã hội vì con người, giáo dục con người mới trong xã hội, giải phóng con người ra khỏi các thói xấu của những hình thái kinh tế – xã hội cũ thì sẽ giải phóng tận gốc rễ nguyên nhân làm phát sinh tội phạm.

V.I. Lênin (Vladimir Ilyich Lenin) đã tiếp tục phát triển học thuyết “phòng ngừa xã hội” của C. Mác và Ph. Ăngghen. V.I. Lênin cho rằng: Muốn phòng ngừa tội phạm trong điều kiện XHCN thì phải tăng cường công tác giáo dục và nâng cao đời sống vật chất, văn hoá cho nhân dân, tạo điều kiện cho việc thủ tiêu tội phạm. V.I. Lênin nhấn mạnh: “Sẽ rơi vào Chủ nghĩa không tưởng nếu nghĩ rằng sau khi lật đổ Chủ nghĩa tư bản, người ta có thể làm việc ngay trong xã hội mà không cần một chuẩn mực pháp luật nào…” [36, tr.122, 405].

– Quan điểm phòng ngừa tội phạm của Tội phạm học Việt Nam

Chủ tịch Hồ Chí Minh là người đặt nền móng cho lý luận về phòng, chống tội phạm ở Việt Nam. Người đã chỉ ra: “Phòng ngừa tội phạm ở Việt Nam phải được coi là nhiệm vụ của toàn xã hội. Phải đề phòng và ngăn chặn những hoạt động phạm pháp khác của bọn trộm cướp và những phần tử tội phạm khác” [33, tr.22]. Người cho rằng, khi tội phạm xảy ra thì phải tìm mọi cách hạn chế, không để cho tội phạm tái diễn gây ra tội ác cho xã hội.

Trong các nghiên cứu của mình, GS.TS. Đào Trí Úc cho rằng: Nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm được hiểu là những mâu thuẫn của những quá trình xã hội [62, tr.72]. Theo GS.TS. Võ Khánh Vinh, nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm được hiểu là “hệ thống các hiện tượng xã hội tiêu cực trong hình thái kinh tế – xã hội tương ứng quyết định sự ra đời của tình hình tội phạm như là hậu quả của mình” [66, tr.84]. Ngoài ra, GS.TS. Nguyễn Xuân Yêm và đồng nghiệp cũng đồng quan điểm rằng: “Những yếu tố môi trường bên ngoài hay bên trong con người… tự nó đều không phải là nguyên nhân của hành vi phạm tội cụ thể, mà phải là sự tương tác, kết hợp của hai yếu tố đó trở thành nguyên nhân của tội phạm cụ thể” [67, tr.133]. Như vậy, nguyên nhân và điều kiện của tội phạm cụ thể được các nhà khoa học tiếp cận thông qua cơ chế tâm lý xã hội của hành vi phạm tội. Phòng ngừa tội phạm can thiệp vào cơ chế của hành vi phạm tội và loại bỏ một số hành vi phạm tội, cũng như tìm cách giảm xác suất xảy ra đối với một số tội phạm khác [65, tr.234].

– Quan điểm phòng ngừa tái phạm tội của Tội phạm học Việt Nam

Lý luận về phòng ngừa tái phạm tội từ lâu đã được lồng ghép trong lý luận về phòng ngừa tội phạm. Theo đó, phòng ngừa tái phạm tội có thể thực hiện được dưới 2 mức độ: Phòng ngừa tình hình tội phạm nói chung và phòng ngừa tội phạm cụ thể. GS.TS. Võ Khánh Vinh cho rằng: “Các biện pháp phòng ngừa chung hướng đến việc khắc phục hoặc làm mất hiệu lực các nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm nói chung (trong cả nước và trong một địa bàn)” [66, tr.165]. PGS.TS. Hồ Sỹ Sơn nhận định: “Ngoài những hiện tượng xã hội tiêu cực là nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm (nói chung) còn có những hiện tượng xã hội tiêu cực (đặc thù) của nhóm tội tương ứng” [49, tr.10]. TS. Nguyễn Mạnh Kháng thì cho rằng: “Khi căn cứ vào mục tiêu phòng ngừa (theo tính chất) của tội phạm thì phòng ngừa tội phạm cụ thể có thể là phòng ngừa chung, phòng ngừa một loại tội, phòng ngừa tội phạm cụ thể” [35, tr.245]. Giáo trình Tội phạm học của trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh cũng nêu rằng: “Căn cứ vào phạm vi, mức độ tác động của biện pháp thì có những biện pháp phòng ngừa chung, biện pháp phòng ngừa loại tội phạm và biện pháp phòng ngừa tội phạm cụ thể” [31, tr.280].

Như vậy, vấn đề quan trọng mang tính quyết định đến hiệu quả phòng ngừa tình hình tái phạm tội về ma túy là xác định nguyên nhân và điều kiện của tái phạm tội về ma túy. Hơn nữa, phòng ngừa tình hình tái phạm tội về ma túy không chỉ dựa vào tình hình tội phạm và những nguyên nhân, điều kiện của tái phạm tội về ma túy mà còn phải dựa vào thực trạng phòng ngừa tình hình tái phạm tội về ma túy trên địa bàn. Thực trạng này bao gồm việc tổ chức, phối hợp lực lượng; việc triển khai, áp dụng các biện pháp phòng ngừa tái phạm tội về ma túy trong thực tế, qua đó đánh giá được các ưu điểm, hạn chế trong thực tiễn phòng ngừa tái phạm tội về ma túy trên địa bàn thành phố Đà Nẵng. Sau khi đánh giá thực trạng phòng ngừa, các chủ thể phòng ngừa sẽ dự báo tình hình trong tương lai, từ đó kiến nghị các biện pháp tăng cường hoạt động phòng ngừa và nâng cao hiệu quả của công tác này. Những vấn đề lý luận vừa trình bày ở trên sẽ là cơ sở để tác giả xây dựng những giải pháp phòng ngừa tình hình tái phạm tội về ma túy tại thành phố Đà Nẵng.

1.2.2.3. Cơ sở pháp lý

Đến nay, vấn đề phòng ngừa tình hình tái phạm tội tuy chưa có văn bản quy phạm riêng để điều chỉnh nhưng đã được đề cập trong nhiều văn bản pháp luật của Nhà nước như: Hiến pháp: Hiến pháp 1992 và Hiến pháp 2013; các Bộ luật và Luật: BLHS 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) và BLHS 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), BLTTHS 2003 và BLTTHS 2015, Luật Tổ chức VKSND 2014, Luật Tổ chức TAND 2014, Luật Tổ chức Cơ quan điều tra hình sự 2015, Luật Đặc xá 2018…; các văn bản dưới luật: Nghị định số 94/2009/NĐ-CP hướng dẫn Luật phòng, chống ma túy sửa đổi về quản lý sau cai nghiện ma túy, Nghị định số 56/2016/NĐ-CP sửa đổi Nghị định số 111/2013/NĐ-CP quy định chế độ áp dụng biện pháp xử lý hành chính giáo dục tại xã, phường, thị trấn…; văn bản của các Bộ, ngành: Thông tư liên tịch số 03/2012/TTLT-BLĐTBXH-BYT-BCA hướng dẫn Nghị định số 94/2010/NĐ-CP quy định về tổ chức cai nghiện ma túy tại gia đình, cộng đồng, Thông tư số 05/2018/TT-BCA của Bộ Công an quy định việc thu thập tài liệu, lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc [11]

1.2.2.4. Cơ sở thực tiễn

Cơ sở thực tiễn của phòng ngừa tình hình tái phạm tội về ma túy chính là thực trạng tình hình tái phạm tội về ma túy. Thực trạng tình hình tái phạm tội về ma túy chính là “bức tranh” hiện thực sinh động giúp các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền nhận thức rõ nhất thực trạng, cơ cấu, tính chất của tình hình tái phạm tội về ma túy, từ đó phân tích làm rõ nguyên nhân và điều kiện dẫn đến tình trạng tái phạm tội về ma túy. Đây chính là những cơ sở thực tiễn quan trọng để đề ra các giải pháp phòng ngừa tình hình tái phạm tội về ma túy. Bên cạnh đó, tình hình tái hòa nhập cộng đồng của những người đã từng một lần thực hiện hành vi phạm tội về ma túy, đã chấp hành xong hình phạt, trở về địa phương cũng là cơ sở thực tiễn quan trọng trong phòng ngừa tình hình tái phạm tội về ma túy.

LIỆN HỆ:

SĐT+ZALO: 0935568275

E:\DỮ LIỆU COP CỦA CHỊ YẾN\LUAN VAN VIEN HAN LAM\VIEN HAN LAM DOT 12\SAU BAO VE/ PHAM QUANG MAN

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *