Tội cướp giật tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam

Tội cướp giật tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng

Tội cướp giật tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng

1. Tính cấp thiết của đề tài

Việc xâm phạm đến tài sản thuộc sở hữu của người khác dù lén lút, công khai cũng đều là phạm tội, nhưng ở những mức độ khác nhau, chúng được xếp vào loại tội phạm khác nhau. Thường lén lút gắn với tội trộm cắp tài sản, công khai gắn với tội cướp, tội cướp giật, tội cưỡng đoạt, tội công nhiên chiếm đoạt tài sản và có những ranh giới nhất định để nhận biết chúng. Ranh giới để nhận biết tội cướp giật tài sản đó là vừa công khai, vừa nhanh chóng chiếm đoạt tài sản thuộc sở hữu của người khác.

Cướp giật tài sản từ lâu đã trở thành vấn nạn nhức nhối, phổ biến trong xã hội. Các đối tượng “ăn bay” khi có cơ hội là chúng ra tay và ngày càng trở nên lộng hành. Chúng không bỏ sót thứ gì từ điện thoại, túi xách, dây chuyền… Chúng thường nhắm vào các “quý bà”, “quý cô”, người thường có trang sức trên người, đang di chuyển bằng xe máy trên đường, thường không có khả năng chống cự và xử lý tình huống kém, bất ngờ chiếm đoạt lấy tài sản của họ.

Những hậu quả do việc phạm tội cướp giật trong cả nước nói chung và thành phố Đà Nẵng nói riêng trong thời gian gần đây như tài sản chiếm đoạt có giá trị lớn và ảnh hưởng đến tính mạng, sức khỏe của chủ sở hữu tài sản ngày một nhiều hơn, việc thực hiện đường lối chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước.

Có những hoàn cảnh, nguyên nhân khác nhau để dẫn đến phạm tội cướp giật tài sản và cũng có những mức hình phạt tương thích đối với tội danh này. Bởi điều đó tạo sự công bằng, sự tin tưởng của người dân và trong khách thập phương về một Đà Nẵng ổn định, yên bình. Tuy nhiên, trong thực tiễn xét xử hiện nay vẫn còn những sai sót nhất định trong việc quyết định hình phạt như chưa nghiên cứu kỹ hồ sơ vụ án, dẫn đến chưa áp dụng các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ, một số bản án chưa đề cập đến yếu tố dân sự trong VAHS… Đồng thời, qua thực tiễn xét xử, với nhiều tình tiết khác nhau của nhiều vụ án, đòi hỏi việc áp dụng lý thuyết vào thực tiễn sinh động của cuộc sống phải thật khách quan, khoa học. Tuy nhiên, thực tế hiện nay, nội dung điều luật cũng như một số văn bản hướng dẫn thi hành vẫn chưa phản ánh được những nội dung cần thiết về tội cướp giật tài sản, khung hình phạt quá rộng, hướng dẫn thực hiện vẫn còn khó áp dụng vào thực tế… Điều đó gây không ít khó khăn cho cơ quan tiến hành tố tụng khi định tội danh và lựa chọn mức hình mức hình phạt phù hợp đối với người phạm tội. Nên việc hoàn thiện quy định của pháp luật hình sự đối với tội cướp giật tài sản, nâng cao trình độ, năng lực xét xử của cán bộ là yêu cầu cấp thiết đặt ra khi tội phạm ngày càng táo tợn, hậu quả gây ra ngày càng lớn.

Vì vậy, tôi chọn đề tài “Tội cướp giật tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng” làm khóa luận tốt nghiệp của mình, vừa để tìm hiểu thêm những nội dung lý luận về cướp giật tài sản, thực tiễn việc định tội danh, quyết định hình phạt để từ đó rút ra những khó khăn, kiến nghị, sai sót, vướng mắc và những giải pháp khắc phục nhằm hoàn thiện hơn pháp luật liên quan đến tội danh này trong thời gian đến.

2. Tình hình nghiên cứu của đề tài

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài

Mục đích nghiên cứu của đề tài là nghiên cứu lý luận các dấu hiệu pháp lý hình sự về tội cướp giật tài sản, một số vấn đề chung về định tội danh và quyết định hình phạt; thực tiễn định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội cướp giật tài sản tại TP Đà Nẵng; một số khó khăn và kiến nghị cũng như một số sai sót, nguyên nhân của những sai sót và giải pháp khắc phục tương ứng.

Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài là làm rõ các dấu hiệu pháp lý hình sự; đường lối xử lý hình sự đối với tội cướp giật tài sản theo quy định tại Điều 136 BLHS; trình bày một số vấn đề chung về định tội danh và quyết định hình phạt; tìm, thu thập, xử lý, phân tích, so sánh những số liệu thống kê thường xuyên của một số cơ quan tư pháp, đặc biệt là số liệu thống kê xét xử sơ thẩm hình sự từ năm; tìm, thu thập các bản án xét xử sơ thẩm, phúc thẩm hình sự về tội cướp giật tài sản tại TP Đà Nẵng và xử lý, phân tích so sánh theo các tiêu chí hình sự cần thiết; tìm, thu thập và nghiên cứu các báo cáo tổng kết năm của cơ quan Công an và TAND TP Đà Nẵng; làm rõ thực tiễn của định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội cướp giật tài sản tại TP Đà Nẵng trong năm năm, từ năm 2010 đến năm 2014; đưa ra và phân tích một số sai sót cũng như nguyên nhân của những sai sót, vướng mắc và các giải pháp khắc phục trong hoạt động định tội danh, quyết định hình phạt đối với tội cướp giật tài sản tại TP Đà Nẵng.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài

Đối tượng nghiên cứu của đề tài là thông qua việc làm rõ thực tiễn định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội cướp giật tài sản trên địa bàn TP Đà Nẵng, từ đó đưa ra được những khó khăn, sai sót cũng như các nguyên nhân, giải pháp hoàn thiện trong việc quyết định hình phạt đối với tội cướp giật tài sản từ thực tiễn TP Đà Nẵng.

Về phạm vi nghiên cứu của đề tài: đề tài của chúng tôi nghiên cứu trong phạm vi hình sự thuộc chuyên ngành Luật hình sự và Tố tụng hình sự; luận văn tập trung nghiên cứu số liệu cấp xét xử HSST; bản án hình sự cấp sơ thẩm và phúc thẩm; về thời gian nghiên cứu trong vòng năm năm, từ 2010 đến 2014, bao gồm số liệu thống kê thường xuyên về tội phạm, số liệu xét xử sơ thẩm VAHS và 32 bản án HSST, phúc thẩm về tội cướp giật tài sản; đề tài luận văn được thực hiện trên phạm vi TP Đà Nẵng.

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu

Để hoàn thành đề tài này, chúng tôi đã sử dụng phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử để xử lý nguồn tư liệu thu thập được. Đồng thời, chúng tôi đã dùng phương pháp đối chiếu, phân tích, tổng hợp nguồn tư liệu và thực tiễn. Việc sử dụng đan xen các phương pháp này giúp chuyển tải nội dung có được một cách hợp lý nhất và đạt được hiệu quả nghiên cứu cao nhất của đề tài.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài

Đề tài mang tính lý luận và thực tiễn cao, góp phần tích cực làm phong phú thêm lý luận về các dấu hiệu pháp lý cũng như lý luận và thực tiễn trong hoạt động định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội cướp giật tài sản trên địa bàn TP Đà Nẵng; có thể sử dụng làm tài liệu học tập và nghiên cứu khoa học.

7. Cơ cấu của luận văn

Đề tài này, ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, phần nội dung chính được chia thành ba chương:

Chương 1: Tội cướp giật tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam

Chương 2: Định tội danh đối với tội cướp giật tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng

Chương 3: Quyết định hình phạt đối với tội cướp giật tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng.

Chương 1

TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN THEO

PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM

    1. 1.1. Khái niệm tội cướp giật tài sản

Cướp giật tài sản là hành vi lợi dụng sơ hở của người khác, công khai, nhanh chóng chiếm đoạt lấy tài sản của người đó mà không cần dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hay dùng bất cứ thủ đoạn nào khác để uy hiếp tinh thần của người chủ tài sản.

Để thực hiện hành vi chiếm đoạt, người phạm tội có thể sử dụng nhiều thủ đoạn khác nhau như: lợi dụng sơ hở trong quản lý tài sản của chủ sở hữu (sơ hở bao gồm khả năng quản lý không thấu đáo), hoặc có thể tự mình tạo ra các sơ hở nhằm có điều kiện thuận lợi để thực hiện hành vi chiếm đoạt. Như vậy, có thể có những tác động lên thân thể người chủ tài sản, sự tác động này không nhằm gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe của nạn nhân hoặc người khác được xem xét là tình tiết tăng nặng của cấu thành tăng nặng mà không truy cứu TNHS ở tội danh độc lập.

Hậu quả của tội cướp tài sản trước hết là những thiệt hại về tài sản, ngoài ra còn có những thiệt hại về tính mạng, sức khỏe hoặc những thiệt hại phi vật chất khác.

Tội phạm hoàn thành khi người phạm tội chiếm đoạt được tài sản từ người khác, kể cả trường hợp người phạm tội bỏ lại tài sản đã cướp giật để tẩu thoát.

Từ những phân tích trên, có thể hiểu: cướp giật tài sản là hành vi lợi dụng sơ hở của người khác, công khai, nhanh chóng chiếm đoạt lấy tài sản của người đó mà không cần dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hay dùng bất cứ thủ đoạn nào khác để uy hiếp tinh thần của người chủ tài sản.

    1. 1.2. Quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 về tội cướp giật tài sản
    2. 1.2.1. Các dấu hiệu pháp lý thuộc cấu thành tội phạm cơ bản của tội cướp giật tài sản
      1. Thứ nhất: Khách thể của tội cướp giật tài sản
      2. Kkhách thể của tội cướp giật tài sản là quan hệ sở hữu. Đối tượng tác động của tội phạm là tài sản.

Thứ hai: Mặt khách quan của tội cướp giật tài sản

Một là: mặt khách quan của tội cướp giật tài sản thể hiện ở hành vi nhanh chóng, công khai chiếm đoạt tài sản. Đây là dấu hiệu có sự khác biệt tương đối so với một số tội phạm khác. Tính chất nhanh chóng của hành vi chiếm đoạt tài sản thể hiện ở việc người phạm tội lợi dụng sơ hở của chủ tài sản chiếm đoạt tài sản một cách bất ngờ trong khoảng thời gian ngắn. Đây là dấu hiệu đặc thù, tiêu biểu nhất, bắt buộc phải có trong mặt khách quan của tội cướp giật tài sản và được dùng làm tiêu chí chính khi phân biệt với các CTTP khác. Các dấu hiệu nhanh chóng tiếp cận, nhanh chóng tẩu thoát là các dấu hiệu phụ trợ nhưng không bắt buộc. Trong mặt khách quan của tội cướp giật tài sản, chúng ta còn thấy xuất hiện hành vi dùng vũ lực, với mục đích để tẩu thoát.

Hai là: Để thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản, người phạm tội có thể sử dụng nhiều thủ đoạn khác nhau như: lợi dụng sơ hở của chủ sở hữu không chú ý, bất ngờ chiếm đoạt lấy tài sản.

Ba là: mặt khách quan của tội cướp giật tài sản thể hiện ở hậu quả của hành vi cướp giật tài sản, hậu quả của tội phạm là dấu hiệu bắt buộc phải có trong mặt khách quan của tội này. Hậu quả của tội cướp giật tài sản trước hết là những thiệt hại về tài sản, ngoài ra còn có những thiệt hại về tính mạng, sức khỏe và những thiệt hại phi vật chất khác.

Tội cướp giật tài sản hoàn thành khi người phạm tội chiếm đoạt được tài sản.

Thứ ba: chủ thể của tội cướp giật tài sản

Đối với tội cướp giật tài sản, chủ thể tội phạm được thực hiện bởi người có đủ năng lực TNHS, đạt độ tuổi theo luật định.

      1. Thứ tư: mặt chủ quan của tội cướp giật tài sản

Tội cướp giật tài sản được thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp. Bởi vì, người phạm tội thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội, nhận thức rõ hành vi của mình có tính chất nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn cho hậu quả xảy ra. Mục đích chiếm đoạt tài sản là dấu hiệu bắt buộc trong mặt chủ quan của tội cướp giật tài sản. Căn cứ vào mục đích chiếm đoạt tài sản của người phạm tội thì tội cướp giật tài sản, người phạm tội phải có động cơ tư lợi. Như vậy, tội cướp giật tài sản được thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp, mục đích chiếm đoạt tài sản, động cơ tư lợi.

    1. 1.2.2. Hình phạt và các dấu hiệu định khung tăng nặng đối với tội cướp giật tài sản
    2. Thứ nhất: Hình phạt đối với tội cướp giật tài sản theo cấu thành cơ bản

Đây là trường hợp phạm tội quy định tại Khoản 1 Điều 136, BLHS hình phạt tù từ một năm đến năm năm, là cấu thành cơ bản của tội cướp giật tài sản.

Thứ hai: Hình phạt đối với tội cướp giật tài sản theo cấu thành tăng nặng quy định tại Khoản 2, 3, 4 Điều 136 BLHS.

      1. Một là: Hình phạt đối với tội cướp giật tài sản theo cấu thành tăng nặng thuộc quy định tại Khoản 2, Điều 136, BLHS quy định hình phạt tù từ 3 năm đến 10 năm đối với các trường hợp phạm tội sau:

Cướp giật tài sản có tổ chức: có tổ chức được hiểu là hai hay nhiều người cố ý cùng thực hiện tội cướp giật tài sản mà giữa họ có sự câu kết chặt chẽ giữa những người cùng thực hiện tội phạm. Các yếu tố để xác định phạm tội có tổ chức được quy định tại Khoản 3 Điều 20 BLHS.

Cướp giật tài sản có tính chất chuyên nghiệp: cố ý phạm tội cướp giật tài sản từ năm lần trở lên không phân biệt đã bị truy cứu TNHS hay chưa bị truy cứu TNHS, nếu chưa hết thời hiệu truy cứu TNHS hoặc chưa được xóa án tích; người phạm tội cướp giật tài sản làm nghề sinh sống và lấy kết quả của việc cướp giật tài sản làm nguồn sống chính.

Người phạm tội thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm. Trường hợp phạm tội này lại hoàn toàn giống với tất cả những trường hợp tái phạm nguy hiểm khác, chỉ cần xác định người phạm tội có đủ các dấu hiệu quy định tại Khoản 2 Điều 49 BLHS.

Dùng thủ đoạn nguy hiểm: dùng thủ đoạn để cướp giật tài sản mà nguy hiểm đến tính mạng, sức khoẻ của người bị hại hoặc của người khác như dùng xe mô tô, xe máy để thực hiện việc cướp giật tài sản; cướp giật của người đang đi mô tô, xe máy…

Hành hung để tẩu thoát: hành hung để tẩu thoát tức là trường hợp người phạm tội thực hiện hành vi dùng sức mạnh thể chất chống trả lại việc bắt giữ để tẩu thoát. Trong trường hợp này, mục đích của việc sử dụng vũ lực không phải là nhằm chiếm đoạt tài sản.

Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác mà tỷ lệ thương tật từ 11% đến 30%. Việc xác định tỷ lệ thương tật là thuộc trách nhiệm của Hội đồng giám định pháp y hoặc của Hội đồng giám định y khoa hoặc của giám định viên, căn cứ vào bảng tiêu chẩn thương tật được ban hành kèm theo Thông tư liên tịch số 28/TTLT-BYT-BLĐTBXH ngày 27/9/2013 để xác định tỷ lệ thương tật của nạn nhân.

Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng. Việc xác định giá trị tài sản bị chiếm đoạt phải được thực hiện theo đúng những quy định của Nghị định số 26/2005/NĐ-CP ngày 02 tháng 3 năm của Chính phủ về Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự.

Cướp giật tài sản gây hậu quả nghiêm trọng: ngoài những thiệt hại về sức khoẻ hoặc tài sản có thể xác định được như đã nêu trên, còn những thiệt hại phi vật chất cũng cần được xác định để đánh giá hậu quả do hành vi chiếm đoạt tài sản gây ra.

Việc cho người phạm tội được hưởng án treo phải rất thận trọng và phải đảm bảo đúng các quy định tại Điều 60 Bộ luật hình sự.

Hai là: hình phạt đối với tội cướp giật tài sản theo cấu thành tăng nặng thuộc quy định tại Khoản 3, Điều 136, Bộ luật Hình sự quy định hình phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm đối với các trường hợp phạm tội sau: gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60%; chiếm đoạt tài sản có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng; gây hậu quả rất nghiêm trọng.

Ba là: Hình phạt đối với tội cướp giật tài sản theo cấu thành tăng nặng thuộc quy định tại Khoản 4 Điều 136 Bộ luật Hình sự quy định hình phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân đối với các trường hợp phạm tội sau: gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên hoặc làm chết người; chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở lên; gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.

Trường hợp phạm tội ở Điểm a, b, c Khoản 2, 3, 4 Điều 136 BLHS cũng tương tự như trường hợp quy định ở Điểm e, g, h Điều 136 BLHS chỉ khác nhau về tỷ lệ thương tật, giá trị chiếm đoạt cũng như hậu quả gây ra. Do đó, chúng tôi chỉ đi sâu phân tích nội dung quy định ở Điểm e, g, h Điều 136 BLHS mà không đi sâu phân tích các nội dung tại Điểm a, b, c Khoản 2, 3, 4 Điều 136 BLHS.

Thứ ba: hình phạt bổ sung đối với người phạm tội cướp giật tài sản

Theo quy định tại Khoản 5 Điều 136 BLHS thì ngoài hình phạt chính, người phạm tội cướp giật tài sản còn có thể bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến một trăm triệu đồng; nếu người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 BLHS thì có thể phạt dưới mười triệu đồng nhưng không được dưới một triệu đồng vì theo quy định tại khoản 3 Điều 30 BLHS mức phạt tiền không được dưới một triệu đồng.

Tội cướp giật tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng
Tội cướp giật tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng

Chương 2

ĐỊNH TỘI DANH ĐỐI VỚI TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN

THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM

TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

    1. 2.1. Một số vấn đề chung về định tội danh

Định tội danh là việc xác định và ghi nhận về mặt pháp lý sự phù hợp chính xác giữa các dấu hiệu của hành vi tội phạm cụ thể đã được thực hiện với các dấu hiệu của CTTP đã được quy định trong quy phạm pháp luật hình sự.

Ở giới hạn của luận văn này, chúng tôi đi sâu tìm hiểu loại định tội danh chính thức. Để việc định tội danh theo loại này đạt được chân lý khách quan, nhận thức của người Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân phải bao quát, đầy đủ, chính xác, khách quan ba loại yếu tố:

Một là: Xác định đầy đủ, chính xác các tình tiết thực tế của vụ án.

Hai là: nhận thức đúng nội dung của các quy định trong BLHS về tội cướp giật tài sản. Điều này có ý nghĩa rất lớn đối với việc định tội danh.

Ba là: Xác định mối quan hệ giữa các dấu hiệu thực tế và các dấu hiệu được quy định trong luật.

Quá trình đó được tiến hành bằng cách đối chiếu, so sánh các tình tiết thực tế của vụ án đã được xác định với các dấu hiệu được chỉ ra trong quy phạm pháp luật hình sự quy định về CTTP. Cấu thành tội phạm là cơ sở pháp lý duy nhất của việc định tội danh, là mô hình pháp lý có các dấu hiệu cần và đủ để truy cứu trách nhiệm hình sự.

      1. Định tội danh là một giai đoạn cơ bản của việc áp dụng các quy phạm pháp luật hình sự. Định tội danh đúng có ý nghĩa chính trị, xã hội, đạo đức vào pháp luật lớn và ngược lại.
      2. 2.2. Thực tiễn định tội danh đối với tội cướp giật tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam tại thành phố Đà Nẵng

Thành phố Đà Nẵng là thành phố trực thuộc Trung ương và lớn nhất của khu vực miền Trung – Tây Nguyên, có diện tích 1.283,42km2, gồm 6 quận và 02 huyện. Tốc độ đô thị hóa tại TP Đà Nẵng diễn ra nhanh chóng, kéo theo số lượng người từ các địa phương khác tới, khiến cho việc quản lý Nhà nước về mặt xã hội gặp nhiều khó khăn, bất cập. Các loại đối tượng hình sự lưu động, nguy hiểm dịch chuyển theo gây ra nhiều vụ án nghiêm trọng. Trong đó, tội phạm cướp giật, trộm cắp tài sản còn ở mức cao.

Kết quả đạt được trong công tác điều tra, khởi tố mở rộng các VAHS xảy ra từ trước đã góp phần kiềm chế phạm pháp hình sự, làm chủ được tình hình, không để bị động bất ngờ, không để hình thành tổ chức tội phạm nguy hiểm, tội phạm hoạt động kiểu “xã hội đen”, tội phạm xuyên quốc gia.

Qua nghiên cứu số liệu xét xử sơ thẩm tội phạm nói chung và tội cướp giật tài sản nói riêng trên địa bàn TP Đà Nẵng từ năm 2010 đến năm 2014, số vụ án trong tội phạm chung và nhóm tội xâm phạm sở hữu không có biến động lớn tăng, giảm qua các năm, nhưng số vụ án trong cướp giật tài sản giảm mạnh trong năm 2014.

Việc định tội danh được cơ quan tiến hành tố tụng ở Đà Nẵng đánh giá một cách toàn diện, khách quan và đầy đủ các chứng cứ, các tình tiết của VAHS, nhận thức đúng nội dung quy phạm pháp luật hình sự quy định CTTP tương ứng, đối chiếu, so sánh các tình tiết thực tế của vụ án đã được xác định với các dấu hiệu được chỉ ra trong quy phạm pháp luật hình sự quy định về cấu thành tội cướp giật tài sản.

2.2.1. Thực tiễn định tội danh đối với tội cướp giật tài sản theo cấu thành cơ bản tại thành phố Đà Nẵng

Qua nghiên cứu 10 bản án được định tội danh theo Khoản 1 Điều 136 BLHS 1999 trên địa bàn TP Đà Nẵng cho thấy, những vụ án cướp giật tài sản thuộc Khoản 1 Điều 136 BLHS 1999 thường có hành vi nguy hiểm cho xã hội không lớn. Các cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện tương đối tốt việc định tội danh dựa vào các tình tiết của vụ án, nhận thức đúng nội dung quy định trong BLHS, chỉ rõ CTTP là cấu thành cơ bản, nên thời gian qua ở Đà Nẵng không có định tội danh sai đối với tội cướp giật tài sản.

2.2.2. Thực tiễn định tội danh đối với tội cướp giật tài sản theo cấu thành tăng nặng tại thành phố Đà Nẵng

Qua nghiên cứu 22 bản án (chủ yếu thuộc Khoản 2 Điều 136) thuộc cấu thành tăng nặng của tội cướp giật tài sản, cơ quan tiến hành tố tụng đã định tội danh đúng. Tòa án đã xem xét đến khách thể của tội phạm là xâm phạm đến tài sản sở hữu của người khác, mặt khách quan của tội phạm đó là dấu hiệu hành vi công khai, nhanh chóng; dùng thủ đoạn nguy hiểm. Trong thời gian qua, việc định tội danh đối với tội cướp giật tại TP Đà Nẵng do các cơ quan tiến hành tố tụng tại Đà Nẵng thực hiện một cách nghiêm túc, đúng luật, không có định tội danh sai hay bỏ lọt tội phạm.

      1. 2.2.3. Một số khó khăn và kiến nghị đối với định tội danh tội cướp giật tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng

Mặc dù, việc định tội danh đối với tội cướp giật tài sản tại TP Đà Nẵng trong thời gian qua không xảy ra sai sót, tuy nhiên khi định tội danh đối với tội danh này cơ quan tiến hành tố tụng gặp những khó khăn, vướng mắc và có một số kiến nghị cần sửa đổi đối với điều luật cũng như văn bản hướng dẫn như sau:

Một là: Điều luật chưa cụ thể và rõ ràng hành vi khách quan của về tội cướp giật tài sản. Điều 136 BLHS 1999 có thể mô tả như sau: “Người nào công khai, nhanh chóng chiếm đoạt tài sản của người khác thì bị phạt tù từ…” Sự thiếu sót trong việc mô tả tội cướp giật tài sản cần phải được sửa chữa kịp thời.

Hai là: Ngay trong điều luật đã có trường hợp phạm tội gây thiệt hại về tài sản và tính mạng, sức khỏe, thiệt hại phi vật chất, nên theo chúng tôi không nhất thiết phải có nội dung gây hậu quả nghiêm trọng, rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng trong điều luật, vừa tránh trùng lặp, vừa dễ áp dụng đối với cơ quan tiến hành tố tụng.

Ba là: Sự bất hợp lý trong quy định tình tiết hành hung để tẩu thoát. Nên có hướng dẫn và giải thích rõ từ ngữ, tránh hiểu nhầm, hiểu không đúng: bị bắt giữ, bị bao vây bắt giữ.

Bốn là: cần cân nhắc hướng dẫn dùng mô tô, xe máy là thủ đoạn nguy hiểm trong tội cướp giật tài sản.

Như vậy, định tội danh được xem là tiền đề, điều kiện cho việc quyết định hình phạt đúng đắn, góp phần mang lại hiệu quả trong đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm. Do đó, trong quá trình định tội, các cơ quan tiến hành tố tụng có thể thực hiện độc lập, cũng có thể được thực hiện một cách đồng thời việc xác định được tất cả các tình tiết liên quan đến vụ án, nhận thức đúng nội dung quy định đối với tội cướp giật tài sản, đây được xem là yếu tố tiền đề; và xác định được mối quan hệ giữa các dấu hiệu thực tế và các dấu hiệu được quy định trong luật, đây là yếu tố quyết định của định tội danh. Điều đó đòi hỏi vào khả năng của người làm công tác tố tụng nhưng cũng phụ thuộc không nhỏ vào quy định của Bộ luật hình sự và văn bản hướng dẫn liên quan đến tội cướp giật tài sản. Những khó khăn, kiến nghị trên là cơ sở cần thiết để người làm công tác tố tụng có thể áp dụng vào thực tiễn khi định tội danh đối với tội cướp giật tài sản.

Tội cướp giật tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng
Tội cướp giật tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng

Chương 3

QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT ĐỐI VỚI

TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

    1. 3.1. Một số vấn đề chung về quyết định hình phạt
    2. 3.1.1. Khái niệm quyết định hình phạt

Quyết định hình phạt là việc Tóa án lựa chọn loại và mức hình phạt cụ thể để áp dụng đối với người phạm tội phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm của tội phạm mà họ đã gây ra.

Mục đích của hình phạt luôn có hai mặt: trừng trị và cải tạo, giáo dục. Hai mặt này có liên quan với nhau, hỗ trợ nhau.

      1. 3.1.2. Các nguyên tắc cơ bản quyết định hình phạt

Một là: Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa

Đây là nguyên tắc có ý nghĩa quan trọng hàng đầu, là nguyên tắc quan trọng trong sinh hoạt xã hội và tổ chức, hoạt động của Nhà nước. Đây là nguyên tắc Hiến định.

Hai là: Nguyên tắc nhân đạo xã hội chủ nghĩa

Nguyên tắc nhân đạo xã hội chủ nghĩa đòi hỏi Tòa án khi quyết định hình phạt phải thấm nhuần tư tưởng nhân đạo của Luật hình sự.

Ba là: Nguyên tắc cá thể hóa hình phạt

Nguyên tắc này đòi hỏi Tòa án khi quyết định hình phạt phải quyết định hình phạt tương xứng với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, phù hợp với những đặc điểm cụ thể về nhân thân của người phạm tội. Tóm lại, các nguyên tắc cơ bản trên đây cần được Tòa án quán triệt và vận dụng đúng đắn khi quyết định hình phạt.

      1. 3.1.3. Căn cứ quyết định hình phạt
      2. Căn cứ quyết định hình phạt là những yêu cầu cơ bản, chỗ dựa vững chắc buộc Tòa án phải tuân theo khi quyết định hình phạt đối với người thực hiện hành vi phạm tội. Khi quyết định hình phạt, Tòa án phải dựa vào đầy đủ các căn cứ sau:

Một là: căn cứ vào quy định của Bộ luật Hình sự

Hai là: căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội

Ba là: căn cứ vào nhân thân người phạm tội

Bốn là: căn cứ quy định về các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự tại Điều 46 và Điều 48 BLHS

Quyết định hình phạt có ý nghĩa quan trọng về chính trị, xã hội và pháp lý. Khi quyết định hình phạt, Tòa án phải tuân thủ các nguyên tắc, căn cứ quyết định hình phạt, đồng thời Tòa án phải cân nhắc điều kiện kinh tế, văn hóa, xã hội cũng như yêu cầu của công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm của địa phương.

    1. 3.2. Thực tiễn quyết định hình phạt đối với tội cướp giật tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam tại thành phố Đà Nẵng

Trong 5 năm qua (2010 – 2014), TP Đà Nẵng có 146 vụ, 262 bị cáo về tội cướp giật tài sản. Trong đó đã xử phạt mức án cải tạo không giam giữ là 20 bị cáo, tù từ 03 năm trở xuống là 151 bị cáo, tù từ 03 năm đến 7 năm là 85 bị cáo và tù trên 7 năm đến 15 năm là 6 bị cáo. Số liệu có thể thấy, số bị cáo bị xử phạt tù từ 3 năm trở xuống chiếm tỷ lệ rất cao 57,63%, số bị cáo bị xử phạt tù từ 3 năm đến 7 năm chiếm tỷ lệ 32,44%. Hình phạt tù từ 03 năm đến 07 năm, và tù trên 7 năm đến 15 giảm qua các năm, đặc biệt hai năm 2013 và 2014, không có hình phạt tù từ trên 07 năm đến dưới 15 năm; số lượng bị cáo giảm dần qua các năm. Điều đó cho thấy, tính chất và mức độ nghiêm trọng của hành vi chiếm đoạt tài sản gây ra ngày càng giảm, hiệu quả trong quyết định hình phạt càng được nâng cao, mục đích hướng đến của hình phạt đã có tác dụng trong việc giáo dục, ngăn ngừa phạm tội mới.

      1. 3.2.1. Thực tiễn quyết định hình phạt đối với tội cướp giật tài sản theo cấu thành cơ bản tại thành phố Đà Nẵng

Qua thực tiễn TP Đà Nẵng thì khi quyết định hình phạt Tòa án phải căn cứ vào quy định của BLHS, cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng TNHS cũng như các căn cứ pháp lý khác để đưa ra hình phạt hợp lý. TAND TP Đà Nẵng đã áp dụng đúng tình tiết phạm tội và áp dụng mức hình phạt tương xứng với tính chất vụ án và hành vi phạm tội của các bị cáo, nhằm giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

      1. 3.2.2. Thực tiễn quyết định hình phạt đối với tội cướp giật tài sản theo cấu thành tăng nặng tại thành phố Đà Nẵng

Việc quyết định hình phạt thực hiện tương đối tốt, tuy nhiên, do chưa nghiên cứu kỹ hồ sơ vụ án, một số sai sót trong đánh giá tình tiết của vụ án để áp dụng tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ, phần dân sự trong bản án hình sự vẫn chưa được xem xét toàn diện. Điều đó ảnh hưởng đến việc quyết định mức hình phạt và quyền lợi của người dân. Như vậy, việc xem xét toàn diện các nội dung liên quan đến vụ án để đảm bảo cho vụ án được khách quan, công bằng, một yêu cầu đặt ra đối với thẩm phán là cần nghiên cứu kỹ hồ sơ vụ án.

* Trong BLHS không chỉ quy định hình phạt chính mà còn quy định hình phạt bổ sung. Trên thực tế tại TP Đà Nẵng trong thời gian qua số bị cáo phạm tội cướp giật tài sản bị áp dụng hình phạt bổ sung hầu như không có.

3.2.3. Một số sai sót trong việc quyết định hình phạt đối với tội cướp giật tài sản từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng

Những sai sót được chúng tôi đề cập đến trong luận văn này đó là: Tòa án chưa cân nhắc đến trường hợp phạm tội được xem là yếu tố định khung tăng nặng, giảm nhẹ đối với tội cướp giật tài sản; yếu tố dân sự trong VAHS cũng chưa được TAND xem xét, đánh giá kỹ, ảnh hưởng đến quyền lợi đối với người dân. Có thể những sai sót trên đây chưa phản ánh toàn diện thực tiễn việc quyết định hình phạt tại TP Đà Nẵng, nhưng phần nào đó đã có những nhận định trên cơ sở những bản án được nghiên cứu.

      1. 3.2.4. Nguyên nhân của những sai sót, vướng mắc trong quyết định hình phạt với tội cướp giật tài sản và các giải pháp khắc phục

Thứ nhất, về nguyên nhân khách quan và giải pháp khắc phục quy định pháp luật hình sự đối với tội cướp giật tài sản

Một là: Khung hình phạt của tội cướp giật tài sản là quá rộng. Do đó khung hình phạt và mức hình phạt cần được cụ thể hơn để dễ dàng áp dụng vào thực tiễn.

Hai là: Do mức độ giảm nhẹ của các tình tiết giảm nhẹ khác nhau, nên nhà làm luật cần quy định cụ thể hơn các tình tiết giảm nhẹ hay tăng nặng để vận dụng hợp lý vào trong thực tiễn.

Thứ hai, về nguyên nhân chủ quan và giải pháp khắc phục năng lực xét xử của cán bộ làm công tác xét xử của Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân

Trong quá trình quyết định hình phạt, Thẩm phán chưa đánh giá đúng hoặc còn lúng túng trong việc đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo trong vụ án. Bên cạnh đó, trên thực tế hiện nay rất ít Hội thẩm nhân dân hiểu pháp luật.

Giải pháp hoàn thiện về nâng cao năng lực xét xử của cán bộ đó là: công tác đào tạo, bồi dưỡng, quy hoạch cán bộ, cải cách chế độ tiền lương, tăng cường công tác quản lý cán bộ, thanh tra, kiểm tra, kiểm sát hoạt động xét xử; nâng cao năng lực, chất lượng đội ngũ Hội thẩm nhân dân; đổi mới quy định tiêu chuẩn tuyển chọn Hội thẩm nhân dân…

KẾT LUẬN

Khoa học pháp lý hình sự xác định tội cướp giật tài sản là hành vi nhanh chóng, công khai chiếm đoạt tài sản. Khi hành vi chiếm đoạt tài sản xảy thì ngoài thiệt hại về tài sản, còn có những thiệt hại về tính mạng, sức khỏe của chính bản thân chủ sở hữu và những thiệt hại phi vật chất khác.

Do vậy, tìm hiểu về tội cướp giật tài sản theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn TP Đà Nẵng chúng ta có dịp nghiên cứu sâu hơn những nội dung mang tính lý luận về tội cướp giật tài sản như: khái niệm, các dấu hiệu pháp lý hình sự thuộc cấu thành tội phạm cơ bản của tội cướp giật tài sản. Cũng như các tội danh khác, tội cướp giật tài sản có các trường hợp phạm tội cụ thể là: phạm tội cướp giật tài sản theo cấu thành cơ bản và cấu thành tăng nặng. Đồng thời, trên cơ sở lý luận chung về định tội danh và quyết định hình phạt, chúng ta nghiên cứu thực tiễn việc định tội danh đối với tội cướp giật tài sản từ TP Đà Nẵng theo cấu thành cơ bản và cấu thành tăng nặng.

Mặc dù quy định của điều luật và hướng dẫn về tội cướp giật tài sản còn chưa rõ ràng, nhưng các cơ quan tiến hành tố tụng tại Đà Nẵng đã thực hiện một cách nghiêm túc, đúng luật, không có định tội danh sai hay bỏ lọt tội phạm. Các kháng cáo chủ yếu liên quan đến quyết định hình phạt.

Hầu hết các kháng cáo đều có nội dung là án sơ thẩm xử nặng, xin được đưa vụ án ra xét xử theo trình tự phúc thẩm. Phần lớn các quyết định hình phạt của bản án phúc thẩm giữ nguyên mức hình phạt như quyết định hình phạt trong bản án sơ thẩm. Điều đó cho thấy, trong quyết định hình phạt, Tòa án hai cấp TP Đà Nẵng đã nhận thức đúng về mặt lý luận những vấn đề liên quan trực tiếp đến quyết định hình phạt.

Việc xem xét hình phạt tù có thời hạn từ tù giam sang tù treo cũng được áp dụng, đã thể hiện rõ nét nguyên tắc nhân đạo trong quyết định hình phạt, những người lầm đường, lạc lối có cơ hội để phấn đấu vươn lên trở thành người có ích cho xã hội. Hay việc giữ nguyên mức hình phạt theo quyết định của bản án sơ thẩm nhằm trừng trị, giáo dục, răn đe người phạm tội, phục vụ nhiệm vụ chính trị địa phương, có tác dụng trong đấu tranh phòng, chống tội phạm chung… được nghiên cứu nhằm thực hiện tốt nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa trong quyết định hình phạt.

Một số ít kháng cáo đề cập đến yếu tố dân sự trong VAHS cũng đã được xem xét, nhìn nhận, đánh giá kỹ, và nhận định rõ có những sai sót, cần rút kinh nghiệm. Những hạn chế đó, mặc dù không ảnh hưởng lớn đến quá trình định tội danh và quyết định hình phạt, nhưng phần nào đó ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của người dân, nhất là những người không biết những hành vi do người khác phạm tội ảnh hưởng đến quyền lợi của mình. Đồng thời vẫn còn thiếu sót trong việc áp dụng các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng TNHS đối với một số trường hợp, ảnh hưởng đến sự nghiêm minh, công bằng của pháp luật.

Như vậy, việc xem xét các nội dung liên quan đến vụ án để đảm bảo cho vụ án được khách quan, công bằng đã được Tòa án hai cấp nghiên cứu, đánh giá toàn diện, rút kinh nhiệm trong quá trình xét xử.

Do quy định của điều luật và văn bản hướng dẫn liên quan còn có những bất cập nên phần nào đó vẫn còn khó khăn trong quá trình định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội danh này. Hy vọng, những khó khăn, sai sót, kiến nghị và giải pháp hoàn thiện đối với tội cướp giật tài sản sẽ sớm được giải quyết trong thời gian đến.

Luận văn được nghiên cứu với sự tận tình của cô giáo hướng dẫn khoa học, giúp đỡ của các đồng chí công tác tại Công an, Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng. Tuy nhiên, kết quả nghiên cứu mới chỉ là bước đầu, chưa có được nguồn tư liệu đầy đủ, năng lực bản thân còn hạn chế; nên nội dung của luận văn không tránh khỏi những thiếu sót, sẽ có những vấn đề, nội dung chưa giải quyết triệt để, sâu sắc và khoa học. Chúng tôi rất mong nhận được sự góp ý, bổ sung của các nhà khoa học, các thầy, cô giáo, cán bộ thực tiễn và đồng nghiệp để nội dung của luận văn được hoàn chỉnh hơn./.

LIỆN HỆ:

SĐT+ZALO: 0935568275

E:\DỮ LIỆU COP CỦA CHỊ YẾN\LUAN VAN VIEN HAN LAM\LUAT HINH SU DOT 2\LUAT HINH SU\DO THI THU HIEN\SAU BAO VE

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *