Xét xử phúc thẩm hình sự từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng

Xét xử phúc thẩm hình sự từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng

Xét xử phúc thẩm hình sự từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng

1. Tính cấp thiết của đề tài

Tòa án cấp phúc thẩm vừa là cấp xét xử thứ hai, vừa là một cấp giám đốc việc xét xử của Tòa án cấp sơ thẩm. Khi phúc thẩm lại bản án của Tòa án cấp sơ thẩm, Tòa án cấp phúc thẩm đồng thời thực hiện cả hai chức năng, vừa xét xử lại vụ án về nội dung, vừa kiểm tra tính hợp pháp và có căn cứ của bản án sơ thẩm.

Quá trình áp dụng trong thực tiễn, một số quy định của BLTTHS về xét xử phúc thẩm tỏ ra lạc hậu, nhiều quy định của BLTTHS đã bộc lộ nhiều bất cập, vướng mắc như quy định về phạm vi xét xử phúc thẩm, về bổ sung, thay đổi và rút kháng cáo, kháng nghị; thẩm quyền của HĐXX phúc thẩm, xác định tư cách người tham gia tố tụng ở giai đoạn xét xử phúc thẩm… Các bất cập này ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng và hiệu quả hoạt động xét xử của Tòa án, không bảo vệ kịp thời lợi ích của Nhà nước, của xã hội, các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Cùng với xu hướng chung của công cuộc cải cách tư pháp mà Đảng và Nhà nước ta đang đặt ra là “Cải cách mạnh mẽ các thủ tục tố tụng tư pháp theo hướng dân chủ, bình đẳng, công khai, minh bạch, chặt chẽ nhưng thuận tiện, bảo đảm sự tham gia và giám sát của nhân dân đối với hoạt động tư pháp; bảo đảm chất lượng tranh tụng tại các phiên tòa xét xử, lấy kết quả tranh tụng tại tòa làm căn cứ quan trọng để phán quyết bản án, coi đây là khâu đột phá để nâng cao chất lượng hoạt động tư pháp” [3] thì việc tìm hiểu quy định của BLTTHS về xét xử phúc thẩm, làm rõ một số bất cập trong các quy định của BLTTHS về xét xử phúc thẩm, từ đó nêu lên các kiến nghị hoàn thiện sẽ góp phần làm cho các quy định của BLTTHS phù hợp với thực tiễn, nâng cao công tác giải quyết các vụ án hình sự tại Tòa án cấp phúc thẩm.

Với mong muốn tiếp tục nghiên cứu để hoàn thiện và nâng cao hiệu quả trong công tác xét xử phúc thẩm các vụ án hình sự của Tòa án nói chung và của Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng nói riêng, tác giả chọn nghiên cứu đề tài “Xét xử phúc thẩm hình sự từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng” làm đề tài luận văn thạc sĩ.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích: Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận, quy định của pháp luật TTHS Việt Nam về xét xử phúc thẩm hình sự và thực trạng thực hiện tại thành phố Đà Nẵng, luận văn đưa ra giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật TTHS hiện hành và một số giải pháp khác nâng cao chất lượng xét xử phúc thẩm các vụ án hình sự đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp.

3.2. Nhiệm vụ: Để đạt được mục đích luận văn có nhiệm vụ sau: Nghiên cứu những vấn đề lý luận về xét xử phúc thẩm vụ án hình sự như khái niệm, tính chất và ý nghĩa.

Phân tích, làm rõ những quy định của pháp luật TTHS Việt Nam về xét xử phúc thẩm hình sự, đồng thời phát hiện những điểm bất hợp lý hoặc chưa đầy đủ trong quy định về xét xử phúc thẩm hình sự; Nghiên cứu, làm rõ thực tiễn xét xử phúc các vụ án thẩm hình sự tại Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng trong những năm gần đây, chỉ ra những hạn chế vướng mắc trong việc thực hiện và nguyên nhân của nó làm cơ sở cho việc đưa ra các giải pháp.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

– Đối tượng nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản, quy định của pháp luật TTHS về xét xử phúc thẩm hình sự và thực tiễn thực hiện những quy định này tại TP Đà Nẵng.

– Phạm vi nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu đề tài được giao trên góc độ Luật hình sự và tố tụng hình sự. Vì thế, luận văn chỉ nghiên cứu quy định của pháp luật TTHS hiện hành về xét xử phúc thẩm hình sự mà không nghiên cứu các quy định trước khi BLTTHS năm 2003 có hiệu lực.

Luận văn không nghiên cứu xét xử sơ thẩm hình sự mà chỉ nghiên cứu xét xử phúc thẩm hình sự tại Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng từ năm 2010 đến năm 2014.

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của đề tài

– Cơ sở lý luận

Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin về Nhà nước và pháp luật; Tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước pháp quyền; quan điểm, đường lối của Đảng Cộng Sản Việt Nam về tăng cường pháp chế XHCN và xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì dân ở nước ta. Nhất là quan điểm chỉ đạo của Đảng về cải cách tư pháp trong Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về “Một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới” và Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về “Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020”. Đồng thời luận văn còn được nghiên cứu trên cơ sở những tri thức khoa học về pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

Trên cơ sở nghiên cứu để làm rõ cơ sở lý luận đảm bảo cho việc xét xử phúc thẩm các vụ án hình sự đúng quy định của pháp luật, khắc phục tình trạng án bị sửa, bị hủy và qua thực tiễn để phân tích, đánh giá thực trạng xét xử phúc thẩm các vụ án hình sự tại Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng, luận văn sẽ góp phần vào việc hoàn thiện lý luận chuyên ngành về pháp luật tố tụng hình sự, về xét xử phúc thẩm các vụ án hình sự của Tòa án trên cả nước nói chung, của Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng nói riêng. Về thực tiễn, kết quả nghiên cứu của đề tài được vận dụng để nâng cao hiệu quả, chất lượng xét xử phúc thẩm các vụ án hình sự tại Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng và tại các nơi khác trong cả nước.

7. Kết cấu luận văn

Ngoài phần mở đầu và kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận văn gồm có 03 chương.

Chương 1: Những vấn đề lý luận về xét xử phúc thẩm hình sự theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam

Chương 2: Các quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam hiện hành về xét xử phúc thẩm hình sự

Chương 3: Thực tiễn xét xử phúc thẩm hình sự tại thành phố Đà Nẵng và các kiến nghị, giải pháp nâng cao chất lượng xét xử phúc thẩm hình sự

Chương 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ

XÉT XỬ PHÚC THẨM HÌNH SỰ

THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM

    1. 1.1. Khái niệm, tính chất và ý nghĩa của xét xử phúc thẩm hình sự

Hiến pháp 2013 quy định: “Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp”. Xét xử được hiểu là “là hoạt động xem xét, đánh giá bản chất pháp lý của vụ việc nhằm đưa ra một phán xét về tính chất, mức độ pháp lý của vụ việc, từ đó nhân danh Nhà nước đưa ra một phán quyết tương ứng với bản chất, mức độ trái hay không trái pháp luật của vụ việc”. Việc xét xử phải tuân theo quy định pháp luật, trong đó, cần tuân theo một trong những nguyên tắc cơ bản khi xét xử đã được Hiến pháp 2013 ghi nhận “Chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm được bảo đảm”. Xét xử các vụ án hình sự phải thực hiện chế độ hai cấp xét xử. Cụ thể, sau khi xét xử sơ thẩm, bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị trong thời hạn luật định thì vụ án được xét xử theo thủ tục phúc thẩm ở Tòa án cấp trên; gọi là xét xử phúc thẩm. Trong khoa học Tố tụng hình sự, xét xử phúc thẩm được hiểu là giai đoạn của tố tụng hình sự. Nói một cách đầy đủ hơn, đó là giai đoạn tiếp theo của tố tụng hình sự (tiếp theo giai đoạn xét xử sơ thẩm), trong đó, Tòa án cấp trên trực tiếp xét xử lại vụ án hoặc xét lại quyết định sơ thẩm của Tòa án cấp dưới chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị theo quy định pháp luật.

Theo tác giả, xét xử phúc thẩm được hiểu như sau: “Xét xử phúc thẩm là một giai đoạn tố tụng hình sự. Trong giai đoạn này, Tòa án cấp trên trực tiếp xét xử lại mà bản án hoặc quyết định sơ thẩm đối với vụ án đó bị kháng cáo hoặc kháng nghị theo đúng trình tự, thủ tục do pháp luật tố tụng hình sự quy định, nhằm khắc phục sai lầm của Tòa án cấp dưới, bảo đảm áp dụng pháp luật thống nhất, bảo vệ lợi ích Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân”.

Xét về tính chất, xét xử sơ thẩm được hiểu là lần đầu tiên vụ án được đưa ra xét xử tại một Tòa án cấp sơ thẩm hoặc “xét xử lần đầu một vụ án ở cấp Tòa án thống nhất: Tòa sơ thẩm”. Theo quy định pháp luật, sau khi xét xử sơ thẩm, bị cáo và các đương sự có quyền bày tỏ sự không đồng ý của mình với nội dung bản án, quyết định sơ thẩm trong thời hạn luật định bằng việc kháng cáo và Viện kiểm sát phát hiện ra vi phạm pháp luật trong giải quyết vụ án thì được thể hiện quan điểm của mình bằng quyết định kháng nghị. Hoạt động xét xử phúc thẩm chỉ phát sinh khi có kháng cáo, kháng nghị hợp lệ theo quy định pháp luật tố tụng hình sự. Sau đó, khi có kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm, Tòa án cấp trên trực tiếp của Tòa án đã xét xử sơ thẩm sẽ tiến hành mở phiên tòa phúc thẩm để xét xử lại vụ án về mặt nội dung, cũng như xem xét tính hợp pháp, tính có căn cứ của bản án, quyết định sơ thẩm. Hoạt động xét xử phúc thẩm này kết thúc khi Tòa án cấp phúc thẩm ra bản án, quyết định phúc thẩm về vụ án đó. Bản án, quyết định phúc thẩm có hiệu lực pháp luật ngay sau khi tuyên án [29].

    1. 1.2. Căn cứ, thẩm quyền, giới hạn và phiên tòa xét xử phúc thẩm hình sự

– Căn cứ xét xử phúc thẩm hình sự

Trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, để xuất hiện giai đoạn xét xử phúc thẩm thì bản án hoặc quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm phải có kháng cáo, kháng nghị và phạm vi bản án bị kháng cáo, kháng nghị là căn cứ để xác định phạm vi xét xử phúc thẩm.

Sau khi xét xử sơ thẩm, trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày tuyên án, Viện kiểm sát cùng cấp kháng nghị những bản án hoặc quyết định sơ thẩm. Đối với Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp là ba mươi ngày, kể từ ngày tuyên án.

– Thẩm quyền xét xử phúc thẩm hình sự

Thẩm quyền xét xử được hiểu là “quyền xem xét và quyết định trong hoạt động xét xử của Tòa án theo quy định của pháp luật”. Theo đó, thẩm quyền xét xử của Tòa án theo nghĩa rộng bao gồm quyền xem xét, quyền giải quyết vụ án, ra bản án hoặc các quyết định khác. Do đó, thẩm quyền của Tòa án gồm hai yếu tố liên quan chặt chẽ với nhau là thẩm quyền về hình thức và thẩm quyền về nội dung. Trong đó, thẩm quyền về hình thức của Tòa án là cơ sở xác định thẩm quyền về nội dung và thẩm quyền về hình thức là quyền xem xét và phạm vi xem xét (giới hạn xét xử) của Tòa án. Thẩm quyền về nội dung là quyền hạn giải quyết, quyết định của Tòa án đối với những vấn đề được xem xét.

Ngoài ra, thẩm quyền xét xử còn được thể hiện trong phạm vi xem xét. Tòa án cấp phúc thẩm xem xét nội dung kháng cáo, kháng nghị. Trong trường hợp cần thiết có thể xem xét các phần khác không bị kháng cáo, kháng nghi. Theo quy định, việc xem xét trong nội dung kháng cáo, kháng nghị là trách nhiệm còn việc xem xét ngoài phạm vi kháng cáo, kháng nghị là quyền của Tòa án cấp phúc thẩm.

– Giới hạn xét xử phúc thẩm hình sự

Giới hạn được hiểu là “khoảng được giới hạn của một hoạt động, một vấn đề hay một cái gì đó”. Giới hạn xét xử phúc thẩm vụ án hình sự là giới hạn mà pháp luật tố tụng hình sự cho phép Tòa án cấp phúc thẩm được xem xét và quyết định khi xét xử phúc thẩm. Vượt ra ngoài phạm vi này, mọi quyết định về nội dung vụ án của Tòa án cấp phúc thẩm sẽ là trái pháp luật.

Tòa án cấp phúc thẩm chỉ xem xét các phần không có kháng cáo, kháng nghị của bản án sơ thẩm khi có các sai sót như: Áp dụng không đúng quy định pháp luật về Tội danh, mức hình phạt không phù hợp với tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, áp sụng sai hình phạt bổ sung. Tuy nhiên, BLTTHS 2003 tại khoản 2 điều 249 có quy định “Nếu có căn cứ, Tòa án cấp phúc thẩm có thể giảm hình phạt hoặc áp dụng điều khoản BLHS về tội nhẹ hơn, chuyển sang hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn; giữ nguyên mức phạt tù và cho hưởng án treo cho cả những bị cáo không kháng cáo hoặc không bị kháng cáo, kháng nghị”. Theo quy định này thì những trường hợp giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo được coi là trường hợp cần thiết, còn những trường hợp cần xác định bị cáo không có tội, miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt… cho bị cáo sẽ không được giải quyết. Và theo hướng dẫn của Thông tư 01 này thì tất cả các sai sót của Tòa án cấp sơ thẩm về vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng, xử lý vật chứng, sai sót về án phí ở phần bản án không có kháng cáo, kháng nghị đều không được xem là cần thiết và Tòa án cấp phúc thẩm không có quyền xem xét.

– Phiên tòa xét xử phúc thẩm hình sự

Khác với quy định về phiên tòa sơ thẩm được BLTTHS quy định chi tiết về từng hoạt động cần phải tiến hành trong từng phần thủ tục tại phiên tòa, Điều 247 BLTTHS quy định về phiên tòa phúc thẩm mang tính dẫn chiếu đến các quy định của BLTTHS về phiên tòa sơ thẩm nhưng có bổ sung một số đặc thù của phiên tòa phúc thẩm.

    1. 1.3. Các yếu tố tác động đến xét xử phúc thẩm hình sự

Xét xử là chức năng của Toà án đã được quy định trong Hiến pháp, thực tiễn xét xử còn có rất nhiều các yếu tố tác động làm ảnh hưởng đến các phán quyết của Toà án, bao gồm những yếu tố tác động tích cực và những yếu tố tác động không tích cực. Trước hết đề cập đến những yếu tố tác động tích cực bao gồm: Trình độ của các cán bộ làm công tác điều tra, truy tố, xét xử ngày càng được chuẩn hoá. Việc bổ nhiệm và các chức danh Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán phải có bằng cử nhân luật, có kinh nghiệm công tác và có chứng chỉ bồi dưỡng nghiệp vụ của Học viện Tư pháp, Trường Cán bộ Tòa án, Đại học Kiểm sát. Trong quá trình bổ nhiệm, đạo đức nghề nghiệp cũng được quan tâm đúng mức đảm bảo những người làm công tác pháp luật vừa có chuyên môn, vừa có phẩm chất đạo đức. Trình độ dân trí được nâng cao nên đòi hỏi các cán bộ tư pháp phải triệt để tuân thủ pháp luật, hạn chế thấp nhất tình trạng oan sai xảy ra.

Bên cạnh những yếu tố tích cực còn có những yếu tố không tích cực tác động đến hoạt động xét xử như sau:

Tổ chức Toà án ở nước ta hiện nay theo đơn vị hành chính lãnh thổ nên còn những hiện tượng can thiệp của chính quyền địa phương, của tổ chức Đảng vào hoạt động xét xử.

Pháp luật về tổ chức và hoạt động của các cơ quan bổ trợ tư pháp chưa đầy đủ, kịp thời. Tình trạng tham nhũng trong xã hội đã làm cho môi trường xét xử chưa được trong sạch thực sự. Vẫn còn hiện tượng một số cán bộ tư pháp sử dụng quyền của Nhà nước giao để làm công cụ kiếm tiền bất chính, các đương sự vẫn còn tư tưởng trực tiếp hay thông qua người khác để nhờ vả nhằm được giải quyết nhanh, có lợi cho mình nhất. Từ đó dẫn đến hiện tượng “chạy án” “cò mồi” vẫn còn xảy ra khi xét xử các vụ án khiến cho cán cân công lý bị thiên lệch hoặc chỉ vì một vài những vụ tiêu cực cụ thể mà lòng tin của các chủ thể vào công lý nói chung, vào Toà án nói riêng bị suy giảm. Ngoài ra, còn có một số yếu tố khác ảnh hưởng đến hoạt động xét xử của Toà án như: thói quen trong xét xử, thói quen của đương sự; chính sách và chế độ đãi ngộ đối với người làm công tác xét xử chưa hợp lý; quy định nhiệm kỳ của Thẩm phán chưa phù hợp; do quá lâu về mặt thời gian giải quyết vụ việc do ngại đưa vấn đề ra công khai; do Tòa án không có khả năng chuyên môn để giải quyết vấn đề rõ ràng, sát đúng.

KẾT LUẬN CHƯƠNG 1

Trên cơ sở phân tích những vấn đề lý luận về xét xử phúc thẩm vụ án hình sự, tác giả làm rõ khái niệm, tính chất, ý nghĩa và các căn cứ, thẩm quyền, giới hạn và phiên tòa xét xử phúc thẩm vụ án hình sự. Đồng thời, tác giả đã làm sáng tỏ cơ sở pháp lý và lý luận chung về xét xử phúc thẩm vụ án hình sự của Tòa án.

Đó là những vấn đề làm tiền đề cho việc phân tích, làm rõ những quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về xét xử phúc thẩm vụ án hình sự tại Chương 2, cũng như luận văn này đánh giá thực tiễn áp dụng trong xét xử phúc thẩm, đưa ra những giải pháp nhằm đảm bảo và góp phần nâng cao chất lượng công tác xét xử phúc thẩm trong việc giải quyết các vụ án hình sự, đảm bảo đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, đảm bảo công lý, công bằng xã hội tại chương 3 luận văn.

Tại Chương 1, tác giả còn đưa ra ý kiến của mình về các yếu tố tác động đến xét xử phúc thẩm vụ án hình sự để làm cơ sở cho việc nghiên cứu thực tiễn và hoàn thiện pháp luật về vấn đề này.

Xét xử phúc thẩm hình sự từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng
Xét xử phúc thẩm hình sự từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng

Chương 2

CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ

VIỆT NAM HIỆN HÀNH VỀ XÉT XỬ PHÚC THẨM HÌNH SỰ

    1. 2.1. Quy định về căn cứ xét xử phúc thẩm hình sự

Căn cứ xét xử phúc thẩm vụ án hình sự được phát sinh trong nhiệm vụ giải quyết từng vụ án cụ thể, đó là những vụ án mà bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật do có kháng cáo, kháng nghị của những người có quyền kháng cáo, kháng nghị. Chính những kháng cáo, kháng nghị hợp pháp là căn cứ để bản án, quyết định chưa có hiệu lực pháp luật trở thành đối tượng cần được xem xét giải quyết ở giai đoạn phúc thẩm. Do đó, cơ sở pháp lý có nguồn gốc làm phát sinh thẩm quyền xét xử phúc thẩm chính là kháng cáo, kháng nghị hợp pháp đối với những bản án, quyết định sơ thẩm.

Xuất phát từ quy định về tính chất của XXPT tại Điều 230 BLTTHS là việc Tòa án cấp trên trực tiếp xét xử lại vụ án hoặc xem xét lại quyết định sơ thẩm của Tòa án cấp dưới cho nên để xác định được thẩm quyền của Tòa án cần làm rõ nhưng Tòa án nào được xét xử sơ thẩm và Tòa án nào được xác định là Tòa án cấp trên [7].

Phạm vi XXPT có thể hiểu là giới hạn nội dung những vấn đề mà TACPT có thể xem xét, quyết định. Việc quy định phạm vi XXPT có ý nghĩa rất quan trọng nhằm đảm bảo tính ổn định của bản án sơ thẩm. Theo quy định tại Điều 241 BLTTHS thì phạm vi XXPT được xác định là việc “TACPT xem xét nội dung kháng cáo, kháng nghị. Nếu xét thấy cần thiết thì TACPT có thể xem xét các phần khác không bị kháng cáo, kháng nghị của bản án.” Như vậy, có thể thấy, phạm vi XXPT rất quan trọng vì chúng là cơ sở để HĐXXPT giải quyết các nội dung liên quan đến vụ án, phạm vi XXPT chỉ bị giới hạn bởi quy định của pháp luật như phân tích trên.

Điều 244 BLTTHS quy định: “HĐXXPT gồm ba Thẩm phán và trong trường hợp cần thiết có thể có thêm hai Hội thẩm.” Việc quy định Hội đồng XXPT phải có ba Thẩm phán xuất phát từ tính chất của XXPT là việc xét lại bản án, quyết định của TACST chưa có hiệu lực, có kháng cáo, kháng nghị nên cần phải có một tập thể có kiến thức pháp lý vững chắc, có kinh nghiệm trong việc kinh qua giải quyết các VAHS nhằm đánh giá tính có căn cứ của bản án, quyết định bị kháng cáo, kháng nghị.

      1. 2.4.2. Về những người tham gia phiên tòa phúc thẩm

Theo quy định tại Điều 245 BLTTHS, mục 3 phần II Nghị quyết số 05/2005/NQ-HĐTP, những người tham gia phiên tòa phúc thẩm bao gồm: Người tiến hành tố tụng (Kiểm sát viên Viện kiểm sát cùng cấp) và người tham gia tố tụng (người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, người kháng cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến việc kháng cáo, kháng nghị) và người khác mà TACPT thấy cần thiết, triệu tập họ; Đối với Kiểm sát viên Viện Kiểm sát cùng cấp, khoản 1 Điều 245 BLTTHS; Đối với người tham gia phiên tòa phúc thẩm là người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự, người kháng cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến việc kháng cáo, kháng nghị được triệu tập tham gia phiên tòa, khoản 2 Điều 245 BLTTHS quy định họ phải tham gia phiên tòa; Đối với những người khác không phải là Kiểm sát viên và người tham gia tố tụng bên trên, khoản 3 Điều 245 BLTTHS trao quyền quyết định cho TACPT quyết định, nếu xét thấy sự có mặt của họ là cần thiết thì TACPT triệu tập họ tham gia phiên tòa. Ngoài ra, việc xác định trường hợp nào được xem là triệu tập hợp lệ người tham gia tố tụng, người khác tham gia phiên tòa; trường hợp nào người tham gia tố tụng, người khác được triệu tập vắng mặt mà Tòa án tiếp tục xét xử vắng mặt họ hoặc phải hoãn phiên tòa; trường hợp nào được xem là bản án, quyết định của TACPT bất lợi hay không bất lợi cho những người tham gia tố tụng vắng mặt được hướng dẫn cụ thể tại mục 3 Phần II Nghị quyết số 05/2005/NQ-HĐTP.

      1. 2.4.3. Việc xem xét, bổ sung chứng cứ tại phiên tòa phúc thẩm

Điều 246 BLTTHS quy định, trước khi xét xử hoặc trong khi xét hỏi tại phiên tòa, Viện kiểm sát có thể tự mình hoặc theo yêu cầu của Tòa án bổ sung chứng cứ mới; người đã kháng cáo và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến việc kháng cáo, kháng nghị; người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự cũng có quyền bổ sung tài liệu, đồ vật. Chứng cứ cũ, chứng cứ mới, tài liệu, đồ vật mới bổ sung đều phải được xem xét tại phiên tòa. Bản án của TACPT phải căn cứ vào cả chứng cứ cũ và mới.

      1. 2.4.4. Về thủ tục phiên tòa phúc thẩm

Khác với quy định về phiên tòa sơ thẩm được BLTTHS quy định chi tiết về từng hoạt động cần phải tiến hành trong từng phần thủ tục tại phiên tòa, Điều 247 BLTTHS quy định về phiên tòa phúc thẩm mang tính dẫn chiếu đến các quy định của BLTTHS về phiên tòa sơ thẩm nhưng có bổ sung một số đặc thù của phiên tòa phúc thẩm. Cụ thể, “Phiên tòa phúc thẩm cũng tiến hành như phiên tòa sơ thẩm nhưng trước khi xét hỏi, một thành viên của HĐXX phải trình bày tóm tắt nội dung vụ án, quyết định của bản án sơ thẩm, nội dung của kháng cáo hoặc kháng nghị. Khi tranh luận, Kiểm sát viên phát biểu quan điểm của Viện kiểm sát về việc giải quyết vụ án” [7].

      1. 2.4.5. Thẩm quyền của Hội đồng xét xử phúc thẩm

Theo quy định tại khoản 2 Điều 248, Điều 249, Điều 250, Điều 251, Điều 252 BLTTHS thì HĐXX phúc thẩm có quyền: (1) Không chấp nhận kháng cáo, kháng nghị và giữ nguyên bản án sơ thẩm; (2) Sửa bản án sơ thẩm; (3) Hủy bản án sơ thẩm và chuyển hồ sơ vụ án để điều tra lại hoặc xét xử lại; (4) Hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ vụ án. Tùy từng trường hợp mà HĐXX phúc thẩm có thể ra một trong các quyết định này hoặc có thể ra nhiều quyết định khác nhau trong cùng vụ án.

KẾT LUẬN CHƯƠNG 2

Qua việc nghiên cứu các quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về xét xử phúc thẩm vụ án hình sự có thể rút ra một số kết luận sau:

Qua các nội dung nghiên cứu bên trên, có thể khẳng định quy định của BLTTHS về xét xử phúc thẩm là khá đầy đủ, đảm bảo các nội dung của một cấp xét xử. Nhận định này được thể hiện qua từng nội dung đã trình bày ở trên. Mặc dù, các vấn đề được nghiên cứu trên không phải là nội dung chính của đề tài nhưng việc nắm vững quy định của BLTTHS về xét xử phúc thẩm sẽ có ý nghĩa quan trọng cho bước tiếp theo nghiên cứu nội dung chính của luận văn. Nhìn chung, từng mục mà đề tài nghiên cứu đã có sự trình bày tương đối đầy đủ về quy định của BLTTHS cũng như văn bản hướng dẫn và có sự phân tích đánh giá nên giúp dễ dàng nắm bắt. Tuy nhiên, kết quả nghiên cứu nội dung nêu trên cũng chỉ ra rằng, một số quy định của BLTTHS và văn bản hướng dẫn về xét xử phúc thẩm chưa cụ thể, rõ ràng. Không những thế, một số quy định của BLTTHS trong Chương xét xử phúc thẩm còn mâu thuẫn và một số quy định của Chương xét xử phúc thẩm mâu thuẫn với quy định tại các chương khác của BLTTHS. Chính vì vậy, việc tạo ra các bất cập, vướng mắc trong thực tiễn áp dụng quy định của BLTTHS về xét xử phúc thẩm là khó tránh khỏi. Cho nên, trên cơ sở nghiên cứu một cách khái quát các quy định của BLTTHS về xét xử phúc thẩm, nội dung tiếp theo của đề tài sẽ hệ thống các vướng mắc, bất cập từ các quy định của pháp luật tố tụng hình sự về xét xử phúc thẩm và thực tiễn áp dụng các quy định này và đề xuất các giải pháp khắc phục.

Xét xử phúc thẩm hình sự từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng
Xét xử phúc thẩm hình sự từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng

Chương 3

THỰC TIỄN XÉT XỬ PHÚC THẨM HÌNH SỰ

TẠI THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG VÀ CÁC KIẾN NGHỊ,

GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG XÉT XỬ

PHÚC THẨM HÌNH SỰ

Trong khoảng thời gian từ năm 2010 đến năm 2014, Tòa án nhân dân hai cấp thành phố Đà Nẵng đã giải quyết sơ thẩm tổng cộng 3.272 vụ 5.918 bị cáo. Trong đó, số vụ án có kháng cáo, kháng nghị là 1.558 vụ 2.073 bị cáo. Kết quả xét xử phúc thẩm: đình chỉ xét xử phúc thẩm 497 vụ 615 bị cáo, giữ nguyên án sơ thẩm 730 vụ 976 bị cáo; sửa án sơ thẩm 312 vụ 449 bị cáo, chiếm tỷ lệ 20,02%, hủy án sơ thẩm 19 vụ 33 bị cáo, chiếm tỷ lệ 01,21%. (Xem phụ lục 1).

Về cơ bản Tòa án cấp phúc thẩm tại thành phố Đà Nẵng đã xét xử phúc thẩm đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, được nhân dân và dư luận xã hội đánh giá cao. Chẳng hạn, trong công tác xét xử phúc thẩm tại thành phố Đà Nẵng đã phát hiện, xét xử và hủy khá nhiều bản án của cấp sơ thẩm. Trong số những vụ án bị hủy từ năm 2010 – 2014, nổi bật là những vụ án có những sai sót về mặt tố tụng và cả ý chí chủ quan của Thẩm phán.

Hay như trong hình phạt của bản án sơ thẩm được quyết định nhẹ quá, không tương xứng với tính chất và mức độ của hành vi phạm tội cũng là lý do để Tòa án cấp phúc thẩm hủy án.

Khi xét xử phúc thẩm, TAND TP Đà Nẵng cũng hủy bản án sơ thẩm của Tòa án các quận huyện do các bản án có vi phạm điều 223 BLTTHS.

Sai phạm về quyết định án phí cũng là lý do để Tòa án cấp phúc thẩm hủy án.

Hay định tội danh sai lẽ dĩ nhiên là căn cứ để Tòa án cấp phúc thẩm hủy án.

Qua xét xử phúc thẩm tại thành phố Đà Nẵng, Tòa án cấp phúc thẩm phát hiện một số sai sót khác đã được rút kinh nghiệm nhưng vẫn chưa được khắc phục như:

Trình tự tranh tụng tại phiên tòa (điều 217 BLTTHS); Tính thời gian thụ hình của bị cáo không đúng; Tính thời gian thử thách cho bị cáo khi cho hưởng án treo không đúng. Tính thời gian thụ hình của bị cáo không đúng, theo quy định thì thời gian thụ hình đựơc tính từ ngày có quyết định tạm giữ, ngày của biên bản bắt hoặc biên bản bắt người có hành vi phạm tội quả tang nhưng một số bản án tính thời gian thụ hình kể từ ngày ra quyết định tạm giam là không đúng.

Một số trường hợp áp dụng tình tiết phạm tội nhiều lần (điểm g khoản 1 điều 48 BLHS) không đúng, bị cáo chiếm đoạt nhiều lần, đã tính tổng giá trị các lần lại để truy tố xét xử bị cáo theo tình tiết định khung (về giá trị tài sản chiếm đoạt theo điểm a khỏan 2 hoặc khỏan 3, 4 điều 138, hoặc 140 BLHS) nhưng lại vẫn áp dụng tình tiết tăng nặng phạm tội nhiều lần đối với bị cáo là không đúng.

Chuyển hồ sơ lên phúc thẩm quá 45 ngày và khi chuyển hồ sơ lên thì chưa có biên bản phiên tòa, không có thông báo cho xã phường, thông báo kháng cáo thì không đúng tên bị cáo (ghi tên bị cáo của vụ án khác).

Sai sót về thời gian nghị án và thời gian kết thúc phiên tòa. Ví dụ: biên bản nghị án bắt đầu lúc 10 giờ, biên bản phiên tòa cũng kết thúc lúc 10 giờ, có trường hợp biên bản phiên tòa kết thúc trước biên bản nghị án.

Tuyên phần dân sự không rõ ràng, không đúng: Nhận định của bản án có nêu bị cáo phải bồi thường cho người bị hại nhưng phần quyết định lại không tuyên buộc bị cáo phải bồi thường mà chỉ tuyên tạm giữ số tiền gia đình bị cáo nộp để đảm bảo thi hành án hoặc chỉ tuyên trả lại tiền các bị cáo đã nộp cho người bị hại; Một số bản án nhận định không rõ ràng về việc chấp nhận khoản nào, không chấp nhận khoản nào; Buộc bồi thường về danh dự nhân phẩm 20 tháng lương tối thiểu trong khi quy định mức tối đa là 10 tháng lương tối thiểu.

    1. 3.2. Những bất cập, hạn chế trong xét xử phúc thẩm hình sự tại thành phố Đà Nẵng và nguyên nhân của những bất cập, hạn chế đó

Trong những năm qua, xét xử phúc thẩm hình sự của TAND thành phố Đà Nẵng không để xảy ra oan sai, bỏ lọt tội phạm. Phiên tòa được tổ chức có sự đổi mới thủ tục tranh tụng tại phiên tòa theo hướng thực chất, đảm bảo dân chủ, công khai, đúng quy định pháp luật. Hình phạt áp dụng đảm bảo nghiêm minh, tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo và đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm trong tình hình hiện nay. Các trường hợp cho hưởng án treo hoặc áp dụng hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù đều được cân nhắc kỹ lưỡng, đảm bảo có căn cứ pháp luật. Không có bị cáo bị kết án về tội tham nhũng được cho hưởng án treo. Chất lượng tranh tụng trong phiên tòa hình sự không ngừng được nâng cao, đảm bảo định hướng theo tinh thần cải cách tư pháp. Tòa án nhân dân hai cấp thành phố Đà Nẵng đã khắc phục triệt để trình trạng để án quá hạn luật định, chậm ban hành các bản án về hình sự. Việc áp dụng hình phạt tù nhưng cho hưởng án treo, cải tạo không giam giữ về cơ bản đảm bảo theo quy định của pháp luật.

Tuy nhiên, trong xét xử phúc thẩm hình sự tại thành phố Đà Nẵng vẫn còn một số hạn chế, bất cập, thậm chí là sai lầm xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau, trong đó có những hạn chế, bất cập của pháp luật tố tụng hình sự về xét xử phúc thẩm hình sự.

Điều 241 BLTTHS quy định: “TACPT xem xét nội dung kháng cáo, kháng nghị. Nếu xét thấy cần thiết thì TACPT có thể xem xét các phần khác không bị kháng cáo, kháng nghị của bản án”. Tuy nhiên, quy định của BLTTHS về vấn đề này có một số điểm chưa phù hợp.

– Những hạn chế, bất cập của pháp luật tố tụng hình sự về xem xét, bổ sung chứng cứ tại phiên tòa phúc thẩm

– Những hạn chế, bất cập của pháp luật tố tụng hình sự về thủ tục phiên tòa phúc thẩm

– Những hạn chế, bất cập của pháp luật tố tụng hình sự về thẩm quyền của Hội đồng xét xử phúc thẩm

– Những hạn chế, bất cập của pháp luật tố tụng hình sự về xác định tư cách tham gia tố tụng của bị cáo không có kháng cáo

    1. 3.3. Phương hướng và các giải pháp nâng cao chất lượng xét xử phúc thẩm hình sự từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng
      1. 3.3.1. Phương hướng nâng cao chất lượng xét xử phúc thẩm hình sự

Hiện nay, hoạt động xét xử phúc thẩm hình sự của Toà án cần được xem xét trong điều kiện khu vực hoá và toàn cầu hoá kinh tế đang diễn ra mạnh mẽ như là một xu hướng khách quan của nền kinh tế thế giới. Cải cách tư pháp là vấn đề tất yếu phải đặt ra, trong đó trọng tâm là Toà án. Do vậy, hoạt động xét xử của Toà án dựa trên các nhu cầu và phương hướng sau đây:

Xuất phát từ yêu cầu của cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay. Xây dựng cơ chế xét xử đảm bảo sự độc lập của Toà án, độc lập của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân là một trong những yếu tố quyết định chất lượng xét xử. Nâng cao chất lượng tranh tụng theo tinh thần Nghị quyết số 08/NQ-TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị Ban chấp hành trung ương Đảng. “Các bản án, quyết định của Toà án cấp sơ thẩm phải là kết quả của quá trình tranh tụng công khai, dân chủ tại phiên tòa. Để thực hiện tranh tụng tại phiên tòa vai trò của Toà án có ý nghĩa quyết định, sự chủ động, sáng tạo, trách nhiệm của Toà án đến đâu chính là biểu hiện của nguyên tắc tranh tụng”. Nâng cao hiệu quả xét xử phúc thẩm hình sự xuất phát từ nhu cầu phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế và phù hợp với tình hình địa phương. Xây dựng cơ chế xét xử đảm bảo yêu cầu dân chủ, giản tiện, hiệu quả và minh bạch. Nhu cầu hoàn thiện pháp luật về tổ chức của Toà án có thẩm quyền xét xử các vụ án. Hệ thống Toà án ở nước ta, trong đó có các toà chuyên trách được tổ chức theo đơn vị hành chính cũng làm ảnh hưởng đến sự “độc lập” trong xét xử của Toà án.

3.3.2.1. Sửa đổi, bổ sung các quy định pháp luật tố tụng hình sự

– Bổ sung, sửa đổi các quy định về quyền hạn của các cấp xét xử;

– Hoàn thiện quy định của pháp luật tố tụng hình sự nước ta về Tòa án và người tiến hành tố tụng thuộc Tòa án;

– Khắc phục các vướng mắc về phạm vi xét xử phúc thẩm;

3.3.2.2. Các giải pháp khác

– Nâng cao trình độ, năng lực cho Thẩm phán, Kiểm sát viên, Điều tra viên;

– Nâng cao trình độ, năng lực, ý thức pháp luật của Luật sư:

– Nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa: Theo tinh thần cải cách tư pháp của Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 và tiếp đó là Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 2/6/2005 cũng khẳng định: để nâng cao chất lượng tranh tụng cần phải đảm bảo quyền bình đẳng giữa người tham gia tố tụng và người tiến hành tố tụng, bình đẳng cả trong việc đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu và tranh luận dân chủ trước Tòa án; Tòa án có trách nhiệm tạo điều kiện cho họ thực hiện các quyền đó nhằm làm rõ sự thật khách quan của vụ án. Mặc dù tranh luận tại phiên tòa đã được ghi nhận trong BLTTHS thể hiện ở nguyên tắc bình đẳng trước Tòa án nhưng nguyên tắc tranh tụng chưa được quy định cụ thể thành một nguyên tắc trong BLTTHS. Do đó, cần quy định tranh luận tại phiên tòa là một nguyên tắc chính thức trong luật. Cần sửa đổi các quy định của BLTTHS theo hướng các quy định chung và quy định cụ thể phải thống nhất với nhau, quy định cụ thể về chức năng, nhiệm vụ của Tòa án là người tài phán, điều khiển để các bên buộc tội, bào chữa và những người tham gia tố tụng khác làm rõ các vấn đề của vụ án; quy định trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát.

Cần phải đổi mới việc tổ chức phiên tòa xét xử, xác định rõ hơn vị trí, quyền hạn, trách nhiệm của người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng theo hướng bảo đảm tính công khai, dân chủ, nghiêm minh. Trước hết cần đổi mới sắp xếp bố trí vị trí ngồi của những người tiến hành tố tụng: Với vai trò là người tài phán, quyết định HĐXX được sắp xếp riêng biệt nơi cao nhất; Thư ký ngồi dưới, phía trước HĐXX. Kiểm sát viên và luật sư ngồi ngang bằng, đối diện với nhau. Phải cân đối lượng thời gian tiến hành trong từng phần của một phiên tòa xét xử vụ án một cách hợp lý: thời gian làm thủ tục, thời gian xét hỏi và tranh luận, thời gian nghị án… Như vậy mới tăng cường được việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội, nâng cao chất lượng tranh tụng.

Tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật cho người dân thông qua việc xét xử lưu động, thông qua phương tiện thông tin đại chúng. Có hiểu biết pháp luật thì khi tham gia tố tụng họ mới thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình để tự bào chữa, có quyền đưa ra chứng cứ để bảo vệ quyền lợi cho mình, góp phần nâng cao được chất lượng tranh tụng tại phiên tòa.

Cần tăng cường hơn nữa công tác phối hợp với các ngành Công an, Viện Kiểm sát nhằm tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong quá trình giải quyết án.

KẾT LUẬN CHƯƠNG 3

1. Từ kết quả nghiên cứu lý luận và quy định của luật thực định với tính chất là cơ sở lý luận và pháp lý của hoạt động xét xử phúc thẩm vụ án hình sự; đánh giá thực trạng xét xử phúc thẩm vụ án hình sự của TAND thành phố Đà Nẵng trong những năm gần đây, Chương 3 của luận văn tập trung xây dựng các giải pháp nhằm đảm bảo và nâng cao hiệu quả chất lượng xét xử phúc thẩm vụ án hình sự tại thành phố Đà Nẵng. Những giải pháp này được xây dựng trên cơ sở quán triệt những quan điểm của Đảng và Nhà nước về cải cách tư pháp và tình hình thực tế ở địa phương nên có cơ sở lý luận và thực tiễn, có tính đồng bộ và khả thi.

2. Những giải pháp về hoàn thiện pháp luật TTHS cũng như cơ chế bảo đảm cho hoạt động xét xử phúc thẩm vụ án hình sự có thể được triển khai không chỉ ở TAND thành phố Đà Nẵng mà có thể vận dụng triển khai ở các địa phương khác nhằm nâng cao hiệu quả chất lượng xét xử phúc thẩm vụ án hình sự tại thành phố Đà Nẵng, góp phần bảo vệ Đảng, Nhà nước, công dân, bảo vệ công bằng và công lý trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN và mở rộng hơn nữa hội nhập quốc tế.

3. Các giải pháp mà tác giả kiến nghị trong luận văn góp phần tạo nên sự thống nhất trong hoạt động xét xử phúc thẩm vụ án hình sự và hoạt động của Tòa án.

KẾT LUẬN

Thông qua việc nghiên cứu đề tài “Xét xử phúc thẩm hình sự từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng”, tác giả luận văn đi đến kết luận như sau:

1. Xét xử phúc thẩm vụ án hình sự tuy không phải là vấn đề mới mẻ trong TTHS nhưng trong thực tế chưa được quan tâm đúng mực nên hầu như không có công trình nghiên cứu trực tiếp về vấn đề này.

2. Về mặt lý luận, trên cơ sở làm rõ những vấn đề chung nhất của hoạt động xét xử phúc thẩm vụ án hình sự, luận văn đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu truyền thống đối với lĩnh vực khoa học xã hội để làm rõ khái niệm, tính chất, ý nghĩa, căn cứ, thẩm quyền, giới hạn và phiên tòa xét xử phúc thẩm vụ án hình sự trong tố tụng hình sự Việt Nam.

3. Về mặt thực tiễn, bằng việc đánh giá thực trạng quy định của BLTTHS năm 2003 về xét xử phúc thẩm vụ án hình sự và đặc biệt là đánh giá hoạt động giải quyết các vụ án hình sự phúc thẩm của TAND thành phố Đà Nẵng, luận văn đã chỉ ra những vướng mắc và hạn chế trong việc xét xử phúc thẩm vụ án hình sự. Đồng thời kiến nghị sửa đổi, bổ sung quy định của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành liên quan đến công tác xét xử phúc thẩm vụ án hình sự và cơ chế đảm bảo cho công tác xét xử phúc thẩm có hiệu quả.

4. Để nâng cao chất lượng và hiệu quả xét xử phúc thẩm vụ án hình sự, luận văn kiến nghị thực hiện đồng bộ các giải pháp khắc phục những bất cập, vướng mắc từ phương diện lập pháp, thực thi pháp luật và từ phía cơ quan Tòa án, người tiến hành tố tụng mà cụ thể là đối với Thẩm phán tham gia giải quyết vụ án.

Với tầm hiểu biết hạn chế, trong phạm vi có hạn của một luận văn thạc sĩ luật học, với kinh nghiệm của một cán bộ làm công tác thực tiễn tại Tòa án, tôi cố gắng phân tích làm rõ những vấn đề lý luận, thực tiễn về hoạt động xét xử phúc thẩm vụ án hình sự tại thành phố Đà Nẵng để từ đó đưa ra kiến nghị phù hợp. Có thể nói luận văn đã góp phần bổ sung thêm vấn đề lý luận, nâng cao nhận thức của Thẩm phán trong việc hoàn thiện công tác xét xử phúc thẩm vụ án hình sự, thông qua đó thực hiện mục tiêu của luận văn là hoàn thiện quy định của pháp luật tố tụng hình sự về hoạt động xét xử phúc thẩm vụ án hình sự và nâng cao chất lượng xét xử khi giải quyết phúc thẩm vụ án hình sự.

LIỆN HỆ:

SĐT+ZALO: 0935568275

 

E:\DỮ LIỆU COP CỦA CHỊ YẾN\LUAN VAN VIEN HAN LAM\LUAT HINH SU DOT 2\LUAT HINH SU\HO QUANG HUNG\SAU BAO VE

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *