TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH GÂY TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE

TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE NGƯỜI KHÁC THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM

TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE NGƯỜI KHÁC THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN Ở HUYỆN PHÙ CÁT, TỈNH BÌNH ĐỊNH

1. Tính cấp thiết của đề tài

Trải qua 40 năm xây dựng và phát triển, sự nghiệp đổi mới ở đất nước ta đã dành được nhiều thắng lợi to lớn và quan trọng, đưa đất nước ta thoát khỏi tình trạng khủng hoảng về kinh tế – xã hội, tạo thế và lực mới để phát triển đi lên. Sự nghiệp đó đang tiếp tục được triển khai ngày càng sâu rộng, có hệ thống, tạo điều kiện thuận lợi để đất nước thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa, làm cho dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh.

Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đã đạt được, mặt trái của nền kinh tế thị trường cũng đã gây nên những ảnh hưởng tiêu cực cho đời sống xã hội. Nó trở thành nguyên nhân và điều kiện cho tội phạm phát sinh, phát triển; trong đó, có tội phạm cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác diễn biến ngày càng phức tạp, với tính chất và mức độ ngày càng nguy hiểm, tình hình tội phạm có chiều hướng ngày càng nghiêm trọng hơn.

Tại huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định cũng vậy, đối tượng phạm tội hoạt động với những phương thức, thủ đoạn ngày càng đa dạng, tinh vi, vừa liều lĩnh – táo bạo, vừa công khai – trắng trợn và thường sử dụng hung khí nguy hiểm để gây án. Đặc biệt, số vụ phạm tội với số đông người hoặc dưới hình thức đồng phạm, số vụ gây thương tích do mâu thuẫn trong một bộ phận nhân dân, do người sử dụng rượu, bia diễn ra với tính chất trắng trợn, dã man, ngang ngược, coi thường pháp luật ngày càng tăng. Tình hình trên đem lại hậu quả nghiêm trọng, vì không những gây ra nỗi đau về thể xác và tinh thần cho nạn nhân mà còn phương hại đến tình hình an ninh, trật tự xã hội -tạo tâm lý bất an cho nhân dân, gây ra hậu quả nặng nề về mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội ở địa phương.

Trước tình hình trên, các cơ quan bảo vệ pháp luật của huyện Phù Cát đã áp dụng các biện pháp có hiệu quả trong đấu tranh, phòng, chống tội phạm nói chung, tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác nói riêng; xử lý kịp thời, nghiêm minh mọi hành vi phạm tội và người phạm tội. TAND huyện Phù Cát đã xử phạt nghiêm khắc đối với những hành vi cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác có tính chất nghiêm trọng, nguy hiểm của nhiều kẻ phạm tội, có tác dụng răn đe, phòng ngừa tội phạm, phục vụ yêu cầu chính trị của địa phương.

Chính vì vậy, việc nghiên cứu toàn diện và có hệ thống những vấn đề lý luận và thực tiễn đấu tranh phòng chống tội phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong lĩnh vực xét xử tại huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định và đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng chống loại tội phạm này tại địa phương là một yêu cầu bức thiết và mang tính thời sự cao.

2. Tình hình nghiên cứu

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

Mục đích nghiên cứu

Đề tài có mục đích làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn xét xử tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác ở huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định trong những năm gần đây (2010-2014), nghiên cứu những kết quả đạt được trong hoạt động xét xử tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác. Chỉ ra những hạn chế, thiếu sót, vướng mắc trong xét xử loại tội này. Trên cơ sở phân tích những yếu tố, đề xuất các giải pháp hoàn thiện các quy định của pháp luật nhằm tăng cường hiệu quả đấu tranh phòng, chống tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác và việc áp dụng pháp luật trong lĩnh vực xét xử loại tội này của ngành Tòa án nhân dân nói chung và Tòa án nhân dân huyện Phù Cát nói riêng.

Nhiệm vụ của luận văn

– Một là: Phân tích về cơ sở lý luận của loại tội phạm này về các yếu tố thuộc dấu hiệu pháp lý đặc trưng của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác; so sánh với quy định của BLHS của một số nước trên thế giới về loại tội này.

– Hai là: Tổng kết, đánh giá thực tiễn xét xử tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác ở huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định trong những năm gần đây; đi sâu, phân tích, đánh giá một số vụ án điển hình để từ đó rút ra những ưu điểm và tồn tại trong hoạt động xét xử loại tội này, nguyên nhân và các giải pháp.

– Ba là: Đề xuất các giải pháp hoàn thiện quy định của pháp luật hình sự về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Là các quy định của pháp luật hình sự về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong BLHS năm 1999 và thực tiễn xét xử về loại tội này ở TAND huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định; từ đó đưa ra những giải pháp để hoàn thiện các quy định về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác. Bên cạnh đó, luận văn có so sánh quy định của pháp luật hình sự Việt Nam với một số nước trên thế giới như: Nhật Bản, Liên bang Nga, Trung Quốc, …

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu

Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử; quan điểm cơ bản của Đảng cộng sản Việt Nam và Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam về đấu tranh phòng, chống tội phạm; lý luận về tội phạm học, luật hình sự và luật tố tụng hình sự. Luận văn sử dụng phương pháp khảo sát, thống kê thực tế số liệu xét xử, hỏi ý kiến chuyên gia, phương pháp so sánh pháp luật, tổng hợp để rút ra các kết luận khoa học của mình.

6. Những đóng góp mới về khoa học, thực tiễn và ý nghĩa của luận văn

6.1. Những đóng góp mới: Luận văn nêu ra thực tiễn xét xử và những hạn chế, thiếu sót, vướng mắc trong thực tiễn xét xử tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác ở huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định từ năm 2010-2014, chỉ ra những nguyên nhân và đề xuất các giải pháp khắc phục nhằm hạn chế việc xét xử oan sai, bỏ lọt tội phạm, góp phần hoàn thiện lý luận quy định pháp luật hình sự.

6.2. Ý nghĩa của luận văn

– Góp phần hoàn thiện pháp luật hình sự và qua đó nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng, chống tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác ở Việt Nam nói chung và ở huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định nói riêng; Nâng cao hiệu quả việc áp dụng pháp luật trong hoạt động xét xử loại tội này.

– Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể được dùng để tham khảo và vận dụng xây dựng các biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả của cuộc đấu tranh phòng, chống tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong hoạt động xét xử của ngành TAND tại Việt Nam.

7. Kết cấu của luận văn: Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục và danh mục tài liệu tham khảo thì luận văn gồm 3 chương:

Chương 1. Những vấn đề lý luận và pháp luật về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong luật hình sự Việt Nam

Chương 2. Thực tiễn xét xử tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác ở huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định từ năm 2010 đến năm 2014

Chương 3. Giải pháp hoàn thiện quy định của pháp luật hình sự về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác

Chương 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM

1.1. Khái quát lịch sử hình thành và phát triển của Luật hình sự Việt Nam về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác ở Việt Nam từ năm 1945 đến nay

1.1.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến trước khi pháp điển hóa lần thứ nhất

Ngay sau khi miền Bắc được hoàn toàn giải phóng, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Thông tư số 442-TTg ngày 19/01/1955 chính thức quy định tội cố ý gây thương tích. Cụ thể là, tại Điểm 3 của Thông tư có quy định: “đánh bị thương phạt tù từ 3 tháng đến 5 năm”; “đánh bị thương có tổ chức hay gây thành cố tật, hay gây chết người có thể phạt tù đến 20 năm. Thông tư đã đưa ra được ba tình tiết tăng nặng định khung hình phạt, đó là: “có tổ chức”, “gây thành cố tật” hoặc “gây chết người”.

Ngày 15/3/1976, Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam đã ban hành sắc luật số 03-SL/76 quy định về tội phạm và hình phạt với 7 loại tội phạm, trong đó có quy định về tội cố ý gây thương tích. Tại Điểm b Điều 5 Sắc luật số 03-SL/76 quy định: “Phạm tội cố ý gây thương tích thì bị phạt tù từ 6 tháng đến 5 năm, trường hợp nghiêm trong thì bị phạt tù đến 20 năm”.

Ngày 02/7/1976, Quốc hội chính thức đổi tên nước ta thành nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, pháp luật được áp dụng chung cho cả nước. Do vậy, để giải quyết các vụ án cố ý gây thương tích, chúng ta chủ yếu áp dụng Điểm b Điều 5 Sắc luật số 03-SL/76 nói trên cho đến trước khi BLHS năm 1985 ra đời.

Ngày 27/6/1985, Quốc hội nước Cộng hòa XHCN Việt Nam khóa VII kỳ họp thứ 9 thông qua BLHS Việt Nam đầu tiên. Trong BLHS năm 1985, tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác được quy định tại Điều 109 bao gồm 4 khung hình phạt và trong mỗi khung thì có mức hình phạt tương ứng với tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội; trong đó, mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội này là 20 năm tù.

1.1.2. Giai đoạn từ sau khi pháp điển hóa lần thứ nhất đến trước khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1999

BLHS Việt Nam năm 1985 ra đời trong bối cảnh điều kiện đất nước có những đặc trưng là cần bảo vệ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp. Vì thế, từ khi đất nước ta bước vào thời kỳ đổi mới do Đại hội Đảng lần thứ VI đề ra, BLHS đã dần biểu hiện những bất cập, hạn chế. Để đáp ứng yêu cầu trong tình hình mới, BLHS năm 1985 đã đươc sửa đổi, bổ sung 4 lần (Tháng 12/1989, tháng 8/1991, tháng 12/1992 và tháng 5/1997). Tuy nhiên, cả 4 lần sửa đổi, bổ sung vẫn còn mang tính bộ phận, chỉ đáp ứng các yêu cầu bức xúc, thời sự trước tình hình tội phạm có chiều hướng gia tăng. Đó là điều kiện và đòi hỏi có tính chất khách quan cho sự ra đời của BLHS năm 1999.

1.1.3. Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1999 đến nay

BLHS năm 1999 đã thể chế hóa những chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước ta trong giai đoạn mới. BLHS năm 1999 đã tách tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác được quy định tại Điều 109 BLHS năm 1985 thành 3 tội và được quy định thành ba điều luật khác nhau:

– Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác được quy định tại Điều 104;

– Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh quy định tại Điều 105;

– Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng được quy định tại Điều 106.

Ngoài ra, BLHS năm 1999 còn bổ sung một số tình tiết tăng nặng định khung hình phạt tại Điều 104 như sau:

– Đối với trẻ em, phụ nữ đang có thai, người già yếu, ốm đau hoặc người khác không có khả năng tự vệ (Điểm d Khoản 1 Điều 104).

– Đối với ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng, thầy giáo, cô giáo của mình (Điểm đ Khoản 1 Điều 104).

– Thuê gây thương tích hoặc gây thương tích thuê (Điểm h Khoản 1 Điều 104).

– Để cản trở người thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân (Điểm k Khoản 1 Điều 104).

Về hình phạt của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác: Tại BLHS năm 1985 hình phạt tù tối đa đến 20 năm; thì nay, trong BLHS năm 1999 đã tăng lên mức tù chung thân.

1.2. Khái niệm và các dấu hiệu pháp lý của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác

1.2.1. Khái niệm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác

Cách định nghĩa thứ nhất – (TS. Phạm Văn Beo – Luật hình sự Việt Nam) cho rằng: “Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác là hành vi cố ý gây tổn hại cho sức khỏe người khác dưới dạng thương tích hoặc tổn thương khác”, cách định nghĩa thứ hai cho rằng: “Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác là hành vi của một người cố ý làm cho người khác bị thương hoặc tổn hại đến sức khỏe.

Chúng tôi đưa ra khái niệm mới về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác như sau: “Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác là hành vi cố ý gây ra thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác một cách trái pháp luật, do người có năng lực TNHS thực hiện và đủ tuổi chịu TNHS theo quy định của BLHS”.

1.2.2. Các dấu hiệu pháp lý của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác

Khách thể của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác

Khách thể của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác là những quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ và bị tội phạm xâm hại. Trong tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác thì khách thể trực tiếp chính là sức khỏe của con người; Vì, con người là chủ thể của hầu hết mọi quan hệ xã hội, khi quyền được tôn trọng và bảo vệ về sức khỏe của con người bị xâm phạm, nó làm phá vỡ sự ổn định của các quan hệ xã hội.

Mặt khách quan của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác

Mặt khách quan của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác là những biểu hiện của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác diễn ra hoặc tồn tại bên ngoài thế giới khách quan, bao gồm: hành vi khách quan của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác; hậu quả nguy hiểm cho xã hội của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác và mối quan hệ nhân quả giữa hành vi gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác và hậu quả xảy ra trên thực tế.

Chủ thể của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác

Chủ thể của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác là người có năng lực TNHS, đạt độ tuổi luật định và đã thực hiện hành vi cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác.

Mặt chủ quan của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác

Mặt chủ quan của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác là hoạt động tâm lý bên trong của người phạm tội bao gồm lỗi, động cơ, mục đích. Lỗi của người phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác được thực hiện do cố ý. Người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình, chắc chắn hoặc có thể gây ra thương tích hoặc tổn hại cho sức khỏe của người khác, mong muốn hoặc tuy không mong muốn nhưng vẫn có ý thức để mặc cho hậu quả đó xảy ra.

1.3. Đường lối xử lý về hình sự đối với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác

Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác xâm phạm quan hệ nhân thân của con người. Hành vi cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác là hành vi nguy hiểm, ngoài việc gây thương tích hoặc tổn hại cho sức khỏe người bị hại còn gây rối trật tự trị an xã hội, coi thường kỷ cương, phép nước. Vì vậy, Nhà nước ta quy định hình phạt nghiêm khắc với tội phạm này, đảm bảo cả hai yếu tố giáo dục, cải tạo và trừng trị thích đáng người phạm tội.

1.4. Các quy định về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong luật hình sự một số nước trên thế giới

BLHS của Nhật Bản bao gồm 40 Chương và 263 Điều. Các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe của con người được quy định trong nhiều chương khác nhau. Các tội cố ý gây thương tích được quy định tại Chương 27 từ Điều 204 đến Điều 208 của Bộ luật.

BLHS của Liên bang Nga được quốc gia Nga thông qua ngày 24/5/1996 và có hiệu lực từ ngày 01/01/1997. Bộ luật có 34 Chương, 361 Điều. Các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe của con người được quy định tại Chương 16 từ Điều 105 đến Điều 125; trong đó, các tội cố ý gây tổn hại cho sức khỏe của người khác được quy định tại Điều 111, Điều 112 và Điều 115.

BLHS của nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa bao gồm hai phần: Phần chung và phần các tội phạm. Phần các tội phạm có 10 Chương 452 Điều; trong đó, có ba điều cuối cùng mang tính giải thích. Các tội xâm phạm quyền tự do thân thể, quyền dân chủ của công dân được quy định tại Chương IV từ Điều 232 đến Điều 262 của Bộ luật. Tội “cố ý gây thương tích” được quy định tại Điều 234 của Bộ luật.

Qua nghiên cứu Điều 204, 205, 206 và 208 BLHS Nhật Bản; Điều 111, 112, 115 BLHS Liên bang Nga; Điều 234 BLHS Cộng hòa nhân dân Trung Hoa. Cho thấy:

Mức hình phạt đối với tội này trong BLHS Liên bang Nga thấp hơn mức hình phạt được quy định trong BLHS năm 1999 của nước ta. Cụ thể, Khoản 4 của Điều 111 của BLHS Nga, trong trường hợp nếu vô ý làm chết nạn nhân thì mức hình phạt cao nhất mới chỉ là 15 năm. Trong khi đó, tại Khoản 4 Điều 104 BLHS năm 1999 của Việt Nam thì mức cao nhất của khung hình phạt là tù chung thân.

Điểm đáng chú ý của BLHS Liên bang Nga là Bộ luật này chia tội cố ý gây tổn hại cho sức khỏe thành ba loại ở những mức khác nhau: tổn hại nặng cho sức khỏe (Điều 111); tổn hại nặng vừa cho sức khỏe (Điều 112) và gây tổn hại nhẹ cho sức khỏe (Điều 115). Mỗi điều luật lại có sự giải thích chi tiết, như thế nào là cố ý gây tổn hại nặng; thế nào là cố ý gây tổn hại nặng vừa và thế nào được coi là tổn hại nhẹ. Việc phân chia và nêu rõ khái niệm này đã tạo thuận lợi nhất định cho việc áp dụng pháp luật.

Điều 234 BLHS Cộng hòa nhân dân Trung Hoa quy định về tội “cố ý gây thương tích” còn chung chung, đơn giản, chưa khái quát, không quy định rõ các điểm trong điều khoản. Tuy nhiên, mức hình phạt nặng nhất trong tội này có hình phạt là tử hình (BLHS 1999 của Việt Nam, mức hình phạt cao nhất của tội này là tù chung thân).

Tóm lại: Việc đối chiếu so sánh quy định Điều 104 BLHS năm 1999 của nước ta với quy định tương ứng trong pháp luật hình sự của một số nước trên thế giới, chúng ta thấy quy định của Điều 104 BLHS năm 1999 của nước ta quy định rất cụ thể và tập trung trong một điều luật (của Trung Quốc quy định chung chung, chưa khái quát; đối với nước Nga và Nhật Bản thì tội này được quy định trong một số điều luật). Việc đối chiếu, so sánh giúp chúng ta tiếp thu những tinh hoa pháp luật tiên tiến trên thế giới, vận dụng trong việc nghiên cứu pháp luật Việt Nam, rút ra những giá trị lập pháp hợp lý, tiến bộ có thể được áp dụng một cách có chọn lọc ở Việt Nam.

Kết luận chương 1

TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE NGƯỜI KHÁC THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN Ở HUYỆN PHÙ CÁT, TỈNH BÌNH ĐỊNH
TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE NGƯỜI KHÁC THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN Ở HUYỆN PHÙ CÁT, TỈNH BÌNH ĐỊNH

Chương 2

THỰC TIỄN XÉT XỬ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC Ở HUYỆN PHÙ CÁT, TỈNH BÌNH ĐỊNH

TỪ NĂM 2010 ĐẾN NĂM 2014

2.1. Những kết quả đạt được trong xét xử tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác

Theo số liệu báo cáo thống kê, từ năm 2010 đến năm 2014, TAND huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định đã xét xử 114 vụ án cố ý gây thương tích với 261 bị cáo. Như vậy, tính trung bình, một năm TAND huyện Phù Cát phải đưa ra xét xử 22,8 vụ với 52,2 bị cáo về loại tội này. Trong khi đó, tổng số vụ án hình sự phải xét xử từ năm 2010 đến năm 2014 với tất cả các loại án là 454 vụ.

Trong khoảng thời gian từ năm 2010 đến năm 2014, số vụ phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác được xử sơ thẩm hàng năm tăng giảm không đều. Cụ thể: năm 2010 có 24 vụ 48 bị cáo, năm 2011 có 21 vụ 46 bị cáo, năm 2012 có 25 vụ 57 bị cáo, năm 2013 có 24 vụ 58 bị cáo, năm 2014 có 20 vụ 52 bị cáo.

2.2. Những hạn chế, thiếu sót, vướng mắt trong xét xử tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác

Trong một số trường hợp tỷ lệ thương tật chưa đến 11% nhưng người có hành vi cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác vẫn có thể bị truy cứu TNHS, … Đó là khi người phạm tội đã cố ý dùng hung khí nguy hiểm như: dao, lê, các loại súng, lựu đạn, các loại thuốc nổ, axít hoặc người phạm tội đã có những thủ đoạn có thể gây nguy hại cho nhiều người như: đầu độc, ném lựu đạn vào chỗ đông người, …. gây cố tật nhẹ cho nạn nhân, phạm tội đối với người chưa thành niên, người già, phụ nữ có thai, … Khi đó, người áp dụng pháp luật sẽ dẫn đến tùy tiện.

Những tồn tại, thiếu sót trong thực tiễn xét xử là chưa làm rõ khác niệm và thực hiện nghiêm túc trong hoạt động xét xử các loại tội này. Một số tình tiết định khung tăng nặng quy định từ Điểm a đến Điểm k Khoản 1 Điều 104 BLHS gần tương tự tình tiết tăng nặng TNHS quy định tại Khoản 1 Điều 48 BLHS. Do vây, đã gây không ít khó khăn trong việc định tội cũng như định khung hình phạt.

2.2.1. Thực tiễn định tội danh tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác

Việc định tội danh không hề đơn giản, đôi khi cơ quan Nhà nước có thẩm quyền tỏ ra lúng túng không biết người phạm tội có phạm tội. BLHS quy định nhiều loại tội phạm có hành vi khách quan tương tự với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, nên trên thực tế xảy ra rất nhiều vụ án có mặt khách quan vừa giống các dấu hiệu pháp lý của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, vừa giống dấu hiệu pháp lý của một số tội khác, nên đã gây không ít khó khăn cho cơ quan có thẩm quyền trong việc định tội danh.

2.2.2. Thực tiễn định khung hình phạt tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác

Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác quy định ba khung tăng nặng TNHS (Khoản 2, Khoản 3 và Khoản 4 Điều 104 của BLHS), mười tình tiết định khung tăng nặng quy định từ Điểm a đến Điểm k Khoản 1 Điều 104 của BLHS, trong đó có nhiều tình tiết tương tự với một số tình tiết tăng nặng TNHS quy định tại Khoản 1 Điều 48 của BLHS. Bên cạnh đó, tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác có ba khung tặng nặng TNHS nên trong thực tế các cơ quan tiến hành tố tụng gặp nhiều khó khăn trong việc áp dụng pháp luật quyết định khung hình phạt đối với người phạm tội.

2.2.3. Thực tiễn quyết định hình phạt tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác

Việc quyết định hình phạt sao cho phù hợp với tính chất, mức độ của hành vi phạm tội, cũng như đảm bảo mục đích răn đe, giáo dục người phạm tội không phải là một vấn đề đơn giản. Khi quyết định hình phạt Tòa án cần phải xem xét một cách khách quan, toàn diện vụ án. Tuy nhiên, có rất nhiều vụ án Tòa án quyết định hình phạt không thật sự phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội mà bị cáo thực hiện.

2.3. Nguyên nhân của những hạn chế, thiếu sót, vướng mắc trong xét xử tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác

Trong những năm qua, trước diễn biến phức tạp của tình hình tội phạm nói chung và tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác nói riêng. Nhà nước ta cũng đã sửa đổi, bổ sung quy định của BLHS theo hướng hoàn thiện và phù hợp với tình hình thực tiễn. Tuy nhiên, trong quá trình áp dụng pháp luật trong hoạt động tố tụng còn nhiều những vướng mắc, bất cập được quyết định bỡi những nguyên nhân sau:

2.3.1. Nguyên nhân khách quan

BLHS hiện hành chưa có quy định về các khái niệm “nhiều tội phạm”, “phạm tội nhiều lần”, “phạm nhiều tội”, nên trong thực tiễn chưa có cách hiểu thống nhất về các khái niệm này; còn nhầm lẫn giữa “phạm tội nhiều lần” với “phạm nhiều tội” hoặc giữa “phạm nhiều tội” với “vi phạm nhiều lần”, dẫn đến tình trạng có trường hợp một hành vi nguy hiểm cho xã hội bị xét xử về hai tội, có trường hợp hai hành vi nguy hiểm cho xã hội chỉ bị xét xử về một tội. Thêm vào đó, những quy định mới trong BLHS chưa được cơ quan có thẩm quyền hướng dẫn kịp thời và đầy đủ, nên các cơ quan tiến hành tố tụng gặp nhiều khó khăn, lúng túng trong việc áp dụng (Tội cố ý gây thương hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác cũng nằm trong trường hợp này). Có điểm quy định chưa được chính xác như: Điểm b Khoản 1 Điều 104 BLHS năm 1999 quy định “gây cố tật nhẹ cho nạn nhân”, “dùng hung khí nguy hiểm hoặc dùng thủ đoạn gây nguy hại cho nhiều người”… Một trong những nguyên nhân làm hạn chế hiệu quả của việc áp dụng pháp luật trong thực tiễn phải kể đến chính là hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng và những người tham gia tố tụng.

2.3.2. Nguyên nhân chủ quan

Những vướng mắc trong thực tiễn xét xử loại tội này chưa được các cơ quan có thẩm quyền hướng dẫn thực hiện kịp thời.

Một số Kiểm sát viên, Thẩm phán năng lực còn hạn chế, đạo đức nghề nghiệp bị xuống cấp, chạy theo cơ chế thị trường làm cho người dân giảm lòng tin vào các cơ quan bảo vệ pháp luật.

Công tác đào tạo, tập huấn, bồi dưỡng cho Kiểm sát viên, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân mặc dù đã được quan tâm thực hiện nhưng chưa đáp ứng được yêu cầu đề ra.

Chính sách khen thưởng đối với cán bộ công tác trong các cơ quan tiến hành tố tụng chưa được coi trọng đúng mức; chế độ lương, chế độ thưởng, chế độ phụ cấp khác cho những người hoạt động trong các cơ quan tiến hành tố tụng còn thấp.

Đây cũng là lý do để có thể vẫn còn tình trạng tiêu cực trong các cơ quan bảo vệ pháp luật dẫn đến việc ra một bản án không khách quan, không công bằng, không phản ánh được sự thật khách quan của vụ án và không đáp ứng được sự mong đợi của Nhà nước và nhân dân.

Kết luận chương 2

Chương 3

GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC

3.1. Hoàn thiện quy định về định tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác

3.1.1. Hoàn thiện quy định của pháp luật về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác

Theo hướng bỏ quy định “khởi tố theo yêu cầu của người bị hại”.

Chúng tôi đề nghị: Tại Khoản 1 Điều 105 BLTTHS năm 2003 nên bỏ quy định khởi tố theo yêu cầu của người bị hại đối với những vụ án về tội phạm cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác quy định tại Khoản 1 Điều 104 BLHS nhằm bảo đảm tính nghiêm minh của pháp luật.

3.1.2. Hoàn thiện quy định của pháp luật về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác theo hướng như sau

Thứ nhất: cần quy định cụ thể trong điều luật tỷ lệ thương tật dưới 11% nhưng phải là thương tích đáng kể từ 6% trở lên nếu thuộc một trong các trường hợp từ Điểm a đến Điểm k thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm, … Tại Điểm b Khoản 1 “gây cố tật nhẹ cho nạn nhân” không nên dùng để làm tình tiết tăng nặng cho Khoản 2 và Khoản 3 Điều 104 BLHS.

Thứ hai: sửa quy định “Dùng hung khí nguy hiểm hoặc dùng thủ đoạn gây nguy hại cho nhiều người” (Điểm a Khoản 1 Điều 104) thành “dùng vũ khí hoặc dùng thủ đoạn nguy hiểm gây nguy hại cho nhiều người”.

3.1.3. Hoàn thiện quy định của pháp luật về độ tuổi chịu TNHS của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác

Theo quan điểm của chúng tôi, nên giảm độ tuổi chịu TNHS xuống 12 hoặc 13 vì giảm độ tuổi chịu TNHS bảo đảm được mục đích răn đe và phòng ngừa tội phạm. Mục tiêu hàng đầu của một xã hội phát triển là bảo vệ con người, hướng đến con người nhưng con người cũng phải được học tập, rèn luyện và sinh hoạt theo một lề lối nhất định. Đời vật chất và tinh thần được nâng lên thì năng lực nhận thức và điều khiển hành vi sẽ phát triển sớm hơn. Từ đó, độ tuổi dễ phát sinh tội phạm cũng thấp hơn. Khi đó, người chưa thành niên phạm tội sẽ nhiều hơn. Việc giảm độ tuổi chịu TNHS sẽ tạo điều kiện cho gia đình và xã hội có trách nhiệm hơn đối với con em của mình, tạo điều kiện cho con em của mình học tập, rèn luyện và phát triển một cách lành mạnh, không vi phạm pháp luật.

3.2. Hoàn thiện quy định về định khung hình phạt tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác

3.2.1. Hoàn thiện quy định pháp luật về tình tiết “gây cố tật nhẹ cho nạn nhân”

Chúng tôi kiến nghị sửa đổi tình tiết định khung tăng nặng “gây cố tật nhẹ cho nạn nhân” thành “gây cố tật cho nạn nhân” đảm bảo được khả năng bao trùm, cũng như thể hiện được quan điểm của Nhà nước ta nghiêm trị người phạm tội có hành vi cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, mà hậu quả gây ra cố tật cho nạn nhân.

3.2.2. Hoàn thiện quy định pháp luật về tình tiết “cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe đối với người già yếu”

Theo quan điểm của chúng tôi, chỉ nên quy định là “cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe đối với người già” (người từ 70 tuổi trở lên). Bỡi vì, theo y học, khi cơ thể con người từ 70 tuổi trở lên, các bộ phận cơ thể đã lão hóa, hoạt động kém hiệu quả, việc trao đổi chất và tái tạo tế bào diễn ra chậm, do vậy khi người phạm tội gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe cho đối tượng này rất nguy hiểm vì khả năng phục hồi của họ là chậm chạp, thậm chí không thể phục hồi được.

3.2.3. Hoàn thiên quy định pháp luật về “Phạm tội nhiều lần đối với cùng một người hoặc đối với nhiều người”

Cần sửa đổi Điểm a Khoản 1 Điều 104 BLHS như sau: “Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe nhiều lần đối với một người hoặc đối với nhiều người”.

3.2.4. Hoàn thiện quy định pháp luật về tình tiết “cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe đối với thầy giáo, cô giáo của mình”

Chúng tôi đồng ý với tác giả Đỗ Đức Hồng Hà về điều kiện áp dụng tình tiết định khung tăng nặng “đối với thầy giáo, cô giáo của mình” chỉ áp dụng khi thỏa mãn 03 điều kiện: Thứ nhất, nạn nhân phải là người làm việc trong cơ sở giáo dục, đào tạo, dạy nghề được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cho phép hoặc công nhận, theo hợp đồng hoặc theo biên chế. Thứ hai, nạn nhân đã hoặc đang trực tiếp hoặc gián tiếp thực hiện chức năng giáo dục, đào tạo, dạy nghề cho người phạm tội. Thứ ba, cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của nạn nhân là vì lý do thực hiện nhiệm vụ giáo dục, đào tạo, dạy nghề của họ đối với bị cáo, không phân biệt nhiệm vụ đó đã được thực hiện hay đang được thực hiện và không kể thời gian dài hay ngắn.

3.2.5. Hoàn thiện quy định pháp luật về tình tiết “cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người nuôi dưỡng mình”

Theo quan điểm của chúng tôi, chỉ áp dụng tình tiết định khung tăng nặng “cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe đối với người nuôi dưỡng mình” nếu thõa mãn ba điều kiện:

Thứ nhất, nạn nhân là người đã hoặc đang nuôi dưỡng người phạm tội;

Thứ hai, quan hệ nuôi dưỡng phải được pháp luật thừa nhận;

Thứ ba, việc nuôi dưỡng phải được thực hiện trong một khoảng thời gian hợp lý (cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cần nghiên cứu để xác định khoảng thời gian cụ thể là bao nhiêu năm. Thiết nghĩ, đây là việc làm quan trọng và cần thiết để áp dụng tình tiết này).

3.2.6. Bổ sung một số tình tiết định khung tăng nặng mới

Chúng tôi kiến nghị bổ sung tình tiết định khung tăng nặng “thực hiện tội phạm một cách man rợ” và “vì động cơ đê hèn” trong Điều 104 BLHS Việt Nam.

3.3. Hoàn thiện quy định về hình phạt và quyết định hình phạt tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác

Với quan điểm mở rộng phạm vi điều chỉnh đối với tội phạm, chúng tôi đề xuất quy định khái niệm hình phạt tại Điều 26 như sau:

Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước, được quy định trong luật và do Tòa án quyết định, tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của người phạm tội nhằm giáo dục người phạm tội và phòng ngừa chung.

Quyết định hình phạt đối với người phạm tội là một giai đoạn, một nội dung của hoạt động áp dụng pháp luật thể hiện ở việc Tòa án lựa chọn loại và mức hình phạt cụ thể được quy định trong BLHS theo trình tự thủ tục nhất định để áp dụng đối với người phạm tội thể hiện trong quyết định, bản án.

Quyết định hình phạt là giai đoạn chiếm vị trí quan trọng trong quá trình áp dụng pháp luật hình sự, nội dung của quyết định hình phạt thể hiện ở việc Tòa án lựa chọn một trong những loại hình phạt cụ thể được quy định trong điều luật (khoản nào của điều luật) và ấn định hình phạt cụ thể.

Để quyết định hình phạt, Tòa án căn cứ tại Điều 45 của BLHS, tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm được phép xác định loại và khung hình phạt; các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS, nhân thân người phạm tội cho phép xác định mức độ hình phạt cần áp dụng cụ thể tương xứng với hành vi phạm tội.

Áp dụng quy định về hình phạt và quyết định hình phạt tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác; theo chúng tôi, cần bổ sung nội dung này theo hướng: Tăng hình phạt của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác (Điều 104) lên cao hơn tội hủy hoại tài sản (Điều 143), bỡi lẽ, khách thể của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác (là quan hệ nhân thân) quan trọng hơn khách thể của tội hủy hoại tài sản (là quan hệ sở hữu), đồng thời quy định thêm hình phạt bổ sung vào tội này;

3.4. Nâng cao năng lực và đạo đức nghề nghiệp của Kiểm sát viên, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân

Thứ nhất: Định kỳ tổ chức các lớp bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho đội ngũ Kiểm sát viên, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân.

Thứ hai: Lãnh đạo TAND và VKSND các cấp nên tạo mọi điều kiện thuận lợi trong khả năng có thể để cho Thẩm phán và Kiểm sát viên tự học, tự nghiên cứu để nâng cao trình độ. Khuyến khích việc tự học tập, tự nghiên cứu để nâng cao trình độ của cán bộ công chức. Có biện pháp mạnh đối với những cán bộ công chức hạn chế năng lực nhưng không cố gắng, có tư tưởng ỷ lại, tự thõa mãn.

Thứ ba: Tăng cường công tác giáo dục chính trị, phẩm chất đạo đức và tinh thần yêu nước cho đội ngũ Kiểm sát viên, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân.

Thứ tư: TAND cấp trên thường xuyên giám đốc việc xét xử của TAND cấp dưới và có biện pháp uốn nắn, sửa sai kịp thời.

Thứ năm: Có chính sách lâu dài để tạo nguồn Kiểm sát viên, Thẩm phán.

Thứ sáu: Có chính sách khen thưởng, động viên kịp thời đối với cán bộ công chức có thành tích xuất sắc trong công tác.

Kết luận chương 3

TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE NGƯỜI KHÁC THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN Ở HUYỆN PHÙ CÁT, TỈNH BÌNH ĐỊNH
TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE NGƯỜI KHÁC THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN Ở HUYỆN PHÙ CÁT, TỈNH BÌNH ĐỊNH

KẾT LUẬN

Từ các triều đại phong kiến của Việt Nam trước đây cho đến trước khi ban hành BLHS 1985, trong quá trình xây dựng và bảo vệ đất nước, Nhà nước ta đã không ngừng ban hành các văn bản pháp luật hình sự nhằm bảo vệ và duy trì chế độ độc lập, tự chủ, chống các thế lực thù địch. Đây là những cơ sở khách quan khiến pháp luật hình sự Việt Nam không ngừng được hoàn thiện.

Việc bảo vệ, chăm sóc sức khỏe của con người cũng như việc đấu tranh phòng, chống mọi hành vi xâm hại đến tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự con người luôn được Đảng, Nhà nước ta quan tâm đặc biệt. Đó cũng là nhiệm vụ hàng đầu và rất quan trọng của pháp luật hình sự Việt Nam. Chúng tôi có một số kết luận sau:

Về cơ bản, quy định của pháp luật hình sự từ chỗ rất đơn giản, sơ khai, không bài bản, thì nay đã thành một hệ thống các văn bản pháp luật ngày một hoàn chỉnh hơn, quy định đã rõ ràng và có sự phân hóa cao về TNHS. Qua nghiên cứu, chúng tôi thấy rằng: Ngành TAND đã khắc phục mọi khó khăn trước mắt, hoàn thành tốt các nhiệm vụ chính trị của ngành, góp phần vào việc ổn định chính trị, giữ vững an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, tạo điều kiện cho nền kinh tế phát triển. Trong những năm qua (2010-2014), ngành TAND nói chung và TAND huyện Phù Cát nói riêng đã tập trung mọi nguồn lực đẩy nhanh tiến độ và nâng cao chất lượng giải quyết, xét xử các vụ án – đặc biệt là các vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác có tính chất côn đồ, ổ nhóm, xã hội đen, đâm thuê, chém mướn, … đảm bảo thời hạn xét xử theo đúng quy định của pháp luật, xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không làm oan người vô tội, không bỏ lọt tội phạm, … Tuy nhiên, trên thực tế, việc xét xử không khách quan, không công bằng, bỏ lọt tội phạm, thậm chí là không đúng quy định của pháp luât vẫn xảy ra. Nguyên nhân là do định tội danh chưa chính xác, do không làm rõ dấu hiệu pháp lý cũng như hành vi khách quan của tội phạm, bỡi vì, như trên chúng tôi đã đề cập, nhiều loại tội phạm có hành vi khách quan tương tự tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, nên dấu hiệu pháp lý của nó cũng tương tự như nhau, … Đặc biệt, trong thực tiễn áp dụng hình phạt đối với loại tội phạm này, Tòa án đã áp dụng hình phạt nhẹ hơn so với tính chất, mức độ, hành vi của tội phạm; áp dụng không đúng điều khoản theo quy định của BLHS, … Vì vậy, việc nghiên cứu đưa ra những đặc trưng và các dấu hiệu pháp lý của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác; quá trình áp dụng pháp luật trong thực tiễn xét xử; những hạn chế, thiếu sót, vướng mắc trong quá trình áp dụng pháp luật để xét xử tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác – nguyên nhân và các biện pháp khắc phục có một ý nghĩa hết sức quan trọng trong quá trình nghiên cứu, học tập và công tác của mình. Luận văn cũng đưa ra được một số kiến nghị, đề xuất sửa đổi, bổ sung và giải thích một số quy phạm pháp luật có liên quan đến tội phạm cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác nhằm hoàn thiện pháp luật, góp phần nâng cao hiệu quả và chất lượng xét xử về loại tội phạm này trong hoạt động xét xử của ngành TAND, cũng như góp phần nhỏ bé vào công cuộc cải cách pháp luật ở nước ta hiện nay.

Tóm lại, việc nghiên cứu lý luận và thực tiễn tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác là vấn đề rộng lớn và còn mới mẻ, cần phải có nhiều thời gian và công sức nghiên cứu mới thấu đáo được. Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi đã có nhiều cố gắng, nhưng khả năng và điều kiện nghiên cứu có hạn, chắc chắn luận văn không tránh khỏi những thiếu sót nhất định. Rất mong được sự đóng góp ý kiến bổ sung của các thầy giáo, cô giáo để luận văn được hoàn thiện hơn./.

LIỆN HỆ:

SĐT+ZALO: 0935568275

E:\DỮ LIỆU COP CỦA CHỊ YẾN\LUAN VAN VIEN HAN LAM\LUAT HINH SU DOT 2\LUAT HINH SU\HUYNH TAN DAT

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *