Thực hiện chính sách xây dựng khu dân cư nông thôn mới kiểu mẫu

Thực hiện chính sách xây dựng khu dân cư nông thôn mới kiểu mẫu từ thực tiễn huyện Thăng Bình

Thực hiện chính sách xây dựng khu dân cư nông thôn mới kiểu mẫu từ thực tiễn huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam

1. Tính cấp thiết của đề tài

Chương trình xây dựng nông thôn mới là một chương trình trọng tâm của Nghị quyết số 26-NQ/TW, Nghị quyết toàn diện nhất về phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn từ trước tới nay. Qua triển khai thực hiện, diện mạo nhiều vùng nông thôn được đổi thay, hạ tầng kinh tế – xã hội thiết yếu được nâng cấp, đời sống đa số nông dân được cải thiện và nâng lên, hộ nghèo giảm, nhiều nét đẹp văn hóa được phát huy, tình làng nghĩa xóm được vun đắp, đội ngũ cán bộ trưởng thành một bước.

Qua tổng kết 6 năm (2011-2016) triển khai thực hiện Chương trình MTQG xây dựng NTM, Quảng Nam có 62 xã đạt chuẩn xã nông thôn mới. Nhìn chung, bộ mặt nông thôn ở nhiều nơi có sự chuyển biến so với trước đây; người dân ngày càng nhận thức tốt hơn về thực hiện Chương trình; các cấp, các ngành, các địa phương có sự tập trung, ưu tiên lồng ghép, bố trí nhiều nguồn lực đầu tư, hỗ trợ cho nông thôn từng bước phát triển. Tuy nhiên, nhìn một cách toàn diện, bộ mặt nông thôn ở những xã đã công nhận đạt chuẩn nông thôn mới vẫn chưa thật sự thay đổi rõ nét; đời sống vật chất, tinh thần của cư dân nông thôn vẫn còn khó khăn; vai trò chủ thể của người dân trong xây dựng nông thôn mới vẫn chưa được phát huy đầy đủ; ở từng hộ nông dân (nhà ở, vườn tược, vệ sinh môi trường, cảnh quan…) vẫn chưa thật sự mới và chưa sạch đẹp.

Xuất phát từ yêu cầu trên, ngày 26/7/2016, UBND tỉnh Quảng Nam ban hành Quyết định số 2663/QĐ-UBND về Bộ tiêu chí “Khu dân cư NTM kiểu mẫu” trên địa bàn tỉnh Quảng Nam, giai đoạn 2016-2020. Việc xây dựng “Khu dân cư NTM kiểu mẫu” nhằm nâng chất thực hiện các tiêu chí nông thôn mới, phát huy tối đa vai trò chủ thể của người dân, tạo ra các thôn có kinh tế hộ phát triển; có kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội phù hợp; có cảnh quan, môi trường sáng, xanh, sạch đẹp; an ninh trật tự được bảo đảm. Đặc biệt, xây dựng Khu dân cư NTM kiểu mẫu nhằm giữ gìn, phát huy các giá trị văn hóa, những nét đặc trưng của từng vùng, miền; gìn giữ được “hồn quê” và cốt cách nông thôn ở Quảng Nam.

Cho đến nay, mô hình khu dân cư NTM kiểu mẫu theo quy mô thôn/bản đã được triển khai tại một số tỉnh, theo Bộ tiêu chí riêng của từng tỉnh, do UBND tỉnh quy định như Hà Tĩnh, Quảng Bình và ở Quảng Nam cũng chỉ mới triển khai thực hiện từ cuối năm 2016 đến nay theo bài học kinh nghiệm từ mô hình SAEMAUL UNDONG, Hàn Quốc, chưa có những đánh giá, tổng kết một cách hệ thống để nhân rộng các mô hình tốt. Chính vì vậy, việc xây dựng mô hình Khu dân cư nông thôn mới kiểu mẫu là hết sức cần thiết.

Từ năm 2016 đến cuối năm 2017, huyện Thăng Bình có 3 Khu dân cư NTM kiểu mẫu được công nhận theo Quyết định 2663 của UBND tỉnh Quảng Nam. Đó là thôn Linh Cang xã Bình Phú, thôn Bình Trúc 1 xã Bình Sa và thôn Kế Xuyên 1 xã Bình Trung. Trên thực tế, 3 khu dân cư NTM kiểu mẫu này còn rất nhiều bất cập so với bộ tiêu chí đề ra và chưa mang tính bền vững. Hiện nay, vẫn chưa có tác giả nào đi sâu nghiên cứu về vấn đề này. Chính vì vậy, luận văn là một đề tài nghiên cứu mang tính cấp thiết, có ý nghĩa về lý luận và thực tiễn nhằm góp phần vào việc thực hiện chính sách xây dựng NTM nói chung và xây dựng Khu dân cư NTM kiểu mẫu tại huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam. Đây là lý do để tôi chọn đề tài nghiên cứu: “Thực hiện chính sách xây dựng khu dân cư nông thôn mới kiểu mẫu từ thực tiễn huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam” làm luận văn Thạc sĩ ngành chính sách công.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

Vận dụng cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng NTM nói chung và xây dựng Khu dân cư NTM kiểu mẫu tại huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam để đánh giá việc thực hiện chính sách và đề xuất giải pháp tăng cường hiệu quả thực hiện chính sách này.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

– Hệ thống hóa một số cơ sở lý luận về chính sách xây dựng NTM và khu dân cư NTM kiểu mẫu ở Việt Nam và ở tỉnh Quảng Nam.

– Đánh giá thực trạng thực hiện chính sách xây dựng khu dân cư NTM kiểu mẫu ở huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam; từ đó chỉ ra những kết quả đạt được, những hạn chế, bất cập và nguyên nhân hạn chế của chính sách xây dựng NTM nói chung và khu dân cư NTM kiểu mẫu nói riêng.

– Đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách xây dựng Khu dân cư NTM kiểu mẫu trên địa bàn huyện Thăng Bình tỉnh Quảng Nam.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của Luận văn là việc thực hiện chính sách xây dựng khu dân cư NTM kiểu mẫu ở huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

Phạm vi về mặt không gian: huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam.

Phạm vi về mặt thời gian: Giai đoạn 2016 – 2018.

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

5.1. Cơ sở lý luận

Dựa trên cơ sở lý luận về chính sách công và đường lối, quan điểm của Đảng; chính sách, pháp luật của Nhà nước về xây dựng NTM và khu dân cư NTM kiểu mẫu.

5.2. Phương pháp nghiên cứu

Luận văn nghiên cứu cơ sở lí luận từ các văn bản quy định, quy trình và hướng dẫn thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng NTM và khu dân cư NTM kiểu mẫu.

Luận văn sử dụng phương pháp thống kê, tổng hợp, phân tích, so sánh dựa trên các tài liệu, báo cáo về kết quả xây dựng NTM và khu dân cư NTM kiểu mẫu của huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam.

Cụ thể, Luận văn nghiên cứu thực tiễn xây dựng khu dân cư NTM kiểu mẫu ở 3 thôn (thôn Linh Cang xã Bình Phú, thôn Bình Trúc 1 xã Bình Sa, và thôn Kế Xuyên 1 xã Bình Trung, huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam):

Quan sát tham dự một số hoạt động tại 3 thôn trên để hiểu cụ thể hơn quá trình triển khai thực hiện chính sách xây dựng Khu dân cư NTM kiểu mẫu theo cách tiếp cận từ dưới lên. Các quan sát thực địa tập trung vào các nhóm tiêu chí: Vườn và nhà ở hộ gia đình (người dân quan tâm đến việc xây dựng vườn mẫu, hàng rào cổng ngõ bằng cây xanh, nhà ở và các công trình phụ trợ trong gia đình và trên thực tế như thế nào); Văn hóa, Giáo dục, Y tế (người dân quan tâm đến việc xây dựng nhà văn hóa thôn, khu thể thao thôn, xây dựng gia đình văn hóa, thôn văn hóa, công tác khuyến học, xây dựng tủ sách pháp luật tại nhà văn hóa thôn, người dân tham gia mua bảo hiểm y tế như thế nào và trên thực tế như thế nào); Môi trường (tỷ lệ hộ được sử dụng nước hợp vệ sinh, tỷ lệ người dân tham gia bảo vệ môi trường, cảnh quan đường làng ngõ xóm sáng – xanh – sạch đẹp và trên thực tế như thế nào).

– Phân tích tài liệu, báo cáo tại cơ sở về quá trình thực hiện chính sách xây dựng Khu dân cư NTM kiểu mẫu. Dựa trên tổng hợp tài liệu của địa phương, cho đến nay Ban phát triển thôn (BPTT) đã triển khai từ 12 đến 15 cuộc họp tại các Khu dân cư từ việc công bố Quyết định thành lập BCĐ xây dựng Khu dân cư NTM kiểu mẫu, hướng dẫn Bộ tiêu chí xây dựng Khu dân cư NTM kiểu mẫu theo Quyết định 2663 của UBND tỉnh, nhân dân tại 3 thôn thảo luận xây dựng Phương án, thông qua khung kế hoạch tổ chức thực hiện, đôn đốc kiểm tra quá trình thực hiện, sơ kết đánh giá, thẩm định kết quả thực hiện và hội nghị lấy phiếu sự hài lòng của người dân về kết quả xây dựng Khu dân cư NTM kiểu mẫu. Trong đó, thôn Linh Cang xã Bình Phú triển khai 15 cuộc họp; thôn Kế Xuyên 1 xã Bình Trung triển khai 12 cuộc họp; thôn Bình Trúc 1 xã Bình Sa triển khai 14 cuộc họp.

– Phỏng vấn sâu: Tiến hành 3 cuộc phỏng vấn đối với lãnh đạo 3 thôn về quá trình triển khai thực hiện chính sách xây dựng Khu dân cư NTM kiểu mẫu tại địa phương, về sự quan tâm, vào cuộc sâu sát, cách tổ chức, vận động, kiểm tra, đánh giá của Ban Chỉ đạo xã và Ban Phát triển thôn cũng như thái độ và sự tham gia của người dân trong việc phát huy vai trò chủ thể của mình trong xây dựng Khu dân cư NTM kiểu mẫu; 6 cuộc phỏng vấn đối với người dân 3 thôn về các nội dung tương tự nhưng từ các quan điểm, cách nhìn khác nhau của người trong cuộc và từ các bên liên quan. Các phỏng vấn này nhằm phối kiểm độ tin cậy và khách quan của các thông tin thu thập được từ cán bộ địa phương và người dân.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn

6.1. Ý nghĩa lý luận

Luận văn đã hệ thống hóa một số cơ sở lý luận để phân tích, đánh giá chính sách xây dựng NTM và Khu dân cư NTM kiểu mẫu. Luận văn đã vận dụng các cơ sở lý luận này để tìm hiểu và đánh giá thực tiễn xây dựng Khu dân cư NTM kiểu mẫu như một mô hình còn khá mới, chưa được tổng kết. Luận văn này do vậy góp phần làm rõ mối quan hệ giữa lý luận với thực tiễn đối với một vấn đề nêu trên, có thể dùng để tuyên truyền và hướng dẫn cho Ban chỉ đạo (BCĐ) xây dựng Khu dân cư NTM kiểu mẫu của các thôn tổ chức, chỉ đạo xây dựng Khu dân cư NTM kiểu mẫu trên địa bàn huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam.

6.2. Ý nghĩa thực tiễn

Luận văn góp phần vào việc đánh giá sơ kết kết quả thực hiện chính sách xây dựng Khu dân cư NTM kiểu mẫu trên địa bàn huyện Thăng Bình giai đoạn 2016-2018 và đề ra một số giải pháp tăng cường thực hiện chính sách xây dựng khu dân cư NTM kiểu mẫu giai đoạn 2018-2020.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục, luận văn được chia thành 3 chương:

Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về thực hiện chính sách xây dựng Khu dân cư nông thôn mới kiểu mẫu.

Chương 2: Thực trạng thực hiện chính sách xây dựng Khu dân cư nông thôn mới kiểu mẫu ở huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam.

Chương 3: Giải pháp tăng cường thực hiện chính sách xây dựng khu dân cư nông thôn mới kiểu mẫu trên địa bàn huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam

CHƯƠNG 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH XÂY DỰNG KHU DÂN CƯ NÔNG THÔN MỚI KIỂU MẪU

    1. 1.1. Cơ sở lý luận về chính sách công

1.1.1. Khái niệm chính sách công

Trên thế giới, việc nghiên cứu về chính sách công được khởi động từ sau chiến tranh thế giới lần thứ hai, tiêu biểu là các nghiên cứu của các học giả Mỹ. Cho đến nay, có rất nhiều định nghĩa khác nhau về chính sách công bởi nó đang là vấn đề gây nhiều tranh cãi. Bởi vì, mỗi người có cách tiếp cận, cách hiểu về chính sách công không giống nhau. Theo nhà kinh tế học Frank Ellis (1994) [7] thì không có một định nghĩa duy nhất về thuật ngữ “Chính sách công” phù hợp với tất cả mọi người mà cách hiểu thông thường được nói đến nhiều nhất: Chính sách là các chủ trương và các biện pháp của một đảng phái hoặc Chính phủ trong các lĩnh vực chính trị – KT – XH; là sách lược và kế hoạch cụ thể nhằm đạt một mục đích nhất định.

Đối với Việt Nam, do đặc điểm của hệ thống chính trị và hệ tư tưởng cho nên vấn đề nghiên cứu về chính sách công mới chỉ được đề cập trong khoảng gần 20 năm trở lại đây, đặc biệt từ khi chúng ta chấp nhận cơ chế thị trường với định hướng XHCN và chủ trương xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì dân. Hiện nay, ở Việt Nam khái niệm về chính sách công có nhiều cách tiếp cận khác nhau. Theo quan điểm các nhà khoa học của Viện Chính trị học [5], Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, khái niệm chính sách công xuất phát từ các vấn đề của thực tiễn như là sử dụng các nguồn lực của nhà nước đúng và hiệu quả. Hai mặt của vấn đề đó là kỹ thuật (sử dụng chi phí tối thiểu với kết quả tối đa) và hệ giá trị (kết quả đó còn phải phù hợp với hệ giá trị mà xã hội đó theo đuổi). Từ đó, các nhà khoa học của Viện Chính trị học cho rằng chính sách công là “Chương trình hành động của nhà nước nhằm giải quyết các vấn đề cụ thể” Nội hàm của định nghĩa này có 3 nội dung cần quan tâm:

Một là, chính sách công là những “chương trình” gồm các đường lối, chính sách, biện pháp liên quan với nhau, phụ thuộc lẫn nhau, mang tính hệ thống, được luận giải một cách khoa học; nó khác với các chính sách với các quyết định nhất thời mang tính tình thế. Bởi vì, các quyết định nhất thời, mang tính tình thế chỉ nhằm đến giải quyết một vấn đề cụ thể trong những thời điểm nhất định thì không được coi là chính sách công.

Hai là, chính sách công mang “tính hướng đích, cụ thể”, tức là nhằm vào giải quyết các vấn đề cụ thể của thực tiễn. Ở đây cần phân biệt ba khái niệm: đường lối, chính sách, biện pháp, theo mức độ cụ thể hóa của nó. Đường lối bao gồm những nguyên tắc và định hướng phát triển chung nhất. Chính sách là sự cụ thể hóa và thể chế hóa của đường lối. Các biện pháp là sự cụ thể hóa của chính sách và gắn với hành động thực tiễn.

Thực hiện chính sách xây dựng khu dân cư nông thôn mới kiểu mẫu từ thực tiễn huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam
Thực hiện chính sách xây dựng khu dân cư nông thôn mới kiểu mẫu từ thực tiễn huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam

Ba là, chính sách công mang “tính hợp pháp”. Vì chủ thể đưa ra chính sách công chính là nhà nước, có quyền dùng sức mạnh của bộ máy quyền lực để cưỡng chế thi hành. Tuy nhiên, không phải chính sách công nào hay khi nào cũng dùng sức mạnh quyền lực để cưỡng chế. Cơ sở xã hội của chính sách công lại chính là sự nhất trí và đồng thuận của nhân dân. Tính hợp pháp là điểm khác biệt giữa chính sách công với các chính sách của các tổ chức trong khu vực tư nhân hay của các đảng phái và đoàn thể xã hội, là những chủ thể không nắm giữ quyền lực công cộng dù trực tiếp hay gián tiếp, ít hay nhiều có những ảnh hưởng nhất định đến quyền lực đó.

Mặc dù có sự khác biệt đáng kể nhưng các định nghĩa trên kể cả của thế giới và Việt Nam đều có một xu hướng chung là muốn thâu tóm khái niệm chính sách công trong tính hệ thống, tổng thể của nó. Các định nghĩa đều khẳng định: Chính sách công là một vấn đề mang bản chất xã hội – nhà nước, nó không tồn tại một cách độc lập mà luôn luôn phụ thuộc nhiều chính sách liên quan, ràng buộc bởi các mối quan hệ nhân quả chồng chéo vượt ra ngoài mọi sự phân tích từng chủ thể cá nhân. Đối tượng tác động của nó chính là nhân dân.

Từ những quan niệm trên chúng ta có thể hiểu chính sách công một cách khái quát là tổng thể chương trình hành động của nhà nước tác động có ý thức đến đời sống của nhân dân theo phương thức nhất định nhằm đạt được các mục tiêu đề ra.

Về phân loại chính sách công: có nhiều cách phân loại khác nhau tùy theo góc độ tiếp cận của chủ thể. Phân theo lĩnh vực gồm có: chính sách kinh tế, chính sách chính trị, chính sách xã hội, chính sách quốc phòng an ninh,… Theo mức độ tổng quát có chính sách chung và chính sách riêng. Phân loại theo quy mô vấn đề: chính sách chiến lư­ợc và chính sách tác nghiệp. Theo mức độ về mặt thời gian: chính sách dài hạn, trung hạn và ngắn hạn. Phân loại theo chức năng của chính sách có chính sách khai thác, phân phối, chính sách điều chỉnh, điều tiết, can thiệp, khuyến khích, hỗ trợ, thí điểm…

1.1.2. Thực thi chính sách và ý nghĩa thực thi chính sách

Tổ chức thực thi chính sách có vị trí rất quan trọng, nó là một khâu hợp thành chu trình chính sách, nếu thiếu công đoạn này thì chu trình chính sách không thể tồn tại vì nó là trung tâm kết nối các bước trong chu trình chính sách thành một hệ thống, nhất là với thực thi chính sách. Chúng ta đều nhận thấy hoạch định một chính sách tốt là hết sức khó khăn và trải qua rất nhiều công đoạn nhưng cho dù chính sách có tốt đến mấy nhưng không được tổ chức thực thi hay thực thi kém thì nó cũng không mang lại hiệu quả, không đạt được mục tiêu mà uy tín của Nhà nước còn bị ảnh hưởng. Như vậy qua sự phân tích trên thì chúng ta có thể thấy được vai trò quan trọng của thực thi chính sách công.

Tổ chức thực thi chính sách là để từng bước thực hiện các mục tiêu chính sách và mục tiêu chung. Mục tiêu của chính sách có liên quan đến nhiều vấn đề, nhiều lĩnh vực nên không thể cùng một lúc giải quyết hết tất cả mà phải lần lượt và việc thực thi chính sách công phải giải quyết các vấn đề trong mối quan hệ biện chứng với mục tiêu chung.

Thực thi chính sách để khẳng định tính đúng đắn của chính sách có nghĩa là chính sách này được triển khai rộng rãi trong đời sống xã hội và được xã hội chấp nhận thì điều này cũng phản ánh tính đúng đắn của chính sách này và ngược lại.

Quá trình thực thi giúp chính sách ngày càng hoàn thiện vì chúng ta đều biết chính sách không tránh khỏi tính chủ quan làm ảnh hưởng tới hiệu quả của chính sách. Để khắc phục điều này thì qua thực thi chính sách sẽ rút ra bài học kinh nghiệm và chỉnh sửa để hoàn thiện chính sách.

1.1.3. Vị trí, vai trò của đánh giá trong xây dựng (chu trình) chính sách công

Theo khoa học chính trị, một chính sách công có chu trình gồm 4 bước:

Một là, xác lập chương trình nghị sự với mục đích tìm kiếm sự nhất trí về mục tiêu.

Hai là, ra quyết định chính sách nhằm tìm kiếm sự nhất trí về biện pháp để đạt được mục tiêu.

Ba là, triển khai chính sách là thi hành các biện pháp đã được nhất trí;

Bốn là, đánh giá chính sách tức đánh giá việc thực hiện mục tiêu, đặt ra các vấn đề mới.

Như vậy, chúng ta thấy rằng đánh giá chính sách công là một trong bốn khâu của một chu trình chính sách công. Mặc dù, đánh giá chính sách là khâu thứ tư – khâu cuối cùng trong một chu trình chính sách nhưng nó có vai trò hết sức quan trọng. Để muốn biết một chính sách nào đó có phù hợp với thực tiễn, có vướng mắc và có mang lại hiệu quả hay không thì cần phải có sự đánh giá khách quan về nó. Bởi vì, khi chính sách được thiết kế không ai có thể lường hết các khía cạnh khác nhau trong các vấn đề xã hội mà nó tạo ra. Mặt khác, các nhà chính trị khi hoạch định chính sách thường đưa ý chí chủ quan của họ vào chính sách, do đó khi chính sách ra đời va chạm thực tế sẽ bộc lộ nhiều vấn đề cần được điều chỉnh, bổ sung.

Đánh giá chính sách là một khâu quan trọng trong chu trình chính sách. Dù dưới hình thức nào, bất cứ chính sách nào cũng phải được tổng kết, đánh giá và kết luận về tính hiệu quả và sự thành công của nó. Vấn đề ở chỗ, trong thực tế, việc đánh giá kết quả tưởng như đơn giản nhưng thực ra lại không đơn giản, vì thế trong thực tế thì đây là khâu thường bị quên lãng hoặc nếu có thì cũng không được tiến hành một cách nghiêm túc, khoa học mà đánh giá chỉ mang tính hình thức, qua loa, đại khái cho xong, cuối cùng các chính sách đưa ra đều được đánh giá là tốt và hiệu quả thế nhưng trên thực tế có khi ngược lại.

Đánh giá hiệu quả chính sách phải bao gồm cả đánh giá kết quả thực tế của việc triển khai chính sách cũng như việc đánh giá bản thân quá trình xây dựng và triển khai chính sách để tổng kết các kinh nghiệm. Tuy nhiên, để đánh giá được một cách khoa học thì khả năng đo lường được chính xác các chi phí và kết quả (định lượng cụ thể) cũng như khả năng quy được trách nhiệm là rất quan trọng nhưng cũng rất khó. Đây là vấn đề được nhiều cải cách hành chính hiện nay trên thế giới cũng như ở nước ta quan tâm nhưng vẫn chưa mang lại hiệu quả như mong đợi.

1.2.1. Khái niệm xây dựng nông thôn mới

Theo quy định tại Thông tư số 54/2009/TT-BNNPTNT ngày 21/8/2009 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, khái niệm Nông thôn được hiểu là: “Nông thôn là phần lãnh thổ không thuộc nội thành, nội thị các thành phố, thị xã, thị trấn được quản lý bởi cấp hành chính cơ sở là UBND xã”. [1]

Nghị quyết số 26-NQ/TW xác định “Xây dựng nông thôn mới có kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội hiện đại, cơ cấu kinh tế và các hình thức tổ chức sản xuất hợp lý, gắn nông nghiệp với phát triển nhanh công nghiệp, dịch vụ, đô thị theo quy hoạch; xã hội nông thôn ổn định, giàu bản sắc văn hóa dân tộc; dân trí được nâng cao, môi trường sinh thái được bảo vệ; hệ thống chính trị ở nông thôn dưới sự lãnh đạo của Đảng được tăng cường”. [14]

Mô hình NTM là bao gồm tổng thể những đặc điểm, cấu trúc tạo thành một kiểu tổ chức nông thôn theo tiêu chí mới, đáp ứng yêu cầu mới đặt ra cho nông thôn trong điều kiện hiện nay, là kiểu nông thôn được xây dựng so với mô hình nông thôn truyền thống ở tính tiên tiến về mọi mặt.

1.2.2. Khái niệm về Khu dân cư Nông thôn mới kiểu mẫu

Khu dân cư NTM kiểu mẫu là mô hình xây dựng NTM theo quy mô thôn, bản; trên phạm vi toàn tỉnh, theo Bộ tiêu chí riêng từng tỉnh, do UBND tỉnh quy định.

Khu dân cư NTM kiểu mẫu là khu dân cư với quy mô thôn, bản được xây dựng kết cấu hạ tầng đạt và vượt so với việc xây dựng NTM. Vườn và nhà ở hộ gia đình được bố trí gọn gàng, ngăn nắp, tường rào, cổng ngõ được trồng bằng cây xanh, phù hợp với phong cảnh làng quê. Thu nhập bình quân đầu người trong thôn cao hơn ít nhất là 15% so với thu nhập bình quân đầu người/năm của xã. Trong thôn không còn hộ nghèo; 100% trẻ em trong độ tuổi đều được đến trường; tỷ lệ người tham gia bảo hiểm y tế trong thôn > 95%, tỷ lệ hộ gia đình trong thôn có tủ thuốc y tế > 70%; 100% số hộ dân trong thôn sử dụng nước hợp vệ sinh và tham gia bảo vệ cảnh quan môi trường. Người dân trong thôn chấp hành tốt pháp luật, quy ước, hương ước trong cộng đồng KDC; 100% hộ dân trong thôn không lạm dụng hóa chất trong sản xuất kinh doanh và trong chăn nuôi. [15]

1.2.3. Khái niệm chính sách xây dựng nông thôn mới

Chính sách xây dựng NTM là một dạng chính sách công được triển khai thực hiện trên cơ sở hệ thống văn bản chính sách từ trung ương đến địa phương nhằm xây dựng nông thôn theo những tiêu chí mới, hướng đến mục tiêu “Xây dựng nền nông nghiệp toàn diện theo hướng hiện đại, đồng thời phát triển mạnh công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn; Xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội nông thôn gắn với phát triển các đô thị; Nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của dân cư nông thôn, nhất là vùng khó khăn; Đổi mới và xây dựng các hình thức tổ chức sản xuất, dịch vụ có hiệu quả ở nông thôn; Phát triển nhanh nghiên cứu, chuyển giao và ứng dụng khoa học, công nghệ, đào tạo nguồn nhân lực, tạo đột phá để hiện đại hoá nông nghiệp, công nghiệp hoá nông thôn; Đổi mới mạnh mẽ cơ chế, chính sách để huy động cao các nguồn lực, phát triển nhanh kinh tế nông thôn, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nông dân; Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, phát huy sức mạnh của các đoàn thể chính trị – xã hội ở nông thôn, nhất là hội nông dân.” [16]

    1. 1.3. Ý nghĩa, tầm quan trọng và yêu cầu thực hiện chính sách xây dựng Nông thôn mới và Khu dân cư Nông thôn mới kiểu mẫu

1.3.1. Ý nghĩa, tầm quan trọng của việc thực hiện chính sách xây dựng nông thôn mới và Khu dân cư Nông thôn mới kiểu mẫu

Thực hiện chính sách xây dựng nông thôn mới là nhằm biến ý đồ chính sách thành hiện thực

Trong điều hành, quản lý nền kinh tế nhiều thành phần hoạt động theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đòi hỏi nhà nước phải đối xử với nhiều đối tượng có quan hệ khác nhau. Có những đối tượng quan hệ với Nhà nước là đồng sở hữu như các thành phần kinh tế Nhà nước; có những đối tượng mà tính chất sở hữu gần với sở hữu nhà nước, được nhà nước kết hợp với thành phần kinh tế nhà nước để xây dựng thành nền tảng của nền kinh tế. Trong quản lý xã hội, công cụ nhà nước được dùng nhằm mục đích chuyển tải thái độ ứng xử của mình đến các đối tượng quản lý là chính sách. Tùy theo yêu cầu quản lý phát triển kinh tế trong từng thời kỳ, nhà nước cần chủ động ban hành các chính sách công để thực hiện ý chí trong quan hệ với các thành phần kinh tế theo đúng định hướng.

Như vậy, có thể nói thực thi chính sách xây dựng NTM là giai đoạn biến thái độ ứng xử của Nhà nước với các đối tượng quản lý thành hiện thực.

Thực hiện chính sách nhằm từng bước thực hiện các mục tiêu chính sách và mục tiêu chung.

Mục tiêu chính sách có liên quan đến rất nhiều hoạt động chính trị, kinh tế, xã hội theo các cấp độ khác nhau nên không thể cùng một lúc để giải quyết tất cả các vấn đề có liên quan và càng không thể đốt cháy giai đoạn của mỗi quá trình. Thực hiện chính sách công để giải quyết các vấn đề trong mối quan hệ biện chứng đến mục tiêu chung. Mục tiêu chính sách công chỉ có thể đạt được thông qua thực thi chính sách, đồng thời giữa các mục tiêu chính sách công có quan hệ chặt chẽ, ảnh hưởng rất lớn đến nhau và đến mục tiêu chung.

Thực hiện chính sách nhằm khẳng định tính đúng đắn của chính sách

Việc nhận thấy những mâu thuẫn cần được giải quyết bằng chính sách đã cho thấy tính đúng đắn hay không của vấn đề chính sách. Vấn đề chính sách tự nó đã phản ánh việc giải quyết mâu thuẫn phát sinh và nhu cầu cơ bản của xã hội. Vấn đề chính sách chỉ được coi là đúng đắn và ngược lại khi mà nhu cầu đó là chính đáng, bức xúc cần được đáp ứng để xã hội tồn tại, phát triển. Sau khi lựa chọn đúng vấn đề chính sách, việc quan trọng tiếp theo là hoạch định chính sách đúng.

Thực hiện chính sách nhằm giúp cho chính sách ngày càng hoàn chỉnh

Chúng ta nhận thức rằng, chính sách công được hoạch định bởi một tập thể nên vẫn bị chi phối bởi sự ảnh hưởng của ý chí chủ quan. Không phải ý chí chủ quan chỉ ảnh hưởng đến quá trình hoạch định chính sách mà còn tác động qua nhiều quá trình phân tích, dự báo, lựa chọn để có được mục tiêu, biện pháp chính sách. Đồng thời, các quá trình kinh tế – xã hội thường xuyên vận động phát triển, trong khi chính sách được hoạch định lại dựa chủ yếu vào thực trạng của môi trường sống và có khoảng cách khá lớn về thời gian kể từ khi hoạch định đến lúc thực hiện. Những điều chỉnh bổ sung về mục tiêu hay biện pháp chính sách trong quá trình thực thi, chính là hoạt động hoàn chỉnh những chính sách đang có và góp phần đúc rút kinh nghiệm cho hoạch định các chính sách kỳ sau.

1.3.2. Yêu cầu đối với việc thực hiện chính sách xây dựng Nông thôn mới và Khu dân cư Nông thôn mới kiểu mẫu

Yêu cầu thực hiện mục tiêu

Thực hiện chính sách xây dựng nông thôn mới và Khu dân cư NTM kiểu mẫu là nhằm thực hiện những mục tiêu của chính sách đã đưa ra đảm bảo hoàn thành đúng định hướng, mục tiêu và thời gian xác định.

Yêu cầu đảm bảo tính hệ thống

Trong hoạt động quản lý của Nhà nước thì mọi hoạt động phải đảm bảo tính thống nhất, hệ thống từ trung ương đến cơ sở cả về các văn bản chỉ đạo điều hành và cách tổ chức thực hiện. Thực hiện chính sách xây dựng NTM và Khu dân cư NTM kiểu mẫu cũng vậy, phải đảm bảo tính hệ thống trong tất các bước của quy trình thực hiện ở các cấp mới hoàn thành tốt kế hoạch đề ra.

Yêu cầu các cơ quan nhà nước phải đảm bảo tính pháp lý, khoa học và hợp lý trong tổ chức thực hiện chính sách

Trong thực hiện chính sách xây dựng NTM và Khu dân cư NTM kiểu mẫu, tất cả các cơ quan nhà nước cần phải đảm tuân thủ nghiêm túc tính pháp lý theo quy định của Nhà nước trong từng khâu từ chỉ đạo điều hành đến việc tổ chức thực hiện phải mang tính khoa học ở từng bước thực hiện của quy trình và phù hợp, hợp lý với điều kiện thực tế ở từng vùng, miền, mỗi địa phương mới đem lại hiệu quả cao nhất.

Đảm bảo lợi ích thật sự cho các đối tượng thụ hưởng

Đây là yêu cầu rất quan trọng trong việc thực hiện chính sách xây dựng NTM và Khu dân cư NTM kiểu mẫu. Bởi vì, đây là việc thực thi hóa chính sách vào đời sống xã hội, đáp ứng yêu cầu tốt đẹp cho xã hội. Vì vậy, mục tiêu cuối cùng của thực hiện chính sách là đảm bảo tốt nhất lợi ích cho các đối tượng thụ hưởng trong thực hiện chính sách xây dựng NTM và Khu dân cư NTM kiểu mẫu.

1.3.3. Qui trình thực hiện Khu dân cư Nông thôn mới kiểu mẫu

Bước 1:

+ UBND xã quyết định thành lập Ban Chỉ đạo xây dựng “Khu dân cư NTM kiểu mẫu”.

+ Kiện toàn, bổ sung chức năng nhiệm vụ cho Ban Phát triển thôn để tổ chức thực hiện Bộ tiêu chí “Khu dân cư NTM kiểu mẫu”.

Sau khi được kiện toàn, Ban Phát triển thôn tổ chức họp thực hiện các nội dung sau:

+ Phân công các thành viên thực hiện các công việc để hoàn thành 10 tiêu chí khu dân cư NTM kiểu mẫu.

+ Bàn xây dựng khung kế hoạch, thời gian công việc theo yêu cầu của từng tiêu chí trong Bộ tiêu chí “Khu dân cư NTM kiểu mẫu”;

+ Xác định tiêu chí nào thì từng hộ dân phải làm, tiêu chí nào thì cả cộng đồng dân cư làm, có phân nhóm hộ thực hiện.

Bước 2: Tổ chức thông tin, tuyên truyền về Bộ tiêu chí “Khu dân cư NTM kiểu mẫu”, in tờ rơi tuyên tuyền; vận động nhân dân trong thôn cùng tham gia.

Bước 3. Khảo sát, đánh giá thực trạng và lập Phương án xây dựng “Khu dân cư NTM kiểu mẫu”.

+ Hoàn chỉnh Phương án lần 1.

Bước 4. Lấy ý kiến về Phương án: Ban Quản lý NTM xã phối hợp với Ban Phát triển thôn tổ chức họp nhân dân trong thôn (lần 2) để lấy ý kiến về Phương án (có biên bản cuộc họp), với điều kiện tại cuộc họp có ít nhất 90% đại diện hộ dân trong thôn tham dự và có trên 90% đại diện hộ dân tham dự cuộc họp đồng ý với Phương án.

Bước 5. Phê duyệt Phương án: Ban Quản lý NTM xã hoàn chỉnh Phương án sau khi có ý kiến góp ý của nhân dân, tham mưu UBND xã lập Tờ trình trình UBND cấp huyện phê duyệt Phương án.

Bước 6. Phê duyệt Phương án: UBND cấp huyện giao Phòng Nông nghiệp và PTNT/Phòng Kinh tế chủ trì, phối hợp với các Phòng, ban có liên quan thẩm định, trình UBND cấp huyện phê duyệt.

Bước 7: Tổ chức thực hiện: Ban Quản lý NTM xã phối hợp với Ban Phát triển thôn tổ chức thực hiện theo Phương án được UBND cấp huyện phê duyệt.

Bước 8. Giám sát và báo cáo kết quả thực hiện: Ban Chỉ đạo xã, Ban Quản lý NTM xã, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc và các Hội, đoàn thể ở xã, thôn có trách nhiệm giám sát kết quả thực hiện; Ban Phát triển thôn định kỳ hàng quý báo cáo kết quả thực hiện cho Ban Chỉ đạo, Ban Quản lý NTM xã để tổng hợp báo cáo huyện, tỉnh.

Bước 9. Công nhận “Khu dân cư NTM kiểu mẫu”: Khi thấy có khả năng đạt chuẩn được 10 tiêu chí theo quy định, Ban Phát triển thôn phối hợp với Ban Quản lý NTM xã tổ chức đánh giá, trên cơ sở đó Ban Quản lý NTM xã tham mưu UBND xã trình UBND cấp huyện để thẩm định, công nhận “Khu dân cư NTM kiểu mẫu” đạt chuẩn.

Bước 10: Công bố “Khu dân cư NTM kiểu mẫu” đạt chuẩn: UBND cấp xã có trách nhiệm công bố “Khu dân cư NTM kiểu mẫu” đạt chuẩn trong vòng 45 ngày, kể từ ngày được UBND cấp huyện công nhận.

    1. 1.4. Những yếu tố ảnh hưởng đến thực hiện chính sách xây dựng nông thôn mới và Khu dân cư NTM kiểu mẫu

1.4.1. Những nhân tố chủ quan

Nhận thức của chính quyền

Chính quyền địa phương cần phải xác định xây dựng NTM và Khu dân cư NTM kiểu mẫu là nhiệm vụ then chốt của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội. Vì thế, cần có sự vào cuộc mạnh mẽ của các cấp ủy đảng, chính quyền và các tổ chức đoàn thể tại cơ sở. Đồng thời phải làm tốt công tác tuyên truyền, vận động giáo dục, thuyết phục để đội ngũ cán bộ, đảng viên, đặc biệt là các tầng lớp nhân dân nhận thức rõ mục đích, ý nghĩa tầm quan trọng của Chương trình; thực hiện tốt phương châm “dễ làm trước, khó làm sau” phát huy vai trò chủ thể và dựa vào nội lực của cộng đồng dân cư tránh tư tưởng chủ quan, nóng vội, chạy theo thành tích. Phải làm tốt công tác kiểm tra giám sát, kịp thời chấn chỉnh, uốn nắn những sai sót lệch lạc trong quản lý, tạo niềm tin cho quần chúng nhân dân…

Mức độ tuân thủ các bước trong quy trình tổ chức thực thi chính sách

Quy trình thực thi chính sách NTM và Khu dân cư NTM kiểu mẫu được coi là những nguyên lý khoa học được đúc kết từ thực tiễn cuộc sống. Việc tuân thủ quy trình cũng là một nguyên tắc hành động của các nhà quản lý. Thực hiện xây dựng Khu dân cư NTM kiểu mẫu phải đảm bảo tuân thủ các bước trong quy trình, gồm: Bước 1, thành lập hệ thống quản lý, thực hiện; Bước 2, tổ chức tuyên truyền, thông tin về thực hiện Chương trình (được thực hiện trong suốt quá trình triển khai thực hiện).; Bước 3, khảo sát đánh giá thực trạng nông thôn theo các tiêu chí đối với Khu dân cư NTM kiểu mẫu; Bước 4, xây dựng quy hoạch Khu dân cư NTM kiểu mẫu của xã; Bước 5, lập, phê duyệt phương án xây dựng Khu dân cư NTM của xã; Bước 6, tổ chức thực hiện phương án; Bước 7, giám sát, đánh giá và báo cáo về tình hình thực hiện Chương trình.

Năng lực thực thi chính sách xây dựng Khu dân cư NTM kiểu mẫu của cán bộ, công chức trong bộ máy quản lý Nhà nước

Đây là yếu tố có vai trò quyết định đến kết quả tổ chức thực thi chính sách. Năng lực thực thi chính sách của cán bộ, công chức là thước đo bao gồm nhiều tiêu chí phản ánh về đạo đức công vụ, về năng lực thực tế, năng lực thiết kế tổ chức, năng lực phân tích, dự báo để có thể chủ động đối phó được với những tình huống phát sinh trong tương lai.

Các điều kiện vật chất để thực thi chính sách xây dựng nông thôn mới và Khu dân cư NTM kiểu mẫu

Yếu tố này có ý nghĩa quan trọng để cùng với nhân sự và các yếu tố khác thực thi thắng lợi chính sách của Nhà nước. Nếu các điều kiện về vật chất kỹ thuật đáp ứng được yêu cầu thì sẽ giúp cho tính khả thi của công tác tổ chức thực thi chính sách luôn được nâng cao hiệu quả. Trong thực tế, nếu thiếu các điều kiện vật chất, kỹ thuật cho công tác tuyên truyền, phổ biến chính sách thì các cơ quan nhà nước khó có thể chuyển tải những nội dung chính sách đến với đối tượng một cách thường xuyên.

Sự đồng tình ủng hộ của người dân

Đây là yếu tố có vai trò quyết định sự thành, bại của một chính sách. Mục tiêu chính sách công của một quốc gia là làm thay đổi trạng thái kinh tế, xã hội hiện tại theo nhu cầu của đời sống xã hội. Đây là vấn đề lớn, cần có sự đóng góp sức người, sức của trong một thời gian đủ để các yếu tố cấu thành trạng thái kinh tế – xã hội vận động phát triển lên một trình độ cao hơn, làm thay đổi được về chất của xã hội. Vì thế, việc thực hiện các mục tiêu chính sách không thể chỉ do các cơ quan quản lý nhà nước, mà phải có sự tham gia của mọi tầng lớp nhân dân trong xã hội. Trên thực tế, các cơ quan nhà nước chịu trách nhiệm chỉ đạo, điều hành công tác tổ chức thực thi chính sách, còn các tầng lớp nhân dân là những đối tượng thực hiện chính sách. Chính vì vậy, nhân dân vừa là người trực tiếp tham gia hiện thực hóa mục tiêu chính sách, vừa trực tiếp thụ hưởng những lợi ích do chính sách mang lại. Nếu mọi chính sách đáp ứng được nhu cầu thực tế của xã hội về mục tiêu và biện pháp thừa hành thì nó sẽ nhanh chóng được nhân dân ủng hộ thực hiện.

1.4.2. Những nhân tố khách quan

Các nhân tố khách quan là những nhân tố xuất hiện và tác động đến tổ chức thực thi chính sách xây dựng khu dân cư NTM kiểu mẫu từ bên ngoài, độc lập với ý muốn của chủ thể quản lý. Các yếu tố này tồn tại và vận động theo quy luật khách quan, ít tạo ra những biến đổi bất thường, do đó ít gây được sự chú ý của các nhà quản lý, nhưng tác động của chúng đến quá trình thực thi chính sách lại vô cùng lớn vì cơ chế tác động giữa chúng với các vấn đề chính sách được hình thành trên cơ sở của quy luật. Đối với yếu tố khách quan, chúng ta không thể cải tiến tính khách quan của nó, mà chỉ tìm cách điều chỉnh các hoạt động quản lý, điều hành cho phù hợp với qui luật vận động trong mỗi điều kiện không gian và thời gian.

Tính chất của vấn đề chính sách xây dựng nông thôn mới và Khu dân cư NTM kiểu mẫu

Đây là yếu tố gắn liền với mỗi vấn đề thực hiện chính sách, có tác động trực tiếp đến cách giải quyết vấn đề và tổ chức thực thi chính sách. Nếu vấn đề chính sách liên quan đến ít đối tượng chính sách thì công tác tổ chức thực thi sẽ thuận lợi hơn nhiều so với các vấn đề phức tạp có quan hệ lợi ích với nhiều đối tượng trong xã hội. Tính chất cấp bách của vấn đề chính sách tác động rất lớn đến kết quả tổ chức thực thi chính sách. Nếu là vấn đề bức xúc cần được giải quyết ngay mới giúp cho đối tượng phát triển theo mục tiêu định hướng thì sẽ được Nhà nước và xã hội ưu tiên các nguồn lực cho thực hiện.

Môi trường thực thi chính sách xây dựng nông thôn mới và Khu dân cư NTM kiểu mẫu

Trong xây dựng NTM và Khu dân cư NTM kiểu mẫu, yếu tố đặc thù về phong tục, tập quán của từng dân tộc, của mỗi địa phương, vùng miền có sự tác động rất lớn đến tiến độ thực hiện chương trình hoặc thành công hay thất bại. Bởi vì, xây dựng NTM theo các tiêu chí của Trung ương quy định, còn xây dựng khu dân cư NTM kiểu mẫu là do địa phương, nhưng nếu mỗi địa phương không linh hoạt vận dụng phù hợp theo phong tục, tập quán của người dân thụ hưởng chính sách thì sẽ không được nhân dân đồng thuận, ủng hộ chung sức xây dựng. Ví như xây dựng nhà văn hóa thôn cho đồng bào dân tộc thiểu số ở miền núi giống như ở miền xuôi thì chắc chắn không được ủng hộ. Hoặc nếu áp dụng các cơ chế đặc thù như ở vùng đồng bằng đối các vùng miền núi trong sử dụng vốn đầu tư thì khó thực hiện được.

Ngoài ra, vị trí địa lý, đặc điểm điều kiện tự nhiên thuận lợi hay khó khăn cũng tác động không nhỏ đến việc xây dựng NTM nói chung và Khu dân cư NTM kiểu mẫu.

Mối quan hệ giữa các đối tượng thực thi chính sách xây dựng NTM và Khu dân cư NTM kiểu mẫu

Nội hàm chủ yếu mối quan hệ này thể hiện sự thống nhất hay không về lợi ích của các đối tượng trong quá trình thực hiện mục tiêu chính sách. Không chỉ do sự không đồng nhất về những tiện ích giữa các cơ quan chỉ đạo điều hành thực thi chính sách, mà còn do mâu thuẫn lợi ích giữa các đối tượng chính sách làm ảnh hưởng đến công tác tổ chức thực hiện. Ví dụ như cơ quan quản lý ngành nông nghiệp, công nghiệp ủng hộ thực thi chính sách khoán sức dân bằng cách miễn trừ một số khoản thuế và phí để tạo điều kiện phát triển ngành, nhưng cơ quan tài chính tỏ ra chưa đồng tình, bởi như vậy sẽ ảnh hưởng đến kết quả thu ngân sách mà Chính phủ giao.

Tiềm lực của các nhóm đối tượng chính sách

Trong xây dựng NTM và Khu dân cư NTM kiểu mẫu, tiềm lực của nhóm đối tượng thực hiện và thụ hưởng chính sách có vai trò rất quan trọng. Nhóm đối tượng có kiến thức, trình độ văn hóa, chuyên môn nghiệp vụ cao hơn, tiềm lực về kinh tế mạnh hơn, sẽ đóng góp tốt hơn cho xây dựng NTM. Ví dụ như khi xây dựng chợ thì khả năng đóng góp của nhóm hộ kinh doanh, tư thương có điều kiện khá hơn nên đóng góp nhiều hơn và tiến độ triển khai cũng nhanh hơn. Nhưng khi xây dựng đường giao thông thì số người thụ hưởng nhiều hơn, phần lớn là nông dân, hộ sản xuất nông nghiệp khả năng đóng góp hạn chế nên việc triển khai thực hiện chậm.

Đặc tính của đối tượng thực hiện chính sách

Mỗi địa phương, mỗi dân tộc lại có đặc tính khác nhau về phương pháp lao động, thái độ trong việc thực hiện và thụ hưởng chính sách; có thể chủ động hoặc trông chờ ỷ lại vào Nhà nước. Vì vậy, cần có sự tìm hiểu kỹ càng về đặc tính của đối tượng thực hiện chính sách mà các cấp đảng, chính quyền, đoàn thể có phương pháp lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý, tuyên truyền vận động phù hợp mới thực hiện thành công, nhất là vùng đồng bào dân tộc, các xã miền núi, vùng cao có xuất phát điểm thấp khi thực hiện chính sách xây dựng NTM.

    1. 1.5. Kinh nghiệm xây dựng nông thôn mới và Khu dân cư Nông thôn mới kiểu mẫu của một số địa phương

1.5.1. Kinh nghiệm của tỉnh Phú Yên [19]

Phải đặt công tác tuyên truyền lên vị trí “tiên phong”; Phải đảm bảo được tính công khai, minh bạch trên tinh thần dân chủ để người dân khẳng định và thể hiện quyền làm chủ của mình. Khi làm được điều này thì không những khẳng định rõ vai trò chủ thể của người dân mà còn làm tốt được việc huy động mọi nguồn lực của người dân cho chương trình. Thực tiễn cho thấy nơi nào không khơi dậy, huy động và phát huy tốt mọi ngưồn lực trong dân, thì không thể đạt được những tiêu chí đã đưa ra, nhất là về xây dựng hạ tầng nông thôn. Đặc biệt, với những “cái mới” và tầm bao quát rất lớn theo bộ tiêu chí NTM của Trung ương, cần có những “con người mới, tư duy mới” để có những cách làm mới năng động.

Phải gắn chặt nhiệm vụ xây dựng NTM và khu dân cư NTM kiểu mẫu với cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng cuộc sống mới ở khu dân cư“, cuộc vận động “vì người nghèo”, phong trào xây dựng cộng đồng dân cư văn hóa.

Quản lý vốn, huy động các nguồn lực để vừa đảm bảo được mục tiêu, vừa huy động được nguồn lực khác của địa phương. Tổ chức khảo sát, đánh giá thực trạng nông thôn làm cơ sở cho công tác lập quy hoạch; rút ra những bài học thành công, hạn chế, khó khăn trong triển khai thực hiện để có giải pháp tháo gỡ.

1.5.2. Kinh nghiệm của tỉnh Quảng Ngãi [12]

Công tác tuyên truyền là khâu then chốt. Tiếp đó, xây dựng NTM cần có sự tập trung chỉ đạo cụ thể, liên tục, đồng bộ và huy động được sự tham gia của cả hệ thống chính trị từ huyện đến tận thôn; đối với cấp xã phải có cách làm chủ động, sáng tạo, phù hợp với điều kiện và đặc điểm của từng xã, tránh rập khuôn, máy móc;

Do vậy, xác định nguồn vốn là rất quan trọng nên cần phải đa dạng hóa việc huy động nguồn lực để xây dựng NTM theo phương châm “Huy động nguồn lực xã hội hóa là quan trọng, sự hỗ trợ từ ngân sách nhà nước là cần thiết”.

Ðặc biệt, trong quá trình triển khai tại các xã phải luôn bảo đảm sự công khai, minh bạch, tuân thủ chủ trương “dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”.

Thường xuyên tổng kết, đánh giá quá trình thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng NTM tại địa phương.

LIỆN HỆ:

SĐT+ZALO: 0935568275

E:\DỮ LIỆU COP CỦA CHỊ YẾN\LUAN VAN VIEN HAN LAM\VIEN HAN LAM DOT 9\CHINH SACH CONG\TRUONG KIM DONG

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *