Đánh giá chính sách giảm nghèo bền vững từ thực tiễn thị xã Điện Bàn

Đánh giá chính sách giảm nghèo bền vững từ thực tiễn thị xã Điện Bàn

Đánh giá chính sách giảm nghèo bền vững từ thực tiễn thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam

1. Tính cấp thiết của đề tài

Giảm nghèo là vấn đề mang tính toàn cầu, không còn là của riêng một quốc gia hay một vùng lãnh thổ nào. Trước đây cũng như hiện nay và đặc biệt là trong xu thế hội nhập và phát triển, các quốc gia trên thế giới đều có chung một mối lo đó là quan tâm và hợp tác cùng nhau để giải quyết đói, nghèo.

Giảm nghèo bền vững có vai trò quan trọng tạo tiền đề cơ sở cho sự phát triển xã hội; giảm nghèo bền vững là một trong những chính sách xã hội hướng vào sự phát triển con người, nhất là nhóm người nghèo, tạo cơ hội cho họ tham gia vào quá trình phát triển kinh tế – xã hội của đất nước như: Phát triển kinh tế tăng thu nhập, được tiếp cận với các dịch vụ xã hội cơ bản, góp phần nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân.

Ở Việt Nam, giảm nghèo được Đảng, Nhà nước xác định là một trong những chương trình mục tiêu quốc gia quan trọng, được ưu tiên hàng đầu trong hoạch định phát triển kinh tế – xã hội cho từng thời kỳ. Phát triển kinh tế phải đồng thời gắn liền với giảm nghèo, cũng như tăng trưởng kinh tế phải đi đôi với tiến bộ công bằng xã hội, cải thiện đời sống nhân dân, ổn định xã hội, bảo đảm quyền con người. Đẩy mạnh công tác giảm nghèo, từng bước tiếp cận các chuẩn quốc tế. Đó là chiến lược và định hướng nhất quán của Đảng và nhà nước ta suốt nhiều thập kỷ qua.

Theo thời gian, công tác giảm nghèo ở nước ta đã đạt được những kết quả đáng khích lệ, đó là do sự nỗ lực, quyết tâm giảm nghèo của Việt Nam và thực tế cho thấy chủ trương và những biện pháp đang thực hiện là đúng đắn, hợp lòng dân. Mặc dù kinh tế đất nước còn không ít khó khăn nhưng Đảng, Nhà nước luôn coi đảm bảo an sinh xã hội và giảm nghèo luôn là một trong những lĩnh vực ưu tiên hàng đầu trong hoạt động của Chính phủ. Những thành tựu có được trong giảm nghèo là nhờ sự nỗ lực chung của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, trong đó có sự đóng góp không nhỏ của các doanh nghiệp, các tổ chức, cá nhân, các cơ quan, đoàn thể, tổ chức xã hội. . Chính vì vậy, tỷ lệ hộ nghèo ở Việt Nam giảm khá nhanh và cuộc sống của những người nghèo của cả nước cũng như ở nhiều tỉnh đã được cải thiện đáng kể. Song, hiện tại công cuộc xóa đói giảm nghèo vẫn còn những hạn chế, bất cập cần tập trung khắc phục đó là: tỷ lệ hộ nghèo giảm nhanh nhưng chưa bền vững, khoảng cách giàu – nghèo chưa được thu hẹp, thu nhập bình quân thấp, hiện tượng tái nghèo có xu hướng trở lại ở nhiều địa phương nhất ở vùng sâu vùng xa … Tình trạng trên do nhiều nguyên nhân: do nhiều cơ chế, chính sách được ban hành còn chồng chéo dẫn đến việc thực hiện phân bổ, hiệu quả sử dụng các nguồn lực chưa cao; nhiều địa phương còn trông chờ, ỷ lại vào Nhà nước. Việc tổ chức thực hiện chính sách giảm nghèo vẫn còn nhiều bất cập, chưa phù hợp với thực tiễn; công tác tuyên truyền, vận động nâng cao nhận thức về giảm nghèo chưa được tổ chức thường xuyên, do đó hiệu quả chính sách giảm nghèo bền vững chưa cao.

Thực tế trên cho thấy, để đạt được mục tiêu giảm nghèo là vấn đề hết sức khó khăn, đây cũng là một trong những trở ngại và thách thức lớn đối với công tác giảm nghèo bền vững.Vì thế, việc tiếp tục nghiên cứu trao đổi để đưa ra các giải pháp phù hợp với các vùng, địa phương là rất cần thiết. Do đó, học viên lựa chọn đề tài “Đánh giá chính sách giảm nghèo bền vững từ thực tiễn thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam” với mong muốn góp phần nghiên cứu và đánh giá đầy đủ hơn chính sách và các biện pháp giảm nghèo bền vững, nhằm góp phần nâng cao hiệu quả trong lĩnh vực này trên địa bàn thị xã từ nay đến 2020.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

– Nghiên cứu và hệ thống hóa những vấn đề lý luận và thực tiễn về thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững trên địa bàn thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam.

– Đánh giá thực trạng tổ chức thực hiện chính sách, đồng chỉ ra những ưu điểm, những tồn tại hạn chế và nguyên nhân của những tồn tại hạn chế trong công tác tổ chức triển khai thực hiện chính sách giảm nghèo ở địa bàn thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam thời gian qua.

– Xây dựng các giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững ở thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam từ nay đến năm 2020 và những năm tiếp theo, trong đó tập trung chủ yếu vào các bước trong quy trình tổ chức thực hiện chính sách giảm nghèo.

– Kiến nghị với các cơ quan có thẩm quyền từ trung ương đến địa phương, các tổ chức chính trị – xã hội ở địa phương về những cơ chế chính sách, để tổ chức thực hiện chính sách giảm có hiệu quả cao.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Để đạt được mục đích trên, luận án đặt ra những nhiệm vụ cơ bản sau:

– Nghiên cứu tổng quan về tình hình nghiên cứu của các tác giả trong và ngoài nước về những vấn đề liên quan đến đề tài luận án;

– Làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về thực hiện chính sách giảm nghèo trong đó tập trung nghiên cứu về ảnh hưởng của đói nghèo đến phát triển kinh tế – xã hội, về vai trò của Nước nước trong giảm nghèo. Nghiên cứu về cách thức tổ chức thực hiện, mô hình tổ chức thực hiện chính sách giảm nghèo ở nước ta hiện nay. Phân tích nhận diện những yếu tố ảnh hưởng đến quá trình tổ chức thực hiện chính sách giảm nghèo ở Việt Nam, những kinh nghiệm trong và ngoài nước về giảm nghèo mà thị xã Điện Bàn có thể học tập, áp dụng trong thực hiện chính sách giảm nghèo.

– Tiến hành khảo sát, điều tra, thu thập và tổng hợp thông tin để phục vụ cho việc phân tích thực trạng tổ chức thực hiện chính sách giảm nghèo ở thị xã Điện Bàn.

– Nghiên cứu, phân tích, đánh giá những ưu điểm, hạn chế trong các bước thực hiện chính sách và những thuận lợi khó khăn trong giảm nghèo để đề xuất các giải pháp mới nhằm nâng cao kết quả tổ chức thực hiện chính sách giảm nghèo ở thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam đến năm 2020 và những năm tiếp theo.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Việc thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững của Nhà nước ta và của tỉnh Quảng Nam được thực thi trên địa bàn thị xã Điện Bàn.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

Tại thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam, nghiên cứu tình hình thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững từ năm 2016 đến năm 2018.

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

5.1. Cơ sở lý luận

Phương pháp phân tích, tổng hợp, logic và lịch sử, so sánh … được sử dụng xuyên suốt trong các nội dung của luận văn và đây cũng là phương pháp luận trực tiếp để nghiên cứu, luận giải về quá trình tổ chức thực hiện chính sách của luận văn.

5.2. Phương pháp nghiên cứu

Các phương pháp nghiên cứu cụ thể được sử dụng bao gồm:

– Phương pháp thu thập, nghiên cứu các văn kiện, các tài liệu

– Phương pháp thống kê mô tả

– Phân tích xử lý số liệu, thông tin

Ngoài ra, đề tài cũng sử dụng phương pháp chuyên gia thông qua trao đổi, tham khảo ý kiến một số cán bộ có liên quan đến tổ chức thực hiện chính sách giảm nghèo ở thị xã Điện Bàn cùng với phương pháp quan sát, phỏng vấn nhanh hộ nghèo.

6. Ý nghĩa luận và thực tiễn

6.1. Ý nghĩa lý luận

– Giúp người học nghiên cứu, bổ sung kiến thức lý thuyết về chính sách giảm nghèo bền vững ở Việt Nam

– Tìm hiểu, đánh giá về việc thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững ở địa phương.

6.2. Ý nghĩa thực tiễn

– Đánh giá việc vận dụng các lý thuyết chính sách công vào nghiên cứu thực tiễn thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững;

– Đề xuất các giải pháp nhằm thực hiện tốt hơn, hiệu quả hơn các chính sách giảm nghèo bền vững trong giai đoạn hiện nay.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo, kết cấu luận văn gồm 3 chương:

Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn

Chương 2: Thực trạng chính sách giảm nghèo bền vững từ thực tiễn thị xã Điện Bàn tỉnh Quảng Nam

Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững

CHƯƠNG 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC TIỄN

CHÍNH SÁCH GIẢM NGHÈO BỀN VỮNG Ở VIỆT NAM

    1. 1.1. Những vấn đề lý luận về thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững ở Việt Nam

1.1.1. Một số khái niệm

– Khái niệm: “Nghèo là tình trạng một bộ phận dân cư không được hưởng và thỏa mãn các nhu cầu cơ bản của con người mà nhu cầu này được xã hội thừa nhận tùy theo trình độ phát triển kinh tế – xã hội và phong tục tập quấn của địa phương” (Hội nghị chống đói nghèo khu vực Châu Á – Thái Bình Dương do ESCAP tổ chức tại Băng Cốc – Thái Lan tháng 9/1993).

Theo Tổ chức Liên hợp quốc (UN): “Nghèo là thiếu năng lực tối thiểu để tham gia hiệu quả vào các hoạt động xã hội. Nghèo có nghĩa là không có đủ ăn, đủ mặc, không được đi học, không được khám chữa bệnh, không có đất đai để trồng trọt hoặc không có nghề nghiệp để nuôi sống bản thân, không được tiếp cận tín dụng. Nghèo cũng có nghĩa là không an toàn, không có quyền, và bị loại trừ, dễ bị bạo hành, phải sống trong các điều kiện rủi ro, không tiếp cận được nước sạch và công trình vệ sinh” [17].

– Nghèo đa chiều đã xuất phát từ quan niệm nghèo là một hiện tượng đa chiều, tình trạng nghèo cần được nhìn nhận là sự thiếu hụt, không được thỏa mẫn các nhu cầu cơ bản của con người.

– Về chính sách giảm nghèo bền vững ở Việt Nam như sau: Chính sách giảm nghèo bền vững là tập hợp các quyết định của Chính phủ nhằm đưa ra các giải pháo, công cụ chính sách để giải quyết các vấn đề về cải thiện đời sống vật chất và tinh thần đối với người nghèo, góp phần thu hẹp khoảng cách chênh lệch về mức sống giữa nông thôn và thành thị, giữa các cùng, các dân tộc và các nhóm dân cư, thực hiện mục tiêu giảm nghèo bền vững của đất nước.

1.1.2. Chuẩn nghèo và đo lường nghèo

Ở Việt Nam, qua nhiều thập niên, cách đo lường và đánh giá nghèo chủ yếu thông qua thu nhập. Chuẩn nghèo được xác định dựa trên mức chi tiêu đáp ứng những nhu cầu tối thiểu và được quy thành tiền. Nếu người có thu nhập thấp dưới mức chuẩn nghèo thì được đánh giá thuộc diện hộ nghèo. Đây chính là chuẩn nghèo đơn chiều do Chính phủ quy định. Tuy nhiên, chuẩn nghèo hiện nay của Việt Nam được đánh giá là thấp so với thế giới. Trên thực tế, nhiều hộ dân thoát nghèo nhưng mức thu nhập vẫn nằm cận chuẩn nghèo, do đó số lượng hộ cận nghèo vẫn rất lớn, tỷ lệ tái nghèo còn cao, hàng năm cứ 3 hộ thoát nghèo thì lại có 01 hộ trong số đó tái nghèo (Trung tâm Thông tin và Dự báo Kinh tế – Xã hội Quốc gia (2014:7) [16].

Thực tế cho thấy sử dụng tiêu chí thu nhập để đo lường nghèo đói là không đầy đủ. Về bản chất, đói nghèo đồng nghĩa với việc bị khước từ các quyền cơ bản của con người, bị đẩy sang lề xã hội chứ không chỉ là thu nhập thấp. Có nhiều nhu cầu tối thiểu không thể đáp ứng bằng tiền. Nhiều trường hợp không nghèo về thu nhập nhưng lại khó tiếp cận được các dịch vụ cơ bản về y tế, giáo dục, thông tin. Mặc dù một số hộ không có tên trong danh sách hộ nghèo nhưng lại thiếu thốn các dịch vụ y tế, nước sạch, ở vùng sâu vùng xa học sinh phải học trong những căn nhà lá đơn sơ, bốn bề gió lùa… Do đó, nếu chỉ dùng thước đo duy nhất dựa trên thu nhập hay chi tiêu sẽ dẫn đến tình trạng bỏ sót đối tượng nghèo, dẫn đến sự thiếu công bằng, hiệu quả và bền vững trong thực thi các chính sách giảm nghèo.

Nghèo đa chiều có thể đo bằng tiêu chí thu nhập và các tiêu chí phi thu nhập. Sự thiếu hụt cơ hội, đi kèm với tình trạng suy dinh dưỡng, thất học, bệnh tật, bất hạnh và tuyệt vọng là những nội dung được quan tâm trong khái niệm nghèo đa chiều. Thiếu đi sự tham gia và tiếng nói về kinh tế, xã hội hay chính trị sẽ đẩy các cá nhân đến tình trạng bị loại trừ, không được thụ hưởng các lợi ích phát triển kinh tế – xã hội và do vậy bị tước đi các quyền con người cơ bản (UN, 2012: 5).

Tuy nhiên, chuẩn nghèo đa chiều có thể là một chỉ số không liên quan đến mức thu nhập mà bao gồm các khía cạnh khác liên quan đến sự thiếu hụt các dịch vụ xã hội cơ bản (Oxfam và ActionAid, 2010: 11). Chỉ số nghèo đa chiều (Multidimensional Poverty Index) của quốc tế, với ba chiều cạnh chính là: y tế, giáo dục và điều kiện sống, hiện là một thước đo quan trọng nhằm bổ sung cho phương pháp đo lường nghèo truyền thống dựa trên thu nhập.

Khái niệm nghèo đa chiều được đề cập ở Việt Nam từ năm 2013. Đo lường nghèo đa chiều cần được áp dụng để dựng nên một bức tranh đầy đủ và toàn diện hơn về thực trạng nghèo ở nước ta. Bộ Lao động TB&XH đề xuất xây dựng bộ tiêu chí nghèo đa chiều, đồng thời rà soát cơ chế, chính sách nhằm thực hiện giảm nghèo theo hướng đa chiều ở Việt Nam.

Nghị quyết số 15-NQ/TW Hội nghị Trung ương lần thứ 5 của Ban Chấp hành Trung ương khoá XI về chính sách xã hội giai đoạn 2012-2020 đã đề ra nhiệm vụ bảo đảm an sinh xã hội, chú trọng đến việc làm, bảo hiểm xã hội, trợ giúp xã hội cho những đối tượng có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, đồng bào dân tộc ít người, bảo đảm mức tối thiểu về thu nhập và một số dịch vụ xã hội cơ bản như khám chữa bệnh,  học hành, nhà ở, nước sạch, thông tin, truyền thông.

Để thực hiện mục tiêu giảm nghèo hiệu quả, bền vững hơn, Quốc hội khóa 13, kỳ họp thứ 7 đã thông qua Nghị quyết số 76/2014/QH13 về việc đẩy mạnh thực hiện mục tiêu giảm nghèo bền vững đến năm 2020, trong đó nêu rõ: xây dựng chuẩn nghèo mới theo phương pháp tiếp cận đa chiều nhằm bảo đảm mức sống tối thiểu và đáp ứng các dịch vụ xã hội cơ bản; Quyết định số 2324/QĐ-TTg ngày 19/12/2014 của Thủ tướng Chính phủ ban hành kế hoạch hành động triển khai Nghị quyết số 76/2014/QH13 của Quốc hội đã xác định rõ nhiệm vụ xây dựng, nghiên cứu xây dựng đề án tổng thể về đổi mới phương pháp tiếp cận nghèo đói ở Việt Nam từ đơn chiều sang đa chiều [16].

Đánh giá chính sách giảm nghèo bền vững từ thực tiễn thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam
Đánh giá chính sách giảm nghèo bền vững từ thực tiễn thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam

Ngày 15/9/2015 Thủ tướng Chính phủ đã ký quyết định số 1614/QĐ-TTg phê duyệt Đề án tổng thể “Chuyển đổi phương pháp tiếp cận đo lường nghèo từ đơn chiều sang đa chiều áp dụng cho giai đoạn 2016-2020”. Chuẩn nghèo giai đoạn 2016 – 2020 của Việt Nam được xây dựng theo hướng: sử dụng kết hợp cả chuẩn nghèo về thu nhập và mức độ thiếu hụt tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản. Theo đó, tiêu chí đo lường nghèo được xây dựng dựa trên cơ sở: Các tiêu chí về thu nhập, bao gồm: chuẩn mức sống tối thiểu về thu nhập, chuẩn nghèo về thu nhập, chuẩn mức sống trung bình về thu nhập; Mức độ thiếu hụt trong tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản, bao gồm: tiếp cận về y tế, giáo dục, nhà ở, nước sạch và vệ sinh, tiếp cận thông tin.

Những quy định chính sách nói trên tạo cơ sở pháp lý cho việc chuyển đổi phương pháp tiếp cận đo lường nghèo từ đơn chiều sang đa chiều áp dụng cho chương trình giảm nghèo của nước ta trong giai đoạn 2016-2020.

* Giai đoạn 2011 – 2015:

Theo Quyết định số 09/2011/QĐ-TTg, ngày 30/01/2011 của Thủ tướng Chính phủ tiêu chí xác định chuẩn nghèo cụ thể như sau:

– Hộ cậnnghèo:

+ Khu vực nông thôn: Có mức thu nhập từ 401.000-20.000đồng/người/tháng.

+ Khu vực thành thị: Có mức thu nhập từ 501.000–650.000 đồng/người/tháng.

* Giai đoạn 2015 – 2020 bao gồm:

+ Ở nông thôn: người có thu nhập 700.000 đồng/người/tháng

+ Ở thành thị: người có thu nhập 900.000 đồng/người/tháng

* Tiêu chuẩn nghèo giai đoạn 2016 – 2020

Theo Quyết định số 59/2015/QĐ-TTg, ngày 19/11/2015 của Thủ tướng Chính phủ tiêu chí xác định chuẩn nghèo tiếp cận đa chiều cụ thể như sau:

– Các tiêu chí xácđịnh

+ Các tiêu chí về thu nhập:

Chuẩn nghèo: 700.000 đồng/người/tháng ở khu vực nông thônvà 900.000 đồng/người/tháng ở khu vực thành thị.

Chuẩncậnnghèo:1.000.000đồng/người/thángởkhuvựcnôngthônvà 1.300.000 đồng/người/tháng ở khu vực thành thị.

+ Tiêu chí mức độ thiếu hụt tiếp cận dịch vụ xã hội cơ bản

Các dịch vụ xã hội cơ bản (05 dịch vụ): y tế; giáo dục; nhà ở; nước sạch và vệ sinh; thôngtin;

Các chỉ số đo lường mức độ thiếu hụt các dịch vụ xã hội cơ bản (10 chỉ số): tiếp cận các dịch vụ y tế; bảo hiểm y tế; trình độ giáo dục của người lớn; tình trạng đi học của trẻ em; chất lượng nhà ở; diện tích nhà ở bình quân đầu người; nguồn nước sinh hoạt; hố xí/nhà tiêu hợp vệ sinh; sử dụng dịch vụ viễn thông; tài sản phục vụ tiếp cận thông tin.

– Chuẩn hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ có mức sống trung bình áp dụng cho giai đoạn2016-2020:

+ Hộ nghèo

Khu vực nông thôn: là hộ đáp ứng một trong hai tiêu chí sau:

Có thu nhập bình quân đầu người/tháng từ đủ 700.000 đồng trở xuống;

Có thu nhập bình quân đầu người/tháng trên 700.000 đồng đến 1.000.000 đồng và thiếu hụt từ 03 chỉ số đo lường mức độ thiếu hụt tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản trở lên.

Khu vực thành thị: là hộ đáp ứng một trong hai tiêu chísau:

Có thu nhập bình quân đầu người/tháng từ đủ 900.000 đồng trở xuống;

Có thu nhập bình quân đầu người/tháng trên 900.000 đồng đến 1.300.000 đồng và thiếu hụt từ 03 chỉ số đo lường mức độ thiếu hụt tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản trở lên.

+ Hộ cận nghèo

– Khu vực nông thôn: là hộ có thu nhập bình quân đầu người/tháng trên 700.000 đồng đến 1.000.000 đồng và thiếu hụt dưới 03 chỉ số đo lường mức độ thiếu hụt tiếp cận các dịch vụ xã hội cơbản.

– Khu vực thành thị: là hộ có thu nhập bình quân đầu người/tháng trên 900.000 đồng đến 1.300.000 đồng và thiếu hụt dưới 03 chỉ số đo lường mức độ thiếu hụt tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản.

Tóm lại, quan niệm về đói nghèo ở Việt Nam ngày càng phản ánh đúng bản chất của đói nghèo. Nếu như nhu cầu hỗ trợ của người nghèo vào những năm 90 của thế kỷ 20 chỉ giới hạn đến nhu cầu “ăn no, mặc ấm”, thì ngày nay, người nghèo còn có nhu cầu được hỗ trợ về nhà ở, giáo dục, y tế, văn hóa … Tiếp đến là nhu cầu được trợ giúp để hạn chế rủi ro, quan trọng hơn là được quyền tham gia nhiều hơn và có hiệu quả hơn vào các hoạt động của xã hội.

Trên cơ sở 5 chiều cạnh nghèo, Bộ Lao động TB&XH đã xây dựng và đề xuất 10 chỉ số đo lường mức độ thiếu hụt trong nghèo đa chiều tương ứng là: giáo dục người lớn, giáo dục trẻ em, khám chữa bệnh, bảo hiểm y tế, nhà ở, nước sạch, hố xí, dịch vụ viễn thông, tài sản phục vụ tiếp cận thông tin. Các chỉ số đo lường này được trình bày trong bảng dưới đây:

Xác định nghèo đa chiều ở Việt Nam [5]

 Chiều nghèoChỉ số đo lườngMức độ thiếu hụtCơ sở pháp lý
1) Giáo dục1.1 Trình độ giáo dục của người lớnHộ gia đình có ít nhất 1 thành viên đủ 15 tuổi sinh từ năm 1986 trở lại không tốt nghiệp trung học cơ sở và hiện không đi họcHiến pháp 2013

NQ 15/NQ-TW

Một số vấn đề chính sách xã hội giai đoạn 2012-2020.

Nghị quyết số 41/2000/QH (bổ sung bởi Nghị định số 88/2001/NĐ-CP)

1.2 Tình trạng đi học của trẻ emHộ gia đình có ít nhất 1 trẻ em trong độ tuổi đi học (5 – 14 tuổi) hiện không đi họcHiến pháp 2013.

Luật Giáo dục 2005.

Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em.

NQ 15/NQ-TW Một số vấn đề chính sách xã hội giai đoạn 2012-2020.

2) Y tế2.1 Tiếp cận các dịch vụ y tếHộ gia đình có người bị ốm đau nhưng không đi khám chữa bệnh (ốm đau được xác định là bị bệnh/ chấn thương nặng đến mức phải nằm một chỗ và phải có người chăm sóc tại giường hoặc nghỉ việc/học không tham gia được các hoạt động bình thường)Hiến pháp 2013.

Luật Khám chữa bệnh 2011.

2.2 Bảo hiểm y tếHộ gia đình có ít nhất 1 thành viên từ 6 tuổi trở lên hiện tại không có bảo hiểm y tếHiến pháp 2013.

Luật bảo hiểm y tế 2014.

NQ 15/NQ-TW Một số vấn đề chính sách xã hội giai đoạn 2012-2020.

3) Nhà ở3.1. Chất lượng nhà ởHộ gia đình đang ở trong nhà thiếu kiên cố hoặc nhà đơn sơ

(Nhà ở chia thành 4 cấp độ: nhà kiên cố, bán kiên cố, nhà thiếu kiên cố, nhà đơn sơ)

Luật Nhà ở 2014.

NQ 15/NQ-TW Một số vấn đề chính sách xã hội giai đoạn 2012-2020.

3.2 Diện tích nhà ở bình quân đầu ngườiDiện tích nhà ở bình quân đầu người của hộ gia đình nhỏ hơn 8m2Luật Nhà ở 2014.

Quyết định 2127/QĐ-Ttg của Thủ tướng Chính phủ Phê duyệt Chiến lược phát triển nhà ở quốc gia đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030

4) Điều kiện sống4.1 Nguồn nước sinh hoạtHộ gia đình không được tiếp cận nguồn nước hợp vệ sinhNQ 15/NQ-TW Một số vấn đề chính sách xã hội giai đoạn 2012-2020.
4.2. Hố xí/nhà vệ sinhHộ gia đình không sử dụng hố xí/nhà tiêu hợp vệ sinhNQ 15/NQ-TW Một số vấn đề chính sách xã hội giai đoạn 2012-2020.
5) Tiếp cận thông tin5.1 Sử dụng dịch vụ viễn thôngHộ gia đình không có thành viên nào sử dụng thuê bao điện thoại và internetLuật Viễn thông 2009.

NQ 15/NQ-TW Một số vấn đề chính sách xã hội giai đoạn 2012-2020.

5.2 Tài sản phục vụ tiếp cận thông tinHộ gia đình không có tài sản nào trong số các tài sản: Tivi, đài, máy vi tính; và không nghe được hệ thống loa đài truyền thanh xã/thônLuật Thông tin Truyền thông 2015.

NQ 15/NQ-TW Một số vấn đề chính sách xã hội giai đoạn 2012-2020.

1.1.3. Quy trình thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững

1.1.3.1. Xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững

Từ Trung ương đến địa phương đều phải cụ thể hóa thành kế hoạch, chương trình thực hiện chính sách giảm nghèo với các nội dung: Tổ chức điều hành, các nguồn vật lực để thực hiện , thời gian triển khai thực hiện, kiểm tra, đôn đốc, thực thi chính sách, điều chỉnh kế hoạch thực thi chính sách do lãnh đạo có thẩm quyền các cấp thông qua.

Dự kiến quy chế tổ chức thực hiện, trách nhiệm, nhiệm vụ, quyền hành của cá nhân, tổ chức tham gia, tổ chức điều hành chính sách; kiểm tra, đánh giá rút kinh nghiệm và sơ kết, tổng kết, khen thưởng, kỷ luật …

1.1.3.2. Phổ biến, tuyên truyền chính sách giảm nghèo bền vững

Nhằm giúp các đối tượng được hưởng thụ và mọi người dân tham gia hiểu rõ mục đích, yêu cầu của chính sách, về tính đúng đắn của chính sách để họ tự giác thực hiện.

Giúp cho người cán bộ công chức có trách nhiệm trong quá trình tổ chức thực thi nhận thức đầy đủ tính chất, quy mô, tầm quan trọng của chính sách nhằm tìm kiếm các giải pháp thực hiện.

1.1.3.3. Phân công phối hợp thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững

Để đạt được hiệu quả cao trong quá trình thực hiện cần có sự phối hợp chặt chẽ, nhịp nhàng, đồng bộ giữa các cơ quan, ban, ngành, đoàn thể các cấp. Tránh nhiêu khê, phức tạp dễ dẫn đến chính sách đúng, hợp lý nhưng tổ chức thực hiện sai, kém hiệu quả.

1.1.3.4. Duy trì chính sách giảm nghèo bền vững

Tiếp tục duy trì, thực hiện tốt những chính sách đã ban hành là giúp giảm nghèo bền vững và coi giảm nghèo là một bộ phận cấu thành của chiến lược phát triển kinh tế – xã hội của đất nước. Giảm nghèo vừa là mục tiêu, vừa là tiền đề, điều kiện và thước đo của sự phát triển bền vững, là yếu tố cơ bản bảo đảm công bằng xã hội.

1.1.3.5. Điều chỉnh chính sách giảm nghèo bền vững

Việc điều chỉnh chính sách để phù hợp với cách quản lý và tình hình thực tế của mỗi địa phương, đơn vị.

Cơ quan nào ban hành chính sách thì cơ quan đó có thẩm quyền điều chỉnh, bổ sung chính sách.

Có điều chỉnh nội dung, biện pháp, cơ chế thực hiện nhưng không được làm thay đổi mục tiêu chính sách, nếu thay đổi mục tiêu coi như chính sách thất bại. Điều đó đòi hỏi cần phải có kiến thức và kỹ năng thực hiện và điều chỉnh chính sách cho phù hợp với thực tế.

1.1.3.6. Theo dõi, kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững

Thường xuyên theo dõi, kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện chính sách giúp kịp thời bổ sung và hoàn thiện chính sách.

Kịp thời chấn chỉnh trong quá trình tổ chức thực hiện nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả thực hiện mục tiêu chính sách.

1.1.3.7. Đánh giá, tổng kết, rút kinh nghiệm chính sách giảm nghèo bền vững

Trong quá trình thực hiện chính sách từ Trung ương đến địa phương đều phải tổ chức đánh giá, tổng kết, rút kinh nghiệm, kịp thời biểu dương khen thưởng các tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp … tham gia thực hiện. Đặc biệt là biểu dương khen thưởng các đối tượng được hưởng lợi trực tiếp và gián tiếp nhằm động viên tinh thần.

1.1.4. Cách tiếp cận và phương pháp thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững

1.1.4.1. Cách tiếp cận

– Sự tham gia của người dân, đối tượng của chính sách

– Các chủ thể tham gia công tác giảm nghèo bền vững

1.1.4.2. Phương pháp thực hiện

– Phương pháp kinh tế

– Phương pháp tuyên truyền giáo dục

– Phương pháp hành chính tổ chức

– Kết hợp cả 3 phương pháp trên

1.1.5. Những nhân tố tác động đến thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững

1.1.5.1. Nhân tố khách quan

Ngoài nhân tố chính là chính sách, còn có các yếu tố có liên quan tới việc thực hti chính sách, chủ yếu là đội ngũ cán bộ ở cơ sở và các hoạt động kiểm tra, giám sát, hướng dẫn của các cấp cao hơn. Các yếu tố về tự nhiên như: địa hình, khí hậu, thiên tai … cũng là những nhân tố khách quan ảnh hưởng tới sự tham gia của người dân trong quá trình thực hiện các chính sách hỗ trợ giảm nghèo. Ở khía cạnh xã hội, văn hóa còn có thể kể tới các nhân tố liên quan tới lối sống, phong tục tập quán của từng khu vực, đặc điểm phân bố dân cư, nhất là ở các vùng dân tộc thiểu số.

Điều kiện tự nhiên: Sự khắc nghiệt của khí hậu đã gây ra những khó khăn đối với ngành sản xuất nông nghiệp, chẳng hạn như ở các nước Châu Phi, nó làm giảm tốc độ tăng trưởng kinh tế đồng thời cũng khiến dịch bệnh xảy ra thường xuyên, dẫn đến tỷ lệ nghèo ở khu vực này cao nhất thế giới.

Trình độ nhận thức của các cơ quan, cũng như của các địa phương trong việc đề xuất, xây dựng và thực hiện chính sách, chương trình: Giảm nghèo bền vững là vấn đề phức tạp, chỉ có những nhận thức đúng đắn, thống nhất của các chủ thể hoạch định và thực thi chính sách mới tạo cơ sở cho việc thực hiện có hiệu quả chính sách trong thực tiễn. Nhận thức không thống nhất về giảm nghèo bền vững khác nhau dẫn đến cơ chế thực hiện khác nhau, mức độ quan tâm, ưu tiên khác nhau. Có những bộ, ngành, cơ quan quản lý nhà nước cho rằng, tập trung ưu tiên phát triển hạ tầng cơ sở các vùng nghèo là điều kiện để giảm nghèo bền vững mà không hiểu rằng, đó là trách nhiệm đầu tư của nhà nước. Nên đã biến cơ chế đầu tư cơ sở hạ tầng theo kiểu ban phát, xin – cho dẫn đến thất thoát, lãng phí, kém hiệu quả. Có những địa phương với những kinh nghiệm chủ quan của mình đã sử dụng các nguồn lực một cách bất hợp lý gây thiệt hại và thậm chí làm giảm đi khả năng của người nghèo tại địa phương mình. Quan niệm giảm nghèo bền vững cần phải được chỉ ra rõ ràng, mặc dù ở mỗi địa phương, vùng miền, có thể có những cách làm cụ thể khác nhau, song vẫn cần phải bám sát những nội dung, tư tưởng của giảm nghèo bền vững đã được chỉ ra.

Trình độ phát triển kinh tế xã hội của địa phương: Không có giao thông thuận lợi nên dẫn đến chi phí vận chuyển cao, hàng hóa vận chuyển khó khăn, hàng nông sản chỉ tiêu thụ tại địa phương nên giá thành thấp, khó cung cấp hoặc tận dụng các dịch vụ như khuyến nông, giáo dục, chăm sóc sức khỏe, khó tiếp cận với tri thức mới … và cuối cùng họ cũng vẫn bế tắc không tìm ra con đường thoát nghèo.

Các chính sách của địa phương: Một số chính sách trợ giúp (như lãi suất tín dụng, trợ giá, trợ cước …) không đúng đối tượng đã làm ảnh hưởng xấu đến sự hình thành thị trường nông thôn, thị trường ở vùng sâu, vùng xa đã cho công cuộc xóa đói giảm nghèo trở nên khó khăn và nan giải hơn.

Nguồn lực đảm bảo thực hiện chính sách, chương trình, dự án giảm nghèo: Kinh phí để thực hiện giảm nghèo hiện nay được cân đối chủ yếu từ nguồn ngân sách Nhà nước. Đồng thời có sự huy động các nguồn khác từ các tổ chức quốc tế, tổ chức của Chính phủ, phi chính phủ và sự đóng góp của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước. Nguồn kinh phí từ ngân sách Nhà nước thường giữ vai trò chủ đạo. Tuy nhiên, nguồn này phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế của mỗi quốc gia.

Đối với các quốc gia đang phát triển nh nước ta hiện nay thì tốc độ tăng trưởng kinh tế có vai trò quan trọng đối với nguồn lực giảm nghèo. Tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và ổn định, thu ngân sách tăng trong thời gian qua là một trong những yếu tố đảm bảo tài chính cho giảm nghèo. Nếu chi tiêu cho y tế, giáo dục, dạy nghề, các chính sách đầu tư phát triển kinh tế – xã hội của Nhà nước chưa cân đối giữa các cấp hành chính, giữa các vùng miền, giữa các ngành kinh tế (giữa nông nghiệp với công nghiệp, giữa khu vực nông thôn với khu vực thành thị) thì tính bền vững của giảm nghèo sẽ bị hạn chế. Việc đầu tư và dành tỷ lệ đầu tư lớn cho nông nghiệp và khu vực nông thôn có tác động tích cực đến giảm nghèo. Ngoài việc tập trung đầu tư cho thủy lợi, các trục công nghiệp chính, chính sách đầu tư nếu chú trọng vào các ngành công nghiệp thu hút nhiều lao động gắn với khuyến khích kịp thời phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa sẽ tạo động lực tốt cho giảm nghèo. Đối với các chính sách như tín dụng, trợ giá, trợ cước … nếu chưa đủ mạnh và không đúng đối tượng sẽ làm ảnh hưởng đến sự hình thành thị trường nông thôn, thị trường ở những vùng sâu, vùng xa. Cùng với đó, việc tập trung đầu tư vào phát triển giao thông, đường xá đến các vùng sâu, vùng xa, vùng đói nghèo sẽ có tác động, ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình phát triển kinh tế hàng hóa ở các địa phương, vùng miền.

Hội nhập kinh tế quốc tế mở rộng cơ hội thu hút nguồn lực cho giảm nghèo song cũng làm trầm trọng thêm tình trạng nghèo đói. Quá trình hội nhập quốc tế và khu vực một mặt đem lại những sự trợ giúp về tài chính trong xóa đói giảm nghèo từ các thiết chế, tài chính, tín dụng và chính phủ, các tổ chức phi chính phủ. Những nguồn lực này cùng với các chương trình mang tính trợ giúp kỹ thuật, điều kiện kết cấu hạ tầng, nâng cao dân trí … nếu được sử dụng tốt sẽ có vai trò hỗ trợ tích cực đối với giảm nghèo bền vững. Nguồn nhân lực là một yếu tố rất quan trọng đối với công tác giảm nghèo. Đề thực hiện đồng bộ, hiệu quả hệ thống các chương trình giảm nghèo rất cần có đội ngũ cán bộ có chuyên môn phù hợp, có tinh thần trách nhiệm cao, công việc phải được phân công, phân cấp rõ ràng, minh bạch từ Trung ương tới cơ sở.

Công tác tổ chức triển khai thực hiện và kiểm tra, đánh giá việc thực hiện các chương trình giảm nghèo: Hiệu quả của giảm nghèo được thể hiện thông qua những kết quả mà việc thực thi chính sách, chương trình, dự án giảm nghèo mang lại. Thực tế cho thấy để giảm nghèo bền vững, cần tác động tới người nghèo bằng một hệ thống chính sách, chương trình đồng bộ có tính lồng ghép cao. Nếu như chính sách giáo dục, dạy nghề và phát triển nguồn nhân lực góp phần tạo điều kiện, tiền đề hay nâng cao năng lực, kỹ năng, trang thiết bị kiến thức cho người dân nói chung và người nghèo nói riêng thì chính sách y tế, khám chữa bệnh lại bảo đảm cho họ có được sức khỏe, khả năng tham gia lao động, sản xuất. Còn các chính sách như: an sinh xã hội, bảo trợ xã hội, cứu trợ xã hội lại là những “giá đỡ” quan trọng, góp phần ổn định điều kiện sống tối thiểu cho người dân khi họ phải gánh chịu những tác động bất lợi từ cả khía cạnh kinh tế như mất việc làm, nghỉ việc đến những tác động do biến động xã hội gây ra và những rủi ro từ các yếu tố khách quan khác như dịch bệnh, thiên tại, bão lũ …

Các chương trình giảm nghèo có tính đặc thù tác động đến một số đối tượng đặc biệt như Chương trình 135, Nghị quyết 30a của Chính phủ … sẽ có tác động tích cực, nhanh chóng đến những huyện nghèo, xã nghèo, hộ nghèo nhất trong một khoảng thời gian ngắn, tạo đà cho họ giảm nghèo nói riêng và giảm nghèo cả nước nói chung. Do vậy, việc thực hiện đồng bộ các chính sách, chương trình, dự án giảm nghèo tránh sự chồng chéo là hết sức quan trọng. Bên cạnh đó việc thiết lập hệ thống chỉ tiêu và phương pháp đánh giá phù hợp cũng rất cần thiết bởi nó ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả của công tác giảm nghèo.

1.1.5.2. Nhân tố chủ quan

Trong khi đó, đối với các nhân tố chủ quan, nhận thức, trình độ là những yếu tố đáng chú ý hơn cả. Ngoài ra, không thể không kể đến các yếu tố gắn với đặc điểm về giới. Sự tự tin cũng là một nhân tố đáng chú ý, trong những trường hợp nhất đinh. Và một điểm khác, cũng rất quan trọng, hiện cũng đã trở thành một vấn đề nổi cộm đối với chính sách giảm nghèo chính là tâm lý trông chờ, ỷ lại của một bộ phận người nghèo.

Người nghèo nói chung thường mặc cảm với vị thế của mình. Điều này một phần xuất phát từ họ, một phần khác theo quan điểm của một số cán bộ tại địa phương, xuất phát từ cách thiết kế chính sách và cách làm của cán bộ cơ sở, nhất là với các chính sách cho không. Cũng chính vì thế trong các cuộc họp dân, người nghèo thường ít phát biểu ý kiến, nhất là những ý kiến đầu tiên, hoặc các ý kiến có tính quyết định. Tại một số địa phương, trong các cuộc thảo luận nhóm, người nghèo chia sẻ rằng, nhận thức của họ về chính sách có những hạn chế nhất định do họ thường thiếu các điều kiện tiếp cận với chính sách. Cũng vì thế, sự tham gia của họ cũng thường không được như những người không nghèo khác.

Một lý do khác, quan trọng hơn, được cả người nghèo và cán bộ các cấp chỉ ra chính là năng lực của người nghèo. Có rất nhiều hộ nghèo liên quan tới những nguyên nhân về học vấn, năng lực, kiến thức, do vậy với họ một số các chính sách có sự tham gia, nhất là trong xây dựng cơ sở hạ tầng, thường vượt quá khả năng của họ.

Đông con vừa là nguyên nhân vừa là hệ quả của nghèo đói.

Vấn đề bệnh tật và sức khỏe kém ảnh hưởng trực tiếp đến thu nhập và chi tiêu của người nghèo làm họ rơi vào vòng luẩn quẩn của đói nghèo.

Đặc điểm về giới, cũng có ảnh hưởng khá rõ rệt tới sự tham gia của người dân. Chính vì thế, có một thực tế mà nhiều địa phương cũng chia sẻ, nam giới thường là người đi họp, nhưng phụ nữ mới thường là người thực hiện chính các hoạt động, công việc liên quan tới chính sách giảm nghèo. Do đó, sự tham gia của người dân dù có vẻ đã được thực hiện tốt và rất đầy đủ nhưng vẫn không thể mang lại kết quả như mong muốn.

Rào cản về ngôn ngữ cũng là một điểm đáng chú ý. Vẫn có rất nhiều người dân tộc thiểu số không biết tiếng phổ thông. Trong khi đó, ở chiều ngược lại, cán bộ cơ sở, không phải ai cũng biết tiếng dân tộc. Điều này, cũng có những lý do khách quan nhất định khi trên cùng địa bàn một xã, một thôn lại có nhiều dân tộc với nhiều ngôn ngữ khác nhau được sử dụng. Chính quyền cấp cơ sở và người dân nhiều địa bàn thường dẫn ra ví dụ về sự chênh lệch trong hiệu quả sản xuất giữa người Kinh với các dân tộc thiểu số dù trồng cùng một loại cây, trên cùng một diện tích và cùng được hỗ trợ kỹ thuật của cán bộ khuyến nông. Sự khác biệt chỉ bởi yếu tố ngôn ngữ đã ảnh hưởng tới nhận thức và khả năng nắm bắt khoa học kỹ thuật của người dân.

Theo chính quyền địa phương, tâm lý trông chờ, ỷ lại cũng là một thách thức đối với quá trình tham gia của người nghèo trong việc thực hiện các chính sách giảm nghèo. Theo đó, dù đã có nhiều chính sách hỗ trợ để người nghèo vươn lên thoát nghèo, tuy nhiên qua từng năm số hộ có thể nhờ vào chính sách để thoát nghèo, thậm chí thoát nghèo bền vững là không nhiều. Tâm lý này đôi khi phân tách sự tham gia của người nghèo thành hai khu vực rõ rệt. Với những chính sách liên quan trực tiếp tới quyền lợi của người nghèo, họ thường rất tích cực tham gia và ngược lại.

Ngoài các nhân tố nói trên, nhiều người dân cũng bày tỏ sự e ngại của họ khi tích cực tham gia vào các chính sách giảm nghèo. Với nhiều người theo họ đây là điều không quen với bản thân họ. Một số khác lại cho rằng, đối với sự tham gia, nhất là ở các cuộc họp hoặc tham gia kiểm tra, giám sát, nếu tham gia quá nhiều sẽ mất nhiều thời gian. Trong khi cán bộ các cấp thì cho rằng, người dân còn chưa nhận thức được đầy đủ về quyền và nghĩa vụ tham gia của mình, đi kèm với đó là các lợi ích của họ, lợi ích của cộng đồng, gắn với sự tham gia. Riêng vấn đề này, nhiều cán bộ được hỏi cũng thừa nhận, có những nguyên nhân từ việc triển khai thực hiện chính sách.

    1. 1.2. Quá trình thực hiện chính sách giảm nghèo ở Việt Nam

1.2.1. Quan điểm, mục tiêu giảm nghèo bền vững ở Việt Nam

Quan điểm về giảm nghèo bền vững ở Việt Nam

+ Quan tâm đến mục tiêu xóa đói giảm nghèo, nhằm góp phần nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân. Quan điểm, định hướng của Đảng và Nhà nước về xóa đói, giảm nghèo luôn được thể hiện trong các Đại hội của Đảng.

+ Chính phủ đã ban hành nhiều chính sách định hướng giảm nghèo bền vững giai đến năm 2020.

Mục tiêu giảm nghèo bền vững

+ “Giảm nghèo bền vững là một trọng tâm của Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 2011 – 2020 nhằm cải thiện và từng bước nâng cao điều kiện sống của người nghèo, trước hết là ở khu vực miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số; tạo sự chuyển biến mạnh mẽ, toàn diện ở các vùng nghèo; thu hẹp khoảng cách chênh lệch giữa thành thị và nông thôn, giữa các vùng, các dân tộc và các nhóm dân cư”. [6].

LIỆN HỆ:

SĐT+ZALO: 0935568275

E:\DỮ LIỆU COP CỦA CHỊ YẾN\LUAN VAN VIEN HAN LAM\VIEN HAN LAM DOT 9\CHINH SACH CONG\TRAN THI HA

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *