Thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững cho đồng bào dân tộc thiểu số

Thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững cho đồng bào dân tộc thiểu số

Thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững cho đồng bào dân tộc thiểu số từ thực tiễn huyện Ba Tơ, tỉnh Quảng Ngãi

  1. Tính cấp thiết của đề tài

Trong những năm qua, công tác giảm nghèo bền vững luôn được Đảng, Nhà nước ta quan tâm và nhận thức rõ tầm quan trọng và tính cấp thiết của nó. Do đó Đảng, Nhà nước đã có nhiều chủ trương, chính sách, tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, triển khai thực hiện đạt được nhiều kết quả quan trọng, tác động mạnh đến việc thực hiện Chương trình giảm nghèo bền vững; đã tạo điều kiện cải thiện đời sống vật chất, tinh thần cho người nghèo, về cơ sở hạ tầng… từ thôn, xã, đến huyện và tỉnh nghèo được tăng cường; người nghèo đã từng bước tiếp cận được các dịch vụ xã hội cơ bản, tỷ lệ hộ nghèo giảm bình quân hàng năm đều đạt chỉ tiêu kế hoạch đề ra. Cụ thể, ngày 27/12/2008 Chính phủ đã có Nghị quyết 30a/2008/NQ-CP về “Chương trình hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững đối với 61 huyện nghèo”; Nghị quyết 80/NQ-CP ngày 19/5/2011 về“Định hướng giảm nghèo bền vững thời kỳ từ năm 2011 đến năm 2020”; Quyết định số 1722/QĐ-TTg ngày 02/9/2016 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia Giảm nghèo bền vững giai đoạn 2016 – 2020; Quyết định số 41/2016/QĐ-TTg ngày 10/10/2016 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Quy chế quản lý, điều hành thực hiện các Chương trình mục tiêu quốc gia.

Có thể khẳng định thực hiện mục tiêu giảm nghèo bền vững là một chủ trương lớn của Đảng, Nhà nước ta nhằm cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của người nghèo, góp phần làm giảm khoảng cách chênh lệch về mức sống giữa nông thôn và thành thị, giữa các vùng, các dân tộc và các nhóm dân cư; đồng thời thể hiện quyết tâm trong việc thực hiện Mục tiêu thiên niên kỷ của Liên Hợp Quốc mà Việt Nam đã cam kết tại Hội nghị Thượng đỉnh Thiên niên kỷ của Liên Hợp Quốc năm 2000.

Ba Tơ là một trong sáu huyện miền núi, nằm về phía Tây Nam của tỉnh Quảng Ngãi. Tổng diện tích tự nhiên toàn huyện: 113.669,52 hécta, chiếm 1/5 tổng diện tích tỉnh Quảng Ngãi. Địa hình của Ba Tơ chủ yếu là đồi núi, thung lũng và có nhiều sông, suối. Đồi núi chiếm 4/5 diện tích toàn huyện, có nhiều núi cao hiểm trở nối liền với các huyện miền núi xung quanh. Về đơn vị hành chính, Ba Tơ có 20 xã, thị trấn, có 119 thôn (trong đó 112 thôn và 07 tổ dân phố), với 216 khu dân cư. Trong đó có 14 xã, thị trấn thuộc an toàn khu và diện xã đặc biệt khó khăn (theo Quyết định số 2405/QĐ-TTg ngày 10/12/2013 của Thủ tướng Chính phủ). Mật độ dân thưa 48,95 người/km2 sống tập trung tại Thị trấn Ba Tơ và xã Ba Vì, xã Ba Đông.

Trong những năm qua, huyện Ba Tơ đã có nhiều giải pháp, định hướng nhằm xóa đói giảm nghèo (XĐGN) cho người dân, đặc biệt là trong đồng bào dân tộc thiểu số (DTTS) và đã đạt được nhiều thành tựu rất quan trọng, trong đó từ năm 2013 đến 2017 tỷ lệ hộ nghèo toàn huyện bình quân hằng năm giảm 5,6%/năm, đạt chỉ tiêu kế hoạch (chỉ tiêu kế hoạch từ 4% – 7%), về cơ bản huyện đã xoá được hộ đói kinh niên. Đặc biệt, các thiết chế cơ sở hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội được xây dựng đều khắp, nổi bật là trung tâm Thị trấn Ba Tơ. Đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được cải thiện và nâng lên đáng kể. Lĩnh vực văn hóa – xã hội đã có nhiều chuyển biến tích cực trong việc chăm lo đến đời sống của nhân dân. Tình hình an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội trên địa bàn huyện luôn được giữ vững, ổn định.

Tuy nhiên, với đặc điểm là huyện miền núi, nên điều kiện phát triển kinh tế – xã hội còn nhiều khó khăn, trình độ dân trí ở một số nơi còn thấp; một số hủ tục, phong tục tập quán lạc hậu vẫn còn tồn tại; Ba Tơ vẫn còn là một trong những huyện nghèo theo Nghị quyết 30a của Chính phủ; Kết quả giảm nghèo chưa thực sự bền vững, vẫn còn nhiều bất cập: tình trạng tái nghèo vẫn diễn ra, các chính sách đầu tư phát triển đã hướng vào trợ giúp cho huyện và các xã đặc biệt khó khăn nhưng chưa đủ mạnh và đồng bộ, việc sử dụng các nguồn lực trong giảm nghèo chưa tương xứng với tiềm năng: vốn, lao động, kinh nghiệm sản xuất; việc tuyên truyền nâng cao ý thức thoát nghèo cho người dân còn hạn chế; cơ chế thực hiện chưa phù hợp với đặc thù vùng miền và đặc điểm văn hóa, tập quán của người dân. Một bộ phận người nghèo và chính quyền địa phương nhận thức chưa đầy đủ về ý nghĩa và tầm quan trọng của công tác giảm nghèo, chưa chủ động, nỗ lực phấn đấu vươn lên thoát nghèo, còn có tư tưởng trông chờ, ỷ lại vào sự giúp đỡ của Nhà nước và cộng đồng…

Qua những bất cập nêu trên và xuất phát từ tình hình thực tiễn của huyện, nhằm để đưa ra những đề xuất, định hướng và giải pháp mang tính khoa học, phù hợp với địa phương nhằm đẩy mạnh công tác giảm nghèo nhanh, bền vững cho đồng bào dân tộc thiểu số ở huyện Ba Tơ, tỉnh Quảng Ngãi, tôi lựa chọn đề tài “Thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững cho đồng bào dân tộc thiểu số từ thực tiễn huyện Ba Tơ, tỉnh Quảng Ngãi” làm đề tài nghiên cứu luận văn.

2. Tình hình nghiên cứu

  1. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

Nghiên cứu những lý luận về chính sách giảm nghèo bền vững ở Việt Nam để đánh giá chính xác, khách quan giữa việc áp dụng các lý luận chính sách và kết quả thực tiễn thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững cho đồng bào dân tộc thiểu số ở huyện Ba Tơ, tỉnh Quảng Ngãi, tìm ra những điểm còn hạn chế, bất cập của chính sách giảm nghèo bền vững áp dụng trong thực tiễn hiện nay, từ đó đề xuất ra các giải pháp nhằm góp phần hoàn thiện thêm chính sách giảm nghèo bền vững cho đồng bào dân tộc thiểu số ở huyện Ba Tơ, tỉnh Quảng Ngãi nói riêng và ở Việt Nam nói chung.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Thứ nhất, nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững đối với người dân tộc thiểu số;

Thứ hai, tìm hiểu, đánh giá thực trạng thực hiện các chính sách giảm nghèo cho người dân tộc thiểu số từ thực tiễn tại huyện Ba Tơ, tỉnh Quảng Ngãi để từ đó tìm ra những bất cập trong thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững đối với đồng bào dân tộc thiểu số ở đây;

Thứ ba, đề xuất các định hướng và những giải pháp chủ yếu nhằm tăng cường thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững cho đồng bào dân tộc thiểu số, hướng đến mục tiêu giảm nghèo bền vững trong những năm tiếp theo.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu: Việc thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững đối với người dân tộc thiểu số được thực thi trên địa bàn một huyện cụ thể.

4.2. Phạm vi thời gian: Các số liệu nghiên cứu thực địa thu thập được trong 05 năm (giai đoạn từ năm 2013 đến năm 2017). Luận văn được nghiên cứu trong phạm vi huyện Ba Tơ, tỉnh Quảng Ngãi.

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu

5.1. Phương pháp luận

Thực hiện đề tài vận dụng các phương pháp phân tích, tổng hợp để thu thập, phân tích và khai thác thông tin từ các nguồn có sẵn liên quan đến đề tài nghiên cứu, bao gồm các văn kiện, tài liệu, Nghị quyết, Quyết định của Đảng, Nhà nước, bộ ngành ở Trung ương và địa phương; các công trình nghiên cứu, các báo cáo, tài liệu thống kê của chính quyền, ban ngành đoàn thể, tổ chức, cá nhân liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp tới vấn đề giảm nghèo bền vững ở nước ta nói chung và huyện Ba Tơ nói riêng. Đồng thời, thu thập các tài liệu của các tổ chức và học giả trong và ngoài nước liên quan đến đề tài được nghiên cứu trong thời gian qua.

5.2. Phương pháp nghiên cứu

Đề tài sử dụng phương pháp thống kê kết hợp với các phương pháp: phân tích chính sách, phân tích định tính, suy luận logic, diễn giải, thống kê, nghiên cứu tài liệu, khảo sát, tổng kết thực tiễn trong đánh giá thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững ở địa bàn huyện Ba Tơ, tỉnh Quảng Ngãi. 

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

6.1. Ý nghĩa lý luận

Luận văn đã tổng quan được cơ sở lý luận về chính sách giảm nghèo bền vững ở Việt Nam; đồng thời biết vận dụng các lý thuyết về quy trình phân tích chính sách công, đánh giá chính sách công nhằm đánh giá thực tiễn thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững cho đồng bào dân tộc thiểu số ở địa phương;

Việc nghiên cứu đề tài nhằm chứng minh cho việc vận dụng các lý thuyết phân tích chính sách công, đánh giá chính sách công là cần thiết trong quá trình nghiên cứu thực tiễn thực hiện chính sách giảm nghèo, từ đó góp phần hoàn thiện thêm chính sách bền vững cho đồng bào dân tộc thiểu số ở huyện Ba Tơ nói riêng và nước ta nói chung nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả của chính sách giảm nghèo bền vững đã ban hành.

6.2. Ý nghĩa thực tiễn

Kết quả nghiên cứu đề tài sẽ góp phần nâng cao nhận thức đối với các cấp ủy Đảng, chính quyền, các hội đoàn thể các cấp để hiểu rõ hơn về chính sách giảm nghèo bền vững; xem xét giữa lý luận và thực tiễn từ quá trình và kết quả thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững cho đồng bào dân tộc thiểu số tại huyện Ba Tơ, từ đó định hướng góp phần hoàn thiện hơn nữa, nâng cao hiệu quả chất lượng của chính sách giảm nghèo bền vững đối với đồng bào dân tộc thiểu số ở Việt Nam trong những năm tiếp theo.

Đề tài đã hệ thống hóa một cách logic các giải pháp thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững đối với đồng bào dân tộc thiểu số. Việc thực hiện chính sách bền vững đem lại hiệu quả thiết thực, giúp đồng bào dân tộc thiểu số có khả năng tiếp cận các chính sách giảm nghèo bền vững và tham gia cùng với Nhà nước để đưa các chính sách giảm nghèo đi vào thực tiễn, ngày càng mang lại hiệu quả, đạt được mục tiêu giảm nghèo bền vững mà Đảng, Chính quyền huyện Ba Tơ đã đề ra, góp phần vào sự nghiệp phát triển kinh tế – xã hội ở địa phương.

7. Cơ cấu của luận văn

Ngoài phần mục lục, mở đầu, kết luận và kiến nghị, tài liệu tham khảo, nội dung chính của Luận văn được trình bày theo 3 chương:

Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững cho đồng bào dân tộc thiểu số ở Việt Nam.

Chương 2: Thực tiễn thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững cho đồng bào dân tộc thiểu số ở huyện Ba Tơ, tỉnh Quảng Ngãi.

Chương 3: Các giải pháp tăng cường thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững cho đồng bào dân tộc thiểu số từ thực tiễn huyện Ba Tơ, tỉnh Quảng Ngãi.

CHƯƠNG 1

NHỮNG VẤN ĐỀ VỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH GIẢM NGHÈO BỀN VỮNG ĐỐI VỚI ĐỒNG BÀO DÂN TỘC THIỂU SỐ Ở VIỆT NAM

    1. 1.1. Một số khái niệm

1.1.1. Nghèo và nghèo đa chiều

Hiện nay, khái niệm về “nghèo” được thể hiện qua rất nhiều quan niệm khác nhau trên thế giới. Theo Hội nghị bàn về giảm nghèo đói ở khu vực Châu Á- Thái Bình Dương do ESCAP tổ chức tại Băng Cốc tháng 9/1993 đã đưa ra khái niệm và định nghĩa về nghèo đói. Trong đó có thể hiểu một cách chung nhất là: “Nghèo đói là tình trạng một bộ phận dân cư không được hưởng và thỏa mãn những nhu cầu cơ bản của con người đã được xã hội thừa nhận tùy theo trình độ phát triển kinh tế- xã hội và phong tục tập quán của các địa phương”.

Theo Tổ chức Liên hợp quốc (UN) thì: “Nghèo là thiếu năng lực tối thiểu để tham gia hiệu quả vào các hoạt động xã hội. Nghèo có nghĩa là không có đủ ăn, đủ mặc, không được đi học, không được đi khám, không có đất đai để trồng trọt hoặc không có nghề nghiệp để nuôi sống bản thân, không được tiếp cận tín dụng. Nghèo cũng có nghĩa là không an toàn, không có quyền, và bị loại trừ của các cá nhân, hộ gia đình và cộng đồng. Nghèo có nghĩa là dễ bị bạo hành, phải sống ngoài lề xã hội hoặc trong các điều kiện rủi ro, không được tiếp cận nước sạch và công trình vệ sinh an toàn” (Tuyên bố Liên hợp quốc, 6/2008, được lãnh đạo của tất cả các tổ chức UN thông qua).

Hiện nay, khái niệm nghèo đa chiều đang được các tổ chức quốc tế như UNDP, WB sử dụng để giám sát, đo lượng sự thay đổi về mức độ tiếp cận nhu cầu cơ bản giữa các quốc gia, thông qua các chỉ số HDI (thu nhập, tỷ lệ biết chữ, tuổi thọ) hay hiện nay là chi số MPI (chỉ số nghèo đa chiều); Chỉ số nghèo đa chiều đánh giá được một loạt các yếu tố quyết định hay những thiếu thốn, túng quẫn ở cấp độ gia đình: từ giáo dục đến những tác động về sức khỏe, đến tài sản và các dịch vụ.

Qua các khái niệm trên cho thấy khái niệm “nghèo đa chiều” đã xuất phát từ quan điểm nghèo là một hiện tượng đa chiều, cần được chú ý nhìn nhận là sự thiếu hụt hoặc không được thỏa mãn các nhu cầu cơ bản của con người. Vậy nghèo đa chiều là tình trạng con người không được đáp ứng ở mức tối thiểu các nhu cầu cơ bản trong cuộc sống.

Thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững cho đồng bào dân tộc thiểu số từ thực tiễn huyện Ba Tơ, tỉnh Quảng Ngãi
Thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững cho đồng bào dân tộc thiểu số từ thực tiễn huyện Ba Tơ, tỉnh Quảng Ngãi

1.1.2. Chuẩn nghèo và đo lường nghèo

 Chuẩn nghèo là thước đo hay tiêu chí để xác định đối tượng nghèo hay không nghèo, trên thế giới hiện đang áp dụng các hình thức chuẩn nghèo như sau:

– Chuẩn nghèo dựa vào thu nhập hay chi tiêu, được qui đổi thành tiền, xuất phát từ quan niệm là để thỏa mãn các nhu cầu cơ bản tối thiểu, mỗi người cần phải có một khoản thu nhập/chi tiêu ở mức độ tối thiểu để thỏa mãn các nhu cầu đó. Chuẩn nghèo dựa vào thu nhập/chi tiêu được nhiều quốc gia sử dụng, trong đó có Việt Nam, nhằm làm cơ sở xác định đối tượng thụ hưởng chính sách trợ giúp của nhà nước.

– Chuẩn nghèo quy ra 1USD hoặc 2 USD (theo sức mua tương đương) là cách Ngân hàng thế giới đưa ra nhằm để so sánh mức độ nghèo đói giữa các quốc gia, đây không phải chuẩn nghèo các quốc gia sử dụng để hoạch định chính sách giảm nghèo.

– Chuẩn nghèo đa chiều, là tiêu chí đo lường sự thiếu hụt các nhu cầu cơ bản của mỗi con người, phụ thuộc vào điều kiện phát triển cụ thể của mỗi quốc gia, trong từng giai đoạn nhất định.

Vậy có thể hiểu chuẩn nghèo (hay còn gọi là ngưỡng nghèo, đường nghèo) là mức thu nhập tối thiểu cần thiết để đảm bảo những nhu cầu vật chất cơ bản cho con người có thể tiếp tục tồn tại. Chuẩn nghèo có sự biến động theo thời gian và không gian. Chuẩn nghèo là công cụ có ý nghĩa quan trọng trong việc phân định đối tượng nghèo và không nghèo. Những người được coi là nghèo khi mức sống của họ đo qua thu nhập (hoặc chi tiêu) thấp hơn chuẩn nghèo.

Tại một thời điểm nhất định có thể tồn tại nhiều đường nghèo khác nhau, ví dụ: đường nghèo thu nhập, đường nghèo lương thực thực phẩm, đường nghèo chung, đường nghèo về y tế, đường nghèo về giáo dục, đường nghèo quốc tế, đường nghèo quốc gia, đường nghèo địa phương…

Ngày 15/9/2015, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1614/QĐ-TTg về việc phê duyệt Đề án tổng thể “Chuyển đổi phương pháp tiếp cận đo lường nghèo từ đơn chiều sang đa chiều áp dụng cho giai đoạn 2016-2020”,chuẩn nghèo giai đoạn 2016 – 2020 của Việt Nam được xây dựng theo hướng: sử dụng kết hợp cả chuẩn nghèo về thu nhập và mức độ thiếu hụt tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản. Theo đó, tiêu chí đo lường nghèo được xây dựng dựa trên cơ sở: Các tiêu chí về thu nhập, bao gồm: chuẩn mức sống tối thiểu về thu nhập, chuẩn nghèo về thu nhập, chuẩn mức sống trung bình về thu nhập. Mức độ thiếu hụt trong tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản, bao gồm: tiếp cận về y tế, giáo dục, nhà ở, nước sạch và vệ sinh, tiếp cận thông tin.

1.1.3. Giảm nghèo bền vững và chính sách giảm nghèo bền vững

Trong tiến trình phát triển của một quốc gia, tăng trưởng kinh tế và giảm nghèo, giữa chúng luôn có mối quan hệ biện chứng với nhau: tăng trưởng kinh tế sẽ tạo ra điều kiện cơ sở vật chất để thực hiện giảm nghèo nhanh và ngược lại thực hiện tốt công tác giảm nghèo sẽ là nhân tố đảm bảo cho sự tăng trưởng mang tính bền vững. Tuy nhiên, trong mối quan hệ này thì giảm nghèo vẫn là yếu tố chịu sự chi phối, phụ thuộc vào tăng trưởng kinh tế. Giảm nghèo có tính tương đối, bởi vì nghèo có thể tái sinh khi các giải pháp giảm nghèo chưa thật sự bền vững hoặc chuẩn nghèo đã có sự thay đổi, hoặc có những biến động khác tác động đến đời sống xã hội như khủng hoảng lạm phát, thiên tai,… Vì vậy việc đánh giá mức độ giảm nghèo cần được xem xét trong một khoản không gian, thời gian nhất định.

Hiện nay vẫn chưa có một khái niệm thống nhất về giảm nghèo bền vững hay giảm nghèo theo hướng bền vững là gì. Tuy nhiên vấn đề giảm nghèo luôn được đề cập đến khi nói đến việc phát triển bền vững và giảm nghèo bền vững là một trong những yếu tố quan trọng tạo nên sự phát triển bền vững. Và phát triển kinh tế bền vững là cơ sở, điều kiện cần thiết để giảm nghèo bền vững. Qua thực tiễn trong thực hiện công tác giảm nghèo, ta có thể hiểu: giảm nghèo bền vững là quá trình tạo điều kiện giúp đỡ cho người nghèo có khả năng tiếp cận các nguồn lực của sự phát triển một cách nhanh nhất, trên cơ sở đó họ có nhiều lựa chọn hơn, giúp họ từng bước thoát khỏi tình trạng nghèo, họ không còn tái nghèo, không bị thụt lùi so với quy định chung về chuẩn nghèo.

Về chính sách giảm nghèo bền vững có thể hiểu: là tập hợp các quyết định của Chính phủ nhằm đưa ra các giải pháp, công cụ chính sách để giải quyết các vấn đề về cải thiện đời sống vật chất và tinh thần đối với người nghèo, góp phần thu hẹp khoảng cách chênh lệch về mức sống giữa nông thôn và thành thị, giữa các vùng, các dân tộc và các nhóm dân cư, thực hiện mục tiêu giảm nghèo bền vững của đất nước.

1.1.4. Ý nghĩa và tầm quan trọng của việc thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững đối với đồng bào dân tộc thiểu số

Việt Nam là quốc gia có 54 thành phần dân tộc khác nhau, trong đó các dân tộc thiểu số chiếm khoảng 14% tổng dân số của cả nước. Mỗi dân tộc đều có bản sắc văn hóa riêng, tạo nên sự thống nhất và đa dạng của nền văn hóa Việt Nam. Theo báo cáo “Bước tiến mới: Giảm nghèo và thịnh vượng chung tại Việt Nam” của Ngân hàng Thế giới (WB) được công bố ngày 5/4/2018, có 1,8 triệu người dân tộc thiểu số ở Việt Nam thoát nghèo, giảm từ 8,4 triệu năm 2010 xuống còn 6,6 triệu người trong năm 2016. Tuy nhiên trong số 9,1 triệu người nghèo ở Việt Nam năm 2016, nhóm dân tộc thiểu số chiếm 72%, tương đương với 6,6 triệu người. Có thể thấy trong thời gian qua các dân tộc thiểu số ở Việt Nam giảm nghèo nhanh nhưng chưa thật sự bền vững, họ còn đối mặt với nhiều thách thức; Nguyên nhân dẫn tới đói nghèo tập trung ở những hộ gia đình vùng sâu, vùng xa…do người nghèo gặp khó khăn vì trình độ học vấn thấp (75% người lớn ở các hộ gia đình nghèo có học vấn từ tiểu học trở xuống, dưới 7% có trình độ trung học).

Vì vậy, trong thời gian qua thực hiện chính sách giảm nghèo nói chung và chính sách giảm nghèo bền vững đối với đồng bào dân tộc thiểu số là một chủ trương lớn của Đảng, Nhà nước ta nhằm cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của người nghèo là đồng bào dân tộc thiểu số, góp phần thu hẹp khoảng cách chênh lệch về mức sống giữa miền núi và đồng bằng, nông thôn và thành thị, giữa các vùng, các dân tộc và các nhóm dân cư. Đồng thời thể hiện sự quyết tâm của Việt Nam trong việc cam kết thực hiện Mục tiêu thiên niên kỷ của Liên hợp quốc.

Đối với Việt Nam, công tác giảm nghèo có ý nghĩa hết sức đặc biệt vì đây là mục tiêu hàng đầu trong sự nghiệp phát triển đất nước ta theo định hướng xã hội chủ nghĩa, nhất là trong giai đoạn hiện nay với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, với xu thế hội nhập quốc tế. Vì vậy, để giải quyết vấn đề nghèo đói cần phải có những chính sách phù hợp với thực tiễn, ngoài ra không chỉ dựa vào kinh nghiệm trong nước mà đòi hỏi phải có phương pháp tiếp cận mới giải quyết một cách khoa học – đó là gắn kết tăng trưởng với giảm nghèo, giảm nghèo phải bảo đảm tính bền vững, công bằng, toàn diện và hội nhập.

Trong công cuộc thực hiện công tác xóa đói giảm nghèo, để thành công thì đòi hỏi sự quan tâm, tham gia của cả hệ thống chính trị và đặc biệt là tầng lớp nhân dân vì vấn đề đói nghèo không phải là vấn đề riêng của người nghèo, hay của Chính phủ, mà là vấn đề chung của cả nước, của toàn xã hội trong sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước.

    1. 1.2. Chính sách giảm nghèo bền vững đối với đồng bào dân tộc thiểu số ở Việt Nam

1.2.1. Các quan điểm, mục tiêu giảm nghèo bền vững nói chung và đối với đồng bào dân tộc thiểu số ở Việt Nam

Trong những năm qua, công tác xóa đói, giảm nghèo luôn được Đảng, Nhà nước ta quan tâm, xác định là một mục tiêu quan trọng phát triển đất nước, là một trong những vấn đề xã hội được đặt vào vị trí ưu tiên giải quyết trong phát triển xã hội và là một trong những chính sách quan trọng trong hệ thống an sinh xã hội của quốc gia.

Quan điểm, định hướng và chỉ đạo của Đảng và Nhà nước luôn được thể hiện rõ trong các Đại hội của Đảng. Cụ thể:

Đại hội lần thứ VIII, Đảng ta đã xác định, thực hiện kinh tế thị trường phải “thừa nhận trên thực tế… sự phân hoá giàu nghèo nhất định trong xã hội”, coi đó là một hiện tượng xã hội đang hiện hữu, chi phối đời sống xã hội. Đại hội chỉ rõ, khuyến khích các tầng lớp nhân dân vươn lên làm giàu, đẩy mạnh xoá đói, giảm nghèo, hạn chế phân hoá giàu nghèo gắn với mục tiêu “phải luôn luôn quan tâm bảo vệ lợi ích người lao động, vừa khuyến khích làm giàu hợp pháp, chống làm giàu phi pháp, coi trọng xoá đói giảm nghèo, từng bước thực hiện công bằng xã hội, tiến tới làm cho mọi người, mọi nhà đều khá giả” [29].

Đại hội lần thứ IX, đã có bước phát triển mới: “Khuyến khích làm giàu hợp pháp, đồng thời ra sức xoá đói giảm nghèo, tạo điều kiện về cơ sở hạ tầng và năng lực sản xuất để các vùng, các cộng đồng đều có thể tự phát triển, tiến tới thu hẹp khoảng cách về trình độ phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội” [30].

Đại hội lần thứ X của Đảng tiếp tục chỉ rõ và đề ra mục tiêu cụ thể: “Khuyến khích mọi người làm giàu theo pháp luật, thực hiện có hiệu quả các chính sách xoá đói, giảm nghèo”, “Kết hợp các mục tiêu kinh tế với các mục tiêu xã hội trong phạm vi cả nước ở từng lĩnh vực, địa phương; thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước phát triển”; phấn đấu đến năm 2010, tỉ lệ hộ nghèo theo chuẩn mới còn 10 – 11% (năm 2005, tỉ lệ hộ nghèo cả nước còn khoảng 22%) [31].

Đặc biệt, trong Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 2011 – 2020, Đại hội lần thứ XI của Đảng đã đề ra định hướng cơ bản: “Nâng cao thu nhập và chất lượng cuộc sống của nhân dân. Tạo cơ hội bình đẳng tiếp cận các nguồn lực phát triển và hưởng thụ các dịch vụ cơ bản, các phúc lợi xã hội. Thực hiện có hiệu quả hơn chính sách giảm nghèo phù hợp với từng thời kỳ; đa dạng hoá các nguồn lực và phương thức để bảo đảm giảm nghèo bền vững, nhất là tại các huyện nghèo nhất và các vùng đặc biệt khó khăn. Khuyến khích làm giàu theo pháp luật, tăng nhanh số hộ có thu nhập trung bình khá trở lên. Có chính sách và các giải pháp phù hợp nhằm hạn chế phân hoá giàu nghèo, giảm chênh lệch về mức sống giữa nông thôn với đô thị”. Chỉ tiêu phấn đấu cụ thể: “Tỉ lệ hộ nghèo giảm 2%/năm”; dựa trên cơ sở sự định hướng chiến lược “Tạo môi trường và điều kiện để mọi người lao động có việc làm và thu nhập tốt hơn. Có chính sách tiền lương và chế độ đãi ngộ tạo động lực để phát triển; điều tiết hợp lý thu nhập trong xã hội. Khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với xoá nghèo bền vững; giảm dần tình trạng chênh lệch giàu nghèo giữa các vùng, miền, các tầng lớp dân cư” [32].

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng (tháng 01/2011) vẫn tiếp tục coi trọng và ưu tiên giải quyết vấn đề nghèo và giảm nghèo bền vững. Trong đó, Đảng ta nêu rõ “Thực hiện có hiệu quả hơn chính sách giảm nghèo phù hợp với từng thời kỳ; đa dạng hóa các nguồn lực và phương thức để bảo đảm giảm nghèo bền vững, nhất là tại các huyện nghèo nhất và các vùng đặc biệt khó khăn. Khuyến khích làm giàu theo pháp luật, tăng nhanh số hộ có thu nhập trung bình khá trở lên. Có chính sách và các giải pháp phù hợp nhằm hạn chế phân hoá giàu nghèo, giảm chênh lệch mức sống giữa nông thôn và thành thị” [32].

 Tại Đại hội lần thứ XII, Đảng ta đã chỉ rõ phải đẩy mạnh giảm nghèo bền vững, nhất là các vùng đặc biệt khó khăn và có chính sách đặc thù để giảm nghèo nhanh hơn trong đồng bào dân tộc thiểu số. Chú trọng các giải pháp tạo điều kiện và khuyến khích các hộ nghèo, cận nghèo phấn đấu tự vươn lên thoát nghèo bền vững; đổi mới chính sách giảm nghèo theo hướng tập trung, hiệu quả và tiếp cận phương pháp đo lường nghèo đa chiều nhằm bảo đảm an sinh xã hội cơ bản và tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản. Quan điểm lãnh đạo của Đảng khi áp dụng phương pháp đo lường nghèo đa chiều, “tiếp cận chuẩn nghèo theo phương pháp tiếp cận đa chiều” – nghèo được đo lường không chỉ bằng tiêu chí thu nhập mà còn bằng cả nhóm tiêu chí phi thu nhập trong thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững với mục đích tác động tốt hơn, toàn diện hơn đến người nghèo, giúp bảo đảm mức sống tối thiểu, đồng thời đáp ứng các dịch vụ xã hội cơ bản cho người dân, từng bước giảm nghèo bền vững. Đảng ta đã chỉ rõ “phải đẩy mạnh giảm nghèo bền vững, nhất là các vùng đặc biệt khó khăn và có chính sách đặc thù…”; “Tạo cơ hội để mọi người có việc làm và cải thiện thu nhập. Bảo đảm tiền lương, thu nhập công bằng, đủ điều kiện sống và tái sản xuất sức lao động. Huy động tốt nhất nguồn nhân lực lao động để phục vụ công cuộc xây dựng, phát triển đất nước. Chú trọng giải quyết việc làm cho lao động dôi dư từ khu vực nông nghiệp do việc tích tụ, tập trung ruộng đất hoặc thu hồi đất phát triển công nghiệp, đô thị và các công trình công cộng. Khuyến khích đầu tư xã hội tạo ra nhiều việc làm, nâng cao chất lượng giáo dục nghề nghiệp. Xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính sách về tiền lương, tiền công, khắc phục cơ bản những bất hợp lý. Điều chỉnh chính sách dạy nghề, gắn đào tạo với sử dụng. Điều chỉnh chính sách xuất khẩu lao động hợp lý. Hoàn thiện và thực hiện chính sách bảo hộ lao động”. Đây là sự lãnh đạo hướng đến các chính sách, chương trình phòng ngừa rủi ro, tầng trên cùng của hệ thống an sinh xã hội nhằm giúp cho mọi tầng lớp dân cư có được việc làm, thu nhập, có được năng lực vật chất cần thiết để đối phó tốt nhất với rủi ro [32].

Quan điểm của Đảng ta chỉ ra những định hướng lớn, lãnh đạo cụ thể từng mặt của công tác an sinh xã hội dựa trên cơ sở lý luận về chức năng, cấu trúc, mô hình, các trụ cột, sự phân tầng của chính sách an sinh xã hội, cách tiếp cận mới về tạo việc làm, giảm nghèo đa chiều bền vững, về bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế toàn dân, trợ giúp xã hội, cung cấp dịch vụ xã hội ở mức độ tối thiểu nhằm trợ giúp khó khăn, phòng ngừa, giảm thiểu, khắc phục rủi ro, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân, đặc biệt là nhóm yếu thế, hướng đến nền an sinh xã hội toàn dân, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

Mục tiêu giảm nghèo bền vững

Cụ thể hóa quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, XII của Đảng, ngày 19/5/2011, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 80/NQ-CP về định hướng giảm nghèo bền vững thời kỳ từ năm 2011 đến năm 2020. Nghị quyết cũng đã đề ra mục tiêu tổng quát, đó là: “Giảm nghèo bền vững là một trọng tâm của chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 2011-2020 nhằm cải thiện và từng bước nâng cao điều kiện sống của người nghèo, trước hết là khu vực miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số; tạo sự chuyển biến mạnh mẽ, toàn diện ở các vùng nghèo; thu hẹp khoảng cách chênh lệch giữa thành thị và nông thôn, giữa các vùng, các dân tộc và các nhóm dân cư”; Quyết định số 1722/QĐ-TTg ngày 02/9/2016 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia Giảm nghèo bền vững giai đoạn 2016-2020; Quyết định số 41/2016/QĐ-TTg ngày 10/10/2016 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Quy chế quản lý, điều hành thực hiện các Chương trình mục tiêu quốc gia;

1.2.2. Chuẩn nghèo và tiêu chí xác định nghèo hiện nay

– Chuẩn nghèo và tiêu chí xác định chuẩn nghèo mới được áp dụng từ năm 2016 đến nay

Thực hiện Quyết định số 1614/QĐ-TTg của Thủ tướng chính phủ ngày 15/9/2015 Phê duyệt Đề án tổng thể “Chuyển đổi phương pháp tiếp cận đo lường nghèo từ đơn chiều sang đa chiều áp dụng cho giai đoạn 2016-2020” thì tiêu chí về thu nhập và tiêu chí về mức độ thiếu hụt tiếp cận dịch vụ xã hội cơ bản để xác định mức chuẩn nghèo, cụ thể các tiêu chí về thu nhập:

– Chuẩn mức sống tối thiểu: từ 1.300.000 đồng/người/tháng trở xuống ở khu vực thành thị và 1.000.000 đồng/người/tháng ở khu vực nông thôn.

– Chuẩn nghèo chính sách: từ 1.000.000 đồng/người/tháng trở xuống ở khu vực thành thị và 800.000 đồng/người/tháng ở khu vực nông thôn.

– Chuẩn mức sống trung bình: từ 1.950.000 đồng/người/tháng trở xuống và  1.500.000 đồng/người/tháng ở khu vực nông thôn.

Tiêu chí mức độ thiếu hụt tiếp cận dịch vụ xã hội cơ bản:

Tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản về y tế, giáo dục, nhà ở, nước sạch và vệ sinh, tiếp cận thông tin.

Các chỉ số đo lường mức độ thiếu hụt bao gồm: trình độ giáo dục của người lớn; tình trạng đi học của trẻ em; tiếp cận các dịch vụ y tế; bảo hiểm y tế; chất lượng nhà ở; diện tích nhà ở bình quân đầu người; nguồn nước sinh hoạt; hố xí/nhà tiêu hợp vệ sinh; sử dụng dịch vụ viễn thông; tài sản phục vụ tiếp cận thông tin; Ngưỡng thiếu hụt đa chiều đối với một hộ gia đình là từ 1/3 tổng điểm thiếu hụt tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản trở lên.

1.2.3. Các chính sách giảm nghèo bền vững

Trong những năm qua, dưới sự chỉ đạo, định hướng của Đảng về thực hiện công tác giảm nghèo, Chính phủ Việt Nam đã ban hành nhiều chính sách, chương trình, dự án giảm nghèo để đẩy mạnh mục tiêu giảm nghèo bền vững trên phạm vi cả nước. Cụ thể là:

Chương trình hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững theo Nghị quyết số 30a/2008/NQ-CP của Chính phủ:

Nghị quyết số 30a/2008/NQ-CP của Chính phủ đã đề ra mục tiêu tổng quát của Chương trình là: “Tạo sự chuyển biến nhanh hơn về đời sống vật chất, tinh thần của người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số thuộc các huyện nghèo, bảo đảm đến năm 2020 ngang bằng các huyện khác trong khu vực. Hỗ trợ phát triển sản xuất nông, lâm nghiệp bền vững, theo hướng sản xuất hàng hóa, khai thác tốt các thế mạnh của địa phương. Xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội phù với đặc điểm của từng huyện; chuyển đổi cơ cấu kinh tế và các hình thức tổ chức sản xuất có hiệu quả theo quy hoạch; xây dựng xã hội nông thôn ổn định, giàu bản sắc văn hóa dân tộc; dân trí được nâng cao, môi trường sinh thái được bảo vệ; bảo đảm vững chắc an ninh, quốc phòng”.

Nội dung cụ thể của Nghị quyết số 30a/2008/NQ-CP gồm: Tiếp tục thực hiện các chế độ, chính sách hiện hành về hỗ trợ trực tiếp cho người nghèo ở các huyện nghèo có sửa đổi, bổ sung theo hướng mở rộng đối tượng thụ hưởng và nâng mức hỗ trợ, mức đầu tư. Thực hiện cơ chế, chính sách, giải pháp đặc thù đối với các huyện nghèo, cụ thể là: Hỗ trợ sản xuất, tạo việc làm, tăng thu nhập thông qua khoán chăm sóc, bảo vệ rừng, giao rừng và giao đất để trồng rừng sản xuất; Tăng cường, hỗ trợ cán bộ khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư, dịch vụ bảo vệ thực vật, thú y, vệ sinh an toàn thực phẩm cho các huyện nghèo để xây dựng các trung tâm khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư thành những trung tâm chuyển giao khoa học kỹ thuật, công nghệ và dịch vụ thúc đẩy phát triển sản xuất trên địa bàn; Khuyến khích, hỗ trợ các doanh nghiệp, hợp tác xã, trang trại đầu tư sản xuất, chế biến, kinh doanh trên địa bàn huyện nghèo; Hỗ trợ mỗi huyện 100 triệu đồng/năm để xúc tiến thương mại, quảng bá, giới thiệu sản phẩm, nhất là nông, lâm, thủy đặc sản của địa phương; thông tin thị trường cho nông dân; Khuyến khích, tạo điều kiện và có chính sách ưu đãi thu hút các tổ chức, nhà khoa học trực tiếp nghiên cứu, ứng dụng, chuyển giao tiến bộ khoa học công nghệ ở địa bàn, nhất là việc tuyển chọn, chuyển giao giống cây trồng, giống vật nuôi cho sản xuất ở các huyện nghèo. Chính sách xuất khẩu lao động: hỗ trợ đào tạo nghề, đào tạo ngoại ngữ, bồi dưỡng văn hóa, đào tạo định hướng. Chính sách giáo dục, đào tạo, dạy nghề, nâng cao dân trí. Chính sách cán bộ đối với các huyện nghèo: Thực hiện chính sách luân chuyển và tăng cường cán bộ tỉnh, huyện về xã đảm nhận các cương vị lãnh đạo chủ chốt để tổ chức triển khai thực hiện cơ chế, chính sách đối với các huyện nghèo; thực hiện chế độ trợ cấp ban đầu đối với cán bộ thuộc diện luân chuyển; có chế độ tiền lương, phụ cấp và chính sách bổ nhiệm, bố trí công tác sau khi hoàn thành nhiệm vụ; Có chính sách hỗ trợ và chế độ đãi ngộ thỏa đáng để thu hút khuyến khích trí thức trẻ về tham gia tổ công tác tại các xã thuộc huyện nghèo…

Chính sách tín dụng:

Trong những năm qua Chính sách tín dụng cho hộ nghèo luôn được Nhà nước quan tâm, phát triển nguồn vốn tín dụng qua Nhân hàng Chính sách xã hội và đến nay vẫn còn hiệu lực. Có thể nói đây là một chính sách mang lại hiệu quả cao trong công tác giảm nghèo bền vững thể hiện sự quyết tâm chỉ đạo, lãnh đạo trong công tác giảm nghèo của Đảng và Nhà nước ta. Hiện nay chính sách tín dụng của Ngân hàng CSXH được triển khai rộng rãi, đối tượng chủ yếu là hộ nghèo, cận nghèo, hộ đồng bào dân tộc thiểu số, cụ thể qua các chương trình tín dụng như: Nghị định số 78/2002/NĐ-CP ngày 04/10/2002 của Chính phủ về tín dụng đối với hộ nghèo và các đối tượng chính sách khác trong Chương trình mục tiêu quốc gia về giảm nghèo; Quyết định số 54/2012/QĐ-CP ngày 04/12/2012 của Chính phủ về việc ban hành chính sách cho vay vốn phát triển sản xuất đối với hộ dân tộc thiểu số đặc biệt khó khăn giai đoạn 2012 – 2015 (thay thế Quyết định 32/ 2007/QĐ-TTg ngày 5/3/2007); Quyết định số 15/2013/QĐ-TTg ngày 23/02/2013 của Thủ tướng Chính phủ về tín dụng đối với hộ cận nghèo; Quyết định số 157/2007/QĐ-CP ngày 27/9/2007 của Chính phủ về tín dụng đối với học sinh, sinh viên. Riêng đối với hộ dân tộc thiểu số đặc biệt khó khăn, Thủ tướng Chính phủ có Quyết định số 54/2012/QĐ-TTg ngày 04 tháng 12 năm 2012 Ban hành chính sách cho vay vốn phát triển sản xuất đối với hộ dân tộc thiểu số đặc biệt khó khăn giai đoạn 2012 – 2015, theo đó thực hiện cho vay vốn đối với hộ đồng bào dân tộc thiểu số đặc biệt khó khăn để phát triển sản xuất, ổn định đời sống, thoát nghèo bền vững.

Có thể nói chính sách tín dụng của Ngân hàng CSXH là dành cho hộ nghèo, là chương trình được triển khai rộng rãi, đáp ứng một lượng lớn nhu cầu vốn của hộ nghèo, tác động trực tiếp và mang lại hiệu quả thiết thực, là một trong những điểm sáng trong các chính sách giảm nghèo Nhà nước ta. Trong giai đoạn từ 2002 đến 2017, Ngân hàng Chính sách xã hội đã cho vay trên 31,8 triệu lượt hộ nghèo và các đối tượng chính sách khác. Qua đó, nguồn vốn này đã góp phần giúp trên 4,5 triệu hộ vượt qua ngưỡng nghèo; thu hút, tạo việc làm cho gần 3,4 triệu lao động, hơn 3,5 triệu lượt học sinh, sinh viên có hoàn cảnh khó khăn được vay vốn học tập. Nhờ nguồn vốn tín dụng chính sách, tỷ lệ hộ nghèo giai đoạn 2001 – 2005 giảm từ 17% xuống 7%; giai đoạn 2005 – 2010 từ 22% xuống 9,45%; giai đoạn 2011-2015 từ 14,2% xuống 4,25% cuối năm 2015. 

Chính sách hỗ trợ về nhà ở:

Chính sách hỗ trợ hộ nghèo về nhà ở của Nhà nước nhằm hỗ trợ các hộ nghèo để có nhà ở ổn định, an toàn, từng bước nâng cao mức sống, góp phần xóa đói, giảm nghèo bền vững, và đây cũng là một phần trong việc thực hiện các chính sách thuộc Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo trong cả nước. Cụ thể các Chính sách này được thực hiện như Quyết định 167/2008/QĐ-TTg ngày 12/12/2008 của Thủ tướng Chính phủ về chính sách hỗ trợ hộ nghèo về nhà ở. Và vào ngày 29/10/2010 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định 67/2010/QĐ-TTg để bổ sung thêm đối tượng là các hộ nghèo, có khó khăn về nhà ở. Đến ngày 10/8/2015 Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định 33/2015/QĐ-TTg về chính sách hỗ trợ nhà ở đối với hộ nghèo theo chuẩn nghèo giai đoạn 2011-2015 (Chương trình hỗ trợ hộ nghèo về nhà ở theo Quyết định 167/2008/QĐ-TTg giai đoạn 2).

Thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững cho đồng bào dân tộc thiểu số từ thực tiễn huyện Ba Tơ, tỉnh Quảng Ngãi
Thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững cho đồng bào dân tộc thiểu số từ thực tiễn huyện Ba Tơ, tỉnh Quảng Ngãi

Riêng đối với các hộ dân tộc thiểu số đặc biệt khó khăn, Thủ tướng Chính phủ có Quyết định số 134/2004/QĐ-TTg ngày 20/7/2004 về một số chính sách hỗ trợ đất sản xuất, đất ở, nhà ở và nước sinh hoạt cho hộ đồng bào dân tộc thiểu số nghèo, đời sống khó khăn, nhằm mục đích cùng với việc thực hiện các chương trình kinh tế – xã hội, Nhà nước trực tiếp hỗ trợ hộ đồng bào dân tộc thiểu số nghèo để có điều kiện phát triển sản xuất, cải thiện đời sống, sớm thoát nghèo; Quyết định số 2085/QĐ-TTg về việc phê duyệt chính sách đặc thù hỗ trợ phát triển kinh tế-xã hội vùng dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2017-2020.

Chính sách hỗ trợ y tế: Chính sách hỗ trợ về y tế hiện đang thực hiện theo Nghị định 62/2009/NĐ-CP ngày 27/7/2009 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn một số điều Luật bảo hiểm Y tế; Thông tư số 09/TTLT-BYT-BTC ngày 14/8/2009 của Bộ Y tế – Bộ Tài chính về hướng dẫn thực hiện bảo hiểm y tế; Quyết định 538/2013/QĐ-TTg ngày 29/3/2013 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án thực hiện lộ trình tiến tới bảo hiểm y tế toàn dân giai đoạn 2012-2015 và 2020; Quyết định 705/QĐ-TTg ngày 08/5/2013 của Chính phủ về nâng mức hỗ trợ đóng thẻ bảo hiểm y tế cho một số đối tượng người thuộc hộ cận nghèo… nhằm mục đích nhằm hỗ trợ miễn phí 100% mệnh giá thẻ bảo hiểm y tế cho người nghèo để người nghèo được khám, chữa bệnh, đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, trang thiết bị, nâng cao chất lượng khám chữa bệnh cho người nghèo.

Chính sách hỗ trợ giáo dục: Chính sách hỗ trợ về giáo dục cho hộ nghèo hiện nay thực hiện theo Nghị định số 49/2010/NĐ-CP ngày 14/5/2010 của Chính phủ và Nghị định 74/2013/NĐ-CP ngày 15/7/2013 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 49/2010/NĐ-CP ngày 14/5/2010 của Chính phủ quy định về miễn, giảm học phí, hỗ trợ chi phí học tập và cơ chế thu, sử dụng học phí đối với cơ sở giáo dục thuộc hệ thống giáo dục quốc dân từ năm học 2010-2011 đến năm 2014-2015, có hiệu lực thực hiện từ 01/9/2013.

Chính sách hỗ trợ về trợ giúp pháp lý:

Trợ giúp pháp lý là việc giúp đỡ pháp lý (tư vấn pháp luật, hòa giải, đại diện, bào chữa, kiến nghị) miễn phí của Nhà nước và xã hội cho người nghèo và đối tượng chính sách theo quy định của pháp luật nhằm giải toả vướng mắc pháp luật, nâng cao ý thức pháp luật để họ tự mình biết cách ứng xử phù hợp với pháp luật, thực hiện pháp luật, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, góp phần tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo đảm công bằng xã hội, giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội và xây dựng Nhà nước pháp quyền của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.

Chính sách hỗ trợ về trợ giúp pháp lý, cụ thể được Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam ban hành Luật trợ giúp pháp lý ngày 29/6/2006, Chính phủ đã ban hành: Quyết định số 52/2010/QĐ-CP ngày 18/8/2010 của Chính phủ về chính sách hỗ trợ pháp lý nhằm nâng cao nhận thức, hiểu biết pháp luật cho người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số tại các huyện nghèo giai đoạn 2011 – 2020; Quyết định số 678/QĐ-TTg ngày 10/5/2011 phê duyệt Chiến lược phát triển trợ giúp pháp lý ở Việt Nam đến năm 2020, định hướng đến năm 2030 và Quyết định 59/2012/QĐ-TTg ngày 24/12/2012 về chính sách trợ giúp pháp lý cho người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số tại các xã nghèo giai đoạn 2013 – 2020.

Chương trình mục tiêu Quốc gia giảm nghèo bền vững theo Quyết định số 1489/2012/QĐ-TTg ngày 08/10/2012 của Thủ tướng Chính phủ:

Mục tiêu chung của chương trình là: “Cải thiện và từng bước nâng cao điều kiện sống của người nghèo, ưu tiên người nghèo là đồng bào dân tộc thiểu số, người nghèo thuộc huyện nghèo, xã biên giới, xã an toàn khu, xã, thôn, bản đặc biệt khó khăn, vùng bãi ngang ven biển và hải đảo; tạo sự chuyển biến mạnh mẽ, toàn diện về công tác giảm nghèo ở các vùng nghèo; góp phần thu hẹp khoảng cách chênh lệch về mức sống giữa thành thị và nông thôn, giữa các vùng, các dân tộc và các nhóm dân cư”.

Dự án giảm nghèo khu vực Tây Nguyên:

Với sự hỗ trợ từ Ngân hàng thế giới (NHTG), Chính phủ Việt Nam thực hiện Dự án Giảm nghèo Khu vực Tây Nguyên (GNTN) dưới hình thức một dự án phát triển cộng đồng từ năm 2014 đến năm 2019 ở khu vực Miền Trung và Tây Nguyên của Việt Nam. Dự án tập trung vào 130 xã, thuộc 26 huyện nghèo của 6 tỉnh: Đắk Lắk, Đắk Nông, Gia Lai, Kon Tum, Quảng Nam và Quảng Ngãi nhằm mục tiêu nâng cao mức sống thông qua cải thiện cơ hội sinh kế tại các xã nghèo của dự án.

Mục tiêu phát triển của Dự án là cải thiện cơ hội sinh kế cho các hộ nghèo và cộng đồng ở khu vực Miền Trung và Tây Nguyên Việt Nam thông qua: cải thiện khả năng tiếp cận với các dịch vụ cơ bản ở cấp cộng đồng, đặc biệt là liên quan đến sản xuất nông nghiệp và khả năng tăng thu nhập; giải quyết khó khăn trong tiếp cận nguồn tài nguyên thiên nhiên và các cơ hội thị trường; và hỗ trợ đầu tư địa phương (từ cấp huyện trở xuống) để tăng cường sự liên kết.

    1. 1.3. Nội dung thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững

1.3.1. Xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện

Muốn thực hiện một chính sách giảm nghèo bền vững thì yêu cầu các cơ quan từ Trung ương đến cấp cơ sở là xã, phường, thị trấn thì đều phải xây dựng Kế hoạch thực hiện theo từng nội dung: Tổ chức điều hành, cung cấp các nguồn vật lực, thời gian triển khai thực hiện, thực thi chính sách, kiểm tra, đôn đốc, điều chỉnh kế hoạch thực thi chính sách do cơ quan có thẩm quyền các cấp thực hiện; Xây dựng nội quy, quy chế về tổ chức điều hành chính sách, trách nhiệm, nhiệm vụ, quyền hành của cá nhân, tổ chức tham gia, tổ chức điều hành chính sách, các biện pháp về khen thưởng, kỷ luật,…

LIỆN HỆ:

SĐT+ZALO: 0935568275

E:\DỮ LIỆU COP CỦA CHỊ YẾN\LUAN VAN VIEN HAN LAM\VIEN HAN LAM DOT 8\CHINH SACH CONG\TRAN THANH HOAI\New folder

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *