Thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững cho đồng bào

Thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững cho đồng bào

Thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững cho đồng bào dân tộc thiểu số trên địa bàn huyện Đông Giang, tỉnh Quảng Nam

1. Tính cấp thiết của đề tài

Việt Nam có 54 dân tộc, trong đó 53 DTTS chiếm 15% tổng dân số cả nước, nhưng lại chiếm gần một nửa (47%) trong tổng số người nghèo của cả nước và chiếm 68% số người nghèo cùng cực. Thực trạng này gây ra nhiều hệ luỵ, đặc biệt khiến khoảng cách giàu nghèo giữa dân tộc đa số và DTTS không ngừng bị nới rộng. Chính vì thế giảm nghèo, hướng tới phát triển đời sống kinh tế, văn hoá – xã hội của đồng bào DTTS luôn được Đảng và Nhà nước ta quan tâm, tổ chức thực hiện.

Giai đoạn 2016-2018, các cấp, các ngành và cả hệ thống chính trị đã nỗ lực cao độ cho công tác giảm nghèo, nhiều chính sách giảm nghèo bền vững (CSGNBV) cho đồng bào dân tộc thiểu số (DTTS) đã được ban hành và thực thi, đem lại những kết quả bước đầu tích cực như: Chương trình 135 đã đầu tư 9.106 công trình, duy tu, bảo dưỡng 3.295 công trình; hỗ trợ trực tiếp cho 1,512 triệu hộ nghèo, cận nghèo; tập huấn cho 103 ngàn người; dạy nghề cho 720 ngàn người DTTS, góp phần giúp đồng bào tìm kiếm việc làm. Ngân hàng CSXH đã cho 1,4 triệu hộ DTTS vay 45.194 tỷ đồng (chiếm 24,7% tổng dư nợ), bình quân dư nợ mỗi hộ là 30,5 triệu đồng (bình quân toàn quốc là 27 triệu đồng/hộ) để phát triển sản xuất, tăng thu nhập. Tỷ lệ hộ nghèo cuối năm 2017 ở các huyện nghèo giảm xuống còn dưới 40% (giảm khoảng 5% so với cuối năm 2016); tỷ lệ hộ nghèo ở các xã đặc biệt khó khăn giảm 3-4%. Có 8 huyện thoát khỏi huyện nghèo theo Quyết định 30a của Thủ tướng Chính phủ; 14 huyện ra khỏi diện hưởng chính sách như huyện nghèo; 34 xã đủ điều kiện ra khỏi diện đầu tư theo chương trình 135.[34]

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được đó, quá trình thực hiện chính sách còn bộc lộ nhiều hạn chế. Các chính sách xuất hiện sự chồng chéo; các bước thực hiện chính sách không đầy đủ; nhiều phương pháp thực hiện chính sách nặng về tính phân phối, cung cấp “con cá” thay vì “cần câu”; cán bộ thực hiện chính sách nghiệp vụ chuyên môn không đảm bảo, thái độ thờ ơ, hình thức, chiếu lệ; tệ tham nhũng trong thực hiện chính sách vẫn còn tồn tại… đã khiến cho CSGNBV cho đồng bào DTTS tuy được nhiều sự quan tâm của các cấp, các ngành, đầu tư nhiều tiền của từ ngân sách song mang lại hiệu quả chưa cao, tạo ra tâm lý ỷ lại cho một bộ phận đồng bào dân tộc, kết quả thực hiện chính sách mang tính hình thức, khả năng tái nghèo dễ xảy ra.

Từ thực tiễn này, cần thiết phải có những công trình khoa học nghiên cứu về lý luận và thực tiễn thực hiện CSGNBV cho đồng bào DTTS để xác lập được cơ sở khoa học và thực tiễn của vấn đề, từ đó đề xuất các giải pháp tháo gỡ những vướng mắc gặp phải như hiện nay. Tuy nhiên, dưới góc độ khoa học Chính sách công, chưa có nhiều công trình nghiên cứu về đối tượng kể trên. Những nghiên cứu đã được thực hiện chưa trực tiếp nghiên cứu thực hiện chính sách xoá đói giảm nghèo cho đồng bào DTTS, cũng như tính chọn mẫu chưa thực sự đa dạng.

Đông Giang là huyện miền núi của tỉnh Quảng Nam với hơn 70% dân số là người đồng bào DTTS. Tỷ lệ nghèo của Huyện những năm vừa qua mặc dù có giảm nhưng vẫn ở mức cao hơn só với trung bình cả nước. Cùng với những CSGNBV của nhà nước trung ương, chính quyền tỉnh Quảng Nam và huyện Đông Giang cũng đã có những chính sách riêng và tổ chức thực hiện thống nhất theo hướng giảm nghèo đa chiều và bền vững từ năm 2016. Tuy nhiên, đến nay kết quả vẫn còn hạn chế, nhiều khâu trong chu trình thực hiện chính sách bộc lộ nhiều vướng mắc, hạn chế dẫn tới lãng phí nguồn lực và gây khó khăn trong việc đạt được mục tiêu ngắn hạn, trung hạn và dài hạn. Chính vì thế, yêu cầu đòi hỏi có sự nghiên cứu kỹ lưỡng để xác định thực trạng và nguyên nhân của vấn đề, qua đó đề xuất các giải pháp cải biến thực tiễn thực hiện CSGNBV tại huyện Đông Giang, tỉnh Quảng Nam trở thành bức thiết.

Trên cơ sở các nhu cầu thực tiễn kể trên, cùng với những quan sát ban đầu về vấn đề nghiên cứu tại địa phương tác giả sinh sống và sự phù hợp của đề tài với vị trí công tác hiện nay, tác giả quyết định lựa chọn vấn đề: “Thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững cho đồng bào dân tộc thiểu số trên địa bàn huyện Đông Giang, tỉnh Quảng Nam” làm đề tài nghiên cứu trong quy mô của một luận văn thạc sĩ Chính sách công.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1 Mục đích nghiên cứu

Nghiên cứu được thực hiện nhằm xác lập những vấn đề lý luận về CSGNBV cho đồng bào DTTS; xem xét, phân tích đánh giá thực trạng thực hiện CSGNBV cho đồng bào DTTS trên địa bàn huyện Đông Giang, tỉnh Quảng Nam, qua đó đề xuất các chính sách nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách này cho huyện Đông Giang, tỉnh Quảng Nam.

3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu

Để thực hiện được mục đích nghiên cứu của đề tài, tác giả xác định các nhiệm vụ nghiên cứu sau đây:

– Xác lập các vấn đề lý luận liên quan đến đề tài như: khái niệm thực hiện CSGNBV cho đồng bào DTTS; nội dung CSGNBV cho đồng bào DTTS; chủ thể và cán bên liên quan trong thực hiện CSGNBV cho đồng bào DTTS; các bước thực hiện CSGNBV cho đồng bào DTTS; các yếu tố ảnh hưởng đến thực hiện CSGNBV cho đồng bào DTTS và kinh nghiệm một số địa phương trong thực hiện CSGNBV cho đồng bào DTTS;

– Xem xét, phân tích, đánh giá thực trạng thực hiện CSGNBV cho đồng bào DTTS trên địa bàn huyện Đông Giang, tỉnh Quảng Nam nhằm chỉ ra: thực tiễn thực hiện các bước; kết quả; hạn chế và nguyên nhân của các hạn chế thực hiện CSGNBV cho đồng bào DTTS trên địa bàn huyện Đông Giang, tỉnh Quảng Nam;

– Đề xuất các quan điểm và các giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện CSGNBV cho đồng bào DTTS.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1 Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của đề tài là quá trình và kết quả thực hiện CSGNBV cho đồng bào DTTS trên ba phương diện: lý luận; thực tiễn và giải pháp.

4.2 Phạm vi nghiên cứu

a. Phạm vi không gian: Phạm vi không gian nghiên cứu của đề tài là huyện Đông Giang, tỉnh Quảng Nam với 6400 hộ đồng bào DTTS của 11 xã, thị trấn.

b. Phạm vi thời gian: Phạm vi thời gian nghiên cứu của đề tài được xác định trong hai nhiệm kỳ 2011-2016 và 2016 đến nay. Năm 2016 đồng thời cũng là năm bắt đầu áp dụng chuẩn nghèo đa chiều.

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

5.1. Cơ sở lý luận

Cơ sở lý luận được sử dụng trong nghiên cứu là phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lê Nin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Bên cạnh đó, luận án còn sử dụng phương pháp luận là các quan điểm của Đảng và Nhà nước, chính sách, pháp luật về giảm nghèo cho đồng bào DTTS.

5.2. Phương pháp nghiên cứu

Trong luận án tác giả sử dụng một số phương pháp nghiên cứu cụ thể sau: Phương pháp nghiên cứu tài liệu thứ cấp; Phương pháp quan sát khoa học; Phương pháp phân tích, tổng hợp; Phương pháp điều tra xã hội học; Phương pháp tham vấn chuyên gia. Các phương pháp được sử dụng chọn lọc và linh hoạt trong các chương của luận văn như sau:

– Chương 1, với mục đích xác lập những vấn đề lý luận, tác giả sử dụng phương pháp: nghiên cứu tài liệu thứ cấp để làm rõ các khái niệm như nghèo, giảm nghèo, CSGNBV, người DTTS và thực hiện CSGNBV cho đồng bào DTTS. Ngoài ra phương pháp phân tích, tổng hợp cũng được sử dụng nhằm làm rõ các vấn đề lý luận khác của luận văn như các bước thực hiện, nội dung, chủ thể và các bên liên quan, kinh nghiệm của các địa phương;

– Chương 2, với mục đích xem xét, phân tích, đánh giá thực trạng thực hiện CSGNBV cho đồng bào DTTS trên địa bàn huyện Đông Giang, tỉnh Quảng Nam, tác giả sử dụng một số phương pháp như: Phương pháp quan sát khoa học nhằm tìm hiểu thực tiễn thực hiện các bước trong quá trình thực hiện CSGNBV cho đồng bào DTTS; Phương pháp điều tra xã hội học bằng bảng hỏi, phỏng vấn sâu nhằm cho thấy kết quả và mức độ hài lòng về kết quả thực hiện CSGNBV cho đồng bào DTTS; Phương pháp phân tích, tổng hợp nhằm làm rõ các hạn chế và nguyên nhân của hạn chế trong thực hiện CSGNBV cho đồng bào DTTS;

– Chương 3, với mục đích đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện CSGNBV cho đồng bào DTTS, tác giả sử dụng một số các phương pháp sau: Phương pháp tham vấn chuyên gia bằng tham gia các hội thảo, tham vấn ý kiến các chuyên gia lý luận và thực tiễn về vấn đề để xác định quan điểm xây dựng giải pháp; Phương pháp phân tích, tổng hợp nhằm xây dựng và triển khai các giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện CSGNBV cho đồng bào DTTS.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn

6.1. Ý nghĩa lý luận

Thông qua kết quả nghiên cứu, luận văn dự kiến sẽ đóng góp thêm vào kho tàng khoa học lý luận bằng những phát hiện mới trong nghiên cứu lý thuyết của mình về vấn đề thực hiện CSGNBV cho đồng bào DTTS, tạo ra những gợi ý mới cho việc nghiên cứu lý luận về vấn đề trong tương lai.

6.2. Ý nghĩa thực tiễn

Kết quả xem xét, phân tích, đánh giá thực tiễn sẽ cung cấp cho nhà quản lý một bức tranh khách quan về quá trình thực hiện và kết quả thực hiện CSGNBV cho đồng bào DTTS trên địa bàn huyện Đông Giang, tỉnh Quảng Nam. Đồng thời, những đề xuất giải pháp nếu nhận được sự đồng thuận từ các chủ thể thực hiện, có thể sẽ đóng vai trò như những gợi ý có ý nghĩa trong quá trình nâng cao hiệu quả thực hiện CSGNBV cho đồng bào DTTS trên địa bàn.

7. Kết cấu của luận văn

Luận văn được kết cấu theo 3 chương truyền thống, gồm:

Chương 1. Những vấn đề về lý luận về thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững cho đồng bào dân tộc thiểu số

Chương 2. Thực trạng thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững cho đồng bào dân tộc thiểu số trên địa bàn huyện Đông Giang, tỉnh Quảng Nam

Chương 3. Quan điểm và giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững cho đồng bào dân tộc thiểu số trên địa bàn huyện Đông Giang, tỉnh Quảng Nam

CHƯƠNG 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH

GIẢM NGHÈO BỀN VỮNG CHO ĐỒNG BÀO DÂN TỘC THIỂU SỐ

1.1. Một số khái niệm cơ bản

1.1.1. Khái niệm nghèo, nghèo đa chiều, tiêu chí xác định chuẩn nghèo và giảm nghèo bền vững cho đồng bào dân tộc thiểu số

a. Khái niệm nghèo

Nghèo hiểu theo cách phổ thông là trạng thái đời sống vật chất của con người dưới định mức nhất định nào đó. Tuy nhiên, ở những góc độ tiếp cận khác nhau, nghèo được định nghĩa không giống nhau, cụ thể:

– Theo Tổ chức Liên hợp quốc (UN): “Nghèo là thiếu năng lực tối thiểu để tham gia hiệu quả vào các hoạt động xã hội. Nghèo có nghĩa là không có đủ ăn, đủ mặc, không được đi học, không được khám chữa bệnh, không có đất đai để trồng trọt hoặc không có nghề nghiệp để nuôi sống bản thân, không được tiếp cận tín dụng. Nghèo cũng có nghĩa là không an toàn, không có quyền, và bị loại trừ, dễ bị bạo hành, phải sống trong các điều kiện rủi ro, không tiếp cận được nước sạch và công trình vệ sinh[19];

Theo Ngân hàng thế giới, “Nghèo là tình trạng một bộ phận dân cư không có khả năng thoả mãn nhu cầu cơ bản, tối thiểu của cuộc sống và có mức sống thấp hơn mức sống trung bình của cộng đồng xét trên mọi phương diện[41];

Theo Hội nghị chống đói nghèo khu vực châu Á – Thái Bình Dương do ESCAP tổ chức tại Băng Cốc – Thái Lan tháng 9/1993, “Nghèo là tình trạng một bộ phận dân cư không được hưởng và thỏa mãn các nhu cầu cơ bản của con người mà những nhu cầu này đã được xã hội thừa nhận tùy theo trình độ phát triển kinh tế – xã hội và phong tục tập quán của địa phương” [14];

Ở phía cạnh chi tiết hơn, Tổ chức Y tế Thế giới định nghĩa nghèo theo thu nhập. Theo đó: “Một người là nghèo khi thu nhập hàng năm ít hơn một nửa mức thu nhập bình quân trên đầu người hàng năm (Per Capita Incomme, PCI) của quốc gia” [35].

Theo Từ điển tiếng việt do Giáo sư Hoàng Phê chủ biên định nghĩa nghèo là: “Ở tình trạng rất ít những gì thuộc về yêu cầu tối thiểu của đời sống vật chất; trái với giàu” [30];

– Trong môi trường xã hội, chính trị và pháp lý Việt Nam, tại Chương trình mục tiêu quốc gia về xóa đói giảm nghèo giai đoạn 1998 – 2000 của Việt Nam đã đưa ra các khái niệm nghèo cơ bản thống nhất với khái niệm nghèo đói của ESCAP khi cho rằng nghèo là tình trạng một bộ phận dân cư chỉ có điều kiện thoả mãn một phần những nhu cầu tối thiểu cơ bản của cuộc sống và có mức sống thấp hơn mức sống trung bình của cộng đồng xét trên mọi phương diện.

Từ những các tiếp cận trên, trong phạm vi luận văn, tác giả xây dựng khái niệm nghèo như sau: Nghèo là trạng thái đời sống vật chất của con người dưới ngưỡng tiêu chuẩn được xác định bởi nhà nước.

b. Khái niệm nghèo đa chiều

Ở Việt Nam, Chính phủ ban hành Chương trình mục tiêu quốc gia Giảm nghèo bền vững cho mỗi giai đoạn 5 năm trên cơ sở công bố chuẩn nghèo để đo lường sự thay đổi của tình trạng nghèo trong giai đoạn tương ứng. Từ 2015 trở về trước, Việt Nam vẫn sử dụng phương pháp đo lường nghèo đơn chiều theo chuẩn nghèo thu nhập. Nghĩa là trong việc xác định nghèo chỉ dựa vào duy nhất một tiêu chí thu nhập bình quân của một tháng. Tuy nhiên, cùng với sự thay đổi về tiêu chí xác định chuẩn nghèo của thế giới với tư duy không chỉ cần đến thu nhập, một người được đánh giá không nghèo còn phải dựa trên sự tiếp cận và thụ hưởng các dịch vụ xã hội cơ bản, năm 2014, Quốc hội đã quyết định việc giao Chính phủ xây dựng chuẩn nghèo mới theo phương pháp tiếp cận đa chiều nhằm bảo đảm mức sống tối thiểu và tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản để thực hiện từ năm 2016. Trên cơ sở đó, vào năm 2015, Chính phủ Việt Nam đã thông qua phương pháp tiếp cận đa chiều để đo lường nghèo đói. Theo đó nghèo đa chiều được đo lường bằng mức độ thiếu hụt tiếp cận 5 dịch vụ xã hội cơ bản, bao gồm: y tế; giáo dục; nhà ở; nước sạch và vệ sinh; tiếp cận thông tin. Năm chiều được đo bằng 10 chỉ số gồm: tiếp cận các dịch vụ y tế; bảo hiểm y tế; trình độ giáo dục của người lớn; tình trạng đi học của trẻ em; chất lượng nhà ở; diện tích nhà ở bình quân đầu người; nguồn nước sinh hoạt; hố xí/nhà tiêu hợp vệ sinh; sử dụng dịch vụ viễn thông; tài sản phục vụ tiếp cận thông tin. Hộ được coi là nghèo đa chiều nếu thiếu hụt từ 03 chỉ số đo lường mức độ thiếu hụt (trên tổng số 10 chỉ số nói trên) trở lên.

Như vậy, có thể thấy: nghèo đa chiều là sự thiếu hụt hoặc không được thỏa mãn các nhu cầu cơ bản của con người. Nghèo đa chiều là tình trạng con người không được đáp ứng ở mức tối thiểu các nhu cầu cơ bản trong cuộc sống.

c. Tiêu chí xác định chuẩn nghèo đa chiều ở Việt Nam

Qua phân tích khái niệm nghèo và nghèo đa chiều, có thể liên hệ rằng: Tiêu chí xác định chuẩn nghèo ở Việt Nam là những thang giá trị được nhà nước xây dựng và công bố nhằm làm cơ sở xác định nghèo qua từng thời kỳ khác nhau.

Như đã trình bày ở phần khái niệm về nghèo đa chiều, từ năm 2015 trở về trước, với quan điểm về nghèo đơn chiều, tiêu chí xác định chuẩn nghèo chỉ dựa trên thu nhập. Trong đó, giai đoạn từ năm 1997 trở về trước đơn vị tính là số kilogam gạo. Từ năm 1998 đến nay, tiêu chuẩn này được xác định bằng đơn vị tiền Việt Nam đồng.

Đối với giai đoạn 2016-2020 vì được đo lường theo chuẩn nghèo đa chiều, do đó ngoài tiêu chí thu nhập như được trình bày tại Bảng 1.2, còn có các tiêu chí về tiếp cận và thụ hưởng các dịch vụ xã hội cơ bản được thể hiện tại Bảng 1.1.

Bảng 1.1. Tiêu chí xác định chuẩn nghèo đa chiều theo thu nhập

giai đoạn 2016-2020

7. Giai đoạn 2016-2020

Vùng nông thôn (hộ nghèo) đồng/người/tháng 700.000

(hộ cận nghèo) đồng/người/tháng 700.000< > 1.000.000

Vùng thành thị (hộ nghèo) đồng/người/tháng 900.000

(hộ cận nghèo) đồng/người/tháng 900.000< > 1.300.000

Nguồn: Bộ Lao động, thương binh và xã hội năm 2015

Bảng 1.2. Các tiêu chí xác định chuẩn nghèo đa chiều về mức độ tiếp cận dịch vụ xã hội cơ bản

Chiều nghèoChỉ số đo lườngMức độ thiếu hụt
1) Giáo dục1.1 Trình độ giáo dục của người lớnHộ gia đình có ít nhất 1 thành viên đủ 15 tuổi sinh từ năm 1986 trở lại không tốt nghiệp trung học cơ sở và hiện không đi học.
1.2 Tình trạng đi học của trẻ em Hộ gia đình có ít nhất 1 trẻ em trong độ tuổi đi học (5 – 14 tuổi) hiện không đi học.
2) Y tế2.1 Tiếp cận các dịch vụ y tế Hộ gia đình có người bị ốm đau nhưng không đi khám chữa bệnh (ốm đau được xác định là bị bệnh) chấn thương nặng đến mức phải nằm một chỗ và phải có người chăm sóc tại giường hoặc nghỉ việc/học không tham gia được các hoạt động bình thường).
2.2 Bảo hiểm y tế Hộ gia đình có ít nhất 1 thành viên từ 6 tuổi trở lên hiện tại không có bảo hiểm y tế.
3) Nhà ở3.1. Chất lượng nhà ởHộ gia đình đang ở trong nhà thiếu kiên cố hoặc nhà đơn sơ.

(Nhà ở chia thành 4 cấp độ: nhà kiên cố, bán kiên cố, nhà thiếu kiên cố, nhà đơn sơ).

3.2 Diện tích nhà ở bình quân đầu ngườiDiện tích nhà ở bình quân đầu người của hộ gia đình nhỏ hơn 8m2
4) Điều kiện sống4.1 Nguồn nước sinh hoạt Hộ gia đình không được tiếp cận nguồn nước hợp vệ sinh.
4.2. Hố xí/nhà vệ sinhHộ gia đình không sử dụng hố xí/nhà tiêu hợp vệ sinh.
5) Tiếp cận thông tin5.1 Sử dụng dịch vụ viễn thôngHộ gia đình không có thành viên nào sử dụng thuê bao điện thoại và internet.
5.2 Tài sản phục vụ tiếp cận thông tinHộ gia đình không có tài sản nào trong số các tài sản: Tivi, đài, máy vi tính; và không nghe được hệ thống loa đài truyền thanh xã/thôn.

Nguồn: Bộ Lao động, thương binh và xã hội năm 2015

Như vậy, với các tiếp cận nghèo đa chiều như hiện nay, tiêu chí xác định chuẩn nghèo được quy định chi tiết như sau:

* Hộ nghèo

– Khu vực nông thôn: là hộ đáp ứng một trong hai tiêu chí sau:

+ Có thu nhập bình quân đầu người/tháng từ đủ 700.000 đồng trở xuống;

+ Có thu nhập bình quân đầu người/tháng trên 700.000 đồng đến 1.000.000 đồng và thiếu hụt từ 03 chỉ số đo lường mức độ thiếu hụt tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản trở lên.

– Khu vực thành thị: là hộ đáp ứng một trong hai tiêu chí sau:

+ Có thu nhập bình quân đầu người/tháng từ đủ 900.000 đồng trở xuống;

+ Có thu nhập bình quân đầu người/tháng trên 900.000 đồng đến 1.300.000 đồng và thiếu hụt từ 03 chỉ số đo lường mức độ thiếu hụt tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản trở lên.

* Hộ cận nghèo

– Khu vực nông thôn: là hộ có thu nhập bình quân đầu người/tháng trên 700.000 đồng đến 1.000.000 đồng và thiếu hụt dưới 03 chỉ số đo lường mức độ thiếu hụt tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản.

– Khu vực thành thị: là hộ có thu nhập bình quân đầu người/tháng trên 900.000 đồng đến 1.300.000 đồng và thiếu hụt dưới 03 chỉ số đo lường mức độ thiếu hụt tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản.

d. Khái niệm giảm nghèo bền vững cho đồng bào DTTS

Giảm nghèo bền vững nói chung là khái niệm dùng để chỉ tổng hợp các biện pháp giảm tình trạng nghèo bằng cách nâng cao thu nhập và mức độ tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản cho người dân và đảm bảo người dân không nghèo trở lại (tái nghèo).

Giảm nghèo bền vững cho đồng bào DTTS là một nội dung thuộc mục tiêu giảm nghèo bền vững nói chung. Tuy nhiên, vì đời sống đồng bào DTTS có những đặc trưng khác với những nhóm đối tượng còn lại, do đó giảm nghèo bền vững cho đồng bào DTTS cũng có những vấn đề riêng. Cụ thể:

– Đồng bào DTTS có xuất phát điểm về đời sống kinh tế thấp hơn so với các nhóm đối tượng khác, do đó số lượng người nghèo cao hơn và mức độ nghèo lớn hơn. Điều này khiến cho CSGNBV cho đồng bào DTTS có tính đặc thù hơn trong mục tiêu và phương pháp thực hiện.

– Đa số đồng bào DTTS cư trú ở địa hình miền núi, hiểm trở, vùng sâu, vùng xa… nên khó khăn trong tiếp cận để thực hiện CSGNBV. Đồng thời với điều kiện tự nhiên như vậy, việc áp dụng các biện pháp sản xuất, canh tác đại trà không phù hợp. Do đó, CSGNBV phải được đầu tư nhiều hơn cho kinh phí thiết lập cơ sở hạ tầng, di chuyển vật chất và có những phương án đặc thù về sản xuất, canh tác ứng với từng điều kiện tự nhiên cư trú.

– Đời sống chủ yếu của đồng bào DTTS cơ bản dựa trên nông nghiệp và tự nhiên. Trong khi đó, phương pháp khai thác, sản xuất, canh tác cơ bản theo truyền thống, đã lạc hậu nên không hiệu quả. Đồng thời, trình độ dân trí của một bộ phận không nhỏ đồng bào DTTS chưa cao, khiến cho việc phổ biến, tuyên truyền chính sách gặp nhiều khó khăn.

Trên cơ sở những phân tích kể trên, có thể định nghĩa: Giảm nghèo bền vững cho đồng bào DTTS là những phương pháp nâng cao đời sống vật chất và khả năng tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản cho người nghèo là đồng bào DTTS ở các tiêu chí: tăng thu nhập, giảm khả năng tiếp cận dịch vụ; giảm thiểu rủi ro và nguy cơ dễ bị tổn thương; tăng cường tiếng nói và đảm bảo không có tình trạng tái nghèo.

1.1.2. Khái niệm chính sách giảm nghèo bền vững cho đồng bào dân tộc thiểu số

CSGNBV cho đồng bào DTTS là một bộ phận của chính sách công. Do đó, trước hết cần định nghĩa về Chính sách công.

Chính sách công là khái niệm thuộc khoa học chính sách và khoa học chính trị. Ở mỗi cách thức tiếp cận lại có những định nghĩa khác nhau về vấn đề này. Tuy nhiên trong phạm vi nghiên cứu của luận văn Chính sách công là: sản phẩm của nhà nước, thể hiện ý chí chính trị của nhà nước trên cơ sở nhu cầu của hiện thực khách quan, được thể hiện bằng một tập hợp các quyết định có liên quan với nhau, bao hàm trong đó định hướng mục tiêu và cách thức giải quyết những vấn đề công trong xã hội.

Như vậy, xâu chuỗi khái niệm giảm nghèo bền vững cho đồng bào DTTS và khái niệm chính sách công, tác giả xây dựng khái niệm CSGNBV cho đồng bào DTTS như sau: CSGNBV cho đồng bào DTTS là một bộ phận của chính sách công, được nhà nước ban hành và thể hiện dưới dạng quy định, quyết định cụ thể hoá các quan điểm, chủ trương, định hướng của Đảng và Nhà nước về giảm nghèo bền vững nhằm mục tiêu nâng cao thu nhập và khả năng tiếp cận dịch vụ xã hội cơ bản cho người nghèo là đồng bào DTTS.

1.1.3. Khái niệm thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững cho đồng bào dân tộc thiểu số

Thực hiện chính sách là một cấu thành của chu trình chính sách. Thực hiện chính sách được hiểu thống nhất là đưa các chính sách vào đời sống thực tiễn nhằm cải biến thực tiễn theo mục tiêu đã định trước. Nói cách khác, thực hiện chính sách là toàn bộ quá trình chuyển hoá ý chí của chủ thể chính sách thành hiện thực. Tổ chức thực hiện chính sách có vị trí đặc biệt quan trọng, là bước thực hiện hoá chính sách vào đời sống xã hội. Như vậy: Thực hiện CSGNBV cho đồng bào DTTS là quá trình hoạt động có mục đích làm cho những quy định của chính sách và pháp luật về CSGNBV cho đồng bào DTTS đi vào cuộc sống, trở thành những hành vi thực tế, hợp pháp của các chủ thể nhằm phát huy tính tích cực, chủ động trong thực hiện CSGNBV cho đồng bào DTTS; từng bước nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho đồng bào DTTS, qua đó bảo đảm sự phát triển ổn định và bền vững.

1.2. Nội dung chính sách giảm nghèo bền vững cho đồng bào dân tộc thiểu số

1.2.1. Tăng thu nhập cho người nghèo là đồng bào dân tộc thiểu số

Tăng cường thu nhập là nội dung đầu tiên và quan trọng nhất của CSGNBV cho người thiểu số, vì trước khi chuẩn nghèo đa chiều được thiết lập, chuẩn nghèo đơn chiều ở Việt Nam dựa trên tiêu chí thu nhập để xác nhận. Việc nâng cao thu nhập cho người nghèo là đồng bào DTTS có vai trò quyết định đến các nội dung còn lại của CSGNBV, bởi xét đến cùng, khả năng tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản, giảm thiểu rủi ro và nguy cơ bị tổn thương hay tăng cường tiếng nói đều có nền tảng từ sự tăng thu nhập.

Căn cứ vào chuẩn nghèo đa chiều hiện nay, việc tăng thu nhập cho người nghèo là đồng bào DTTS được xác định:

– Đối với hộ nghèo:

+ Tăng mức thu nhập cho người nghèo là đồng bào DTTS ở khu vực nông thôn lên mức trên 700.000 đồng;

+ Tăng mức thu nhập cho người nghèo là đồng bào DTTS ở khu vực thành thị lên mức trên 900.000 đồng.

– Đối với hộ cận nghèo:

+ Tăng mức thu nhập cho người cận nghèo là đồng bào DTTS ở khu vực nông thôn lên mức trên 1.000.000 đồng;

+ Tăng mức thu nhập cho người cận nghèo là đồng bào DTTS ở khu vực thành thị lên mức trên 1.300.000 đồng.

Việc tăng thu nhập này phải được xuất phát từ hoạt động sản xuất, kinh doanh của người nghèo là đồng bào DTTS. Nghĩa là không tính đến các nguồn tiền có được từ sự hỗ trợ của cộng đồng hoặc các tổ chức phúc lợi. Nội dung này của chính sách đảm bảo cho sự giảm nghèo bền vững bền vững, tránh nguy cơ tái nghèo cho đồng bào DTTS.

1.2.2. Gia tăng khả năng tiếp cận dịch vụ xã hội cơ bản cho người nghèo là đồng bào dân tộc thiểu số

Đánh giá người nghèo không chỉ xem xét đến thu nhập, mà còn phải đo lường cả khả năng tiếp cận dịch vụ xã hội cơ bản của họ, nghĩa là bên cạnh phương diện nghèo kinh tế, còn có nghèo xã hội. Chính vì thế, CSGNBV cho đồng bào DTTS ngoài chú trọng gia tăng mức thu nhập còn xác định gia tăng khả năng tiếp cận dịch vụ xã hội cơ bản cho người nghèo là đồng bào DTTS là nội dung trọng tâm.

Gia tăng khả năng tiếp cận dịch vụ xã hội cơ bản trong CSGNBV cho đồng bào DTTS được xây dựng dựa trên 5 chiều với 10 chỉ số trong chuẩn nghèo đa chiều. Cụ thể:

– Chỉ số giáo dục:

+ Trình độ giáo dục của người lớn: Hộ gia đình có ít nhất 1 thành viên đủ 15 tuổi sinh từ năm 1986 trở lại tốt nghiệp trung học cơ sở hoặc hiện được đi học.

+ Trình độ giáo dục của trẻ em: Hộ gia đình có ít nhất 1 trẻ em trong độ tuổi đi học (5 – 14 tuổi) hiện được đi học. – Chỉ số y tế:

+ Tiếp cận các dịch vụ y tế: Hộ gia đình có người bị ốm đau được đi khám chữa bệnh (ốm đau được xác định là bị bệnh, chấn thương nặng đến mức phải nằm một chỗ và phải có người chăm sóc tại giường hoặc nghỉ việc/học không tham gia được các hoạt động bình thường).

+ Bảo hiểm y tế: Hộ gia đình có ít nhất 1 thành viên từ 6 tuổi trở lên hiện tại có bảo hiểm y tế.

– Chỉ số nhà ở:

+ Chất lượng nhà ở: Hộ gia đình được ở trong nhà kiên cố hoặc bán kiên cố.

+ Diện tích nhà ở bình quân đầu người: Diện tích nhà ở bình quân đầu người của hộ gia đình lớn hơn 8m2.

– Chỉ số điều kiện sống:

+ Nguồn nước sinh hoạt: Hộ gia đình được tiếp cận nguồn nước hợp vệ sinh.

+ Hố xí/nhà vệ sinh: Hộ gia đình được sử dụng hố xí/nhà tiêu hợp vệ sinh.

– Chỉ số tiếp cận thông tin:

+ Sử dụng dịch vụ viễn thông: Hộ gia đình không có ít nhất một thành viên sử dụng thuê bao điện thoại và internet.

+ Tài sản phục vụ tiếp cận thông tin: Hộ gia đình có tài sản trong số các tài sản: Tivi, đài, máy vi tính; và nghe được hệ thống loa đài truyền thanh xã/thôn.

1.2.3. Giảm thiểu rủi ro và nguy cơ bị tổn thương cho người nghèo là đồng bào dân tộc thiểu số

Giảm thiểu rủi ro và nguy vơ bị tổn thương cho người nghèo là đồng bào DTTS hướng tới việc thoát nghèo bền vững và hạn chế sự tác động của các biến động xã hội, giá cả… đến đời sống của người nghèo là người DTTS – nhóm yếu thế về vật chất. Nội dung này hướng tới việc gia tăng khả năng tiếp cận phổ quát với dịch vụ xã hội cơ bản, đặc biệt là y tế và giáo dục; bảo trợ xã hội, bao gồm lương và trợ cấp thất nghiệp cần mạnh mẽ hơn; giải quyết tình trạng dễ bị tổn thương theo vòng đời; yêu cầu cam kết toàn dụng lao động dựa trên nhận thức rằng việc làm đem lại rất nhiều giá trị chứ không chỉ đơn thuần là thu nhập; củng cố hệ thống bảo trợ xã hội, cần được xem là ưu tiên trong đầu tư công quốc gia, của từng địa phương; thúc đẩy trạng thái toàn dụng lao động bởi việc làm thúc đẩy ổn định xã hội và gắn kết xã hội; xây dựng các thể chế có chất lượng đáp ứng linh hoạt và các xã hội gắn kết để xây dựng khả năng đối phó, phục hồi ở cấp cộng đồng, đồng thời giảm thiểu khả năng xảy ra xung đột.

1.2.4. Tăng cường tiếng nói cho người nghèo là đồng bào dân tộc thiểu số

Tăng cường tiếng nói cho người nghèo là đồng bào DTTS hướng tới gia tăng chất lượng và trọng lượng về việc biểu đạt chính kiến của người nghèo là đồng bào DTTS. Sự phản ánh này vừa là quyền của người nghèo là người DTTS – đối tượng của chính sách, vừa là cơ sở để các chủ thể xem xét thích ứng, hiệu quả của chính sách nhằm có những điều chỉnh phù hợp. Nội dung này hướng tới:

+ Tăng khả năng nhận thức về vai trò tiếng nói của mình trong chu trình chính sách nói chung và thực hiện chính sách nói riêng. Từ đó khuyến khích người dân tự biểu đạt chính kiến;

+ Khuyến khích sự biểu đạt thông qua các tổ chức xã hội nhằm khuếch đại tiếng nói của những cá nhân đơn lẻ cùng lợi ích, sở thích, hoàn cảnh…;

+ Trang bị và hướng dẫn sử dụng các phương tiện truyền tin giúp hoạt động biểu đạt chuyên nghiệp và hiệu quả hơn;

+ Tăng cường khả năng giám sát việc ghi nhận và xử lý các ý kiến biểu đạt của người nghèo là đồng bào DTTS đến chính sách và thực hiện CSGNBV.

1.3. Chủ thể và các bên liên quan trong thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững cho đồng bào dân tộc thiểu số

Chủ thể thực hiện CSGNBV cho đồng bào DTTS gồm:

Thứ nhất, chủ thể thực hiện CSGNBV cho đồng bào DTTS trọng tâm là hệ thống các cơ quan quản lý nhà nước có chức năng thực hiện chính sách về CSGNBV cho đồng bào DTTS. Các cơ quan này từ trung ương đến địa phương được quy định tại Điều 3, Quyết định Số: 59/2015/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ban hành ngày 19 tháng 11 năm 2015 bao gồm:

a. Chính phủ và các bộ, ngành liên quan:

– Chính phủ: Chính phủ chịu trách nhiệm thống nhất chỉ đạo chung việc thực hiện CSGNBV cho đồng bào DTTS và chịu trách nhiệm vĩ mô trước Quốc hội và nhân dân về kết quả thực hiện đó.

– Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội:

+ Xây dựng kế hoạch, phương pháp, công cụ hướng dẫn các địa phương tổ chức điều tra, xác định các đối tượng thụ hưởng chính sách đầu kỳ, giữa kỳ và cuối kỳ (hai năm/lần);

+ Tổng hợp, báo cáo Quốc hội, Chính phủ tỷ lệ hộ nghèo, hộ cận nghèo tiếp cận đa chiều đầu kỳ, giữa kỳ và cuối kỳ của cả nước và các tỉnh, thành phố;

+ Xây dựng cơ sở dữ liệu quản lý đối tượng hộ nghèo, hộ cận nghèo của cả nước trong giai đoạn 2016-2020.

– Bộ Kế hoạch và Đầu tư:

+ Bổ sung hệ thống thu thập số liệu các chiều, chỉ số nghèo đa chiều trong khảo sát mức sống hộ gia đình nhằm phục vụ theo dõi và đánh giá tình trạng nghèo đa chiều của quốc gia và các địa phương;

+ Trên cơ sở kết quả điều tra mức sống hộ gia đình hằng năm, Bộ Kế hoạch và Đầu tư (Tổng cục Thống kê) công bố tỷ lệ nghèo chung (có cập nhật chỉ số giá tiêu dùng – CPI), tỷ lệ hộ thiếu hụt tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản, chỉ số nghèo đa chiều (MPI), làm cơ sở để định hướng các chính sách phát triển kinh tế vùng, lĩnh vực, CSGNBV và an sinh xã hội;

+ Nghiên cứu bổ sung các chỉ số đo lường nghèo đa chiều vào bộ chỉ tiêu khảo sát mức sống hộ gia đình để phản ánh tốt hơn các khía cạnh nghèo của người dân, nhất là những chỉ số phản ánh kết quả và tác động.

– Bộ Tài chính: Chủ trì phối hợp với Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội cân đối nguồn lực ngân sách để thực hiện các CSGNBV và an sinh xã hội khi chuyển đổi phương pháp tiếp cận đo lường nghèo sang đa chiều.

– Bộ Y tế:

+ Nghiên cứu, thực hiện giải pháp nâng cao khả năng tiếp cận của người dân về dịch vụ khám chữa bệnh, tăng độ bao phủ tham gia bảo hiểm y tế, nâng cao chất lượng dịch vụ khám chữa bệnh;

+ Phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư nghiên cứu bổ sung, cập nhật chỉ số đo lường tiếp cận dịch vụ về y tế.

– Bộ Giáo dục và Đào tạo:

+ Nghiên cứu, thực hiện giải pháp tăng tỷ lệ trẻ em đến trường đúng độ tuổi theo từng cấp học, giảm tỷ lệ bỏ học, lưu ban; tăng tỷ lệ biết chữ của người lớn;

+ Phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư nghiên cứu bổ sung, cập nhật chỉ số đo lường tiếp cận dịch vụ về giáo dục.

– Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn:

+ Nghiên cứu, thực hiện giải pháp tăng tỷ lệ người dân sử dụng nước sạch, hố xí hợp vệ sinh khu vực nông thôn;

+ Phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư nghiên cứu bổ sung, cập nhật chỉ số đo lường tiếp cận dịch vụ về vệ sinh, nước sạch nông thôn.

– Bộ Xây dựng:

+ Nghiên cứu, thực hiện giải pháp để hộ nghèo, hộ cận nghèo có nhà ở, tăng tỷ lệ người dân có nhà ở bảo đảm về diện tích và chất lượng;

+ Phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư nghiên cứu bổ sung, cập nhật chỉ số đo lường tiếp cận dịch vụ về nhà ở.

– Bộ Thông tin và Truyền thông:

+ Nghiên cứu, thực hiện giải pháp tăng cường khả năng tiếp cận thông tin của người dân;

+ Phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư nghiên cứu bổ sung, cập nhật chỉ số đo lường tiếp cận về thông tin.

– Ủy ban Dân tộc phối hợp với Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội và các Bộ liên quan xây dựng giải pháp giảm nghèo bền vững bền vững phù hợp với đồng bào DTTS.

– Các Bộ, ngành liên quan: trên cơ sở mức độ thiếu hụt tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản của cả nước và từng địa phương, đề xuất với Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ các giải pháp để tác động trong các chương trình, chính sách đặc thù và thường xuyên, nhằm nâng cao khả năng tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản của người dân, nhất là các vùng có tỷ lệ tiếp cận thấp.

b. UBND các cấp:

+ Tuyên truyền nâng cao nhận thức của các cấp, ngành và người dân về mục đích, ý nghĩa việc chuyển đổi phương pháp tiếp cận nghèo từ đơn chiều sang đa chiều;

+ Chỉ đạo điều tra xác định, phân loại đối tượng thụ hưởng CSGNBV hằng năm;

+ Chỉ đạo xây dựng cơ sở dữ liệu quản lý đối tượng hộ nghèo, hộ cận nghèo giai đoạn 2016-2020 trên địa bàn;

+ Nghiên cứu, thực hiện giải pháp nâng cao khả năng tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản của người dân trên địa bàn;

+ Căn cứ điều kiện và khả năng thực tế của địa phương, các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có thể bổ sung các chiều/chỉ số thiếu hụt, điều chỉnh ngưỡng đo lường các chỉ số thiếu hụt, áp dụng đầy đủ phương pháp tiếp cận đo lường nghèo đa chiều, nâng chuẩn nghèo thu nhập cao hơn chuẩn của quốc gia với điều kiện tự cân đối ngân sách địa phương theo quy định của pháp luật để hỗ trợ các chính sách cho đối tượng nghèo, cận nghèo trên địa bàn do điều chỉnh, nâng chuẩn.

Thứ hai, các tổ chức Chính trị – xã hội; các tổ chức xã hội và các tổ chức Phi chính phủ.

– Các tổ chức chính trị – xã hội gồm Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các thành viên, Hội nông dân Việt Nam; Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh; Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam; Hội cựu chiến binh Việt Nam đóng vai trò quan trọng trong quá trình thực hiện CSGNBV cho đồng bào DTTS.

– Các tổ chức xã hội bao gồm các tổ chức nghề nghiệp, các nghiệp đoàn và các tổ chức dân sự khác. Các tổ chức này tuy độc lập với nhà nước, song đóng vai trò khá quan trọng trong việc thực hiện CSGNBV cho đồng bào DTTS.

– Các Tổ chức phi chính phủ (NGOs) hoạt động liên quan đến lĩnh vực đồng bào DTTS và xoá đói, giảm nghèo bền vững như: Trung tâm Nghiên cứu và phát triển vùng cao – CERDA (thuộc VUSTA); Tổ chức quốc tế Oxfam, đóng góp trực tiếp cho việc xây dựng chương trình 135 của Ủy ban dân tộc và chính sách trợ cấp xã hội của Bộ Lao động, thương binh và xã hội; Tổ chức PATH (Program for Appropriate Technology in Health ) là tổ chức phi chính phủ quốc tế hoạt động trong lĩnh vực y tế) tham gia vào việc xây dựng Luật phòng chống HIV; Tổ chức CARE(Cooperative for American Remittances to Europe) là tổ chức nhân đạo và hỗ trợ phát triển quốc tế, tham gia xây dựng chiến lược phòng chống thiên tai và biến đổi khí hậu quốc gia…

1.4. Các bước thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững cho đồng bào dân tộc thiểu số

Các bước thực hiện CSGNBV cho đồng bào DTTS là tổng hợp các hoạt động và trình tự thực hiện các hoạt động đó nhằm đưa chính sách vào đời sống thực tiễn. Thực hiện CSGNBV cho đồng bào DTTS cũng có bảy bước tương tự như việc thực hiện chính sách công nói chung, gồm:

Bước 1. Xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện CSGNBV cho đồng bào DTTS.

Đây là bước đầu tiên trong thực hiện CSGNBV cho đồng bào DTTS. Cũng như mọi quy trình thực hiện khác, muốn đạt được các mục tiêu đề ra nhất thiết phải có một lộ trình phù hợp và chi tiết. Xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện CSGNBV cho đồng bào DTTS chính là một lộ trình như vậy.

Xây dựng kế triển khai thực hiện triển khai thực hiện CSGNBV cho đồng bào DTTS là thao tác xây dựng lộ trình thực hiện chính sách với các giai đoạn cụ thể khác nhau. Vì thế, kế hoạch triển khai thực hiện CSGNBV cho đồng bào DTTS hướng tới làm rõ chi tiết các yếu tố cần thiết để thực hiện CSGNBV cho đồng bào DTTS theo từng giai đoạn. Các yếu tố này bao gồm: nhân sự; phương tiện, công cụ; tài chính và mối liên hệ giữa các yếu tố trên để đạt được mục tiêu của từng giai đoạn.

Bước 2. Phổ biến, tuyên truyền CSGNBV cho đồng bào DTTS.

Muốn chính sách được thực hiện hiệu quả trên thực tế, cần phải phổ biến chính sách rộng rãi đến các chủ thể, các bên liên quan và xã hội. Mức độ phổ biến của chính sách sẽ đảm bảo cho sự thấu hiểu của xã hội đối với chính sách, là cơ sở của sự phối hợp giữa các chủ thể trong quá trình thực hiện chính sách và là nguồn cho việc phản hồi chính sách của các đối tượng và các bên liên quan.

Phổ biến, tuyên truyền chính sách vì thế hướng tới các đối tượng gồm:

– Phổ biến, tuyên truyền chính sách cho các chủ thể thực hiện CSGNBV cho đồng bào DTTS. Các chủ thể là người trực tiếp thực hiện chính sách do đó cần thấu suốt nội dung, mục tiêu, kế hoạch thực hiện chính sách. Đặc biệt các chủ thể càng ở cấp gần với đối tượng chính sách nhất càng cần phải được tuyên truyền, phổ biến để nẵm rõ về chính sách, về nghĩa vụ và nội dung thực hiện chính sách của mình.

– Phổ biến, tuyên truyền chính sách cho các đối tượng và các bên liên quan của CSGNBV cho đồng bào DTTS. Các đối tượng và các bên liên quan đến CSGNBV cho đồng bào DTTS cần phải nắm bắt được mục tiêu, nội dung và những vấn đề liên quan đến sự thay đổi hay tác động đến cuộc sống của mình và cộng đồng khi chính sách được thực thi. Từ những hiểu biết đó, các đối tượng và các bên liên quan sẽ có được những tâm thế chủ động khi chính sách được thực hiện.

– Phổ biến, tuyên truyền CSGNBV cho đồng bào DTTS đến cộng đồng nhằm giúp truyền bá những quan điểm, giá trị tư tưởng nhân bản của Đảng và Nhà nước về phát triển đời sống đồng bào DTTS, qua đó thu hút được sự quan tâm, ủng hộ và khai thác được các nguồn lực từ cộng đồng.

LIỆN HỆ:

SĐT+ZALO: 0935568275

E:\DỮ LIỆU COP CỦA CHỊ YẾN\LUAN VAN VIEN HAN LAM\VIEN HAM LAM DOT 10\CHINH SACH CONG\DINH VAN HUOM

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *