Thực hiện chính sách an sinh xã hội trên địa bàn thành phố Đà Nẵng

Thực hiện chính sách an sinh xã hội trên địa bàn thành phố Đà Nẵng

Thực hiện chính sách an sinh xã hội trên địa bàn thành phố Đà Nẵng

1. Tính cấp thiết của đề tài

Đảm bảo ASXH là một trong những hệ thống chương trình, chính sách quan trọng để thực hiện mục tiêu phát triển KT-XH của quốc gia.Hệ thống ASXH là một bộ phận quan trọng cấu thành của chính sách xã hội, đặc biệt nó nằm trong chiến lược phát triển KT-XH của đất nước trong từng thời kỳ cụ thể. Nhờ thực hiện tốt các chính sách ASXH, thời gian qua các lĩnh vực xã hội đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, nhất là trong công tác giảm nghèo, tạo việc làm, ưu đãi người có công, giáo dục và đào tạo, y tế, trợ giúp người có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn; đời sống vật chất và tinh thần của người nghèo, người có công được cải thiện, góp phần củng cố lòng tin của nhân dân và sự ổn định chính trị – xã hội.[14]

Đối với thành phố Đà Nẵng, Nghị quyết 33-NQ/TW của Bộ Chính trị (Khóa IX) về xây dựng và phát triển thành phố Đà Nẵng trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đã xác định: Xây dựng thành phố Đà Nẵng trở thành một trong những đô thị lớn của cả nước, là trung tâm KT-XH lớn của miền Trung. Trong thời gian qua, Thành phố Đà Nẵng đặt quyết tâm phát triển hệ thống an sinh xã hội hiệu quả, phù hợp với một thành phố đáng sống, tại một quốc gia có thu nhập trung bình và với các chuẩn mực quốc tế, đảm bảo ngày càng tốt hơn các quyền cơ bản, tối thiểu của con người có thể được tiếp cận, Nghị quyết số 15-NQ/TW ngày 1/6/2012 của Ban chấp hành Trung ương Đảng về “Một số vấn đề về chính sách xã hội giai đoạn 2012-2020” khẳng định: Đến năm 2020 cơ bản hình thành hệ thống an sinh xã hội bao phủ toàn dân với các yêu cầu: bảo đảm để người dân có việc làm, thu nhập tối thiểu; tham gia bảo hiểm xã hội, bảo đảm hỗ trợ những người có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn (trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, người cao tuổi thu thập thấp, người khuyết tật nặng, người nghèo…), người có công với cách mạng; bảo đảm cho người dân tiếp cận được các dịch vụ xã hội cơ bản ở mức tối thiểu (y tế, giáo dục, nhà ở, nước sạch, thông tin giải trí), góp phần từng bước nâng cao thu nhập, bảo đảm cuộc sống an toàn, bình đẳng và hạnh phúc của nhân dân trên bình diện chung của đất nước. Trên cơ sở mục tiêu chung của Đảng và chính sách pháp luật của Nhà nước, thành phố Đà Nẵng đã thực hiện chủ trương, chính sách gắn các chương trình phát triển kinh tế với giải quyết các vấn đề xã hội của thành phố.

Nghị quyết Đại hội lần thứ XXI của Đảng bộ thành phố Đà Nẵng đã khẳng định: Trong thời gian tới việc phát triển văn hóa, giáo dục và các vấn đề xã hội phải tương xứng với vị thế trung tâm kinh tế xã hội của khu vực Miền Trung; nâng cao chất lượng khám chữa bệnh cho người dân và tiếp tục đầu tư hạ tầng cho ngành y tế. Phấn đấu đến năm 2020, toàn dân tham gia BHYT trên địa bàn thành phố.Với việc phát động các chương trình, các phong trong nổi bật như: “Thành phố 3 có”,“Thành phố 5 không” gắn các chương trình, dự án này với hệ thống ASXH thành phố ở mọi cấp ngành. Trong giai đoạn 2014-2018, với những định hướng mục tiêu về chương trình ASXH, thành phố đã tập trung chăm lo đời sống cho các đối tượng chính sách, đối tượng xã hội, hộ nghèo. Mục tiêu “không có hộ đặc biệt nghèo” cơ bản được hoàn thành.Tính đến hết tháng 12/2017 thì trên địa bàn thành phố Đà Nẵng đã có 990.573 người tham gia BHYT và theo quy định mới về chuẩn nghèo 2015 hiện nay trên địa bàn thành phố còn khoảng 6.594 hộ nghèo cần được quan tâm. Bên cạnh đó, trên địa bàn thành phố có hơn 27.000 gia đình có công với Cách mạng luôn được thành phố và xã hội quan tâm. [33]

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, lĩnh vực ASXH của thành phố Đà Nẵng vẫn còn một số tồn tại, hạn chế cụ thể như: Quá trình phát triển kinh tế, đặc biệt là việc thu hút các dự án đầu tư lớn đã dẫn đến việc mở rộng và phát triển các khu công nghiệp, dịch vụ. Chính vì vậy, hoạt động này đãthu hút số lượng lớn người lao động từ các địa phương khác đến cư trú và làm việc, trong đó không ít những lao động tự do, không có nơi ở ổn định đã tạo ra một nhóm người lớn là đối tượng của chính sách ASXH trên địa bàn thành phố. Bên cạnh đó, quá trình đô thị hóa, xây dựng khu đô thị, khu công nghiệp, hu vui chơi giải trí… kèm với nó là quá trình thu hồi đất của người dân, dẫn đến một lượng người lớn trong thời gian ngắn chưa có nghề nghiệp nhưng lại có tài sản lớn, điều này cũng tạo ra những nhóm đối tượng của chính sách ASXH.Với vị thế là một trong những trung tâm giáo dục của cả nước, Đà Nẵng thu hút một lượng lớn học sinh, sinh viên và các nhà nghiên cứu tại các nơi về đây. Điều này sẽ làm cho hệ thống y tế và hệ thống giáo dục của thành phố phát triển và có thêm những gánh nặng nhất định.

Phát triển hệ thống ASXH hội cũng như thực hiện chính sách ASXH là chủ chương đúng đắn của Đảng và Nhà nước góp phần đảm bảo thu nhập cho người khó khăn và giúp tạo ra một xã hội công bằng hơn. Trên cơ sở tính cấp thiết của chính sách ASXH hội cũng như thực trạng những tồn tại hạn chế khi thực hiện chính sách này trên địa bàn thành phố Đà Nẵng, tác giả chọn đề tài “Thực hiện chính sách an sinh xã hội trên địa bàn thành phố Đà Nẵng” để làm luận văn cao học với mong muốn thông qua thực tiễn việc đánh giá những thành tựu, cũng như những tồn tại hạn chế trong quá trình tổ chức thực hiện, nhằm giúp cho cấp có thẩm quyền nhìn nhận bổ sung, hoàn thiện nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách ASXH tại thành phố Đà Nẵng.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

Trên cơ sở làm sáng tỏ những vấn đề lý luận chung về thực hiện chính sách ASXH; phân tích thực trạng thực hiện chính sách ASXH trên địa bàn thành phố Đà Nẵng, luận văn đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả việc thực hiện chính sách ASXH ở thành phố Đà Nẵng trong thời gian tới.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Thứ nhất, làm rõ cơ sở lý luận về thực hiện chính sách ASXH;

Thứ hai, đánh giá thực trạng thực hiện chính sách ASXH; nêu rõ những thành tựu và hạn chế, bất cập trong việc tổ chức thực hiện chính sách ASXH ở thành phố Đà Nẵng;

Thứ ba, đề xuất các giải pháp hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách ASXH ở thành phố Đà Nẵng trong thời gian tới.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của luận văn là công tác thực hiện chính sách ASXH ở thành phố Đà Nẵng.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

Về nội dung: Đề tài chỉ giới hạn phạm vinội dung thực hiện chính sách trong chu trình chính sách công và đánh giá việc thực hiện chính sách. Vấn đề ASXH có nội hàm rất rộng, bao trùm nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội, nên tác giả chỉ nghiên cứu về thực hiện chính sách ASXH ở các nộidung: chính sách ưu đãi đối với người có công với cách mạng, thương bệnh binh, gia đình liệt sỹ; chính sách BHXH, BHYT; chính sách trợ giúp xã hội.

Về không gian: Thành phố Đà Nẵng

Về thời gian: Nghiên cứu công tác thực hiện chính sách ASXH từ năm 2013 đến 6/2018.

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu

5.1. Phương pháp luận

Luận văn được tác giả nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta về chính trị, xã hội nói chung và vấn đề chính sách xã hội, chính sách ASXH và hệ thống ASXH nói riêng, về khoa học chính sách công, khoa học quản lý công đối với các dịch vụ công mà Nhà nước cung cấp. Qua đó giúp tác giả hình thành hệ thống lý luận và thực tiễn về thực hiện chính sách ASXH.

5.2. Phương pháp nghiên cứu

Thứ nhất, phương pháp thu thập dữ liệu: Đề tài thu thập các dữ liệu từ các báo cáo của Thành phố, của các tổ chức, các sách chuyên khảo, đề tài, luận án, luận văn, bài báo khoa học…

Thứ hai, phương pháp phân tích, tổng hợp tài liệu có sẵn liên quan đến đề tài như: Văn kiện, báo cáo tổng kết, các nghiên cứu đã có…

Thứ ba, phương pháp so sánh: Số liệu và chỉ tiêu sẽ được phân nhóm và so sánh nhằm chỉ ra những thành tựu đạt được và những hạn chế về kết quả thực hiện.

Thứ tư, phương pháp thống kê mô tả: phương pháp nghiên cứu này giúp cho tác giả luận văn tổng hợp và phân tích thống kê các tài liệu về thực trạng công tác thực hiện chính sách ASXH các địa phương và của thành phố Đà Nẵng. Trên cơ sở việc tổng hợp, phân tích và sử dụng các số liệu thống kê mô tả mà có nhận thức đầy đủ, chính xác công tác quản lý nhà nước về vấn đề ASXH và các nhân tố ảnh hưởng đến việc công tác thực hiện chính sách ASXH ở thành phố Đà Nẵng.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

6.1. Ý nghĩa lý luận

Góp phần làm sáng tỏ cơ sở khoa học chính sách công, quản lý công; vai trò của việc thực thi hệ thống chính sách ASXH trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta cũng như sự phát triển KT-XH của thành phố Đà Nẵng.

6.2. Ý nghĩa thực tiễn

Trên cơ sở đánh giá, phân tích thực trạng tình hình thực hiện chính sách ASXH trên địa bàn thành phố Đà Nẵng; nhằm tiếp tục duy trì, phát huy những ưu điểm trước đây, cách làm mới, hay mang lại hiệu quả thiết thực trong thực hiện chính sách ở hiện tại.Đồng thời, luận văn góp phần khắc phục những tồn tại, hạn chế và đề ra các nhóm giải pháp để tổ chức thực hiện tốt hơn chính sách ASXH trên địa bàn thành phố Đà Nẵng trong thời gian tới.

7. Kết cấu của luận văn

Nội dung luận văn, bên cạnh phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo và các phụ lục luận văn được xây dựngthành03 chương:

Chương 1.Cơ sở lý luận về thực hiện chính sách an sinh xãhội;

Chương 2. Thực trạng thực hiện chính sách ASXH trên địa bànthành phố Đà Nẵng;

Chương 3.Giải pháp thực hiện chính sách ASXH trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.

CHƯƠNG 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH

AN SINH XÃ HỘI

    1. 1.1. Khái quát chung về chính sách an sinh xã hội

1.1.1. Khái niệm chính sách an sinh xã hội

ASXH là khái niệm được ra đời từ cuối thế kỷ XIX ở các nước công nghiệp phát triển và hiện nay đã phát triển rộng khắp trên toàn cầu.

Tác giả Franklin D. Roosevelt (1953), thì Chính phủ cần thiết lập một hệ thống chuyển khoản để người lao động, người trẻ có thể trợ giúp người già, người về hưu và nhữngngười gặp phải các rủi ro khác như thất nghiệp, khuyết tật, nghèo, tử vong.

Ở Việt Nam, lĩnh vực ASXH được nhiều học giả, nhà nghiên cứu quan tâm, qua đó khái niệm về ASXH được các tác giả đưa ra gắn liền với thực hiện chính sách ASXH trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam.

Trong cuốn Tìm hiểu một số thuật ngữ trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng, an sinh xã hội được quan niệm: ASXH là một hệ thống chính sách của Nhà nước và là các giải pháp nhằm bảo vệ mức sống tối thiểu của người dân, người gặp khó khăn trước những rủi ro và tác động bất thường về kinh tế, xã hội và môi trường; vừa không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân [26, tr.15].

Trong “Chiến lược ASXH giai đoạn 2011 – 2020” ghi nhận: “ASXH là sự bảo đảm mà xã hội cung cấp cho mọi thành viên trong xã hội thông qua việc thực thi hệ thống các cơ chế, chính sách và biện pháp can thiệp trước các nguy cơ, rủi ro có thể dẫn đến suy giảm hoặc mất đi nguồn sinh kế”. [10]

Có nhiều cách tiếp cận để phân tích hệ thống cấu trúc của ASXH, tùy thuộc vào mục đích, phương pháp tiến cận nghiên cứu để đưa ra được những cấu trúc khác nhau:

Thứ nhất, những chính sách, chương trình phòng ngừa rủi ro xã hội cho các đối tượng đặc biệt của xã hội. Đây là nền tảng trên cùng của hệ thống ASXH, gồm những chính sách, chương trình về thị trường lao động tích cực như đào tạonghề, hỗ trợ tìm việc hoặc tự tạo việc làm và đào tạo nâng cao kỹ năng cho người lao động.

Thứ hai, những chính sách, chương trình ASXH giúp giảm thiểu rủi ro, gồm các chiến lược giảm thiểu thiêt hại do rủi ro của hệ thống ASXH, các hình thực biểu hiện của chính sách này là các loại hình bảo hiểm như BHXH, BHYT, bảo hiểm thất nghiệp… Các loại hình bảo hiểm này giúp các đối tượng có thể hưởng những chế độ cơ bản nhất của chính sách an sinh xã hội trong trường hợp gặp những rủi ro của cuộc sống.

Thứ ba, những chính sách, chương trình của hệ thống ASXH hiện nay cần khắc phục rủi ro, bao gồm các chính sách về cựu trợ, trợ giúp xã hội, ưu đãi xã hội là tầng cuối cùng của hệ thống ASXH của các quốc gia với chức năng bảo đảm an toàn cho các thành viên yếu thế của xã hội khi họ gặp phải rủi ro mà bản thân không tự khắc phục được như: thất nghiệp, người thiếu việc làm, người có thu nhập thấp, người già, người tàn tật, trẻ em mồ côi, người nghèo… [26] [8].

Các chính sách xã hội cơ bản gồm chính sách dân số, chính sách gia đình, chính sách sức khỏe, chính sách giáo dục, chính sách đối với các giai cấp, tầng lớp trong xã hội; chính sách đối với các giới, chính sách an sinh xã hội…

Tác giả Nguyễn Văn Chiều, trong cuốn “Chính sách ASXH và vai trò của Nhà nước trong việc thực hiện chính sách ASXH ở Việt Nam”, đã đưa ra quan niệm của mình về vấn đề này: Chính sách ASXH là những biện pháp bảo vệ của Nhà nước nhằm phòng ngừa, hạn chế và khắc phục những rủi ro cho các thành viên của mình khi họ bị mất hoặc giảm thu nhập do các nguyên nhân ốm dau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, thất nghiệp, già cả không còn sức lao động hoặc vì nguyên nhân khách quan khác thông qua các chính sách BHYT, BHXH, bảo hiểm thất nghiệp, ưu đãi xã hội và trợ giúp xã hội [9, tr.26].

Từ những quan niệm trên, trong phạm vi luận văn, chính sách ASXH có thể hiểu là hệ thống chủ trương, phương hướng và biện pháp đảm bảo thu nhập và một số điều kiện thiết yếu khác cho cá nhân, gia đình và cộng đồng trước những biến động về kinh tế, xã hội và tự nhiên làm cho họ bị giảm hoặc mất khả năng lao động hoặc mất việc làm, bị ốm đau, bệnh tật hoặc tử vong; cho những người già cô đơn, trẻ em mồ côi, người tàn tật, những người yếu thế, những nạn nhân chiến tranh, những người bị thiên tai địch họa.

1.1.2. Vai trò của chính sách an sinh xã hội

Hệ thống chính sách ASXH là một trong những cấu phần, thành phần quan trọng trong chương trình, chính sách xã hội, và là bộ phận của phát triển kinh tế – xã hội của một quốc gia, địa phương và là công cụ quản lý nhà nước thông qua hệ thống pháp luật, chính sách và chương trình ASXH.Chính sách ASXH có những vai trò cơ bản sau:

Thứ nhất, chính sáchASXH lấy con người làm trung tâm, coi quyền con người, bảo vệ con người trước các biến cố rủi ro xảy ra. Con người vừa là động lực của sự phát triển xã hội, vừa là mục tiêu của việc xây dựng xã hội [19, tr.132].

Thực hiện chính sách an sinh xã hội trên địa bàn thành phố Đà Nẵng
Thực hiện chính sách an sinh xã hội trên địa bàn thành phố Đà Nẵng

Thứ hai, ASXH vừa tạo điều kiện cơ bản và thuận lợi giúp cho các đối tượng đặc biệt có cơ hội để phát huy hết thế mạnh của cá nhân đồng thời thể hiện thái độ, trách nhiệm của nhà nước trong việc tạo ra cơ hội giúp họ hoà nhập vào cộng đồng. Điều này được thể hiện rất rõ trong việc các cơ quan quản lý nhà nước, tổ chức xã hội đã hỗ trợ các đối tượng đặc biệt các kỹ năng sống, các kiến thức nghề nghiệp, tuyên truyền phổ biến thông qua các lớp ngoại khóa… giúp các đối tượng đặc biết hiểu rõ bản thân, không còn thiếu tự tin, dễ dàng hòa nhập vào với cuộc sống thông qua sự giúp đỡ của cộng đồng.

Thứ ba, ASXH góp phần ổn định phát triển và tiến bộ xã hội. Mục tiêu cơ bản của ASXH là tạo một môi trường công bằng cho các tầng lớp dân cư, cho người nghèo, cho người lao động, cho các đối tượng gặp biến cố rủi ro tham gia. ASXH phải thực sự là công cụ phát triển tiến bộ xã hội. Ngoài việc giảm bớt, hạn chế những khó khăn cho đối tượng nghèo đói, ASXH còn phải đa dạng hoá các hình thức hoạt động khác nhau đối với các đối tượng khác nhau để góp phần thúc đẩy xã hội phát triển.

Thứ tư, ASXH thể hiện truyền thống tương thân tương ái, đoàn kết giúp đỡ nhau của cộng đồng. Trên cơ sở sự liên kết, hợp tác của cộng đồng những rủi ro hoạn nạn được chia sẻ, đây là yếu tố phát huy sức mạnh của cộng đồng, phát huy giá trị truyền thống của dân tộc ta.Điều này thể hiện tinh thần “lá lành đùm lá rách”, các cơ quan, tổ chức của nhà nước chủ trì các hoạt động hỗ trợ các đối tượng đặc biệt và thông qua các tổ chức này các tổ chức, cá nhân thiện nguyện có kênh để hỗ trợ, giúp đỡ các hoàn cảnh khó khăn. Bên cạnh đó, việc hỗ trợ của cộng đồng còn thể hiện trong việc bao bọc, giúp đỡ trong cuộc sống hàng ngày… Hơn nữa, các hoạt động ASXH còn được xã hội hóa thông qua sự giúp đỡ của các tổ chức phi chính phủ, các nhóm thiện nguyện…

Thứ năm, ASXH góp phần phân phối lại thu nhập giữa các tầng lớp dân cư, giữa những người lao động làm công ăn lương, giữa những người có công với nước, giữa những người gặp khó khăn, biến cố rủi ro, giữa những người nghèo, người già cô đơn không nơi nương tựa… Bằng luật pháp và các chính sách cụ thể khác, nhà nước có thể tạo ra cơ chế, hành lang pháp luật để thực hiện các sự chăm lo, hỗ trợ các đối tượng đặc biệt trong xã hội, như trẻ em, người già yếu, người có công, đồng bào dân tộc thiểu số, bà con vùng sâu vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn… Chẳng hạn, chính sách về y tế, giáo dục, bảo hiểm xã hội… Chính sách ASXH giúp Nhà nước thực hiện chức năng công bằng xã hội, giúp xóa đói giảm nghèo thông qua các chương trình trợ giúp đối với những hoàn cảnh đặc biệt khó khăn. Hơn nữa, việc phân phối thu nhập này sẽ giúp một số đối tượng có khả năng phát huy năng lực bản thân và tiếp tục hòa nhập cộng đồng và đóng góp công sức của mình cho xã hội.

1.1.3. Nội dung chính sách an sinh xã hội

Đối với nước ta, hệ thống ASXH được xác định gồm 04 trụ cột cơ bản và là cơ sở quan trọng của chính sách ASXH:

Thứ nhất, chính sách đảm bảo việc làm, tạo thu nhập và giảm nghèo.

Người yếu thế thông thường không có nhiều cơ hội tiếp cận được việc làm tốt, với thu nhập ổn định và điều kiện làm việc tốt. Những nguyên nhân cơ bản là trình độ học vấn thấp, sức khỏe kém, ít thông tin về thị trường lao động, hạn chế về năng lực mặc cả, đàm phán… Trong điều kiện hiện nay, của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế, biến động cung – cầu lao động trên thị trường lao động xảy ra thường xuyên, tình trạng thất nghiệp và thiếu việc làm của lao động ngày càng tăng.

Do vậy, tạo nhiều cơ hội việc làm, thu nhập cao và ổn định thông qua đào tạo nghề, vốn vay tạo việc làm, tiếp cận thông tin thị trường lao động để tìm được việc làm và nâng cao thu nhập là giải pháp xoá đói giảm nghèo, bảo đảm việc làm, hiệu quả và bền vững.

Chính sách hỗ trợ việc làm bao gồm hệ thống luật pháp, các quy định, chương trình, đề án và các giải pháp phát triển thị trường lao động do nhà nước hoặc các tổ chức thực hiện nhằm chủ động hỗ trợ người lao động nâng cao cơ hội tìm việc làm, tham gia thị trường lao động để có thu nhập, từng bước bảo đảm thu nhập tối thiểu cho người dân, đặc biệt là người nghèo, thanh niên, lao động nông thôn và các nhóm lao động dễ bị tổn thương khác, cải thiện cuộc sống cho người dân, góp phần chuyển đổi cơ cấu việc làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp, xóa đói, giảm nghèo và ổn định xã hội

Chính sách giảm nghèo có tính liên ngành, do vậy đa phần các chính sách đề cập trong 4 trụ cột cơ bản của an sinh xã hội ở các phần trên. Phần này có tính chất khái quát để cung cấp thông tin về toàn bộ các chính sách đối với người nghèo.

Ngày 19/5/2011, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 80/NQ-CP về Định hướng giảm nghèo bền vững thời kỳ 2011-2020 và ngày 8/10/2012 đã phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia Giảm nghèo bền vững giai đoạn 2012-2015 với mục tiêu tạo sự chuyển biến mạnh mẽ, toàn diện ở các vùng nghèo, thu hẹp khoảng cách chênh lệch giữa thành thị và nông thôn, giữa các vùng, các dân tộc và các nhóm dân cư. Giảm nghèo được thực hiện đồng thời trên các cấp độ: Người nghèo, hộ nghèo, xã nghèo và huyện nghèo.

Chính sách giảm nghèo bao gồm các chính sách: Chính sách hỗ trợ hộ nghèo, người nghèo, hộ cận nghèo; Chính sách hỗ trợ xã nghèo, huyện nghèo;

Thứ hai, chính sách BHXH, BHYT.

Bảo hiểm xã hội giữ vai trò trụ cột trong hệ thống an sinh xã hội và tạo nền tảng bền vững cho sự phát triển kinh tế-xã hội của đất nước. Tham gia vào hệ thống bảo hiểm xã hội, đặc biệt bảo hiểm hưu trí, bảo hiểm thất nghiệp, người dân phát huy tính chủ động, khả năng tự an sinh khi xảy ra các tác động bất lợi về kinh tế, xã hội, môi trường, sức khỏe và tuổi già.

Hệ thống chính sách bảo hiểm xã hội hiện hành gồm 3 nhóm chính sách cơ bản: bảo hiểm xã hội bắt buộc, bảo hiể m xã hội tự nguyện và bảo hiểm thất nghiệp. Đây là bộ phận lớn nhất trong hệ thống ASXH.Theo nghĩa hẹp, cụ thể, có thể hiểu BHXH là “sự bảo đảm thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập cho người lao động khi họ gặp rủi ro hoặc sự kiện bảo hiểm làm giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm trên cơ sở hình thành và sử dụng một quỹ tiền tệ tập trung nhằm đảm bảo đời sống cho người lao động và gia đình họ góp phần đảm bảo ASXH” [18, tr.41].

BHXH có những điểm cơ bản là: BHXH dựa trên nguyên tắc cùng chia sẻ rủi ro giữa những người tham gia; đòi hỏi tất cả mọi người tham gia phải đóng góp tạo nên một quỹ chung; các thành viên được hưởng chế độ khi họ gặp các “sự cố” và đủ điều kiện để hưởng; chi phí cho các chế độ được chi trả bởi quỹ BHXH; nguồn quỹ được hình thành từ sự đóng góp của những người tham gia, thường là sự chia sẻ giữa chủ sử dụng lao động và người lao động, với một phần tham gia của Nhà nước; đòi hỏi tham gia bắt buộc, trừ những trường hợp ngoại lệ; phần tạm thời chưa sử dụng của Quỹ được đầu tư tăng trưởng, nâng cao mức hưởng cho người thụ hưởng chế độ BHXH; các chế độ được bảo đảm trên cơ sở các đóng góp BHXH, không liên quan đến tài sản của người hưởng BHXH; các mức đóng góp và mức hưởng tỷ lệ với thu nhập trước khi hưởng BHXH…

Thứ ba, chính sách trợ giúp xã hội.

Trợ giúp xã hội được gồm hai nhóm là trợ giúp xã hội thường xuyên và trợ giúp xã hội đột xuất cho người dân khắc phục các rủi ro khó lường, vượt qua khả năng kiểm soát như mất mùa, đói nghèo.

Trợ giúp xã hội thường xuyên: Thực hiện chăm sóc những người không tự lo được cuộc sống tại các cơ sở trợ giúp xã hội hoặc tại cộng đồng; Thực hiện hỗ trợ tiền mặt cho đối tượngcó hoàn cảnh đặc biệt khó khăn.

Trợ giúp xã hội đột xuất là hình thức hỗ trợ của Nhà nước, cộng đồng và nhân dân giúp đỡ những người không may bị thiên tai, mất mùa hoặc những biến cố khác về kinh tế nhằm hỗ trợ kịp thời, giúp khắc phục và vượt qua khó khăn sớm ổn định sản xuất và đời sống, đảm bảo thu nhập, không bị rơi xuống nghèo khổ.

Thứ tư, chính sách dịch vụ xã hội cơ bản.

Bảo đảm mức tối thiểu các dịch vụ xã hội cơ bản cho toàn dân là một trong những mục tiêu quan trọng trong hệ thống an sinh xã hội của Việt Nam. Các dịch vụ xã hội, dịch vụ công cơ bản bao gồm: giáo dục, y tế, nhà ở, nước sạch và thông tin được quan tâm đúng mực.

Chính phủ là chủ thể đóng vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ người dân, người nghèo, người có công, trẻ em có hoàn cảnh khó khăn, người già neo đơn.. có trình độ giáo dục tối thiểu, tăng cường chất lượng nguồn nhân lực, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, xây dựng xã hội học tập, tạo cơ hội và điều kiện cho mọi công dân được học tập suốt đời, đặc biệt trong Cách mạng công nghiệp 4.0 như hiện nay.

Ốm đau, bệnh tật là một trong những rủi ro thường gặp nhất của con người, đặc biệt là những người thuộc nhóm yếu thế, nhóm dễ bị tổn thương (người nghèo, người dân sống ở vùng đặc biệt khó khăn, người cao tuổi, trẻ em, phụ nữ).Mặt khác, việc khó tiếp cận các dịch vụ y tế cơ bản, y tế công làm tăng gánh nặng y tế của người yếu thế. Do vậy, chămsóc sức khoẻ ban đầu cho người dân thông qua phát triển hệ thống bảo hiểm y tế toàn dân có vai trò rất quan trọng.

Đa số người nghèo, người có thu nhập thấp không có khả năng để có nhà ở ổn định mà phải cần sự hỗ trợ của Nhà nước về đất ở, tài chính. Đảm bảo quyền có nhà ở cho các đối tượng này góp phần ổn định cuộc sống, phát triển đô thị, nông thôn theo hướng văn minh, hiện đại. Thực hiện các biện pháp nhằm cải thiện điều kiện về vật chất và tinh thần ở cho người dân, đặc biệt là người nghèo, người có thu nhập thấp hiện nay ở cả đô thị và nông thôn; từng bước giải quyết nhu cầu về nhà ở cho người lao động tại các khu công nghiệp, học sinh, sinh viên các trường đại học, cao đẳng, trung cấp, trung học và dạy nghề để ổn định cuộc sống, tăng cường sức khỏe, góp phần giảm nghèo bền vững, phát triển hệ thống giáo dục toàn diện.

Nước sạch là yếu tố quan trọng, ảnh hưởng đến sức khoẻ và môi trường sống của mỗi người dân.Việc đảm bảo nước sạch sẽ giảm được gánh nặng của các bệnh truyền nhiễm, tăng cường sức khoẻ và nâng cao chất lượng sống của người dân. Tiếp tục thực hiện các biện pháp nhằm giúp cải thiện cơ bản tình hình sử dụng nước sạch sinh hoạt của dân cư, đặc biệt là dân cư tại các khu vực nông thôn, vùng dân tộc thiểu số, vùng khó khăn, vùng núi cao và hải đảo. Giảm thiểu tác động xấu do điều kiện nước kém vệ sinh gây ra đối với sức khoẻ của người dân.

Đa số người nghèo, vùng nghèo hạn chế trong tiếp cận thông tin, truyền thông; Nhà nước đóng vai trò quan trọng trong việc đảm bảo quyền được thông tin của người dân tăng cường nhận thức, cải thiện đời sống vật chất và tinh thần.Đảm bảo cho người dân ở mọi vùng miền được thông tin kịp thời về các chính sách của Đảng và Nhà nước, phát triển kinh tế, chính trị, văn hoá-xã hội, khoa học kỹ thuật nhằm rút ngắn khoảng cách về thông tin giữa các vùng, miền; nâng cao đời sống văn hóa tinh thần của người dân ở nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa, biên giới và hải đảo.

Đối tượng hưởng chính sách ưu đãi xã hội được phân tách theo các tiêu chí sau: Phân theo đối tượng trực tiếp hay gián tiếp: chính sách ưu đãi xã hội hướng tới cả đối tượng trực tiếp tham gia cách mạng, đồng thời với đối tượng là thân nhân của những người có công với cách mạng.

Việc xem xét theo nhóm đối tượng với những tiêu chí khác nhau là cơ sở để xác định cách tiếp cận xây dựng, thực hiện chính sách ưu đãi xã hội một cách phù hợp đạo lý và nguyên tắc công bằng xã hội.

1.1.4. Nguyên tắc đảm bảo an sinh xã hội

Vận dụng kinh nghiệm của các nước và điều kiện cụ thể của Việt Nam, việc xây dựng và phát triển hệ thống ASXH của Việt Nam dựa trên các nguyên tắc cơ bản sau đây:

Thứ nhất, nguyên tắc toàn diện

Chính sách ASXH phải đảm bảo tính xã hội, nó không loại trừ bất kỳ một đối tượng xã hội nào năm trong diện cần được giúp đỡ.Việc xây dựng và thực hiện chính sách cần có sự tham gia của mọi tầng lớp nhân dân.

Thứ hai, nguyên tắc đối xử công bằng

Hoạt động đảm bảo các chế độ cần dựa trên hệ thống các quy tắc, tiêu chuẩn, được định tính, định lượng rõ ràng, minh bạch và về nguyên tắc các đối tượng thuộc cùng hệ phải được đối xử ngang nhau.

Thứ ba, nguyên tắc cộng đồng

Việc xây dựng và vận hành hệ thống chính sách ASXH phải trên tinh thần đề cao tính cộng đồng về trách nhiệm.Tính cộng đồng này biểu hiện cả sự đóng góp và hưởng thụ.Chính sách xã hội không phải việc riêng của Nhà nước mà nó cần có sự hỗ trợ của cộng đồng.

Thứ tư, nguyên tắc phân luồng

Việc quy định và thực hiện các chính sách ASXH phải được đặt vào từng kênh cụ thể trên cơ sở phân loại. Sự phân biệt rõ rệt các đối tượng là vấn đề có tính nguyên tắc, bởi lẽ những đặc điểm căn bản của các đối tượng xã hội sẽ quyết định chính sách sẽ áp dụng.

Thứ năm, nguyên tắc định mức đảm bảo

Việc xây dựng và thực hiện các chính sách ASXH phải trên cơ sở các định mức xác định.Các định mức phải đảm bảo được thiết lập thống nhất, dựa trên đặc điểm của từng đối tượng (sự cống hiến, nhu cầu…) và khả năng đảm bảo. Định mức đảm bảo vừa mang tính nhân văn vừa mạng tính hiện thực – tức là nó tạo lên ấn tượng và tác dụng xã hội – con người đối với các đối tượng chính sách. Mặt khác, phải đảm bảo có tính thiết thực đối với đời sống của họ.

Thứ sáu, nguyên tắc nhà nước thống nhất quản lý

Nhà nước có đầy đủ các điều kiện và tốt nhất để thực hiện các chính sách ASXH.Nhà nước là đại diện lớn nhất của xã hội, có sức mạnh toàn diện để thực hiện các mục tiêu của chính sách ASXH.

Thứ bảy, nguyên tắc pháp chế

ASXH là hình thức tổ chức mang tính cộng đồng xã hội, xuất phát từ những nhu cầu thiết yếu của các thành viên trong xã hội nhưng do Nhà nước đứng ra tổ chức nhằm thực hiện chức năng xã hội của Nhà nước. Chính vì vậy, Nhà nước sẽ không buông lỏng quản lý đối với lĩnh vực ASXH.Trong các biện pháp và công cụ quản lý của Nhà nước thì một trong những công cụ hữu hiệu và nghiêm minh nhất là pháp luật.

Như vậy, ASXH không nhằm mục đích lợi nhuận mà chủ yếu thực hiện mục đích xã hội vì cộng đồng, mức ASXH nhằm trợ giúp bảo đảm nhu cầu tối thiểu cho những người thụ hưởng.

    1. 1.2. Khái quát chung về thực hiện chính sách an sinh xã hội

1.2.1. Khái niệm thực hiện chính sách an sinh xã hội

Để hiểu rõ về việc thực hiện chính sách ASXH, đề tài luận văn phân tích và làm rõ hơn về chu trình chính sách:

Chu trình chính sách được hiểu là quá trình luân chuyển các giai đoạn từ khởi sự chính sách đến khi xác định được hiệu quả của chính sách trong đời sống xã hội, gồm 03 giai đoạn: Hoạch định chính sách,thực thi chính sách và đánh giá chính sách. Thực hiện chính sách là giai đoạn thực hiện các mục tiêu của chính sách công trên thực tế tại từng địa bàn cụ thể.

Thực hiện chính sách ASXH là toàn bộ quá trình hoạt động của các chủ thể (Chủ thể thực hiện và chủ thể thụ hưởng chính sách ASXH) theo các cách thức, phương pháp khác nhau nhằm hiện thực hóa nội dung chính sách công một các hiệu quả vào thực tiễn tại những địa phương cụ thể.

1.2.2. Chủ thể thực hiện chính sách an sinh xã hội

Nhà nước là chủ thể ban hành cũng là chủ thể đóng vai trò chủ đạo trong việc tổ chức thực thi chính sách ASXH nó thể hiện trong việc Quốc hội xây dựng, ban hành pháp luật, Chính phủ ban hành các văn bản hướng dẫn triển khai các quy định về thực hiện chính sách ASXH, các Bộ (chính sách quốc gia), chính quyền địa phương các cấp (chính sách địa phương). Hệ thống tổ chức bộ máy hoạt động quản lý Nhà nước về chính sách ASXH và thực hiện chính sách ASXH được tổ chức triển khai trên phạm vi cả nước từ Trung ương đến địa phương tương ứng với hệ thống các cấp hành chính bao gồm 4 cấp: Trung ương, tỉnh (thành phố trực thuộc trung ương), huyện (quận, thị xã), xã (phường, thị trấn) do Chính phủ và UBND các cấp quản lý, chỉ đạo, điều hành; đồng thời do Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội, và ngành Lao động – Thương binh và Xã hội các tỉnh (thành phố) đến cơ sở chủ trì thực hiện, cụ thể:

Ở Trung ương: Cấp quản lý, chỉ đạo, điều hành là Chính phủ; cơ quan chuyên môn là Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội, bao gồm 24 đơn vị trực thuộc: Các Vụ, các Cục, Tổng cục, Trung tâm, các Viện, Tạp chí và các Trường đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức ngành Lao động – Thương binh và Xã hội.

Cấp tỉnh (thành phố trực thuộc Trung ương): UBND tỉnh (thành phố) là chủ thể quản lý, chỉ đạo, điều hành chính sách; chủ thể thực hiện chuyên môn là SởLao động – Thương binh và Xã hội, bao gồm các đơn vị trực thuộc: các Phòng, ban; các Trung tâm đào tạo nghề, giới thiệu việc làm, Bảo trợ xã hội, điều dưỡng; các chi cục trực thuộc…

Cấp huyện (quận, thị xã): Chủ thể lãnh đạo, quản lý, điều hành việc thực hiện chính sách ASXH là UBND cấp huyện; Phòng Lao động – Thương binh và Xã hội là cơ quan chuyên môn tham mưu cho UBND cấp huyện và chịu trách nhiệm chính trong thực hiện chính sách ASXH trên địa bàn quản lý.

Thực hiện chính sách an sinh xã hội trên địa bàn thành phố Đà Nẵng
Thực hiện chính sách an sinh xã hội trên địa bàn thành phố Đà Nẵng

Cấp xã (phường, thị trấn): UBND cấp xã lãnh đạo, quản lý, điều hành việc thực hiện chính sách ASXH và cán bộ Lao động – Thương binh và Xã hội của phường trực tiếp thực hiện.

Hệ thống tổ chức bộ máy thực hiện chính sách ASXH hoạt động thống nhất từ trung ương đến cơ sở, đảm bảo tính chặt chẽ, thường xuyên, liên tục.Ngoài ra các tổ chức như Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị – xã hội, các tổ chức xã hội (tình nguyện, thiện nguyện…) và cộng đồng dân cư cũng đóng vai trò quan trọng trong trong việc góp phần thực hiện chính sách ASXH.

LIỆN HỆ:

SĐT+ZALO: 0935568275

E:\DỮ LIỆU COP CỦA CHỊ YẾN\LUAN VAN VIEN HAN LAM\VIEN HAN LAM DOT 9\CHINH SACH CONG\HA THI LE THUY\SAU BAO VE

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *