Thực hiện chính sách phổ biến giáo dục pháp luật cho thanh niên

Thực hiện chính sách phổ biến giáo dục pháp luật cho thanh niên

Thực hiện chính sách phổ biến, giáo dục pháp luật cho thanh niên trên địa bàn thành phố Tam Kỳ, tinh Quảng Nam

1. Tính cấp thiết của đề tài

Thanh niên là lượng xung kích trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Phổ biến, giáo dục pháp luật, cho thanh niên là nhiệm vụ không thể thiếu trong việc bồi dưỡng, phát triển thanh niên Việt Nam.Thời gian qua, công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật cho thanh niên luôn được Đảng, Chính phủ quan tâm, ban hành nhiều văn bản, đề án, chương trình về phổ biến, giáo dục pháp luật, trong đó thanh niên luôn được xác định là đối tượng chính. Như, Quyết định số 03/1998/QĐ-TTg ngày 07/01/1998 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Kế hoạch triển khai công tác phổ biến, giáo dục pháp luật từ năm 1998 đến năm 2002; Quyết định số 13/2003/QĐ-TTg ngày 17/01/2003 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình phổ biến, giáo dục pháp luật từ năm 2003 đến năm 2007; Quyết định số 37/2008/QĐ-TTg ngày 12/3/2008 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình phổ biến, giáo dục pháp luật từ năm 2008 đến năm 2012 xác định mục tiêu đến hết năm 2012 có 95% thanh thiếu niên được tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật… đặc biệt là Quyết định số 2106/QĐ-TTg ngày 26/11/2010 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án tăng cường công tác phổ biến, giáo dục pháp luật nhằm nâng cao ý thức pháp luật cho thanh thiếu niên giai đoạn 2011 – 2015. Công tác phổ biến, giáo dục pháp luật cho thanh niên được triển khai thực hiện dưới nhiều hình thức đa dạng, thiết thực. Mỗi năm có gần 10 triệu lượt thanh niên được giáo dục pháp luật thông qua 20.000 buổi tuyên truyền, học tập, sinh hoạt và các hoạt động khác. Đến nay, có khoảng 11.000 Câu lạc bộ được thành lập với hàng triệu thanh niên tham gia; việc tuyên truyền, phổ biến pháp luật trong câu lạc bộ thường được thực hiện thông qua buổi họp, sinh hoạt câu lạc bộ hoặc tổ chức giao lưu, sinh hoạt văn hóa hay nêu gương người tốt, việc tốt trong phòng chống tội phạm, tệ nạn xã hội, chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật, phân tích những hành vi cực đoan, vi phạm pháp luật ảnh hưởng xấu đến bản thân, gia đình và cộng đồng…

Mặc dù các cơ quan, tổ chức, các cấp úy Đảng, chính quyền tỉnh Quảng Nam đã có nhiều nỗ lực, đã ban hàn nhiều chính sách phổ biến, giáo dục pháp luật cho thanh niên, nhưng hiệu quả của công tác này còn chưa cao, hơn nữa kết quả khó có thể định lượng bởi có nhiều trường hợp hiểu luật, biết luật mà vẫn cố tình vi phạm. Tình trạng thanh niên vi phạm pháp luật vẫn tiếp tục xảy ra, tập trung vào một số lĩnh vực về an toàn giao thông, trộm cắp, ma túy, hôn nhân – gia đình, xâm phạm sở hữu, sức khỏe, tính mạng… Đặc biệt, một bộ phận thanh niên đã tham gia vào các băng nhóm tội phạm có tổ chức, phạm tội có sử dụng vũ khí với tính chất côn đồ, phạm các tội rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng (ví dụ như: giết người, cướp tài sản, chống người thi hành công vụ, trộm cắp tài sản có giá trị lớn…).

Từ những hạn chế của công tác phổ biến, giáo dục pháp luật cho thanh niên trong thời gian qua, nhằm phân tích, đánh giá, đề xuất những chính sách cũng như đưa ra những giải pháp để khắc phục. Học viên chọn Đề tài: “Thực hiện chính sách phổ biến, giáo dục pháp luật cho thanh niên trên địa bàn thành phố Tam Kỳ, tinh Quảng Nam” để làm luận văn tốt nghiệp Thạc sỹ chuyên ngành Chính sách công.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn

3.1. Mục đích nghiên cứu

Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn quá trình thực hiện chính sách phổ biến, giáo dục pháp luật Thanh niên tại thành phố Tam Kỳ từ đó đề xuất được một số giải pháp nâng cao hiệu quả việc thực hiện chính sách phổ biến giáo dục pháp luật cho Thanh niên ở nước ta hiện nay.

3.2. Nghiên cứu những vấn đề liên quan đến thực hiện chính sách phổ biến, giáo dục pháp luật cho thanh niên.

-Những lý luận mang tính khoa học thực hiện chính sách phổ biến, giáo dục pháp luật cho thanh niên.

– Nghiên cứu thực trạng làm rõ thực trạng thực hiện chính sách phổ biến, giáo dục pháp luật cho Thanh niên; chỉ rõ ưu điểm, hạn chế, bất cập và những nguyên nhân của các hạn chế, bất cập

– Đề xuất giải pháp chủ yếu nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách phổ biến, giáo dục pháp luật cho Thanh niên hiện nay.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Việc thực hiện chính sách phổ biến, giáo dục pháp luật cho Thanh niên.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

+ Phạm vi không gian: Trên địa bàn thành phố Tam Kỳ.

+ Phạm vi thời gian: Từ năm 2015 đến 2018.

4.3. Nội dung nghiên cứu: thực hiện chính sách phổ biến, giáo dục pháp luật cho đối tượng là thanh niên trên địa bàn thành phố Tam Kỳ tỉnh Quảng Nam.

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

5.1. Cơ sở lý luận

Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác -Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước, pháp luật; quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước đối với công tác thanh niên nói chung và chính sách phổ biến, giáo dục pháp luật cho thanh niên nói riêng.

5.2. Phương pháp nghiên cứu

– Vận dụng thế giới quan duy vật và phương pháp luận biện chứng của triết học Mác – Lênin để giải quyết các vấn đề đặt ra.

– Sử dụng các phương pháp phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh, khảo nghiệm thực tiễn… Dựa vào các phương pháp nghiên cứu nêu trên, người viết tiến hành thu thập, xử lý số liệu, dữ liệu có liên quan.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn

6.1. Ý nghĩa lý luận

– Luận văn cung cấp những vấn đề có tính lý luận và thực tiễn về chính sách phổ biến, giáo dục pháp luật cho Thanh niên ở nước ta nói chung, thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam.

– Trên cơ sở những vấn đề về lý luận, Luận văn đề ra những giải pháp nhằm góp phần nâng cao nhận thức và trách nhiệm chỉ đạo tổ chức, phối hợp trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật cho thanh trên địa bàn thành phố Tam Kỳ.

6.2. Ý nghĩa thực tiễn

– Hệ thống lý luận, phân tích thực trạng đề ra giải pháp của Luận văn là công trình nghiên cứu có hệ thống về việc thực hiện chính sách phổ biến, giáo dục pháp luật cho thanh niên, chỉ ra những tác động, những hạn chế, khó khăn, nguyên nhân của những hạn chế đó trong quá trình thực hiện công tác phổ biến, giáo dục pháp luật cho thanh niên tại thành phố Tam Kỳ.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, luận văn được kết cấu thành 3 chương:

Chương 1. Cơ sở khoa học về thực hiện chính sách phổ biến, giáo dục pháp luật cho Thanh niên.

Chương 2. Thực trạng thực hiện chính sách phổ biến, giáo dục pháp luật cho Thanh niên trên địa bàn thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam hiện nay.

Chương 3. Quan điểm, giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách phổ biến, giáo dục pháp luật cho Thanh niên trên địa bàn thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam.

CHƯƠNG 1

CƠ SỞ KHOA HỌC VỀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO THANH NIÊN

    1. 1.1. Lý luận chung về chính sách phổ biến, giáo dục pháp luật cho thanh niên

1.1.1. Khái niệm, vị trí, vai trò của thanh niên

Về lý luận, có rất nhiều khái niệm về Thanh niên được các nhà khoa học đưa ra: Thanh niên là một khái niệm có thể được hiểu và định nghĩa theo nhiều cách. Thanh niên là từ ghép từ thanh niên và thiếu niên, được xây dựng dựa trên sự phát triển về mặt thể chất và tinh thần của con người và được cụ thể hóa bằng giới hạn độ tuổi trong các văn bản pháp luật của từng quốc gia. Công ước về Quyền trẻ em ngày 20/11/1989, Hướng dẫn của Liên Hiệp Quốc về phòng ngừa phạm pháp ở người chưa thành niên ngày 14/12/1990, thì trẻ em là người dưới 18 tuổi, người chưa thành niên là người từ 15 đến 18 tuổi, thanh niên là người từ 15-24 tuổi, người trẻ tuổi bao gồm trẻ em, người chưa thành niên và thanh niên.

Ở nước ta, theo Điều 1, Luật Thanh niên thì: “Thanh niên là công dân Việt Nam từ đủ mười sáu tuổi đến ba mươi tuổi”. Thiếu niên là người trong độ tuổi kết nạp Đội thiếu niên tiền phong Hồ Chí Minh: từ mười đến mười lăm tuổi.

Thanh niên là một bộ phận rất quan trọng của xã hội, giữ vị trí và vai trò hàng đầu trong dựng nước và giữ nước. C.Mác khẳng định: “Do những quy luật phát triển khách quan của xã hội, thanh niên bao giờ cũng giữ vai trò quan trọng trong việc kế thừa và phát triển những thành tựu của người đi trước” [3, tr.23].

Kế thừa những di sản tư tưởng của C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin, Hồ Chí Minh đã phát triển sáng tạo các luận điểm mác-xít về vai trò thanh niên, phong trào thanh niên và xây dựng Đoàn Thanh niên cộng sản ở Việt Nam. Gắn thanh niên với vận mệnh của dân tộc, Hồ Chí Minh, trong nhiều bài nói và viết của mình đã luận giải một cách thuyết phục rằng: “Thanh niên là người chủ tương lai của nước nhà… Nước nhà thịnh hay suy, yếu hay mạnh, một phần lớn là do các thanh niên” [12]. Trong quá trình lãnh đạo Đảng ta luôn đánh giá đúng vị trí, vai trò quan trọng của thanh niên và công tác thanh niên trong sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc.

1.1.2. Khái niệm chính sách phổ biến, giáo dục pháp luật cho thanh niên

Trước khi đi sâu vào nghiên cứu về mặt lý luận của chính sách phổ biến, giáo dục pháp luật cho thanh niên, trước tiên chúng ta cần hiểu Chính sách là gì? Theo Từ điển Tiếng Việt thì “Chính sách” là “sách lược và kế hoạch cụ thể nhằm đạt một mục đích nhất định, dựa vào đường lối chính trị chung và tình hình thực tế mà đề ra”.

Tác giải Vũ Cao Đàm cho rằng: “Chính sách là một tập hợp biện pháp được thể chế hóa, mà một chủ thể quyền lực, hoặc chủ thể quản lý đưa ra, trong đó tạo sự ưu đãi một hoặc một số nhóm xã hội, kích thích vào động cơ hoạt động của họ nhằm thực hiện một mục tiêu ưu tiên nào đó trong chiến lược phát triển của một hệ thống xã hội”.

Cũng có một định nghĩa khác, “chính sách là chuỗi những hoạt động mà chính quyền chọn làm hay không làm với tính toán và chủ đích rõ ràng, có tác động đến người dân”.

Như vậy, phân tích khái niệm “Chính sách” thì thấy: Chính sách là do một chủ thể quyền lực hoặc chủ thể quản lý đưa ra; Chính sách được ban hành căn cứ vào đường lối chính trị chung và tình hình thực tế; Chính sách được ban hành bao giờ cũng nhắm đến một mục đích nhất định; nhằm thực hiện một mục tiêu ưu tiên nào đó; chính sách được ban hành đều có sự tính toán và chủ đích rõ ràng.

Chính sách công, được tiếp cận theo nhiều cách khác khau, nhưng khái niệm đều thống nhất cho rằng chính sách công bắt nguồn từ những “quyết định” của Nhà nước và dùng để giải quyết những vấn đề chung vì lợi ích của đời sống cộng đồng.

Có thể nghiên cứu một số khái niệm của những các nhà khoa học trong nước và trên thế giới, điển hình: Theo Thomas Dye, Chính sách công là: “bất kỳ những gì mà nhà nước lựa chọn làm hoặc không làm”. Clarke E. Cochran lại cho rằng: “thuật ngữ chính sách công luôn chỉ những hành động của chính phủ/chính quyền và những ý định quyết định hành động này; hoặc chính sách công là kết quả của cuộc đấu tranh trong chính quyền để ai giành được cái gì”. Thomas A. Birkland quan niệm: “Chính sách như là một tuyên bố của chính phủ – ở bất kỳ mức nào – về những gì nó dự định làm về một vấn đề công cộng”.

Ở nước ta, cũng có nhiều quan niệm rất khác nhau về chính sách công. Có thể kể đến một số định nghĩa đáng chú ý sau:

Viện Chính trị học cho rằng: “… chính sách công là chương trình hành động hướng đích của chủ thể nắm hoặc chi phối quyền lực công cộng”; một tập thể các tác giả khác lại cho rằng: “… chính sách công là một tập hợp những quyết định liên quan với nhau do nhà nước ban hành, bao gồm các mục tiêu và giải pháp để giải quyết một vấn đề công nhằm đạt được các mục tiêu phát triển; PGS.TS Hồ Việt Hạnh đưa ra cách hiểu chung nhất về chính sách công đó là: “Chính sách công là những quyết định của chủ thể được trao quyền lực công nhằm giải quyết hững vấn đề lợi ích chung của cộng đồng”.

Phổ biến pháp luật có ý nghĩa xã hội và nhân văn sâu sắc, bởi trong lịch sử đã có lúc pháp luật được ban hành nhưng không được phổ biến công khai mà chỉ được coi là một công cụ để nhà nước dùng để trị dân. Bên cạnh đó phổ biến pháp luật còn mang tính tác nghiệp, truyền đạt nội dung pháp luật cho các đối tượng cụ thể. Ở những mức độ khác nhau, phổ biến pháp luật còn nhằm làm cho các đối tượng cụ thể hiểu thấu suốt các quy định của pháp luật để thực hiện pháp luật trên thực tế. Phổ biến pháp luật thường được thực hiện thông qua các hội nghị, các cuộc tập huấn…

Thực hiện chính sách phổ biến, giáo dục pháp luật cho thanh niên trên địa bàn thành phố Tam Kỳ, tinh Quảng Nam
Thực hiện chính sách phổ biến, giáo dục pháp luật cho thanh niên trên địa bàn thành phố Tam Kỳ, tinh Quảng Nam

Giáo dục pháp luật, trong các tài liệu khoa học về pháp luật ở nước ta hiện nay: Giáo dục pháp luật là hoạt động có định hướng, có tổ chức, có chủ định của chủ thể giáo dục tác động lên đối tượng giáo dục một cách có hệ thống và thường xuyên nhằm mục đích hình thành ở họ tri thức pháp luật, tình cảm pháp lý và hành vi phù hợp với các đòi hỏi của pháp luật hiện hành.

Phổ biến, giáo dục pháp luật hiểu là công tác, lĩnh vực hoạt động, bao gồm tất cả các công đoạn phục vụ cho việc thực hiện xây dựng chương trình, kế hoạch phổ biến, giáo dục pháp luật; triển khai chương trình, kế hoạch PBGDPL thông qua việc áp dụng các hình thức, biện pháp phổ biến, giáo dục pháp luật; hướng dẫn, kiểm tra, đôn đốc, sơ kết, tổng kết việc thực hiện chương trình, kế hoạch phổ biến, giáo dục pháp luật, đây là lĩnh khâu quan trọng trong quá trình tuyên truyền những kiến thức mới về pháp luật đến với đời sống xã hội.

1.1.3. Chủ trương về chính sách phổ biến, giáo dục pháp luật cho thanh niên

Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng từng nói: “Đất nước ta thịnh hay suy phần lớn nhờ vào thanh niên”. Vì thế, Đảng và Nhà nước ta luôn xem trọng vai trò của thanh niên, đánh giá cao vị trí của thanh niên, tạo điều kiện cho thanh niên lập nghiệp. Thanh niên là trụ cột của nước nhà, là tương lai của đất nước, những người sẽ xây dựng đất nước ngày càng đàng hoàng, to đẹp hơn. Vì vậy, Thanh niên Việt Nam cũng cần rèn luyện, phấn đấu.

Tại buổi gặp gỡ, đối thoại trực tiếp với thanh niên, sinh viên và trí thức tại Đại học Quốc gia Hà Nội, Nguyên Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết đã khẳng định: “Từ khi Đảng ra đời, được sự dìu dắt của Đảng Cộng sản Việt Nam, thì đồng thời lý tưởng của thanh niên cũng là lý tưởng của Đảng, Đoàn. Đó là không chỉ yêu nước mà còn cần thực hiện mục tiêu xây dựng đất nước, xây dựng xã hội chủ nghĩa, tiến lên xây dựng chủ nghĩa cộng sản và xây dựng thế giới không còn người bóc lột người”.

Sau khi Đảng ta đề ra chủ trương đổi mới đất nước, phát triển nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa thì công tác phổ biến, giáo dục pháp luật ngày càng được quan tâm và được coi là nhiệm vụ quan trọng góp phần nâng cao hiểu biết pháp luật, ý thức chấp hành pháp luật của cán bộ, nhân dân.

Xác định thanh niên luôn là lực lượng chiến lược của quốc gia dân tộc, Đảng đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách nhằm giáo dục toàn diện cho thanh niên, nâng cao tri thức, trình độ văn hóa cho thanh niên. Báo cáo văn kiện Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ X cũng nêu:“đối với thế hệ trẻ, thường xuyên giáo dục chính trị, truyền thống, lý tưởng, đạo đức và lối sống; tạo điều kiện học tập, lao động, giải trí, phát triển thể lực, trí tuệ, góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”. Đồng thời, Nghị quyết số 25-NQ/TW ngày 25/7/2008 của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa X về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thanh niên trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước tiếp tục khẳng định “xây dựng thế hệ thanh niên Việt Nam có ý thức chấp hành pháp luật…”.

Trên cơ sở chủ trương, chính sách nêu trên của Đảng, công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật cho thanh niên luôn được Nhà nước quan tâm, ban hành nhiều văn bản, đề án, chương trình về phổ biến, giáo dục pháp luật, trong đó thanh niên luôn được xác định là đối tượng chính. Như, Quyết định số 03/1998/QĐ-TTg ngày 07/01/1998 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Kế hoạch triển khai công tác phổ biến, giáo dục pháp luật từ năm 1998 đến năm 2002; Quyết định số 13/2003/QĐ-TTg ngày 17/01/2003 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình phổ biến, giáo dục pháp luật từ năm 2003 đến năm 2007; Quyết định số 37/2008/QĐ-TTg ngày 12/3/2008 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình phổ biến, giáo dục pháp luật từ năm 2008 đến năm 2012 xác định mục tiêu đến hết năm 2012 có 95% thanh thiếu niên được tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật… đặc biệt là Quyết định số 2106/QĐ-TTg ngày 26/11/2010 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án tăng cường công tác phổ biến, giáo dục pháp luật nhằm nâng cao ý thức pháp luật cho thanh thiếu niên giai đoạn 2011 – 2015.

    1. 1.2. Chính sách phổ biến giáo dục pháp luật cho thanh niên

1.2.1. Tình hình thực hiện chính sách phổ biến, giáo dục pháp luật cho thanh niên

Luật Thanh niên năm 2005 quy định rõ về quyền và nghĩa vụ của thanh niên; trách nhiệm của Nhà nước, gia đình và xã hội đối với thanh niên; tổ chức thanh niên. Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật năm 2012 cũng đã dành riêng Mục 3, Chương II về giáo dục pháp luật trong hệ thống giáo dục quốc dân nhằm trang bị cho thanh thiếu niên những kiến thức pháp luật cơ bản ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường.

Ngày 28/8/2015, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 1501/QĐ-TTG phê duyệt Đề án “Tăng cường giáo dục lý tưởng cách mạng, đạo đức, lối sống cho thanh niên, thiếu niên và nhi đồng giai đoạn 2015-2020”; Quyết định số 1042/QĐ-TTg ngày 17/7/2017 của Thủ tướng Chính phủ về Ban hành Kế hoạch thực hiện Chiến lược phát triển thanh niên Việt Nam giai đoạn II (2016-2020). Chính sự triển khai đồng bộ về chính sách pháp luật như vậy đã mang lại những kết quả đáng ghi nhận trong công tác PBGDPL cho thanh thiếu niên.

Từ khi có Chỉ thị 32-CT/TW về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của cán bộ, nhân dân do Ban Chấp hành Trung ương ban hành, nhận thức của các cấp uỷ, tổ chức đảng về vai trò, tầm quan trọng của công tác phổ biến, giáo dục pháp luật đã được nâng lên một bước; nhiều cấp uỷ, tổ chức đảng đã coi phổ biến, giáo dục pháp luật là một bộ phận của công tác giáo dục chính trị, tư tưởng; thường xuyên quan tâm đổi mới phương thức lãnh đạo, chỉ đạo, phát huy vai trò, trách nhiệm của các cơ quan nhà nước, các đoàn thể và các doanh nghiệp trong việc xây dựng và tổ chức thực hiện.

Mặt trận và các tổ chức thành viên của Mặt trận Tổ quốc đã có nhiều cố gắng, phối hợp với các cơ quan nhà nước tích cực triển khai công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật cho các tầng lớp nhân dân; bước đầu đã thực hiện được chủ trương xã hội hóa công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, huy động được một số nguồn lực của xã hội cho công tác này.

Theo Báo cáo tổng kết 7 năm thi hành Luật Thanh niên của Bộ Tư pháp, trong năm 2012 đến nay Bộ đã phối hợp với Bộ Nội vụ, Bộ Công an, Bộ Giáo dục và đào tạo, Trung ương Hội Nông dân, Hội Sinh viên, Đoàn khối các cơ quan Trung ương đã phối hợp tổ chức 07 hội nghị tập huấn, bồi dưỡng kiến thức pháp luật và kỹ năng nghiệp vụ phổ biến, giáo dục pháp luật (mỗi hội nghị từ 100-200 người), trong đó gồm cán bộ làm công tác quản lý nhà nước về thanh niên; cán bộ quản lý trại giam, trường giáo dưỡng tham gia công tác phổ biến, giáo dục pháp luật; báo cáo viên và cán bộ quản lý công tác phổ biến, giáo dục pháp luật trong trường học; cán bộ đoàn viên thanh niên các trường đại học; Phối hợp với các cơ quan thông tin đại chúng mở trên 25 chuyên mục tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật, tư vấn pháp luật cho thanh, thiếu niên phát sóng trên các các kênh VTV2, VOV… và mở nhiều chuyên mục tư vấn, tuyên truyền pháp luật liên quan đến thanh niên trên các tờ báo, tạp chí phổ biến như Báo pháp luật Việt Nam, Báo pháp luật xã hội…. thực hiện tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật cho thanh thiếu niên dưới các hình thức tổ chức các buổi nói chuyện, giới thiệu kiến thức pháp luật và hướng dẫn ứng xử pháp luật cho thanh thiếu niên tại xã, phường, thị trấn là những địa bàn có điểm nóng về tội phạm, tệ nạn xã hội, có tỷ lệ thanh thiếu niên phạm tội cao; Biên soạn, in ấn, cấp phát trực tiếp các tờ gấp pháp luật có nội dung phù hợp đến đối tượng tham dự (mỗi địa bàn Bộ hỗ trợ biên soạn, phát hành 08 loại tờ gấp pháp luật) và xây dựng các tình huống pháp luật (10 tình huống/đợt nói chuyện) nhằm hướng dẫn đối tượng vận dụng, giải quyết đúng với pháp luật. Kết quả 49 đợt nói chuyện pháp luật cho đội ngũ thanh thiếu niên đã được tổ chức; hàng vạn tờ gấp, tờ rơi pháp luật đã được cấp phát miễn phí cho các thanh thiếu niên.

1.2.2. Mục tiêu của chính sách phổ biến, giáo dục pháp luật cho thanh niên

Đất nước ta đang bước vào thời kỳ công nghiệp hóa – hiện đại hóa, Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản về chính sách phổ biến, giáo dục pháp luật cho thanh niên. Chính sách giáo dục pháp luật trong Thanh niên được triển khai đồng bộ với thực hiện Chiến lược phát triển thanh niên, đảm bảo tính khoa học, khả thi; Kế thừa, phát huy kết quả phổ biến, giáo dục pháp luật với giáo dục đạo đức nhằm nâng cao ý thức pháp luật; Công tác phổ biến, giáo dục pháp luật cho thanh thiếu niên là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, các tổ chức kinh tế, nhà trường, gia đình và toàn xã hội.

Với mục đích và yêu cầu trong việc thực hiện công tác phổ biến, giáo dục pháp luật nhằm nâng cao ý thức pháp luật cho thanh, thiếu niên giai đoạn 2010-2015 đến năm 2020 nêu mục tiêu tổng quát: Tạo chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức và ý thức tuân thủ, chấp hành pháp luật, phát huy đầy đủ tinh thần tự giác học tập, tìm hiểu pháp luật, xây dựng lối sống và làm việc theo pháp luật trong thanh, thiếu niên; đưa công tác phổ biến, giáo dục pháp luật cho thanh, thiếu niên phát triển ổn định, bền vững, đi vào chiều sâu, trở thành nhiệm vụ thường xuyên của cơ quan, tổ chức, đơn vị nhằm phát huy đầy đủ vai trò của thanh, thiếu niên trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Mục tiêu cụ thể sau: (1) phấn đấu 100% thanh niên là công chức, viên chức, người lao động; cán bộ, chiến sỹ trong lực lượng vũ trang được tuyên truyền, phổ biến về các hành vi bị nghiêm cấm và chế tài xử lý, về quyền, nghĩa vụ công dân; chính sách, pháp luật về thanh, thiếu niên. (2) Đến năm 2020, có từ 60% đến 90% thanh niên, thiếu niên đặc thù (nông thôn, miền núi, khuyết tật, bạo lực gia đình, công nhân…) được tuyên truyền, phổ biến chính sách, pháp luật trong các lĩnh vực liên quan đến quyền, nghĩa vụ và đời sống, công việc của từng đối tượng, từng địa bàn. (3) phấn đấu từ 80% trở lên thanh, thiếu niên tự do, sinh sống, lao động tại địa bàn cư trú được tuyên truyền, phổ biến chính sách, pháp luật trong các lĩnh vực liên quan đến quyền, nghĩa vụ và đời sống, công việc của từng đối tượng, từng địa bàn; phấn đấu từ 70% trở lên thanh niên lao động ở nước ngoài được thông tin, phổ biến các quy định pháp luật Việt Nam và pháp luật nước sở tại trong các lĩnh vực liên quan trực tiếp đến quyền, nghĩa vụ, đời sống, công việc. (4) Giảm từ 10 đến 20% số vi phạm pháp luật có liên quan đến thanh, thiếu niên. (5) Bồi dưỡng, tập huấn cập nhật kiến thức pháp luật mới và nghiệp vụ phổ biến, giáo dục pháp luật cho người làm công tác phổ biến, giáo dục pháp luật cho thanh, thiếu niên, cán bộ Đoàn thực hiện phổ biến, giáo dục pháp luật.

1.2.3. Nội dung thực hiện phổ biến, giáo dục pháp luật cho thanh niên

Phổ biến, giáo dục pháp luật là khâu đầu tiên của quá trình thi hành pháp luật và có vai trò hết sức quan trọng trong việc tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Xuất phát từ vai trò, ý nghĩa quan trọng của công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, Ðảng và Nhà nước ta luôn quan tâm đến công tác này. Trong rất nhiều văn kiện của Ðảng và pháp luật của Nhà nước đều đề cập đến công tác phổ biến, giáo dục pháp luật.

Thứ nhất, thời gian qua, hàng ngàn văn bản pháp luật quan trọng, liên quan đến cuộc sống hàng ngày của các tầng lớp cán bộ, nhân dân và doanh nghiệp đã được phổ biến như các quy định pháp luật về dân sự, kinh tế (như Bộ luật Dân sự, Luật Đất đai, Luật Doanh nghiệp…); về quyền dân chủ của công dân (như Luật Khiếu nại, tố cáo, Luật Bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân, Nghị quyết số 388/2003 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội về bồi thường thiệt hại cho người bị oan do người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra; các quy định pháp luật về dân chủ ở cơ sở…); về an ninh, trật tự (như Bộ luật Hình sự, Luật Giao thông đường bộ, Luật Biên giới quốc gia, Luật Bảo vệ và phát triển rừng, Luật Xử lý vi phạm hành chính, Luật Biển Việt Nam, Pháp lệnh Vệ sinh an toàn thực phẩm…); về hội nhập kinh tế quốc tế (như Luật Đầu tư, Luật Thương mại, Luật Cạnh tranh, các quy định liên quan đến việc Việt Nam gia nhập WTO…); về văn hoá – xã hội (như Luật Giáo dục, Luật Bảo vệ, Chăm sóc và Giáo dục trẻ em, Luật Khoa học và công nghệ, Luật Người cao tuổi, Pháp lệnh Tín ngưỡng, tôn giáo…). Thực hiện tốt việc phổ biến tuyên truyền những Luật, pháp lệnh nêu trên góp phần tích cực trong việc thực hiện chính sách phổ biến giáo dục pháp luật.

Thứ hai, căn cứ vào nhiệm vụ chính trị và tình hình cụ thể, các địa phương đã triển khai phổ biến các văn bản quy phạm pháp luật của Trung ương, của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân địa phương phù hợp với nhu cầu từng đối tượng, địa bàn: các tỉnh biên giới tuyên truyền Luật Biên giới quốc gia; các tỉnh miền núi tập trung triển khai Luật Bảo vệ và phát triển rừng; các tỉnh có nhiều khu công nghiệp, khu chế xuất quan tâm phổ biến pháp luật lao động; giải quyết tranh chấp lao động…

Thứ ba, các đợt tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật cho thanh thiếu niên trong các cấp học, bậc học, đã được chính quyền địa phương, nhà trường ghi nhận và đánh giá cao về chất lượng và hiệu quả. Thông qua các buổi tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật đã góp phần nâng cao nhận thức, ý thức chấp hành pháp luật cho các thanh thiếu niên trên địa bàn tỉnh. Góp phần hạn chế những tai nạn đáng tiếc có thể xảy ra cho các em do vi phạm quy định pháp luật.

Ngoài sự phối hợp của các Sở, ngành, địa phương, trong thời gian qua các trường cũng rất tích cực, chủ động trong việc tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật cho học sinh. Ngoài lồng ghép trong các nội dung giảng dạy trong nhà trường, việc phổ biến, giáo dục pháp luật còn được thực hiện thông qua các hoạt động giáo dục ngoại khóa, các hình thức khác như: thi tìm hiểu pháp luật, viết báo tường, sinh hoạt, tọa đàm theo chủ đề pháp luật. Có thể nói rằng, nếu các đơn vị phối hợp và nhà trường đã làm tốt công tác phổ biến, giáo dục pháp luật trong trường học. Nhờ đó, đã đẩy mạnh hơn hiệu quả trong công tác tuyên truyền, góp phần nâng cao ý thức pháp luật của học sinh.

Bên cạnh đó, để đạt hiệu quả cao nhất, thì không chỉ cần đến sự vào cuộc của các cơ quan, đơn vị và nhà trường, mà còn cần sự tham gia của gia đình và toàn xã hội. Nếu gia đình và xã hội không làm tấm gương chấp hành pháp luật để các em noi theo sẽ rất khó để có thể yêu cầu các em chấp hành quy định pháp luật. Vì vậy, bên cạnh việc đẩy mạnh tuyên truyền thì chính mỗi người trong chúng ta phải nâng cao ý thức chấp hành pháp luật để làm tấm gương cho thế hệ thanh thiếu niên.

1.2.4. Hệ thống các văn bản đề cập đến chính sách phổ biến, giáo dục pháp luật cho thanh niên

Thực hiện chính sách phổ biến, giáo dục pháp luật cho thanh niên, trong thời gian qua Đảng, Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các bộ, ban, ngành Trung ương đã ban hành văn bản, như:

Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng;

Nghị quyết số 25-NQ/TW, ngày 25/6/2008 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá X về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thanh niên trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa;

Hiến pháp năm 2013;

Luật Thanh niên năm 2005;

Quyết định số 2477/QĐ-TTg, ngày 30/12/2011 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt Chiến lược phát triển thanh niên Việt Nam 2011-2020;

Quyết định số 03/1998/QĐ-TTg, ngày 07/01/1998 của Thủ tướng Chính phủ ban hành kế hoạch triển khai công tác phổ biến, giáo dục pháp luật từ năm 1998 đến năm 2002;

Quyết định số 13/2003/QĐ-TTg, ngày 17/01/2003 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt chương trình phổ biến, giáo dục pháp luật từ năm 2008-2012;

Quyết định 2016/QĐ-TTg, ngày 26/11/2010 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án tăng cường công tác phổ biến, giáo dục pháp luật nhằm nâng cao ý thức pháp luật cho thanh thiếu niên giai đoạn 2011-2015.

Với hệ thống văn bản chỉ đạo, điều hành của Đảng, Chính phủ, Quốc hội là điều kiện tiên quyết đảm bảo hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật đi vào cuộc sống một cách thiết thực. Nhà nước đóng vai trò quyết định trong việc vận hành đưa chủ trương chính sách phổ biến, giáo dục pháp luật được triển khai ở tất cả các cấp, các tầng lớp nhân dân trong đó có lực lượng thanh niên. Tổ chức triển khai ở tất cả các ngành, phân bổ kinh phí, tổ chức quản lý, vận hành thông suốt quá trình triển khai thực hiện chính sách.

Các cơ sở giáo dục của hệ thống giáo dục quốc dân cần coi trọng và xây dựng nhận thức đúng về vị trí, vai trò quan trọng của công tác phổ biến, giáo dục pháp luật. Tạo cơ chế phối hợp giữa ngành tư pháp, ngành giáo dục, Ðoàn thanh niên và các ngành liên quan trong giáo dục ý thức pháp luật cho học sinh. Ðây chính là những nhân tố quan trọng, quyết định đến chất lượng, hiệu quả của công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật trong hệ thống giáo dục quốc dân. 

1.2.5. Các hình thức, thực hiện chính sách phổ biến giáo dục pháp luật:

Một là, triển khai các buổi tập huấn tìm hiểu về các Luật, dự Luật, nhằm đưa kiến thức pháp luật đến đời sống xã hội

Hai là, các ngành, các cấp, các địa phương cần phối hợp với Hội đồng phổ biến giáo dục pháp luật lên kế hoạch tuyên truyền chính sách pháp luật bằng nhiều hình thức như: Tổ chức hội nghị, các buổi nói chuyện thời sự, các hội thi tìm hiểu pháp luật, tờ rơi, tờ gấp… Qua các hình thức tuyên truyền thiết thực này nhằm phát huy sự hiểu biết pháp luật, ý thức được quyền và nghĩa vụ của mình đối với xã hội.

Thực hiện chính sách phổ biến, giáo dục pháp luật cho thanh niên trên địa bàn thành phố Tam Kỳ, tinh Quảng Nam
Thực hiện chính sách phổ biến, giáo dục pháp luật cho thanh niên trên địa bàn thành phố Tam Kỳ, tinh Quảng Nam

Ba là, khi triển khai thực hiện chính sách cần có kế hoạch cụ thể nhằm duy trì chính sách phổ biến, giáo dục pháp luật.

Tư là, đánh giá, tổng kết và rút ra bài học kinh nghiệm chính sách phổ biến giáo dục pháp luật là một khâu không thể thiếu của quy trình chính sách. Đánh giá, tổng kết nhằm đề ra được kết quả của quá trình thực hiện chính sách, bên cạnh đó rút kinh nghiệm những yếu kém chưa được khắc phục nhằm từ đó đề ra những giải pháp thực hiện chính sách trong thời gian đến hiệu quả hơn.

1.2.6. Các yếu tố tác động đến chính sách phổ biến giáo dục pháp luật cho thanh niên

– Chính sách phổ biến pháp luật

Trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay theo định hướng của Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng Cộng sản Việt Nam và Hiến pháp năm 2013. Bên cạnh việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, đồng bộ và có tính khả thi cao, Đảng, Nhà nước đã có nhiều chủ trương, chính sách pháp luật lãnh đạo, chỉ đạo làm thay đổi căn bản công tác phổ biến, giáo dục pháp luật nói chung và phổ biến, giáo dục pháp luật cho thanh, thiếu niên nói riêng như Chỉ thị 32 của Ban Bí thư, Nghị quyết Đại hội XII, Hiến pháp 2013, Luật phổ biến, giáo dục pháp luật, Luật thanh niên, Luật trẻ em, các chương trình, đề án về phổ biến, giáo dục pháp luật giai đoạn 2008-2012, Quyết định 419/QĐ-TTg… Đây là những điều kiện quan trọng bậc nhất có tác động tích cực đến công tác phổ biến, giáo dục pháp luật cho thanh, thiếu niên thời gian qua và chắc chắn sẽ tiếp tục được phát huy trong giai đoạn mới. Nó làm thay đổi nhận thức của các cấp ủy Đảng, chính quyền và cả hệ thống chính trị, khắc phục căn bản nhận thức sai lệch: coi công tác phổ biến, giáo dục pháp luật là của riêng ngành tư pháp, giao khoán cho ngành tư pháp hoặc công tác phổ biến, giáo dục pháp luật cho thanh, thiếu niên là của Đoàn thanh niên, Hội liên hiệp thanh niên, các nhà trường, từ đó thiếu quan tâm đầu tư nguồn lực dẫn đến hiệu quả công tác phổ biến, giáo dục pháp luật cho thanh thiếu niên hiệu quả chưa tương xứng hoặc chồng chéo làm lãng phí nguồn lực.

Việc xây dựng hệ thống văn bản thực hiện chính sách dựa trên nền tảng chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; qua đốc kết từ thực tiễn, nghiên cứu có chọn lọc ở các nước phát triển từ đó hình thành nên hệ thống văn bản phù hợp nhằm đảm bảo mục tiêu của chính sách từ Trung ương đến địa phương.

– Chủ thể thực hiện chính là sự điều hành, quản lý của Nhà nước. Nhà nước hướng dẫn, thực hiện các chức năng điều tiết, kiểm soát, tạo môi trường để chính sách thực sự là công cụ chính.

Trong quá trình thực hiện chính sách chủ thể thực hiện chính sách vừa là đối tượng thực hiện triển khai chính sách cũng vừa là đối tượng trực tiếp chịu sự tác động của chính sách. Khi Chủ thể hướng đến mục tiêu chính sách tốt đạt được mong muốn, nguyện vọng của xã hội thì chỉ thể ban hành những chính sách ưu việt nhằm hướng đến mục đích chính thực hiện chính sách vì phát triển cộng đồng. Ngược lại chủ thể ban hành chính sách vì mục tiêu của một số đối tượng hay một nhóm lợi ích thì sẽ xây dựng và ban hành chính sách theo hướng mà nhóm lợi ích hướng đến.

– Đối tượng chịu sự tác động của chính sách chính là thanh niên, lực lượng thanh niên vừa là đối tượng vừa là chủ thể. Thanh niên là lực lượng nòng cốt của xã hội, chịu sự tác động lớn và toàn diện của hệ thống chính sách phổ biến, giáo dục pháp luật cho thanh niên. Thanh niên ở độ tuổi từ 16 đến 30, độ tuổi của sự năng động, sáng tạo, có sức khỏe, trí thức, thích tiềm hiểu cái mới mẻ nhưng đồng thời cũng dễ bị tác động, lối kéo của những vấn đề xã hội phương tây hiện đại, tệ nạn xã hội.

– Các yếu tố khác như: tình hình kinh tế – xã hội, địa lý vùng miền, trình độ nhận thức, phong tục tập quán ảnh hưởng đến quá trình thực hiện chính sách phổ biến, giáo dục pháp luật.

+ Về kinh tế: Khi xã hội phát triển hội nhập nền kinh tế thế giới, hội nhập nền kinh tế tri thức, chúng ta đang tiến đến công nghệ 4.0. Đây là điều kiện thuận lợi để các tầng lớp nhân dân cả nước tiếp cận với nền khoa học – công nghệ hiện đại: Internet công nghệ cao, truyền hình kỹ thuật số… nên việc tiếp cận và tuyên truyền phổ biến chính sách pháp luật là điều kiện thuận lợi. Nhưng mặc khác cũng từ khoa học kỹ thuật phát triển hiện đại, lối sống du nhập phương tây, truyền bá những tư tưởng lệch lạc, cũng là yếu tố ảnh hưởng đến sự hình thành nhân cách và ý thức chấp hành pháp luật giảm sút.

+ Yếu tố văn hóa, có thể hiểu Nước ta hiện nay có Miền Bắc, miền Trung – Tây Nguyên và niềm Nam. Mỗi vùng có đặc trưng văn hóa khác nhau, lối sống khác nhau, vị trí địa lý. Phong tục tập quán là yếu tố nhất định ảnh hưởng đến việc thực thi pháp luật. Bên cạnh những ưu điểm căn bản, các phong tục, tập quán ở mỗi vùng miền cũng bộc lộ nhược điểm như tổ chức hội hè, đình đám, ma chay, giỗ chạp, lãng phí. Nhiều nơi hủ tục lạc hậu còn tồn tại như: nạn tảo hôn, hủ tục “bắt vợ”, du canh, du cư…

Tiểu kết Chương 1

Qua Chương 1 của Luận văn, dưới phân tích chung về lý luận của công tác thực hiện chính sách phổ biến, giáo dục pháp luận cho thanh niên, chúng ta rút ra được:

Thứ nhất, dưới góc độ lý luận chung ta tìm hiểu sâu về những khái niệm của khoa học chính sách công, khái niệm chính sách, khái niệm về thanh niên, và khái niệm phổ biến giáo dục pháp luật.

Thứ hai, ở Chương 1, Luận văn đã nghiên cứu các văn bản, hướng dẫn khi các chủ thể áp dụng vào thực hiện chính sách phổ biến, giáo dục pháp luật cho thanh niên.

Thứ ba, rút ra được những yếu tố tác động đến việc thực hiện chính sách phổ biến giáo dục pháp luật trong thời gian vừa qua.

CHƯƠNG 2

THỰC TRẠNG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH PHỔ BIẾN,

GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO THANH NIÊN TẠI THÀNH PHỐ TAM KỲ TỈNH QUẢNG NAM

    1. 2.1. Các yếu tố ảnh hưởng đến việc thực hiện chính sách phổ biến giáo dục pháp luật cho thanh niên ở thành phố Tam Kỳ tỉnh Quảng Nam.

2.1.1. Khái quát thành phố Tam Kỳ

Tam Kỳ là thành phố trực thuộc tỉnh Quảng Nam, phía Nam giáp huyện Núi Thành, phía Bắc giáp huyện Phú Ninh và Thăng Bình, phía Tây giáp huyện Phú Ninh tỉnh Quảng Nam, phía Đông giáp biển Đông. Tam Kỳ là trung tâm kinh tế, chính trị, văn hóa, khoa học của tỉnh Quảng Nam, là địa phương có bề dày truyền thống yêu nước và cách mạng.

Hiện nay, thành phố Tam Kỳ gồm 13 đơn vị xã, phường (9 phường, 04 xã đó là: Phường Tân Thạnh, Hòa Thuận, An Mỹ, An Sơn, An Xuân, Hòa Hương, Phước Hòa, An Phú, Trường Xuân và xã Tam Ngọc, Tam Phú, Tam Thăng, Tam Thanh) với diện tích tự nhiên là 9.263,56 ha, dân số 109.888 người (số liệu cuối năm 2011).

Tên gọi “Tam Kỳ” cũng được định vị theo hình sông thế núi của vùng đất này, nơi có ba gò đất cao cùng ngã ba sông. Nhìn từ ngoài biển vào sẽ thấy 3 gò đất cao nhô lên thành hình tam giác: núi An Hà, Quảng Phú và Trà Cai. Khi định vị từ 3 ngọn núi, thuyền sẽ vào cửa sông và gặp bến đò, nơi có ba ngả rẽ: sông Tam Kỳ, sông Trường Giang và sông Bàn Thạch. Nằm ở đồng bằng ven biển, Tam Kỳ hình thành 02 vùng rõ rệt: vùng ven biển gồm các xã Tam Thanh, Tam Thăng, Tam Phú; vùng đồng bằng gồm các xã, phường nằm dọc đường quốc lộ 1A, đường sắt. Tam Kỳ có nhiều núi thấp xen kẽ với đồng ruộng và khu dân cư như: núi đất Quảng Phú, An Hà (Tam Phú), núi Quánh (Tam Ngọc)….

Giao thông ở Tam Kỳ có nhiều thuận lợi. Ngoài tuyến đường quốc lộ 1A và đường sắt Bắc – Nam chạy xuyên qua địa phương, Tam Kỳ còn có đường liên huyện: Tam Kỳ – Phú Ninh – Tiên Phước – Trà My, Tam Kỳ – Phú Ninh – Hiệp Đức… Nhìn chung, các tuyến giao thông đường biển, đường bộ, đường sắt đã tạo điều kiện cho Tam Kỳ mở rộng việc tiếp xúc, giao lưu, phát triển kinh tế và văn hóa giữa các vùng, miền trong và ngoài tỉnh.

Trong quá trình phát triển của lịch sử dân tộc, cùng với sự thay đổi của tổ chức hành chính đất nước, Tam Kỳ cũng có những thay đổi về địa giới và tên gọi. Trước thế kỷ XV, đây vốn là vùng đất Chiêm Động của vương quốc cổ Chămpa. Thế rồi trong quá trình mở nước vào phương Nam của dân tộc, vùng đất này từng bước được sáp nhập vào lãnh thổ của Đại Việt dưới nhiều tên gọi khác nhau: Là vùng đất thuộc châu Hoa dưới thời nhà Hồ (1400-1406); đến năm 1471, Vua Lê Thánh Tông lập thành huyện Hà Đông, cùng với sự ra đời của Thừa tuyên Quảng Nam; năm 1841, đời vua Thiệu Trị, huyện Hà Đông trực thuộc Phủ Thăng Hoa (sau đó đổi thành Phủ Thăng Bình); năm 1906, đời vua Thành Thái thứ 18, huyện Hà Đông tách khỏi Phủ Thăng Bình, đổi thành Phủ Tam Kỳ; sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, được gọi là huyện Tam Kỳ; ngày 30/01/1951, Ủy ban kháng chiến hành chính miền Nam Trung bộ đã ra Nghị định số 241-MNS thành lập thị xã Tam Kỳ, sau đó giải thể thị xã để lập xã đặc biệt Tam Kỳ. Từ năm 1962, dưới thời Mỹ- Ngụy, vùng đất này thuộc quận Tam Kỳ của tỉnh Quảng Tín, nhưng là thị xã Tam Kỳ, thuộc tỉnh Quảng Nam theo cách gọi của ta (từ năm 1963). Sau ngày giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước (năm 1975), huyện Tam Kỳ được tái lập bao gồm cả 03 đơn vị hành chính là: huyện Nam Tam Kỳ, huyện Bắc Tam Kỳ và thị xã Tam Kỳ. Để phù hợp với sự phát triển trong thời kỳ mới, ngày 03/12/1983, theo Quyết định số 144/QĐ-HĐBT của Hội Đồng Bộ Trưởng (nay là Chính Phủ) chia huyện Tam Kỳ thành 02 đơn vị hành chính là: thị xã Tam Kỳ và huyện Núi Thành. Ngày 29/9/2006, theo Nghị định số 113/2006/NĐ-CP, Tam Kỳ đã trở thành thành phố trực thuộc tỉnh Quảng Nam

LIỆN HỆ:

SĐT+ZALO: 0935568275

E:\DỮ LIỆU COP CỦA CHỊ YẾN\LUAN VAN VIEN HAN LAM\VIEN HAN LAM DOT 9\CHINH SACH CONG\HO THI BICH THUY\SAU BAO VE

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *