Tăng cường công tác kiểm soát nội bộ thu – chi ngân sách của UBND quận Thanh Khê thành phố Đà Nẵng

Tăng cường công tác kiểm soát nội bộ thu - chi ngân sách của UBND quận Thanh Khê thành phố Đà Nẵng

Tăng cường công tác kiểm soát nội bộ thu – chi ngân sách của UBND quận Thanh Khê thành phố Đà Nẵng

1. Tính cấp thiết của đề tài

Xu thế hội nhập hiện nay, đòi hỏi nền tài chính của một quốc gia phải phát triển cho phù hợp và ngang tầm với các nước trên thế giới và trong khu vực. Vì vậy công tác kiểm soát nội bộ các hoạt động thu – chi ngân sách Nhà nước có vai trò quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả quản lý nguồn thu và sử dụng nguồn lực tài chính công. Trong đó vai trò của ngân sách được thể hiện trong quá trình quản lý thu – chi ngân sách để thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội; văn hoá – xã hội; giữ vững quốc phòng – an ninh …

Ngân sách nhà nước các cấp là các khoản thu, chi của Nhà nước trong dự toán đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định, đảm bảo thực hiện các chức năng, nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội của địa phương. Muốn thực hiện được nhiệm vụ tất yếu trên phải có nguồn lực tài chính. Tất cả các nhu cầu chi tiêu tài chính của Nhà nước đều được đảm bảo từ các nguồn thu ngân sách mang lại. Như vậy, thu chi ngân sách nhà nước được coi như xương sống, mà cơ thể sống là bộ máy hoạt động của chính quyền các cấp. Song song với việc thu, chi thì kiểm soát ngân sách cũng hết sức quan trọng.

Thanh Khê là một quận của thành phố Đà Nẵng được tái lập từ ngày 01 tháng 01 năm 1997, trong bối cảnh chung của đất nước, UBND quận Thanh Khê thành phố Đà Nẵng những năm qua đã đạt được những thành tựu to lớn về kinh tế-xã hội, bộ mặt đô thị ngày càng đổi mới. Qua nhiều năm thực hiện Luật ngân sách nhà nước, cân đối ngân sách quận đang ngày càng vững chắc, nguồn thu ngân sách ngày càng tăng, không những đảm bảo được những yêu cầu chi thiết yếu của bộ máy quản lý nhà nước, văn hóa-xã hội, an ninh quốc phòng mà còn dành phần đáng kể cho đầu tư phát triển. Tuy nhiên, thực trạng hiện nay công tác kiểm soát chi ngân sách của quận vẫn còn nhiều khiếm khuyết, hạn chế. Hiệu quả các khoản chi ngân sách còn thấp, chi đầu tư còn dàn trải, thiếu tập trung dẫn đến hiệu quả đầu tư còn thấp, gây lãng phí.

Vấn đề kiểm tra, kiểm soát các nguồn thu ngân sách và phẩn bổ chi ở ngân sách ngân sách cấp huyện là rất quan trọng, cụ thể tại phòng Tài chính Kế hoạch Quận Thanh Khê với chức năng kiểm soát nội bộ thu – chi ngân sách Quận. Thông qua việc kiểm tra, kiểm soát thu – chi ngân sách để tham mưu Ủy ban nhân dân Quận tăng nguồn thu cho ngân sách, trong chi tiêu phải đảm bảo tính tiết kiệm, hiệu quả và cân đối ngân sách. Tuy nhiên, thực tế hiện nay công tác kiểm soát thu chi ngân sách tại phòng Tài chính Kế hoạch Quận Thanh Khê vẫn còn một số hạn chế như: chưa kiểm soát hiệu quả nguồn thu nên chỉ tiêu thu ngân sách hàng năm chưa đạt theo pháp lệnh thành phố giao, chưa kiểm soát chặt chẽ hoạt động chi ngân sách nên trong chi ngân sách chưa thật sự tiết kiệm và hiệu quả, chưa cân đối được ngân sách để chi cho các nhiệm vụ phát sinh đột xuất…

Là người công tác thực tế tại UBND Quận Thanh Khê, tôi quyết định chọn đề tài: “Tăng cường công tác kiểm soát nội bộ thu – chi ngân sách của UBND quận Thanh Khê thành phố Đà Nẵng” làm luận văn thạc sỹ mong muốn đề xuất những giải pháp góp phần giải quyết những vấn đề tồn tại, hạn chế, sai sót có thể xảy ra nhằm hoàn thiện công tác kiểm soát nội bộ các khoản thu – chi ngân sách nhà nước tại UBND Quận Thanh Khê.

2. Các nghiên cứu có liên quan

3. Mục tiêu nghiên cứu đề tài

  • Hệ thống hóa những vấn đề lý luận cơ bản về kiểm soát nội bộ trong khu vực công và thu – chi ngân sách nhà nước trên địa bàn quận Thanh Khê.
  • Đánh giá thực trạng công tác kiểm soát nội bộ thu – chi ngân sách Nhà nước tại UBND Quận Thanh Khê, TP.Đà Nẵng thông qua đơn vị thực hiện là phòng Tài chính kế hoạch Quận.
  • Đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác kiểm soát nội bộ thu – chi Ngân sách nhà nước tại phòng Tài chính kế hoạch Quận Thanh Khê, TP.Đà Nẵng.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

  • Đối tượng nghiên cứu:

+ Kiểm soát nội bộ đối với nguồn thu – chi ngân sách tại phòng Tài Chính kế hoạch Quận Thanh Khê, TP.Đà Nẵng.

  • Phạm vi nghiên cứu:

+ Không gian nghiên cứu tại phòng Tài Chính kế hoạch Quận Thanh Khê.

+ Thời gian nghiên cứu: Khảo sát thực trạng kiểm soát nội bộ đối với quy trình thu và chi tại phòng Tài Chính kế hoạch Quận Thanh Khê, TP.Đà Nẵng từ năm 2014-2018.

5. Phương pháp nghiên cứu

Đề tài thực hiện dựa trên phương pháp định tính nhằm đạt được mục tiêu nghiên cứu đã nêu.

Tác giả tập hợp tài liệu về kiểm soát nội, trên cơ sở đó sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp, hệ thống, khái quát hóa để nêu lên tổng quan về kiểm soát nội bộ trong khu vực công

Tác giả sử dụng phương pháp quan sát, thống kê, phỏng vấn tổng hợp để đánh giá thực trạng, đánh giá ưu, khuyết điểm về kiểm soát nội bộ thu – chi ngân sách Nhà nước trên địa bàn Quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng.

Tác giả sử dụng phương pháp tổng hợp, phân tích, suy luận để đề xuất những ý kiến đóng góp nhằm hoàn thiện kiểm soát nội bộ đối với thu – chi ngân sách tại phòng Tài chính – Kế hoạch Quận Thanh Khê, TP.Đà Nẵng.

6. Kết cấu của luận văn

Chương 1. Tổng quan về kiểm soát nội bộ đối với khu vực công và thu – chi ngân sách trên địa bàn Quận Thanh Khê.

Chương 2. Thực trạng kiểm soát nội bộ đối với thu – chi ngân sách tại phòng Tài chính Kế hoạch Quận Thanh Khê, TP.Đà Nẵng.

Chương 3. Hoàn thiện kiểm soát nội bộ đối với thu – chi ngân sách tại phòng Tài chính Kế hoạch Quận Thanh Khê, TP.Đà Nẵng.

CHƯƠNG 1

TỔNG QUAN VỀ KIỂM SOÁT NỘI BỘ ĐỐI VỚI KHU VỰC CÔNG VÀ THU – CHI NGÂN SÁCH TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN THANH KHÊ

1.1. Hệ thống kiểm soát nội bộ trong khu vực công:

1.1.1. Lịch sử ra đời và phát triển của kiểm soát nội bộ trong khu vực công

Trong bất kỳ tổ chức nào, dưới góc nhìn của nhà quản lý, cũng cần có hai hệ

thống chạy song song. Thứ nhất đó là hệ thống đáp ứng yêu cầu kinh doanh, bao gồm các phòng ban chức năng, các quy trình thủ tục, các công việc cần thiết để phục vụ cho nhu cầu kinh doanh của tổ chức. Tuy nhiên, bất kỳ công việc nào, quy trình nào thực hiện ở trên cũng đều đối diện với những nguy cơ, sự cố, hay rủi ro tác động làm ảnh hưởng đến khả năng hoàn thành mục tiêu của công việc đó và tùy theo mức độ, gây ảnh hưởng từ thiệt hại trong mức chấp nhận được đến nguy cơ phá sản tổ chức.

Nhằm giảm rủi ro cho tổ chức ở ngưỡng chấp nhận được, hệ thống thứ hai – kiểm soát nội bộ, được thiết lập trên cơ sở các biện pháp, chính sách, thủ tục, tinh thần, giá trị, chức năng, thẩm quyền của những người liên quan và trở thành phương tiện sống còn trong hoạt động của mọi cơ quan tổ chức, giúp các cơ quan tổ chức nâng cao năng lực, cải tiến hiệu quả hoạt động, hạn chế các sự cố và hoàn thành mục tiêu của tổ chức.

Khái niệm KSNB bắt đầu được sử dụng vào đầu thế kỷ 20 trong các tài liệu về kiểm toán. Từ thập niên 1940, các tổ chức kế toán công và kiểm toán nội bộ Hoa Kỳ đã xuất bản một loạt các báo cáo, hướng dẫn và tiêu chuẩn về tìm hiểu KSNB trong các cuộc kiểm toán.

Đến thập niên 1970, KSNB được quan tâm đặc biệt trong lĩnh vực thiết kế hệ thống và kiểm toán, chủ yếu hướng vào cách thức cải tiến hệ thống KSNB và vận dụng trong các cuộc kiểm toán. Đạo luật chống hành vi hối lộ ở nước ngoài 1977, các báo cáo của Cohen Commission và FEI (Financial Executive Institute) đều đề cập đến việc hoàn thiện hệ thống kế toán và KSNB. Ủy ban chứng khoán Hòa Kỳ (SEC) cũng đưa ra các điều luật bắt buộc các nhà quản trị phải báo cáo về hệ thống kiểm soát nội bộ của tổ chức.

Năm 1978, hiệp hội kế toán viên công chứng Hoa Kỳ ( AICPA) đã thành lập một Ủy ban tư vấn đặc biệt về kiểm toán nội bộ nhằm đưa ra các hướng dẫn về việc thiết lập và đánh giá hệ thống KSNB. Giai đoạn từ năm 1980 đến 1985, Hiệp hội kế toán viên công chứng Hoa Kỳ đã tiến hành sang lọc, ban hành và sửa đổi các chuẩn mực về sự đánh giá của kiểm toán độc lập về KSNB vá báo cáo về KSNB. Hiệp hội kế toán nội bộ (IIA) cũng ban hành chuẩn mực và hướng dẫn kiểm toán viên nội bộ về bản chất của kiểm toán và vai trò của các bên liên quan trong việc thiết lập, duy trì và đánh giá hệ thống KSNB.

Từ năm 1985 về sau, sự quan tâm tập trung vào KSNB càng mạnh mẽ hơn. Hội đồng quốc gia chống gian lận báo cáo tài chính Hoa Kỳ (thường gọi là Ủy ban Treaway) được thành lập năm 1985.

Năm 1992, tại Hoa Kỳ, COSO đã cho ra đời báo cáo đầu tiên về hệ thống KSNB, tạo nên một khởi đầu và tiếng nói chung cho các doanh nghiệp và tổ chức; chính phủ Hoa Kỳ ban hành luật Sarbanes – Oxley quy định triển khai hệ thống KSNB cho tất cả các công ty niêm yết trên sàn giao dịch chứng khoán, làm mở màn cho giai đoạn phát triển hệ thống KSNB tại quốc gia này và lan truyền trên thế giới. COSO đã trở thành chuẩn mực được công nhận và áp dụng rộng rãi trên toàn thế giới.

Ủy ban các tổ chức hội đồng bảo trợ (COSO) của Hội đồng quốc gia chống gian lận báo cáo tài chính Hoa Kỳ ra đời nhằm nghiên cứu KSNB và đã công bố báo cáo COSO 1992:

  • Thống nhất định nghĩa để phục vụ cho nhu cầu của các đối tượng khác nhau.
  • Cung cấp đầy đủ một hệ thống tiêu chuẩn đẩ giúp các đơn vị có thể đánh giá hệ thống KSNB để tìm giải pháp hoàn thiện.

Báo cáo COSO năm 1992 đã tạo lập một nền tảng lý luận cơ bản về KSNB, đóng vai trò như một bước khởi đầu làm nền tảng cho các doanh nghiệp khi xây dựng hệ thống kiểm soát nội bộ.

Trên cơ sở đó, hàng loạt các nghiên cứu về KSNB ở nhiều lĩnh vực ra đời như:

  • Phát triển theo hướng quản trị: Năm 2001, dựa trên báo cáo COSO 1992, COSO nghiên cứu hệ thống đánh giá rủi ro doanh nghiệp.
  • Phát triển theo hướng chuyên sâu và những ngành nghề cụ thể: Báo cáo Basle 1998 của Ủy ban Basle các ngân hàng trung ương công bố về khuôn khổ KSNB trong ngân hàng.
  • Phát triển theo hướng quốc gia: Nhiều quốc gia trên thế giới có khuynh hướng xây dựng một khuôn khổ lý thuyết riêng về KSNB, điển hình là báo cáo COSO 1995 (Canada), báo cáo Turnbull 1999 (Anh).

Trong lĩnh vực công, KSNB rất được xem trọng, nó là một đối tượng được quan tâm đặc biệt của kiểm toán viên nhà nước.

Về kiểm toán Nhà nước, hệ thống chuẩn mực kiểm toán Nhà nước do tổ chức quốc tế các cơ quan kiểm toán tối cao – International Organization of Supreme Audit Insitutuions (viết tắt là INTOSAI) bao gồm 178 thành viên, ban hành gồm quy tắc đạo đức nghề nghiệp và chuẩn mực kiểm toán. Một số quốc gia như Mỹ, Canada đã có những công bố chính thức về KSNB áp dụng cho các cơ quan hành chính sự nghiệp. Chuẩn mực về kiểm toán của Tổng kế toán nhà nước Hoa Kỳ (GAO) 1999 đề cập đến vấn đề KSNB đặc thù trong tổ chức hành chính sự nghiệp. GAO đưa ra năm yếu tố về KSNB bao gồm các quy định về môi trường kiểm soát, đánh giá rủi ro, các hoạt động kiểm soát, thông và truyền thông, giám sát.

Hệ thống chuẩn mực kiểm toán do INTOSAI ban hành bao gồm quy tắc đạo đức nghề nghiệp và chuẩn mực kiểm toán. Năm 1992, bản Hướng dẫn về chuẩn mực KSNB của INTOSAI đã hình thành một tài liệu đề cập đến việc nâng cấp các chuẩn mực KSNB, hỗ trợ cho việc thực hiện và đánh giá KSNB. Năm 2001, bản hướng dẫn của INTOSAI 1992 đã cập nhật thêm về các chuẩn mực KSNB để phù hợp với tất cả các đối tượng và phù hợp với sự phát triển gần đây trong KSNB. Điều cần lưu ý là tài liệu này đã tích hợp các lý luận chung về KSNB của báo cáo COSO. Bên cạnh việc cải thiện định nghĩa KSNB và xây dựng một sự hiểu biết thông thường về KSNB, tài liệu của INTOSAI trình bày những vấn đề đặc thù về khu vực công.

Năm 1992, INTOSAI đã ban hành hướng dẫn về kiểm soát nội bộ áp dụng cho khu vực công. Tài liệu này đã tích hợp các lý luận chung về kiểm soát nội bộ của báo cáo COSO và những điểm đặc thù của khu vực công. Hướng dẫn này được cập nhật vào năm 2001 và công bố vào năm 2004. Năm 2013, COSO tiếp tục cập nhật, công bố để vận dụng năm 2014; INTOSAI đưa ra hai nhóm chuẩn mực về kiểm soát nội bộ: chuẩn mực chung và chuẩn mực cụ thể. Chuẩn mực chung bao gồm các quy định về đảm bảo hợp lý; tinh thần tuân thủ; năng lực và phẩm chất; mục tiêu kiểm soát và giám sát. Chuẩn mực cụ thể đi vào các quy định về tổ chức hồ sơ, tài liệu; ghi chép kịp thời và đúng đắn các nghiệp vụ; phân chia trách nhiệm; tiếp nhận và báo cáo về nhân lực và sổ sách.

Tại Hoa Kỳ, năm 1999, cơ quan kiểm toán Nhà nước Hoa Kỳ (GAO) đã ban hành chuẩn mực về kiểm soát nội bộ trong chính quyền liên bang, nhằm đưa ra các quan điểm và hướng dẫn về kiểm soát nội bộ trong các đơn vị thuộc khu vực công.

Năm 1996, Kiểm toán Nhà nước Việt Nam là thành viên chính thức của tổ chức INTOSAI. Đến năm 1997, Việt Nam tham gia tổ chức các cơ quan kiểm toán tối cao Châu Á (ASOSAI). ASOSAI thành lập năm 1979, hiện nay có 45 thành viên. Từ tháng 10/2009, Việt Nam là thành viên Ban điều hành tổ chức này nhiệm kỳ 2009-2012.

1.1.2. Định nghĩa về kiểm soát nội bộ trong lĩnh vực công

Các nghiên cứu về kiểm soát nội bộ sau đó được phát triển mạnh, chuyên sâu vào các loại tổ chức hoặc các loại hình hoạt động khác nhau. Trong khu vực công, kiểm soát nội bộ cũng rất được quan tâm. Hướng dẫn về KSNB của Tổ chức quốc tế các cơ quan kiểm toán tối cao (INTOSAI) đã được ban hành năm 1992 và cập nhật năm 2001, đưa ra các quan điểm và hướng dẫn về kiểm soát nội bộ trong các đơn vị thuộc khu vực công. Tại Hoa Kỳ, Chuẩn mực về kiểm soát nội bộ trong chính quyền liên bang được Cơ quan Kiểm toán Nhà nước (GAO) ban hành năm 1999.

Theo INTOSAI (1992): đưa ra khái niệm về KSNB như sau:“Kiểm soát nội bộ là cơ cấu của một tổ chức, bao gồm nhận thức, phương pháp, quy trình và các biện pháp của người lãnh đạo nhằm bảo đảm sự hợp lý để đạt được mục tiêu của tổ chức. Trong đó, mục tiêu của tổ chức bao gồm: Thúc đẩy các hoạt động của đơn vị diễn ra có trình tự, đạt được tính hữu hiệu và hiệu quả trong việc thực hiện nhiệm vụ của đơn vị; Bảo vệ các nguồn lực không bị thất thoát, tham ô, lãng phí và sử dụng sai mục đích; Tuân thủ quy định của pháp luật và nội quy của đơn vị; Thiết lập và báo các các thông tin tài chính, thông tin quản lý kịp thời và đáng tin cậy.”

Theo INTOSAI (2001) định nghĩa về KSNB như sau: “KSNB là một quá trình xử lý toàn bộ được thực hiện bởi 7 nhà quản lý và các cá nhân trong tổ chức, quá trình này được thiết kế để phát hiện các rủi ro và cung cấp một sự đảm bảo hợp lý để đạt được nhiệm vụ của tổ chức”. Sau đây là những mục tiêu cần đạt được: Thực hiện các hoạt động một cách có kỷ cương, có đạo đức, có tính kinh tế, hiệu quả và thích hợp; Thực hiện đúng trách nhiệm;Tuân thủ pháp luật hiện hành và các nguyên tắc, quy định; Bảo vệ các nguồn lực chống thất thoát, sử dụng sai mục đích và tổn thất.

Theo INTOSAI (2004); Theo INTOSAI 1994: “Kiểm soát nội bộ là một quá trình bị chi phối bởi nhà quản lý và các nhân viên trong đơn vị, nó được thiết lập để đối phó với các rũi ro và cung cấp một sự đảm bảo hợp lý nhằm đạt được các mục tiêu chung của tổ chức”. Theo đó, có các đặc điểm quan trọng cần làm rõ đó là:

  • Kiểm soát nội bộ là một quá trình. Kiểm soát nội bộ không phải là từng hoạt động riêng rẽ mà là một chuỗi các hoạt động kiểm soát hiện diện ở mọi bộ phận trong đơn vị và được kết hợp với nhau thành một thể thống nhất. Quá trình này là phương tiện giúp đơn vị đạt được mục tiêu của mình.
  • Kiểm soát nội bộ chịu sự chi phối của con người. Kiểm soát nội bộ được thiết kế và vận hành bởi con người. Vì vậy, muốn hệ thống kiểm soát nội bộ thực sự hữu hiệu và hiệu quả, tạo thành sức mạnh tổng hợp thì từng thành viên trong tổ chức phải hiểu được trách nhiệm, quyền hạn của mình và hướng các hoạt động của họ đến mục tiêu chung của tổ chức.
  • Kiểm soát nội bộ được thiết lập để đối phó với rủi ro. Hoạt động của tổ chức phải luôn đối mặt với nhiều rủi ro tiềm ẩn. Kiểm soát nội bộ có thể giúp tổ chức nhận diện, chủ động phòng ngừa và đối phó với những rủi ro này, qua đó tối đa hóa khả năng đạt được mục tiêu.
  • Kiểm soát nội bộ cung cấp một sự đảm bảo hợp lý. Trong tổ chức luôn có những rủi ro tiềm tàng và trong bản thân hệ thống kiểm soát nội bộ cũng tồn tại những hạn chế tiềm tàng. Đó là sự phức tạp trong hoạt động của đơn vị, sự thông đồng của các cá nhân hay lạm quyền của nhà quản lý… Do đó, kiểm soát nội bộ chỉ có thể cung cấp một sự đảm bảo hợp lý trong việc đạt được mục tiêu của đơn vị chứ không thể đảm bảo tuyệt đối.

Các mục tiêu của kiểm soát nội bộ. Hoạt động của tổ chức luôn hướng về mục tiêu đề ra. Ở khu vực công, mục tiêu thường liên quan đến các dịch vụ công cộng và lợi ích cộng đồng, bao gồm:

+ Mục tiêu hoạt động: nhằm đạt được sự hữu hiệu và hiệu quả trong hoạt động của đơn vị.

+ Mục tiêu về báo cáo: báo cáo cung cấp các thông tin tài chính và phi tài chính kịp thời, phù hợp cho các đối tượng sử dụng.

+ Mục tiêu tuân thủ: tuân thủ công ước quốc tế, pháp luật của quốc gia và các quy định có liên quan.

+ Mục tiêu về quản lý nguồn lực: mục tiêu này là phần chi tiết hóa mục tiêu về hoạt động của đơn vị, nhưng do đặc thù của khu vực công nên INTOSAI muốn nhấn mạnh thêm tầm quan trọng của việc sử dụng hợp lý nguồn ngân sách, tránh lạm dụng, lãng phí nguồn lực của quốc gia.”

So sánh với Báo cáo COSO (1992), các chuẩn mực kiểm soát nội bộ trong khu vực công tập trung hơn vào các chức năng và đặc điểm của đơn vị nhà nước và các quy định có tính quy chuẩn hơn là chỉ hướng dẫn. Tại khái niệm này, khía cạnh đạo đức trong hoạt động thêm vào, mục tiêu của KSNB được nhấn mạnh hơn, đó chính là tầm quan trọng của hành vi đạo đức cũng như sự ngăn chặn và phát hiện dự gian trá và thanh nhũng trong khu vực công. Ngân sách được phân bố rộng rãi, chính vì vậy cần có các hoạt động kiểm soát nhằm đảm bảo Ngân sách được sử dụng đúng mục đích, các tài sản không bị thất thoát hay lãng phí. Vì vậy, việc bảo vệ nguồn lực cần được nhấn mạnh thêm tầm quan trọng trong KSNB đối với khu vực công. Trong tài liệu này còn nhấn mạnh đến những thông tin phi tài chính, bởi vì việc sử dụng rộng rãi hệ thống thông tin ngày càng tăng trong các tổ chức Nhà nước, kiểm soát công nghệ thông tin ngày càng trở nên quan trọng hơn.

Mục tiêu của tài liệu này là thiết lập và duy trì KSNB hữu hiệu trong khu vực công. Vì vậy, các nhà lãnh đạo của Chính phú rất quan tâm đến tài liệu này, họ xem tài liệu này là một nền tảng để thực hiện và giám sát KSNB trong tổ chức. INTOSAI (1994); INTOSAI (2004) đưa ra hai nhóm chuẩn mực và KSNB:

  • Chuẩn mực chung: Bao gồm các quy định về đảm bảo hợp lý, tinh thần tuân thủ, năng lực và phẩm chất, mục tiêu kiểm soát và giám sát.
  • Chuẩn mực cụ thể: Bao gồm các quy định về tổ chức hồ sơ, tài liệu; ghi chép kịp thời và đúng đắn các nghiệp vụ, phân chia trách nhiệm, tiếp cận và báo cáo về nguồn lực và sổ sách.

Trong khu vực công tại Việt Nam hiện nay, khái niệm kiểm soát nội bộ còn rất mới mẻ. Các nhà quản lý trong khu vực công thường dựa trên các quy định của pháp luật, kinh nghiệm cá nhân để hành xử hơn là một cái nhìn tổng quát và có hệ thống về công tác kiểm soát. Ngoài ra, việc thiếu một kỹ năng phân tích từ mục tiêu, rủi ro đến các hoạt động kiểm soát sẽ dẫn đến tổn hao nguồn lực vào những thủ tục kiểm soát không cần thiết trong khi lại bỏ sót những rủi ro quan trọng.

Tăng cường công tác kiểm soát nội bộ thu - chi ngân sách của UBND quận Thanh Khê thành phố Đà Nẵng
Tăng cường công tác kiểm soát nội bộ thu – chi ngân sách của UBND quận Thanh Khê thành phố Đà Nẵng

Tháng 5/1991, Kiểm toán Việt Nam chính thức xuất hiện với các Công ty kiểm toán độc lập; tháng 7/1994 với Kiểm toán Nhà nước và tháng 11/1997 với Kiểm toán nội bộ. Từ năm 1985, Ủy ban tổ chức đồng bảo trợ (COSO) của Hội đồng quốc gia chống gian lận về báo cáo tài chính đã được thành lập nhằm nghiên cứu KSNB, là nền tảng cơ sở lý luận cơ bản về KSNB.

Năm 1996, Kiểm toán Nhà nước Việt Nam là thành viên chính thức của INTOSAI (trang Website: www.kiemtoanvn.gov.vn) và đến năm 1997, Việt Nam tham gia Tổ chức các cơ quan kiểm toán tối cao châu Á (ASOSAI), từ tháng 10/2009 Việt Nam là thành viên Ban điều hành của tổ chức này nhiệm kỳ 2009- 2012 ( theo Tạp chí Kế toán và kiểm toán, tháng 8/2011).

Đặc điểm của Hệ thống KSNB khu vực công:

+ Một là, đặc điểm về đối tượng của Hệ thống KSNB khu vực công. Đối tượng của quản lý là các hoạt động của NSNN. Tuy nhiên các hoạt động của NSNN lại luôn gắn liền với các cơ quan nhà nước. Các cơ quan này vừa là người hưởng thụ nguồn kinh phí Nhà nước vừa là người tổ chức các hoạt động của NSNN. Do đó, các cơ quan này cũng trở thành đối tượng của Hệ thống KSNB khu vực công. Lấy chất lượng, hiệu quả đã đạt được của các hoạt động NSNN làm cơ sở để phân tích đánh giá động cơ, biện pháp tổ chức, điều hành hoạt động của đối tượng quản lý theo đúng nguyên tắc của quản lý NSNN, qua đó đảm bảo cho các nguồn lực tài chính của các quỹ công được sử dụng hợp lý và có hiệu quả, tránh được tình trạng thất thoát, lãng phí, tham ô, tham nhũng công quỹ.

+ Hai là, đặc điểm về việc sử dụng các phương pháp quản lý và các công cụ Hệ thống KSNB khu vực công. Nếu như phương pháp tổ chức, hành chính có ưu điểm là bảo đảm tính tập trung, thống nhất dựa trên nguyên tắc chỉ huy, quyền lực thì lại có nhược điểm là hạn chế kích thích, tính chủ động của các cơ quan tổ chức quản lý NSNN. Ngược lại, các phương pháp kinh tế, các đòn bẩy kinh tế có ưu điểm là phát huy được tính chủ động, sáng tạo nhưng lại có nhược điểm là hạn chế tính tập trung, thống nhất trong việc tổ chức các hoạt động NSNN theo cùng một hướng đích. Do đó, trong Hệ thống KSNB khu vực công, tùy theo đặc điểm của đối tượng quản lý cụ thể mà có thể lựa chọn phương pháp này hay phương pháp khác làm phương pháp nổi bật trên nguyên tắc chung là phải sử dụng đồng bộ và kết hợp chặt chẽ các phương pháp và công cụ quản lý. Bên cạnh đó phải đặc biệt chú trọng tới phương pháp, hành chính để đảm bảo tính tập trung, thống nhất. Đó là các phương pháp tổ chức, chỉ đạo, các công cụ pháp luật, thanh tra, kiểm tra. Đây cũng là đặc điểm quan trọng của Hệ thống KSNB khu vực công.

+ Ba là, đặc điểm về quản lý nội dung vật chất Hệ thống KSNB khu vực công. Nội dung vật chất của NSNN là các nguồn tài chính thuộc các quỹ công. Các quỹ tài chính đó có thể tồn tại dưới dạng tiền tệ hoặc tài sản, nhưng tổng số nguồn lực tài chính đó là biểu hiện về mặt giá trị, là đại diện cho một lượng của cải vật chất của xã hội. Điều đó càng có ý nghĩa và cần thiết bởi vì tổng nguồn lực tài chính thuộc các quỹ công chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn lực tài chính của toàn xã hội. Vì vậy, trong Hệ thống KSNB khu vực công, không những phải quản lý nguồn tài chính đang tồn tại dưới hình thức tiền tệ, dưới hình thức tài sản, mà còn phải quản lý sự vận động của tổng nguồn lực NSNN.

1.1.3. Các bộ phận cấu thành hệ thống kiểm soát nội bộ trong lĩnh vực công

Bộ phận cấu thành thứ nhất: Môi trường kiểm soát

Môi trường kiểm soát đã tạo nên một sắc thái chung cho một tổ chức, ảnh hưởng đến ý thức kiểm soát của các nhân viên. Môi trường kiểm soát là nền tảng cho tất cả các yếu tố khác trong KSNB, tạo lập một nề nếp kỷ cương, đạo đức và cơ cấu tổ chức. Các nhân tố trong môi trường kiểm soát bao gồm :

Sự liêm chính và giá trị đạo đức:

+ Sự liêm chính và tôn trọng giá trị đạo đức của nhà lãnh đạo và đội ngũ nhân viên xác định thái độ cư xử chuẩn mực trong công việc của họ, thể hiện qua sự tuân thủ các điều lệ, quy định và đạo đức về cách thức ứng xử của các cán bộ.

+ Đồng thời, các nhà lãnh đạo và đội ngũ nhân viên phải cho công chúng thấy được tinh thần này trong sứ mạng và tiêu chuẩn đạo đức của tổ chức công thông qua các văn bản chính thức.

Năng lực nhân viên:

+ Năng lực nhân viên bao gồm trình độ hiểu biết và kỹ năng làm việc cần thiết để đảm bảo việc thực hiện có kỷ cương, trung thực, tiết kiệm, hiệu quả và hữu hiệu, cũng như có sự am hiểu đúng đắn về trách nhiệm của bản thân trong việc thiết lập hệ thống KSNB.

+ Lãnh đạo và nhân viên phải duy trì một trình độ đủ hiểu được việc xây dựng thực hiện, duy trì KSNB, vai trò của KSNB và trách nhiệm của họ trong việc thực hiện sứ mạng chung của tổ chức.

+ Đào tạo là một phương thức hữu hiệu để nâng cao trình độ cho các thành viên trong tổ chức. Một trong những nội dung đào tạo là hướng dẫn về mục tiêu KSNB, phương pháp giải quyết những tình huống khó xử trong công việc.

Triết lý quản lý và phong cách lãnh đạo:

+ Triết lý quản lý và phong cách lãnh đạo thể hiện qua tính cách, tư cách và thái độ của nhà lãnh đạo điều hành. Nếu nhà lãnh đạo cấp cao cho rằng KSNB là quan trọng thì những thành viên khác trong tổ chức sẽ cảm nhận được điều đó và sẽ theo đó mà tận tâm xây dựng hệ thống KSNB. Tinh thần này biểu hiện thành những quy định đạo đức ứng xử trong cơ quan. Thí dụ như việc xây dựng kiểm toán nội bộ trong KSNB thể hiện sự quan tâm của nhà lãnh đạo đến KSNB.

+ Ngược lại, nếu các thành viên trong tổ chức cho rằng KSNB không quan trọng thì điều đó đồng nghĩa với việc nhà lãnh đạo chưa quan tâm đúng mức KSNB.

Kết quả là KSNB chỉ còn là hình thức chứ không có ý nghĩa thực sự, dẫn đến mục tiêu, nhiệm vụ của đơn vị không còn được như mong muốn.

Cơ cấu tổ chức:

+ Một cơ cấu tổ chức hợp lý sẽ đảm bảo cho sự thông suốt trong việc ủy quyền và phân công trách nhiệm. Cơ cấu tổ chức được thiết kế tổ chức sao cho có thể ngăn ngửa được sự vi phạm các quy chế KSNB và loại được những hoạt động không phù hợp. Hoạt động được xem là không phù hợp là những hoạt động mà sự kết hợp của chúng có thể dẫn đến sự vi phạm và che giấu sai lầm và gian lận.

+ Cơ cấu tổ chức bao gồm: Sự phân chia quyền và trách nhiệm báo cáo; Hệ thống báo cáo phù hợp.

Chính sách nhân sự:

+ Chính sách nhân sự bao gồm việc tuyển dụng, huấn luyện, giáo dục, đánh giá, bổ nhiệm, khen thưởng hay kỷ luật, hướng dẫn nhân viên.

+ Mỗi cá nhân đóng vai trò quan trọng trong KSNB, khả năng, sự tin cậy của nhân viên rất cần thiết để kiểm soát được hữu hiệu. Vì vậy, cách thức tuyển dụng dụng, huấn luyện, giáo dục, đánh giá, bổ nhiệm, khen thưởng hay kỷ luật là một phần quan trọng trong môi trường kiểm soát. Nhân viên được tuyển dụng phải bảo đảm về tư cách đạo đức cũng như kinh nghiệm trong việc thực hiện nhiệm vụ được giao.

+ Nhà lãnh đạo cần thiết lập các chương trình động viên, khuyến khích bằng các hình thức khen thưởng và nâng cao mức khuyến khích bằng các hình thức khen thưởng và nâng cao mức khuyến khích cho các hoạt động cụ thể. Đồng thời, các hình thức kỷ luật nghiêm khắc cho các hành vi vi phạm cũng cần có các nhà lãnh đạo quan tâm.

Bộ phận cấu thành thứ hai: Đánh giá rủi ro

KSNB phục vụ để đạt được mục tiêu tổ chức, việc đánh giá rủi ro là rất quan trọng vì nó ghi nhận các sự kiện quan trọng đe doạn đến mục tiêu, nhiệm vụ của đơn vị. Phân tích đánh giá rủi ro để thu hẹp vào những rủi ro chủ yếu. Việc nhận dạng rủi ro chủ yếu hết sức quan trọng vì nó liên quan đến những đe dọa của rủi ro và liên quan đến sự phân chia trách nhiệm và nguồn lực đối phó rủi ro.

Đánh giá rủi ro bao gồm quá trình nhận dạng và phân tích các rủi ro đe dọa mục tiêu của tổ chức và xác minh biện pháp xử lý phù hợp.

  • Nhận dạng rủi ro: Rủi ro bao gồm rủi ro bên trong và rủi ro bên ngoài, rủi ro ở cấp toàn đơn vị và rủi ro từng hoạt động. Tủi ro được xem xét liên tục trong suốt quá trình hoạt động của đơn vị. Liên quan đến khu vực công, các cơ quan nhà nước phải quản trị rủi ro ảnh hưởng đến mục tiêu giao phó.
  • Đánh giá rủi ro: Là đánh giá tầm quan trọng, ước tính thiệt hại mà rủi ro gây ra và khả năng xảy ra rủi ro. Có nhiều phương pháp đánh giá rủi ro tùy theo mỗi loại rủi ro, tuy nhiên, phải đánh giá rủi ro một cách có hệ thống. Ví dụ, phải xây dựng các tiêu chí đánh giá rủi ro, sau đó sắp xếp thứ tự các rủi ro, dựa vào đó nhà lãnh đạo sẽ phân bổ nguồn lực đối phó rủi ro.
  • Phát triển các biện pháp đối phó: Có bốn biện pháp đối phó rủi ro : phân tán rủi ro, chấp nhận rủi ro, tránh né rủi ro và xử lý hạn chế rủi ro. Trong phần lớn trường hợp các rủi ro phải được xử lý hạn chế và đơn vị duy trì KSNB để có biện pháp thích hợp bởi đơn vị của Nhà nước phải làm theo nhiệm vụ được giao. Các biện pháp xử lý hạn chế rủi ro ở mức độ hợp lý vì mối liên hệ giữa lợi ích và chi phí nếu nhận dạng được và đánh giá rủi ro thì sẽ có sự chuẩn bị tốt hơn.

Bộ phận cấu thành thứ ba: Hoạt động kiểm soát

Hoạt động kiểm soát là những chính sách và những thủ tục đối phó rủi ro và đảm bảo đạt được mục tiêu, nhiệm vụ của đơn vị. Để đạt được hiệu quả, hoạt động kiểm soát phải phù hợp, nhất quán giữa các thời kỳ, d hiểu, đáng tin cậy và liên hệ trực tiếp đến mục tiêu kiểm soát. Hoạt động kiểm soát có mặt xuyên suốt trong tổ chức, ở các mức độ và các chức năng. Hoạt động kiểm soát bao gồm kiểm soát phòng ngừa và phát hiện rủi ro.

  • Thủ tục phân quyền và xét duyệt: Việc thực hiện các nghiệp vụ chỉ được thực hiện bởi người được ủy quyền theo trách nhiệm và phạm vi của họ. Ủy quyền là một cách thức chủ yếu để đảm bảo rằng chỉ có những nghiệp vụ có thực mới được phê duyệt đúng mong muốn của người lãnh đạo. Các thủ tục ủy quyền phải được tài liệu hóa và công bố rõ ràng, phải bao gồm những điều kiện cụ thể.
  • Phân chia trách nhiệm: Một hệ thống kiểm soát đòi hỏi không có người nào được giao quá nhiều trách nhiệm và quyền hạn. Một người không thể khách quan thấy được hết các sai phạm và cũng như d tạo môi trường xảy ra gian lận. Các chức năng bất kiêm nhiệm mà một tổ chức cần phải phân định cho từng người riêng biệt là: Quyền được phê chuẩn ra quyết định; Ghi chép và bảo vệ tài sản.

Bộ phận cấu thành thứ tƣ: Thông tin và truyền thông

Thông tin trong một tổ chức được nghiên cứu nhằm phục vụ cho quá trình ra quyết định điều khiển các hoạt động của đơn vị. Như vậy không phải bất kỳ tin tức nào cũng trở thành thông tin cần thiết mà nó phải đáp ứng được các yêu cầu: Tính chính xác; Tính kịp thời; Tính đầy đủ và hệ thống; Tính bảo mật.

Thông tin được cung cấp qua hệ thống thông tin. Trong đó, hệ thống thông tin kế toán là một phần hệ quan trọng. Ngoài ra các phân hệ thông tin khác nhau như lưu trữ, tra cứu cũng rất cần thiết đối với KSNB vì nó cung cấp cơ sở cho những nhận định, phân tích tình hình hoạt động, về những rủi ro và những cơ hội liên quan đến hoạt động của đơn vị.

Truyền thông là một phần của hệ thống thông tin nhưng được nêu ra để nhấn mạnh vai trò của việc truyền đạt thông tin. Các kênh truyền thông bao gồm truyền thông từ cấp trên xuống cấp dưới, từ cấp dưới phản hồi lên cấp trên, trao đổi giữa các bộ phận trong tổ chức, giữa tổ chức với các đối tượng bên ngoài ….

Bộ phận cấu thành thứ năm: Giám sát

Giám sát là quá trình mà người quản lý đánh giá chất lượng của hoạt động kiểm soát. Điều quan trọng trong giám sát là phải xác định KSNB có vận hành đúng như thiết kế không và có cần thiết phải sửa đổi chúng cho phù hợp với từng giai đoạn không. Để đạt được kết quả, cần phải thực hiện những hành động giám sát thường xuyên hoặc định kỳ.

1.2. Quy tình kiểm soát nội bộ đối với thu – chi của cơ quan tài chính cấp Quận:

1.2.1. Quy trình kiểm soát thu ngân sách cấp Quận

1.2.1.1. Khái niệm, đặc điểm, nội dung thu ngân sách cấp Quận

        • Khái niệm:

Theo Luật Ngân sách Nhà nước số 01/2002/QH11 của Quốc hội nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam ban hành ngày 16/12/2002 thì “Thu ngân sách nhà nước bao gồm các khoản thu từ thuế, phí, lệ phí, các khoản thu từ hoạt động kinh tế của Nhà nước; các khoản đóng góp của các tổ chức và cá nhân; các khoản viện trợ; các khoản thu khác theo quy định của pháp luật”.

Đặc điểm:

Mọi khoản thu ngân sách đều được hạch toán bằng đồng Việt Nam. Các khoản thu ngân sách nhà nước bằng ngoại tệ, bằng hiện vật bằng ngày công lao động được quy đổi ra đồng Việt Nam theo tỷ giá hạch toán hoặc giá hiện vật, giá ngày công lao động do cơ quan có thẩm quyền quy định để hạch toán thu ngân sách nhà nước tại thời điểm phát sinh. (Trích khoản 9, phần I, Thông tư 59/2003/TT.BTC ngày 23/6/2003 của Bộ Tài chính Hướng dẫn thực hiện Nghị định 60/2003/NĐ-CP ngày 6/6/2003 của Chính phủ quy định chi tiết và Hướng dẫn thi hành Luật Ngân sách Nhà nước)

Ngân sách Nhà nước được phân chia thành ngân sách trung ương và ngân sách địa phương, trong đó ngân sách địa phương gồm ngân sách cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; Ngân sách cấp huyện và ngân sách cấp xã, phường , thị trấn

+ Ngân sách trung ương và ngân sách các cấp chính quyền được phân cấp nguồn thu và nhiệm vụ chi cụ thể.

+ Ngân sách trung ương đóng vai trò chủ đạo, bảo đảm thực hiện các nhiệm vụ chiến lược, quan trọng của quốc gia và hỗ trợ các địa phương chưa cân đối được ngân sách.

+ Ngân sách địa phương được phân cấp nguồn thu để chủ động thực hiện những nhiệm vụ được giao.

Nội dung:

Thu NSNN là quá trình Nhà nước sử dụng hệ thống các công cụ chính sách pháp luật để tiến hành quản lý thu thuế, phí, lệ phí và các khoản thu khác vào ngân sách nhà nước nhằm đảm bảo tính công bằng trong khuyến khích sản xuất kinh doanh phát triển; là nguồn thu của Nhà nước huy động vào ngân sách mà không bị ràng buộc bởi trách nhiệm hoàn trả trực tiếp cho đối tượng nộp ngân sách. Phần lớn các nguồn thu ngân sách nhà nước đều mang tính chất bắt buộc mọi người dân, mọi thành phần kinh tế phải thực hiện.

Các nguồn thu ngân sách, thuế là nguồn thu quan trọng nhất. Thuế không chỉ chiếm một tỷ trọng lớn trong tổng số thu ngân sách nhà nước hàng năm mà còn là công cụ của đòn bẩy kinh tế nhà nước để quản lý thúc đẩy phát triển hoặc kìm hãm các thành phần kinh tế trong nền kinh tế quốc dân. Để phát huy tốt tác dụng điều tiết vĩ mô của các chính sách thuế, ở nước ta cũng như các nước khác trên thế giới, nội dung của chính sách thuế thường xuyên thay đổi cho phù hợp với di n biến thực tế của đời sống kinh tế – xã hội và yêu cầu của phát triển quản lý kinh tế, tài chính.

1.2.1.2. Quy trình kiểm soát thu ngân sách cấp Quận/Huyện:

Căn cứ các Thông tư hướng dẫn hàng năm của Bộ Tài chính trong quá trình xây dựng dự toán ngân sách, tổ chức thực hiện nhiệm vụ tài chính NSNN, lập báo cáo quyết toán NSNN, tác giả tóm tắt quy trình kiểm soát nguồn thu gồm các bước sau:

Bước 1: Rà soát số liệu thu ngân sách do Kho bạc nhà nước báo cáo định kỳ hàng tháng, phân tích các chỉ tiêu thu thuộc trách nhiệm thu của ngân sách cấp Quận/huyện

Bước 2: Đối chiếu giữa báo cáo thu ngân sách của Chi cục thuế với báo cáo của Kho bạc nhà nước để xác định số thu thực tế các doanh nghiệp đã nộp vào ngân sách nhà nước thông qua kho bạc nhà nước, kết hợp các nguồn thu khác ngân sách không do Chi cục thuế trực tiếp quản lý thu như bán tài sản tịch thu, tài sản thanh lý vào báo cáo tổng hợp nguồn thu ngân sách cấp Quận/huyện.

Bước 3: So sánh số thực thu ngân sách hành tháng với chỉ tiêu pháp lệnh tỉnh giao lập báo cáo đánh giá kết quả thực hiện dự toán thu ngân sách, phân tích nguyên nhân các chỉ tiêu thu đạt, vượt, chưa đạt.

Bước 4: Đề xuất giải pháp tăng thu ngân sách, chống thất thu ngân sách tham mưu UBND huyện chỉ đạo UBND các xã, thị trấn, Hội đồng tư vấn thuế cấp xã, phường, thị trấn và Chi cục thuế thự hiện giải pháp nhằm tăng thu ngân sách đạt và vược chỉ tiêu pháp lệnh tỉnh giao.

1.2.2. Quy trình kiểm soát chi ngân sách cấp Quận/huyện

1.2.2.1. Khái niệm, đặc điểm, nội dung chi ngân sách cấp Quận/ huyện

Theo Luật Ngân sách Nhà nước số 01/2002/QH11 của Quốc hội nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam ban hành ngày 16/12/2002 và các Thông tư hướng dẫn của Bộ Tài chính

Khái niệm:

Chi ngân sách là thể hiện chức năng quản lý của nhà nước ở khâu phân bổ ngân sách phải công khai, minh bạch còn hiệu quả sử dụng ngân sách như thế nào thì phải thông qua các biện pháp quản lý để đạt hiệu quả sử dụng vốn ngân sách.

Chi NSNN là quá trình thực hiện có hệ thống các biện pháp tính toán, phân phối và sử dụng nguồn tiền của ngân sách nhằm phục vụ chi tiêu cho bộ máy để thực hiện các chức năng của quản lý Nhà nước trong lĩnh vực sử dụng ngân sách nhà nước, là quá trình sử dụng các nguồn vốn chi tiêu của Nhà nước từ khâu lập dự toán phân bổ ngân sách đến khâu sử dụng ngân sách nhằm đảm bảo quá trình chi tiết kiệm và hiệu quả, phù hợp với yêu cầu của thực tế theo đúng chính sách chế độ của nhà nước phục vụ các mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội của địa phương.

Đặc điểm:

+ Đặc điểm thứ nhất: chính quyền cấp huyện là một cấp hành chính trực thuộc chính quyền cấp tỉnh trong hệ thống hành chính ở nước ta hiện nay với những chức năng nhiệm vụ được quy định trong luật tổ chức HĐND và UBND các cấp, tuy nhiên cấp này chỉ mang tính độc lập tương đối, chịu sự lãnh đạo toàn diện của tỉnh.

+ Đặc điểm thứ hai: theo luật NSNN hiện hành, ngân sách cấp huyện thuộc tỉnh là một cấp ngân sách chưa hoàn chỉnh với nguồn thu và nhiệm vụ chi được quy định cụ thể để đảm bảo hoàn thành chức năng nhiệm vụ của cấp mình. Tuy nhiên do luật ngân sách cũng đã quy định đối với các khoản thu phân chia giữa các cấp ngân sách thì Quốc hội quyết định tỷ lệ điều tiết ngân sách giữa Trung ương và địa phương, còn HĐND tỉnh thì quyết định tỷ lệ điều tiết giữa ngân sách tỉnh, ngân sách thành phố với huyện và ngân sách xã. Do đó có thể thấy rằng quy mô ngân sách, khả năng tự cân đối của ngân sách cấp huyện hoàn toàn phụ thuộc vào việc phân cấp nguồn thu, phân bổ dự toán chi của tỉnh đối với huyện cũng như tỷ lệ điều tiết ngân sách giữa ngân sách tỉnh và ngân sách huyện.

+ Đặc điểm thứ ba: do không phải là cấp có thể hình thành các chính sách, chế độ về thu, chi ngân sách nên nội dung thu, chi của ngân sách cấp huyện do HĐND và UBND tỉnh quyết định, do đó trong thực ti n phát sinh mâu thuẫn giữa yêu cầu nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội ở địa phương với nhiệm vụ chi được giao trên cơ sở cân đối ngân sách đã được ổn định (thời gian từ 3-5 năm theo luật ngân sách quy định). Điều này đặt ra yêu cầu là các cơ quan xây dựng chính sách, chế độ thu, chi ngân sách (Sở Kế hoạch và Đầu tư, Sở Tài chính, Ban Kinh tế ngân sách thuộc HĐND tỉnh) tham mưu việc phân cấp nguồn thu, nhiệm vụ chi và tỷ lệ điều tiết cho ngân sách cấp huyện phải xuất phát từ thực ti n để tham mưu cơ quan có thẩm quyền của tỉnh quyết định, tránh yếu tố cảm tính, thiếu cơ sở khoa học. Đồng thời phân cấp phải trên quan điểm tăng quyền chủ động của ngân sách cấp huyện, cấp xã để tạo điều kiện cho huyện và xã hoàn thành ngày càng tốt hơn nhiệm vụ phát triển KT-XH ở địa phương.

+ Đặc điểm thứ tư: Đối với chi ngân sách thường xảy ra tình trạng mâu thuẫn giữa nhiệm vụ chi được giao và nguồn để trang trải nhiệm vụ chi (thể hiện qua công tác giao dự toán hàng năm), đôi khi tạo ra cảm giác không bình đẳng, có sự ấn định chưa hợp lý từ cấp tỉnh.

Nội dung:

Kiểm soát chi NSNN là việc tổ chức quản lý giám sát các khoản chi sao cho đúng định mức, tiết kiệm và có hiệu quả cao, muốn vậy cần phải quan tâm các mặt sau:

+ Phải gắn chặt nhiệm vụ chính trị được giao với việc bố trí các khoản chi làm cơ sở cho việc quản lý xây dựng quy chế kiểm tra, kiểm soát.

+ Bảo đảm yêu cầu sử dụng đúng định mức, tiết kiệm và hiệu quả trong việc quản lý và sử dụng ngân sách nhà nước.

+ Kiểm soát chi phải thực hiện các biện pháp đồng bộ, kiểm tra giám sát trước, trong và sau khi chi.

+ Việc giao dự toán cho các phòng ban thuộc huyện, phân cấp quản lý các khoản chi cho UBND các xã phải phân biệt rõ nhiệm vụ chính trị được giao cho từng cơ quan, đơn vị, UBND các xã để phục vụ phát triển kinh tế – xã hội của địa phương cấp quận/huyện để bố trí các khoản chi cho thích hợp đúng với luật ngân sách.

+ Kiểm soát chi ngân sách phải kết hợp quản lý các khoản chi ngân sách thuộc ngân sách nhà nước với các khoản chi của các thành phần kinh tế (kết hợp tất cả các nguồn xã hội hóa) để tạo ra sức mạnh tổng hợp, nâng cao hiệu quả chi.

+ Kiểm soát chi thường xuyên bao gồm các nội dung sau:

  • Xây dựng hệ thống định mức chi ngân sách. Đây là công cụ rất quan trọng để cơ quan tài chính các cấp có căn cứ để lập phương án phân bổ ngân sách, kiểm tra quá trình chấp hành ngân sách và thẩm tra xét duyệt quyết toán của các đơn vị sử dụng ngân sách. Bên cạnh đó định mức chi cũng là cơ sở pháp lý để các đơn vị sử dụng ngân sách triển khai thực hiện dự toán ngân sách được giao theo đúng chế độ quy định. Định mức chi bao gồm hai loại: định mức phân bổ và định mức sử dụng ngân sách.
  • Định mức phân bổ ngân sách:

Đây là định mức mang tính chất tổng hợp. Lọai định mức này biểu hiện như: định mức kinh phí hành chính trên một biên chế, định mức chi tổng hợp cho một học sinh thuộc các cấp học, một giường bệnh; định mức cho sự nghiệp văn hóa thông tin, phát thanh truyền hình, thể dục thể thao tính trên một người dân… Định mức này có thể ban hành hàng năm hoặc tính cho cả một thời kỳ ổn định ngân sách có tính đến yếu tố điều chỉnh tăng hàng năm do trượt giá. Trên cơ sở tổng chi ngân sách huyện được Sở Tài chính giao và định mức phân bổ ngân sách của UBND Tỉnh, các huyện phân bổ cho các ngành, các cấp, các đơn vị thụ hưởng ngân sách phù hợp với điều kiện KT-XH và khả năng ngân sách của địa phương mình.

  • Định mức sử dụng ngân sách:

Loại định mức này biểu hiện như chế độ tiền lương, phụ cấp lương, các khoản đóng góp bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, kinh phí công đoàn, chế độ công tác phí,… Theo quy định hiện hành phần lớn các định mức này do Bộ Tài chính ban hành. Đối với địa phương thì HĐND Tỉnh được ban hành một số định mức, chế độ chi tiêu phù hợp với đặc thù địa phương. Đây là cơ sở pháp lý để các huyện chấp hành khi chi tiêu ngân sách được cấp và cũng là cơ sở để KBNN thực hiện kiểm soát chi.

+ Do tầm quan trọng của định mức đối với công tác quản lý chi thường xuyên nên khi xây dựng định mức cần chú ý các yêu cầu sau:

  • Định mức chi phải được xây dựng một cách khoa học, không mang tính áp đặt chủ quan từ cấp trên xuống, phải phù hợp với đặc điểm hoạt động của từng địa phương, đơn vị và với từng nội dung chi.
  • Định mức chi phải mang tính thực ti n cao, phản ảnh được mức độ phù hợp của các định mức chi với nhu cầu kinh phí cho hoạt động. Phải tổ chức theo dõi và đánh giá tình hình thực hiện định mức, từ đó điểu chỉnh kịp thời cho phù hợp với biến động của thực ti n.
  • Định mức phải mang tính ổn định nhằm đảm bảo ổn định chi thường xuyên trong cân đối ngân sách cũng như thực hiện hiện chính sách khoán chi hành chính, giao quyền tự chủ cho các đơn vị sự nghiệp có thu.

+ Lập dự toán chi thường xuyên.

Khi lập dự toán chi thường xuyên phải dựa trên các căn cứ sau:

  • Các chỉ tiêu phát triển kinh tế – xã hội, đảm bảo Quốc phòng – An ninh.
  • Chính sách của Nhà nước về hoạt động của bộ máy QLNN, các hoạt động sự nghiệp, ANQP và các hoạt động khác trong từng giai đoạn nhất định.
  • Các chế độ, tiêu chuẩn, định mức do cơ quan có thẩm quyền quy định; định mức phân bổ dự toán ngân sách do Thủ tướng chính phủ, HĐND Tỉnh,Thành phố trực thuộc trung ương ban hành theo phân cấp.
  • Chỉ thị của Thủ tướng chính phủ, Chỉ thị của UBND tỉnh, Hướng dẫn của thông tư hướng dẫn lập dự toán ngân sách của Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và đầu tư về xây dựng kế hoạch phát triển KT-XH và dự toán NSNN và văn bản hướng dẫn của cơ quan chủ quản các cấp (Sở Tài chính, Tổng Cục thuế, Cục Thuế)
  • Số kiểm tra về dự toán ngân sách được cơ quan có thẩm quyền thông báo, tình hình thực hiện dự toán năm báo cáo và các năm liên kề.

+ Chấp hành dự toán chi thường xuyên. Đây là nội dung rất quan trọng trong chi ngân sách, là khâu thứ hai trong chu trình quản lý ngân sách. Mục tiêu chính của việc tổ chức chấp hành dự toán chi thường xuyên là đảm bảo phân phối, cấp phát và sử dụng kinh phí được phân bổ một cách hợp lý, tiết kiệm và có hiệu quả. Muốn vậy trong quá trình tổ chức chấp hành dự toán chi thường xuyên cần chú trọng các yêu cầu sau: phân phối nguồn vốn một cách hợp lý, có trọng tâm,trọng điểm trên cở sở dự toán chi đã xác định; đảm bảo cấp phát vốn kịp thời, đúng nguyên tắc; tuân thủ đúng nguyên tắc tiết kiệm, hiệu quả trong sử dụng vốn NSNN.

Trong khâu này cần tăng cường công tác kiểm tra giám sát của cơ quan tài chính các cấp, công tác kiểm soát chi của KBNN và hơn hết là nâng cao ý thức chấp hành dự toán, sử dụng có hiệu quả, tiết kiệm nguồn kinh phí được cấp của các đơn vị sử dụng ngân sách.

+ Quyết toán chi thường xuyên. Đây là khâu kết thúc của chu trình quản lý các khoản chi thường xuyên của ngân sách. Quyết toán chi thường xuyên cũng được lập từ cơ sở và tổng hợp từ dưới lên theo hệ thống các cấp dự toán và các cấp ngân sách.Quá trình quyết toán chi thường xuyên phải chú ý các nội dung sau:

  • Phải lập đầy đủ các loại báo cáo quyết toán và gởi kịp thời các loại báo cáo đó cho các cơ quan có thẩm quyền thẩm định, xét duyệt hoặc phê chuẩn theo quy định của luật NSNN.
  • Số liệu trong báo cáo quyết toán phải đảm bảo chính xác, trung thực,theo đúng mục lục ngân sách quy định.
  • Báo cáo quyết toán năm của các đơn vị dự toán và của ngân sách các cấp phải được KBNN đồng cấp xác nhận về tổng số và chi tiết trước khi trình cấp có thẩm quyền xem xét phê duyệt.

Qua công tác quyết toán chi thường xuyên ngân sách sẽ giúp các cơ quan quản lý phân tích đánh giá quá trình chấp hành ngân sách, chấp hành các định mức nhà nước đã quy định của các đơn vị thụ hưởng ngân sách cũng như của các cấp ngân sách, nâng cao trách nhiệm của các đơn vị trong quá trình sử dụng ngân sách; làm cơ sở cho việc xây dựng cũng như điều chỉnh các định mức phân bổ ngân sách, xây dựng dự toán ngân sách cho năm sau.

1.2.2.2. Quy trình kiểm soát chi ngân sách cấp Quận/huyện

Quy trình kiểm soát các khoản chi ngân sách của cơ quan tài chính cấp huyện gồm:

Kiểm soát quá trình cấp phát, thanh toán vốn đầu tƣ phát triển:

+ Lập kế hoạch vốn đầu tư phát triển hàng năm.

Các dự án đầu tư từ NSNN chỉ được ghi vốn kế hoạch khi đủ các điều kiện theo quy định hiện hành của Nhà nước về quản lý đầu tư và xây dựng. Trong thời gian lập dự toán ngân sách hàng năm, căn cứ vào tiến độ của dự án, chủ đầu tư lập

kế hoạch vốn đầu tư của dự án gởi phòng tài chính – kế hoạch để tổng hợp vào dự toán chi ngân sách theo quy định của luật NSNN.

Sau khi dự toán chi NSNN được UBND tỉnh và Sở Tài chính giao, phòng Tài chính kế hoạch chủ trì phối hợp với các cơ quan chức năng của huyện tham mưu cho UBND cấp huyện phân bổ vốn đầu tư cho từng dự án do huyện quản lý. Sau khi phân bổ UBND huyện gởi kế hoạch vốn đầu tư cho Sở Tài chính.

+ Thông báo kế hoạch thanh toán vốn đầu tư phát triển hàng năm:

Đối với các dự án do huyện quản lý, phòng Tài chính kế hoạch huyện thông báo kế hoạch thanh toán vốn đầu tư cho KBNN cùng cấp để làm căn cứ thanh toán vốn cho các dự án đồng thời gửi cho các ngành để phối hợp theo dõi quản lý.

Chủ đầu tư phải gởi cho cơ quan tài chính các cấp các tài liệu cơ sở của dự án để kiểm tra, thông báo kế hoạch thanh toán vốn đầu tư cho dự án, cụ thể:

Văn bản phê duyệt đề cương hoặc nhiệm vụ dự án quy hoạch; văn bản cho phép tiến hành chuẩn bị đầu tư.

Dự toán chi phí cho công tác quy hoạch, chuẩn bị đầu tư hoặc chuẩn bị thực hiện dự án.

Quyết định phê duyệt dự án của cấp có thẩm quyền; quyết định phê duyệt thiết kế kỹ thuật và tổng dự toán.

+ Cấp phát vốn đầu tư XDCB thuộc NSNN.

Để được cấp phát vốn đầu tư, các dự án đầu tư phải đảm bảo các điều kiện sau: Phải có đủ thủ tục đầu tư theo quy định.

Đã được ghi vào kế hoạch đầu tư phát triển của năm.

Đã tổ chức đấu thầu tuyển chọn được đơn vị tư vấn mua sắm vật tư, thiết bị và xây lắp theo quy định

Có Hợp đồng, biên bản nghiệm thu, thanh toán khối lượng hoàn thành và thanh lý hợp đồng

+ Phương pháp cấp phát vốn đầu tư phát triển gồm hai khâu:

Cấp phát tạm ứng: nhằm đảm bảo ứng trước vốn cho các đơn vị thực hiện các công việc thi công xây lắp, mua sắm thiết bị, thuê tư vấn, đền bù giải phóng mặt bằng. Do vậy cấp tạm ứng nhằm tạo điều kiện cho các đơn vị hoàn thành dự án đúng kỳ hạn.

Cấp phát khối lượng hoàn thành: đây là nội dung chính của cấp phát vốn đầu tư phát triển và là khâu quyết định nhằm đảm bảo cấp phát đúng thiết kế, đúng kế hoạch và dự toán được duyệt. Nội dung cấp phát theo khối lượng công trình hoàn thành bao gồm: khối lượng công tác quy hoạch hoàn thành, khối lượng công tác chuẩn bị đầu tư hoàn thành, khối lượng thực hiện dự án đầu tư hoàn thành, các chi phí khác của dự án.

+ Quyết toán vốn đầu tư phát triển:

Tất cả các dự án đầu tư sử dụng vốn NSNN đều phải thực hiện quyết toán vốn đầu tư xây dựng công trình ngay sau khi công trình hoàn thành bàn giao đưa vào khai thác, sử dụng. Vốn đầu tư được quyết toán là toàn bộ chi phí hợp pháp đã được thực hiện trong quá trình đầu tư để đưa dự án vào khai thác sử dụng. Chi phí hợp pháp là chi phí thực hiện đúng với thiết kế, tổng dự toán, dự toán chi tiết được duyệt, đảm bảo đúng định mức, đơn giá, khối lượng thực tế đã thực hiện theo hợp đồng kinh tế được ký kết giữa chủ đầu tư và đơn vị được chỉ định thầu hoặc trúng thầu tư vấn, cung cấp thiết bị, thi công xây lắp phù hợp với các quy định pháp luật hiện hành. Báo cáo quyết toán vốn đầu tư phải xác định đầy đủ, chính xác tổng chi phí đầu tư đã thực hiện; phân định rõ nguồn vốn đầu tư; chi phí đầu tư được phép không tính vào giá trị tài sản hình thành qua đầu tư dự án; giá trị tài sản cố định hình thành qua đầu tư dự án; đồng thời phải bảo đảm đúng nội dung, thời gian lập, thẩm tra và phê duyệt theo quy định.

LIỆN HỆ:

SĐT+ZALO: 0935568275

E:\DỮ LIỆU COP CỦA CHỊ YẾN\LUAN VAN DUY TAN\LUAN VAN DUY TAN\TRAN THI KIEU OANH

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *