Quản lý nhà nước về giảm nghèo trên địa bàn huyện Đông Giang

Quản lý nhà nước về giảm nghèo trên địa bàn huyện Đông Giang

Qun lý nhà nưc v gim nghèo trên đa bàn huyn Đông Giang, tnh Qung Nam

1. Tính cấp thiết của đề tài

Sau 30 năm đổi mới và phát triển, chúng ta đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng về kinh tế – xã hội. Tăng trưởng kinh tế bền vững trên diện rộng trong suốt hai thập kỷ qua đã cải thiện chất lượng cuộc sống cho hầu hết tất cả người dân. Kết quả điều tra mức sống dân cư  năm 2012 của Ngân hàng Thế giới và Tổng cục Thống kê mới công bố năm 2014 cho thấy, tính theo mức 02 đô la/người/ngày, số người nghèo của Việt Nam năm 1993 là khoảng 62,1 triệu người, đến năm 2004 giảm xuống còn khoảng 49,3 triệu người; đến năm 2012 chỉ còn 11,5 triệu người (so với 1993 đã giảm 81,5% tương ứng là 50,6 triệu người đã thoát nghèo). Tính theo mức 1,25 đô la/người/ngày, số người nghèo năm 1993 khoảng 48,4 triệu người, đến năm 2005 còn khoảng 24,7 triệu người và đến năm 2012 chỉ còn 2,9 triệu người (so với 1993 đã giảm 94% tương ứng 45,5 triệu người đã thoát nghèo). Tính theo chuẩn do Ngân hàng Thế giới và Tổng cục Thống kê đang áp dụng, số người nghèo năm 1993 là khoảng 40,5 triệu và đến năm 2012 còn 15,3 triệu người. Nếu tính theo chuẩn nghèo quốc gia, tỷ lệ nghèo còn thấp hơn nữa, năm 2005 là 22,31%; năm 2010 là 14,2% và 9,6% vào cuối năm 2012 tương ứng với khoảng 2,1 triệu hộ nghèo. Từ năm 2009, nước ta đã thoát khỏi danh sách các nước nghèo của thế giới; năm 2010, nước ta trở thành nước thu nhập trung bình thấp.

Huyện Đông Giang được thành lập ngày 10/3/1963, trên cơ sở giải thể huyện Thống Nhất. Năm 1974, Ban Thường vụ Đặc khu ủy Quảng Đà ra nghị quyết hợp nhất huyện Đông Giang và Tây Giang thành huyện Đông – Tây Giang, sau được gọi là huyện Hiên. Đến ngày 17/7/2003, huyện Hiên lại được chia tách thành 2 huyện Đông Giang và Tây Giang như hiện nay. 

Sau 15 năm xây dựng và trưởng thành, huyện Đông Giang đã phát triển trên tất cả các mặt: kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân của huyện Đông Giang đạt 16,34%/năm; tổng mức đầu tư hơn 13.294 tỷ đồng. Đặc biệt, công tác an sinh xã hội được tập trung triển khai mạnh mẽ và phát huy hiệu quả tích cực, huyện đã đầu tư nhiều công trình, dự án trọng điểm và hỗ trợ thu hút đầu tư phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp góp phần phát triển kinh tế của huyện, tăng thu nhập cho người dân, giảm tỷ lệ hộ nghèo. Tính đến cuối năm 2017, tỷ lệ hộ nghèo của huyện giảm còn 36,94%, thu nhập bình quân đầu người đạt 19,12 triệu đồng.

Những kết quả trong công tác giảm nghèo ở huyện Đông Giang mới chỉ là bước đầu, nên còn khá nhiều bất cập như: tình trạng tái nghèo vẫn diễn ra; việc sử dụng các nguồn lực trong giảm nghèo chưa đạt được hiệu quả như mong muốn; việc tuyên truyền nâng cao ý thức thoát nghèo cho người dân còn hạn chế… Tuy nhiên, làm sao để thoát nghèo nhanh nhưng bền vững ở một địa bàn với đặc điểm đại bộ phận nhân dân sống bằng nghề nông – lâm nghiệp, sản xuất còn manh mún, nhỏ lẻ đang là vấn đề đang được cả hệ thống chính trị địa phương và người dân hết sức quan tâm.

Xuất phát từ những phân tích trên, tác giả chọn đề tài: “Quản lý nhà nước về giảm nghèo trên địa bàn huyện Đông Giang, tỉnh Quảng Nam” làm luận văn tốt nghiệp cao học.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

Luận văn được thực hiện nhằm đánh giá thực trạng công tác quản lý nhà nước về giảm nghèo, chỉ ra những mặt hạn chế và nguyên nhân. Từ đó đề xuất những giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về giảm nghèo tại huyện Đông Giang, tỉnh Quảng Nam.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

– Phân tích khái quát một số vấn đề lý luận của công tác quản lý nhà nước về giảm nghèo.

– Phân tích, đánh giá thực trạng việc thực hiện công tác quản lý nhà nước về giảm nghèo tại huyện Đông Giang, tỉnh Quảng Nam để chỉ ra những thành công, hạn chế và nguyên nhân dẫn tới hạn chế trong công tác này.

– Đề xuất một số giải pháp nhằm nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về giảm nghèo tại huyện Đông Giang, tỉnh Quảng Nam trong thời gian tới.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Việc thực hiện công tác quản lý nhà nước về giảm nghèo tại huyện Đông Giang, tỉnh Quảng Nam.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

– Về không gian: Địa bàn nghiên cứu được giới hạn ở phạm vi huyện Đông Giang, tỉnh Quảng Nam

– Về thời gian nghiên cứu: Đánh giá thực trạng công tác quản lý nhà nước về giảm nghèo tại Đông Giang, tỉnh Quảng Nam từ năm 2015 đến nay.

– Về nội dung nghiên cứu: Tập trung phân tích thực trạng công tác quản lý nhà nước về giảm nghèo tại huyện Đông Giang, chỉ ra những điểm thành công, hạn chế và nguyên nhân dẫn tới hạn chế. Đề xuất các giải pháp khuyến nghị đối với công tác quản lý nhà nước về giảm nghèo

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

5.1. Cơ sở lý luận

Nghiên cứu được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, dựa trên nền tảng lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; quan điểm, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về xóa đói, giảm nghèo trong thời kỳ đổi mới.

5.2. Phương pháp nghiên cứu

Đề đạt được mục tiêu nghiên cứu, các phương pháp chủ yếu sử dụng trong nghiên cứu này bao gồm:

Phương pháp nghiên cứu tài liệu thứ cấp: phân tích, tổng hợp, hệ thống hóa, khái quát hóa các tài liệu sẵn có từ các nguồn tài liệu chính thức, từ các công trình nghiên cứu của các tác giả đã nghiên cứu trước đây, các bài viết, tạp chí, sách báo, internet,.. từ các báo cáo của cơ quan chức năng huyện Đông Giang, tỉnh Quảng Nam về các vấn đề có liên quan đến giảm nghèo bền vững.

Phương pháp quy nạp – diễn dịch: được tác giả sử dụng để diễn đạt, phân tích và giải thích các vấn đề có liên quan đến nghèo đói, giảm nghèo, giảm nghèo bền vững, từ đó khái quát hiện trạng quản lý nhà nước về giảm nghèo bền vững tại huyện Đông Giang để đưa ra các giải pháp cụ thể nhăm nâng cao hiệu lực, hiệu quả của hoạt động quản lý nhà nước.

Phương pháp phân tích có sự tham gia: để phân tích giảm nghèo bền vững, bên cạnh việc phân tích các tài liệu thứ cấp, tác giả cũng sẽ phỏng vấn các cán bộ quản lý thuộc các cơ quan có liên quan tới công tác giảm nghèo tại huyện Đông Giang.

Phương pháp điều tra khảo sát:

Việc điều tra khảo sát được tiến hành với 3 đối tượng là: người nghèo; cán bộ, công chức ở các xã; cán bộ, công chức lãnh đạo quản lý cấp huyện. Mục đích chính của điều tra khảo là thu thập thông tin sơ cấp cần thiết để phân tích, đánh giá các hoạt động quản lý nhà nước về giảm nghèo bền vững.

Đối với người nghèo: Các phiếu điều tra dành cho đối tượng là người nghèo được thực hiện ngẫu nhiên tại 5 xã của huyện với số lượng 150 phiếu (30 phiếu/xã). Phiếu trả lời sẽ được thu thập, xử lý và sử dụng vào phân tích, đánh giá các nội dung nghiên cứu để có được các kết quả khách quan, phục vụ cho đề tài nghiên cứu.

Để kết quả nghiên cứu của luận văn được khách quan, khoa học và hợp lý, ngoài việc tập trung điều tra khảo sát đối với hộ nghèo, luận văn đã xây dựng bảng hỏi dành cho 2 đối tượng. Đối tượng thứ nhất là cán bộ, công chức cấp xã, những người có trách nhiệm trong quá trình tổ chức thực hiện chính sách giảm nghèo (tổng số 11 phiếu/11 xã, thị trấn) và đối tượng thứ hai là cán bộ, công chức giữ chức vụ lãnh đạo quản lý ở huyện (bao gồm lãnh đạo huyện phụ trách giảm nghèo và Trưởng phòng Lao động – Thương binh và Xã hội huyện) với số lượng 02 phiếu.

Ngoài ra tác giả sử dụng các phương pháp: Quan sát, so sánh, phân tích tổng hợp, điền dã tại cộng đồng…

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn

6.1. Ý nghĩa lý luận

Hệ thống hoá cơ sở lý luận và thực tiễn về nghèo, giảm nghèo bền vững và quản lý nhà nước về giảm nghèo bền vững.

6.2. Ý nghĩa thực tiễn

Từ kết quả đánh giá thực trạng quản lý nhà nước về giảm nghèo của huyện Đông Giang, tỉnh Quảng Nam và đưa ra những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về giảm nghèo của huyện Đông Giang. Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo thiết thực cho đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác quản lý nhà nước về giảm nghèo tại huyện Đông Giang. Bên cạnh đó, luận văn cũng giúp những ai nghiên cứu liên quan tới chủ đề quản lý nhà nước về giảm nghèo có thể tham khảo.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung chính của luận văn được kết cầu thành 3 chương.

Chương 1: Cơ sở khoa học quản lý nhà nước về giảm nghèo

Chương 2: Thực trạng quản lý nhà nước về giảm nghèo trên địa bàn huyện Đông Giang, tỉnh Quảng Nam

Chương 3: Phương hướng và giải pháp chủ yếu nhằm tăng cường quản lý nhà nước về giảm nghèo trên địa bàn huyện Đông Giang, tỉnh Quảng Nam.

Chương 1
CƠ SỞ KHOA HỌC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ GIẢM NGHÈO

1.1. Khái niệm nghèo đói và chuẩn mực nghèo đói

1.1.1. Các quan niệm về nghèo đói

Đói nghèo là một thực trạng của quá trình phát triển kinh tế, xã hội, nó hiện hữu trong cuộc sống như một yếu tố lịch sử, có thể sinh ra, tồn tại, phát triển và cũng có thể mất đi ở mỗi con người, mỗi gia đình, mỗi quốc gia hay mỗi xã hội.

Không có một định nghĩa chung về đói nghèo, khái niệm đói nghèo được dùng rất lâu trên thế giới để chỉ tình trạng của một nhóm người trong xã hội không có khả năng được hưởng “một cái gì đó” ở mức độ tối thiểu cần thiết, tuy nhiên quan niệm đói nghèo chỉ mang tính chất tương đối bởi vì nó phụ thuộc vào điều kiện không gian, địa lý, điều kiện phát triển kinh tế – xã hội của từng vùng, từng địa phương, từng quốc gia.

* Quan niệm của các tổ chức và chuyên gia quốc tế về đói, nghèo

Tổ chức UNDP đã đưa ra những định nghĩa về nghèo [8, tr.27] như sau:

– Sự nghèo khổ của con người: Thiếu những quyền cơ bản của con người như biết đọc, biết viết và được nuôi dưỡng tạm đủ.

– Sự nghèo khổ về tiền tệ: Thiếu thu nhập tối thiểu thích đáng và khả năng chi tiêu tối thiểu.

– Sự nghèo khổ chung: Mức độ nghèo kém nghiêm trọng hơn được xác định như không có khả năng thỏa mãn những nhu cầu lương thực và phi lương thực chủ yếu, những nhu cầu này đôi khi được xác định khác nhau ở nước này hay nước khác.

Hội nghị bàn về giảm đói nghèo trong khu vực Châu Á – Thái Bình Dương do ESCAP tổ chức vào tháng 9/1993 tại BangKok (Thái Lan), các quốc gia trong khu vực đã thống nhất cho rằng: nghèo đói là tình trạng một bộ phận dân cư không được hưởng và thỏa mãn những nhu cầu cơ bản của con người đã được xã hội thừa nhận, tùy theo trình độ phát triển kinh tế – xã hội và phong tục tập quán của từng địa phương.

Đây chính là một khái niệm chung nhất về nghèo, một khái niệm mở, có tính chất hướng dẫn về phương pháp đánh giá, nhận diện nét chính yếu, phổ biến về nghèo. Các tiêu chí và chuẩn mực về mặt lượng hóa (định lượng) được bỏ ngỏ bởi vì còn phải tính đến sự khác biệt chênh lệch giữa điều kiện tự nhiên, điều kiện xã hội và trình độ phát triển của mỗi vùng miền khác nhau. Vấn đề quan trọng nhất mà khái niệm này đã đưa ra được đó chính là những nhu cầu cơ bản của con người, nếu không được thỏa mãn thì họ chính là những người nghèo đói.

Từ khái niệm chung này, khi nghiên cứu thực trạng nghèo đói, người ta đã đưa ra hai khái niệm khác, đó là nghèo tuyệt đối và nghèo tương đối.

Nghèo tuyệt đối: Đó là sự thiếu hụt so với mức sống (những nhu cầu) tối thiểu. Nghèo tuyệt đối đề cập đến vị trí của một cá nhân, hộ gia đình trong mối quan hệ với đường nghèo khổ mà giá trị tuyệt đối của họ cố định theo thời gian. Nghèo tuyệt đối thường được tính trên những nhu cầu dinh dưỡng và một số hàng hóa khác, do vậy một đường nghèo tuyệt đối được dùng để thực hiện các so sánh nghèo đói.

Nghèo tương đối: Đó là sự thiếu hụt của các cá nhân/hộ gia đình so với mức sống trung bình đạt được. Sự thiếu hụt này dựa trên cơ sở một tỷ lệ nào đó so với mức thu nhập bình quân của dân cư, có quốc gia xác định dựa trên 1/2 thu nhập bình quân, có quốc gia lại dựa trên 1/3 thu nhập bình quân.

Để so sánh sự nghèo khổ giữa các quốc gia với nhau, người ta sử dụng khái niệm nghèo tương đối. Để đấu tranh chống nạn nghèo cùng cực thì dùng khái niệm nghèo tuyệt đối. Tuy nhiên, cả hai khái niệm trên đều không hoàn toàn đầy đủ. Khái niệm nghèo tuyệt đối không tính đến sự khác nhau về mức sống ở các nước. Khái niệm nghèo tương đối, không tính đến sự diễn biến của bối cảnh kinh tế xã hội, do đó không tính đến diễn biến của những nhu cầu.

* Quan niệm của Việt Nam về đói, nghèo

Ở nước ta, quan niệm về đói, nghèo thường trực diện và đơn giản hơn như: đói nghèo là không đủ ăn, nhà cửa dột nát, thường xuyên ốm đau, nhưng không có tiền chữa bệnh, con cái không được đến trường… Dựa trên các khái niệm của các tổ chức thế giới, Việt Nam đã đưa ra các khái niệm cụ thể về đói, nghèo và được nghiên cứu ở các cấp độ: cá nhân, hộ gia đình và cộng đồng. Chương trình mục tiêu quốc gia về xóa đói giảm nghèo giai đoạn 1998 – 2000 của Việt Nam đã đưa ra các khái niệm: Nghèo, đói, hộ đói, hộ nghèo, vùng nghèo… và có các tiêu chí xác định cho từng loại cụ thể.

Về khái niệm nghèo của Việt Nam cơ bản thống nhất với khái niệm nghèo đói của ESCAP.

Đói là tình trạng của một bộ phận cư dân nghèo có mức sống dưới mức tối thiểu và thu nhập không đủ bảo đảm nhu cầu về vật chất để duy trì cuộc sống. Đó là những hộ dân cư hàng năm thiếu ăn, đứt bữa từ một đến hai tháng, thường vay mượn của cộng đồng và thiếu khả năng chi trả cho cộng đồng.

– Khái niệm đói cũng có hai dạng: đói kinh niên và đói cấp tính (đói gay gắt).

+ Đói kinh niên: Là bộ phận dân cư đói nhiều năm liền cho đến thời điểm đang xét.

+ Đói cấp tính: Là bộ phận dân cư rơi vào tình trạng đói đột xuất do nhiều nguyên nhân như gặp tai nạn, thiên tai, rủi ro khác tại thời điểm đang xét.

– Hộ đói: Là hộ cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc, con cái không được học hành đầy đủ, ốm đau không có tiền chữa bệnh, nhà ở tạm bợ…

– Hộ nghèo: Là hộ đói ăn nhưng không đứt bữa, mặc không đủ lành, không đủ ấm, không có khả năng phát triển sản xuất.

– Xã nghèo: Là xã có tỷ lệ hộ nghèo cao, không có hoặc rất thiếu những cơ sở hạ tầng thiết yếu như điện, đường, trường, trạm, nước sạch, trình độ dân trí thấp v.v..

– Huyện nghèo: là huyện có tỉ lệ hộ nghèo trên 50%.

1.1.2. Chuẩn mực nghèo đói

Trong những năm qua nước ta tồn tại song song một số phương pháp xác định chuẩn nghèo phục vụ mục đích khác nhau. Đó là cách xác định chuẩn nghèo của Chính phủ do Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội công bố và chuẩn nghèo của Tổng cục Thống kê và Ngân hàng Thế giới

* Cách xác định đường nghèo của Tổng cục Thống kê và Ngân hàng Thế giới

– Chuẩn nghèo lương thực, thực phẩm được xác định là chi phí cần thiết mua rổ lương thực, thực phẩm cung cấp đủ lượng Kcalo tiêu dùng bình quân 1 người 1 ngày (2.100 Kcalo). Năm 1998 chuẩn nghèo lương thực, thực phẩm được xác định là 1.287 ngàn đồng/người/năm

– Chuẩn nghèo chung được xác định bằng cách lấy chuẩn nghèo về lương thực, thực phẩm cộng với chi phí cho các mặt hàng phi lương thực, thực phẩm của nhóm dân cư 3 (nhóm có mức sống trung bình). Chuẩn nghèo chung được xác định cho năm 1998 là: 1.790 ngàn đồng/người/năm.

Tuy nhiên, phương pháp này có một số hạn chế sau:

Phương pháp này sử dụng rổ hàng hóa từ năm 1993 đến nay đã 20 năm không thể phản ảnh được thực tế tiêu dùng hiện tại của đại đa số người dân Việt Nam.

Sử dụng một chuẩn nghèo duy nhất áp dụng cho cả khu vực thành thị và nông thôn chỉ cho phép đánh giá thực trạng nghèo đói của cả nước, không thể xác định và lập được danh sách hộ nghèo cụ thể ở các địa phương.

* Phương pháp xác định chuẩn nghèo của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội

Lúc đầu chuẩn nghèo được xác định dựa vào nhu cầu chi tiêu, sau đó chuyển sang sử dụng chỉ tiêu thu nhập. Mục đích của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội là xác định được đối tượng cụ thể của chương trình trợ cấp thôn, xã, lên danh sách hộ nghèo, chỉ ra các nguyên nhân nghèo đói và đề xuất các giải pháp hỗ trợ. Bên cạnh đó giúp Chính phủ theo dõi, đánh giá tác động của các chính sách kinh tế và xóa đói giảm nghèo, điều chỉnh chuẩn nghèo theo mức độ cải thiện của đời sống dân cư và người nghèo.

– Chuẩn nghèo và phương pháp xác định chuẩn nghèo của Việt Nam

Chuẩn nghèo lần 1: Ban hành năm 1993, quy định: Chia hộ đói nghèo trong cả nước thành hai loại là hộ đói và hộ nghèo, chia cả nước thành hai vùng đói nghèo đó là thành thị và nông thôn, trong đó:

+ Hộ đói: Là hộ có thu nhập lương thực quy gạo bình quân dưới 13kg/người/tháng đối với khu vực thành thị và dưới 8 kg/người/tháng đối với khu vực nông thôn.

+ Hộ nghèo: Là hộ có thu nhập lương thực quy gạo bình quân dưới 20kg/người/tháng đối với khu vực thành thị và dưới 15kg/người/tháng đối với khu vực nông thôn.

Chuẩn nghèo lần 2: Ban hành năm 1995, quy định: Chia hộ đói nghèo trong cả nước thành hai loại là hộ đói và hộ nghèo, chia cả nước thành 3 vùng đói nghèo là: thành thị, nông thôn miền núi và hải đảo, nông thôn đồng bằng và trung du, trong đó:

+ Hộ đói: Là hộ có thu nhập lương thực quy gạo bình quân dưới 13kg/người/tháng, tính cho mọi vùng.

+ Hộ nghèo: Là hộ có thu nhập lương thực quy gạo bình quân dưới 15kg/người/tháng đối với khu vực nông thôn miền núi và hải đảo, dưới 20kg/người/tháng đối với khu vực nông thôn đồng bằng và trung du và dưới 25kg/người/tháng đối với khu vực thành thị.

Chuẩn nghèo lần 3: Ban hành năm 1997 (Công văn số 1751/LĐTBXH ngày 20/5/1997), quy định:

Chia hộ đói nghèo trong cả nước thành hai loại là hộ đói và hộ nghèo, chia cả nước thành ba vùng đói, nghèo là: thành thị, nông thôn miền núi và hải đảo, nông thôn đồng bằng và trung du, trong đó:

+ Hộ đói: Là hộ có mức thu nhập bình quân quy gạo dưới 13kg/người/tháng, tương đương 45.000 đồng, tính cho mọi vùng.

+ Hộ nghèo là hộ có mức thu nhập bình quân quy gạo dưới 15kg/người/tháng, tương đương 55.000 đồng tính cho khu vực nông thôn miền núi và hải đảo, dưới 20kg/người/tháng, tương đương 70.000đ tính cho khu vực nông thôn đồng bằng và dưới 25kg/người/tháng, tương đương với 90.000 đồng tính cho khu vực thành thị.

Chuẩn nghèo lần 4: Ban hành năm 2000 (Quyết định số 1143/QĐ-LĐTBXH ngày 01/11/2000), quy định:

Bỏ tiêu chí xác định hộ đói, giữ lại tiêu chí xác định hộ nghèo, không dựa vào thu nhập lương thực quy gạo mà dựa vào thu nhập tính theo tiền Việt Nam, trong đó:

Hộ nghèo là hộ có mức thu nhập bình quân dưới 80.000đ/người/tháng, tính cho khu vực nông thôn miền núi và hải đảo, dưới 100.000đ/người/tháng, tính cho khu vực nông thôn đồng bằng và dưới 150.000đ/người/tháng, tính cho khu vực thành thị.

Chuẩn nghèo lần 5: Ban hành năm 2005 (Quyết định số 170/2005/QĐ-TTg ngày 08/7/2005 của Thủ tướng Chính phủ), quy định chuẩn nghèo giai đoạn này được nâng lên cho phù hợp với mức sống đã được nâng lên của nhân dân và để gần với chuẩn nghèo đói của quốc tế.

Hộ nghèo là hộ có mức thu nhập bình quân dưới 200.000đ/người/tháng, tính cho khu vực nông thôn và dưới 260.000đồng/người/tháng, tính cho khu vực thành thị.

Với chuẩn nghèo này, cả nước có 22% hộ nghèo, tập trung chủ yếu ở các tỉnh miền núi, biên giới và Tây Nguyên.

Chuẩn nghèo lần 6: Ban hành ngày 30/01/2011 theo Quyết định số 09/2011/QĐ-TTg của Thủ tướng chính phủ

Hộ nghèo ở thành thị là hộ có mức thu nhập bình quân từ 500.000đ/người/tháng (từ 6.000.000đ/người/năm) trở xuống. Hộ nghèo ở nông thôn là hộ có mức thu nhập bình quân từ 400.000 đồng/người/tháng (từ 4.80.000 đ/người/năm) trở xuống. Hộ cận nghèo ở nông thôn là hộ có mức thu nhập bình quân từ 401.000 đồng đến 520.000đ/người/tháng. Hộ cận nghèo ở thành thị là hộ có mức thu nhập bình quân từ 501.000đ đến 650.000đ/người/tháng.

Chuẩn nghèo lần 7: Chuẩn nghèo đa chiều được ban hành ngày 19/11/2015 theo Quyết định 59/QĐ/2015/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ áp dụng cho giai đoạn 2016-2020

Hộ nghèo khu vực nông thôn là hộ đáp ứng một trong hai tiêu chí sau: (1) Có thu nhập bình quân đầu người/tháng từ đủ 700.000 đồng trở xuống; (2) Có thu nhập bình quân đầu người/tháng trên 700.000 đồng đến 1.000.000 đồng và thiếu hụt từ 03 chỉ số đo lường mức độ thiếu hụt tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản trở lên.

Hộ nghèo khu vực thành thị là hộ đáp ứng một trong hai tiêu chí sau: (1) Có thu nhập bình quân đầu người/tháng từ đủ 900.000 đồng trở xuống; (2) Có thu nhập bình quân đầu người/tháng trên 900.000 đồng đến 1.300.000 đồng và thiếu hụt từ 03 chỉ số đo lường mức độ thiếu hụt tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản trở lên.

Hộ cận nghèo khu vực nông thôn là hộ có thu nhập bình quân đầu người/tháng trên 700.000 đồng đến 1.000.000 đồng và thiếu hụt dưới 03 chỉ số đo lường mức độ thiếu hụt tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản.

Hộ cận nghèo khu vực thành thị là hộ có thu nhập bình quân đầu người/tháng trên 900.000 đồng đến 1.300.000 đồng và thiếu hụt dưới 03 chỉ số đo lường mức độ thiếu hụt tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản.

1.1.3. Khái niệm giảm nghèo, giảm nghèo bền vững

Giảm nghèo bền vững đã được một số nghiên cứu đề cập từ trước năm 2000. Nhưng đến năm 2008 cụm từ “giảm nghèo bền vững” được sử dụng chính thức trong văn bản hành chính ở Việt Nam tại Nghị quyết số 30a/2008/NQ-CP ngày 27/12/2008 của Chính phủ về Chương trình hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững đối với 61 huyện nghèo; tiếp đó là Nghị quyết số 80/NQ-CP ngày 19/5/2010 của Chính phủ về Định hướng giảm nghèo bền vững giai đoạn 2011-2020; Quyết định số 1489/QĐ-TTg ngày 8/10/2012 của TTCP phê duyệt chương trình giảm nghèo bền vững giai đoạn 2012-2015 và Nghị quyết số 15 -NQ/TW ngày 1/6/2012, Hội nghị BCH trung ương khóa XI về một số vấn đề về chính sách xã hội giai đoạn 2012-2020. Tính đến thời điểm này vẫn chưa có một định nghĩa hay khái niệm chính thức về “giảm nghèo bền vững”, nhưng trong các báo cáo (Báo cáo giảm nghèo quốc gia năm 2008, Báo cáo giảm nghèo giai đoạn 2006-2010, báo cáo thực hiện các mục tiêu thiên niên kỷ…) hay các văn bản hành chính thì tình trạng tái nghèo luôn được xem là “vấn đề cơ bản” đối với giảm nghèo bền vững.

Bền vững có thể hiểu là ổn định, được duy trì trong thời gian dài, là vững chắc. Như vậy nên hiểu bền vững là một tiêu chuẩn hay một yêu cầu về sư ̣ chắc chắn đối với kết quả giảm nghèo. Mục đích rất rõ ràng của giảm nghèo bền vững chính là đảm bảo hay duy trì thành quả giảm nghèo một cách lâu dài, bền vững. Nếu hiểu bền vững với nghĩa là có khả năng chống đỡ, là vững chắc thì giảm nghèo bền vững được hiểu là tình trạng đạt được mức thỏa mãn những nhu cầu cơ bản/mức sống/mức thu nhập cao hơn mức chuẩn (nghèo) và duy trì được mức thỏa mãn những nhu cầu cơ bản/mức sống/mức thu nhập trên mức chuẩn đó ngay cả khi gặp phải các cú sốc hay rủi ro; giảm nghèo bền vững có thể được hiểu với nghĩa đơn giản là thoát nghèo bền vững, hay không bị tái nghèo.

Trong luận văn, hộ thoát nghèo bền vững được đề cập đến được xác định là hộ đã thoát nghèo và không tái nghèo trong khoảng thời gian ít nhất là 3 năm – đặc trưng nhận dạng này phù hợp với khái niệm tái nghèo, hay nghèo mới đã được dùng trong các nghiên cứu và tài liệu của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội, cơ quan quản lý nhà nước về giảm nghèo.

1.2. Quản lý nhà nước về giảm nghèo

1.2.1. Khái niệm quản lý nhà nước về giảm nghèo

Theo giáo trình Lý luận Hành chính nhà nước thì Quản lý nhà nước là một dạng quản lý xã hội đặc biệt, mang tính quyền lực nhà nước và sử dụng pháp luật và chính sách để điều chỉnh hành vi của cá nhân, tổ chức trên tất cả các mặt của đời sống xã hội do các cơ quan trong bộ máy nhà nước thực hiện nhằm phục vụ nhân dân, duy trì sự ổn định và phát triển của xã hội [7, tr.3].

Như vậy, QLNN là hoạt động mang tính chất quyền lực nhà nước của các cơ quan nhà nước và CBCC có thẩm quyền, được sử dụng quyền lực nhà nước để điều chỉnh các quan hệ xã hội. Đối tượng của QLNN là hệ thống các hành vi, hoạt động của con người, các tổ chức con người trong cuộc sống xã hội, bao trùm lên mọi lĩnh vực trong xã hội. Có thể chia đối tượng của QLNN theo các lĩnh vực của đời sống xã hội như: Kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, an ninh, quốc phòng…

Từ khái niệm giảm nghèo, khái niệm quản lý nhà nước có thể hiểu “Quản lý nhà nước về giảm nghèo là sự tác động của nhà nước bằng cơ chế, chính sách của tổ chức bộ máy nhằm quản lý, điều hành và tổ chức thực hiện giảm nghèo, từng bước nâng cao chất lượng đời sống nhân dân, ổn định và phát triển đất nước, hạn chế tối đa nguy cơ tái nghèo.” [10].

Chủ thể quản lý là các cơ quan QLNN thống nhất từ trung ương đến địa phương. Ở cấp huyện, cơ quan quản lý nhà nước đối với hoạt động giảm nghèo là UBND huyện và các phòng ban chức năng tham mưu, giúp việc cho chính quyền cấp huyện.

Khách thể QLNN về giảm nghèo là vấn đề đói nghèo. Mục tiêu của QLNN giảm nghèo là giúp giảm số lượng người nghèo và tránh tình trạng tái nghèo sau khi thoát nghèo.

1.2.2. Nội dung quản lý nhà nước về giảm nghèo

1.2.2.1. Lồng ghép và ban hành chương trình, kế hoạch và các quy định liên quan tới giảm nghèo

Ban hành và tổ chức thực hiện văn bản quy phạm pháp luật là một nội dung quan trọng trong QLNN đối với bất kỳ ngành, lĩnh vực nào, trong đó có QLNN về giảm nghèo. Thông qua việc ban hành các quy định, Nhà nước xác lập hành lang pháp lý để điều chỉnh các quan hệ, hành vi trong từng hoạt động giảm nghèo và hình thành căn cứ, cơ sở cho việc thực hiện có hiệu quả, đúng chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước. Hệ thống quy định về hoạt động giảm nghèo tạo cơ chế quản lý phù hợp để cơ quan thường trực chương trình và các cơ quan quản lý các hợp phần của chương trình ở các cấp có đủ thẩm quyền, đủ năng lực và điều kiện để quản lý chương trình, khắc phục tình trạng trách nhiệm không đi đôi với thẩm quyền như giai đoạn qua.

Theo định hướng chung của Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững và các chính sách giảm nghèo trong giai đoạn 2016 – 2020 là tăng cường tích hợp chính sách, lồng ghép nguồn lực. Việc tích hợp chính sách, lồng ghép nguồn lực mang lại hiệu quả tích cực trong công tác giảm nghèo nhưng đòi hỏi thực hiện tốt cơ chế phối kết hợp, phân công vai trò trách nhiệm cụ thể giữa các bên, nhất là ở địa phương.

Ở Trung ương, việc tích hợp chính sách giúp công tác chỉ đạo giảm sự chồng chéo, lãng phí, tăng hiệu quả sử dụng ngân sách ở các cấp địa phương; đồng thời khắc phục những bất cập, điều chỉnh chính sách cho phù hợp thực tiễn, mở rộng đối tượng hưởng lợi, bổ sung nội dung chính sách và tăng định mức hỗ trợ trong những trường hợp cần thiết và khả thi. Ngoài ra, việc tích hợp các chính sách giúp giảm thiểu thủ tục hành chính ở địa phương cho cả người được thụ hưởng lẫn cán bộ thực hiện, góp phần thúc đẩy sự phối hợp hiệu quả giữa các cơ quan, giảm tồn đọng hồ sơ và phát sinh sai sót.

Chủ trương, định hướng về giảm nghèo nhanh và bền vững đã được Đảng và Nhà nước ban hành trong thời gian qua như Nghị quyết 30a/2008/NĐ-CP ngày 27/12/2008 của Chính phủ về chương trình hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững đối với 61 huyện nghèo, Nghị quyết số 80/NQ-CP ngày 19/5/2011 của Chính phủ về định hướng giảm nghèo bền vững đến năm 2020…. đã xác lập khung pháp lý cần thiết trong lĩnh vực giảm nghèo bền vững trên phạm vi quốc gia. Trên cơ sở đó các cơ chế, chính sách tài chính cụ thể phục vụ công tác xóa đói giảm nghèo được ban hành theo từng lĩnh vực cụ thể như:

– Chính sách tài chính hỗ trợ về y tế, chăm sóc sức khỏe.

– Chính sách tài chính hỗ trợ giáo dục- đào tạo.

– Chính sách tài chính hỗ trợ sản xuất, nhà ở, đất ở.

– Chính sách tài chính hỗ trợ học nghề và giải quyết việc làm.

– Chính sách tín dụng ưu đãi hộ cận nghèo, hộ đồng bào dân tộc thiểu số.

Các chủ trương, chính sách này cần được cụ thể hóa trong quá trình triển khai giảm nghèo bền vững ở các địa phương cho phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của mình.

1.2.2.2. Về tổ chức triển khai thực hiện các quy định về giảm nghèo

Tổ chức thực hiện chính sách là quá trình biến các chính sách thành những kết quả trên thực tế thông qua các hoạt động có tổ chức trong bộ máy Nhà nước, nhằm hiện thực hóa những mục tiêu mà chính sách đã đề ra. Nếu công tác tổ chức thực hiện chính sách không tốt sẽ dẫn đến thiếu lòng tin. Quá trình tổ chức thực hiện chính sách góp phần hoàn chỉnh bổ sung chính sách: Có những vấn đề trong giai đoạn hoạch định chính sách chưa phát sinh, bộc lộ hoặc đã phát sinh nhưng các nhà hoạch định chưa nhận thấy, đến giai đoạn tổ chức thực thi mới phát hiện. Qua tổ chức thực hiện, cơ quan chức năng mới có thể biết chính sách đó được xã hội và đại đa số nhân dân chấp nhận hay không, đi vào cuộc sống hay không.

Việc tổ chức thực hiện chính sách giảm nghèo được thực hiện từ cấp chính quyền trung ương đến cấp chính quyền địa phương, mỗi cấp chính quyền đều có những nhiệm vụ khác nhau để thực hiện những mục tiêu mà chính sách đã đề ra, trong đó cấp chính quyền địa phương việc thực thi thường được thể hiện rõ nét hơn.

Việc tổ chức triển khai thực hiện các quy định về giảm nghèo bền vững bao gồm các nội dung: Công tác chỉ đạo điều hành, bố trí nguồn lực, phân công cán bộ, về công tác tuyên truyền, phổ biến chủ trương, chính sách giảm nghèo bền vững.

1.2.2.3. Kiểm tra giám sát việc thực hiện chính sách giảm nghèo

Công tác kiểm tra, giám sát là một tiến trình quan trọng trong công tác quản lý nhà nước về giảm nghèo bền vững. Tổ chức kiểm tra, giám sát nhằm đảm bảo việc thực hiện công tác giảm nghèo ở các địa phương thực hiện theo đúng các mục tiêu đề ra với tiến độ, thời gian và nguồn lực dự kiến. Trên cơ sở đánh giá tổng quan tình hình thực hiện và kết quả đạt được, tìm ra những bất hợp lý trong hệ thống các cơ chế, chính sách, giải pháp phát triển ngành, phát triển từng lĩnh vực và các địa phương trong quá trình thực hiện để có sự điều chỉnh, bổ sung chính sách sao cho phù hợp theo đúng quy định của luật.

Nhà nước thực hiện vai trò kiểm tra, giám sát để đảm bảo chương trình giảm nghèo nhanh và bền vững được thực hiện với hiệu quả cao nhất. Qua thực hiện bộc lộ những bất cập sẽ được xử lý thích hợp, có những điều chỉnh tổng kết kịp thời để bổ sung cho giai đoạn sau những bài học kinh nghiệm quý giá để định hướng cho chương trình đi đúng hướng.

Công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm về giảm nghèo bền vững có ý nghĩa quan trọng nhằm đảm bảo công tác giảm nghèo được thực hiện nghiêm, qua đó các cơ quan quản lý nhà nước kịp thời phát hiện và xử lý những vi phạm trong quá trình thực hiện chính sách.

Chủ thể kiểm tra, giám sát, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm trong quá trình thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững là các cơ quan nhà nước từ trung ương đến cơ sở. Tuy nhiên, để đảm bảo tính khách quan và chính xác về kết quả này còn cần có sự tham gia của các tổ chức đoàn thể nhân dân, thậm chí là của chính đối tượng chính sách. Có như vậy mới bảo đảm được tính dân chủ trong quá trình thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững.

1.2.2.4. Thực hiện chế độ báo cáo và phối hợp giữa các cấp

– Công tác thông tin báo cáo là yêu cầu đặt ra đối với mọi hoạt động liên quan đến quản lý, chỉ đạo điều hành của các cơ quan hành chính nhà nước, là cơ sở để đánh giá việc thực hiện nhiệm vụ được giao, là biểu hiện của việc chấp hành kỷ luật, kỷ cương trong các cơ quan hành chính nhà nước, đồng thời là căn cứ để các cấp có thẩm quyền thực hiện công tác chỉ đạo, điều hành, đưa ra các quyết định hành chính. Công tác thông tin, báo cáo góp phần bảo đảm sự chỉ đạo, điều hành của Ủy ban nhân dân huyện, của các ban, ngành và địa phương. 

Ban chỉ đạo công tác giảm nghèo bền vững cấp huyện có trách nhiệm xây dựng báo cáo gửi về Ban chỉ đạo công tác giảm nghèo bền vững cấp tỉnh trên cơ sở tổng hợp báo cáo của các ban, ngành, Ban chỉ đạo công tác giảm nghèo bền vững các xã.

Báo cáo tình hình thực hiện công tác giảm nghèo bền vững bao gồm: báo cáo tháng, báo cáo quý, báo cáo 6 tháng, báo cáo năm, báo cáo chuyên đề và báo cáo đột xuất.

– Sự phối hợp giữa các cấp

Giảm nghèo là vấn đề cấp bách và phức tạp, liên quan đến nhiều đối tượng trong xã hội và có tác động trực tiếp đến việc giải quyết vấn đề chính sách và thực thi chính sách. Chính sách giảm nghèo lại là một chính sách lớn bao gồm nhiều hợp phần chính sách khác nhau, bên cạnh đó mỗi hợp phần chính sách lại hướng tới những mục tiêu khác nhau. Bởi vậy để tổ chức triển khai thực hiện cần có sự tham gia vào cuộc của rất nhiều cơ quan nhà nước khác nhau từ trung ương đến địa phương. Sự tham gia vào quá trình quản lý nhà nước về giảm nghèo bền vững của các cơ quan nhà nước cần phải được tổ chức một cách khoa học và hợp lý trên cơ sở tạo ra một cơ chế, cách thức phối hợp đồng bộ, nhịp nhàng và thống nhất nhằm khai thác được năng lực, sở trường cũng như các điều kiện vật chất khác của các cấp, các ngành vào quá trình tổ chức thực hiện.

1.2.3. Vai trò của quản lý nhà nước đối với giảm nghèo

Vai trò chính của QLNN đối với giảm nghèo được thể hiện:

– Nắm rõ được thực trạng nghèo ở địa phương

Nghèo đói là vấn đề toàn cầu, đã và đang diễn ra trên khắp các châu lục với những mức độ khác nhau và trở thành một thách thức lớn đối với sự phát triển của từng khu vực, từng quốc gia, dân tộc và từng địa phương. Việt Nam là một nước nông nghiệp với 70% dân số sống ở nông thôn. Với trình độ dân trí, canh tác còn hạn chế nên năng suất lao động chưa cao, thu nhập của nông dân còn thấp, tình trạng đói nghèo vẫn diễn ra rộng khắp các khu vực.

Để người nghèo thoát nghèo là mục tiêu, nhiệm vụ chính trị – xã hội. Đảng và Nhà nước đã có nhiều chính sách và biện pháp giải quyết vấn đề đói nghèo. Nhưng việc triển khai thực hiện còn một số hạn chế do sự thiếu thông tin cũng như nhận thức chưa đầy đủ về tình trạng nghèo đói hiện nay. 

Vì thế việc nghiên cứu về thực trạng đói nghèo một cách hệ thống, có khoa học để từ đó làm cơ sở đưa ra các chính sách xóa nghèo cho từng đối tượng ở từng địa phương một cách hợp lý là vấn đề mang tính cấp thiết của quản lý nhà nước để từng bước đưa Việt Nam thoát khỏi tình trạng đói nghèo, trở thành một nước phát triển.

– Hiểu rõ được nguyên nhân dẫn tới nghèo đói ở địa phương

Mặc dù đã đạt được nhiều kết quả quan trọng, tuy nhiên hiện nay vùng dân tộc thiểu số và miền núi vẫn là rốn nghèo, nơi khó khăn nhất của cả nước, thu nhập bình quân đầu người thấp, số hộ nghèo còn cao và chiếm tỷ lệ lớn trong tổng số hộ đồng bào dân tộc, chênh lệch giàu – nghèo giữa các vùng, nhóm dân cư chưa được thu hẹp, xu hướng gia tăng khoảng cách giàu – nghèo ngày càng rõ rệt; tốc độ giảm nghèo không đồng đều giữa các vùng, miền; nhiều huyện thuộc Chương trình 30a có tỷ lệ hộ nghèo rất cao.

Đứng trước thực trạng trên, đòi hỏi công tác quản lý nhà nước phải phân tích, tìm được đúng nguyên nhân dẫn tới nghèo đói, qua đó có cơ sở để đề ra các giải pháp trong chỉ đạo, điều hành phù hợp đối với từng địa phương; có chính sách giải quyết những khó khăn để giúp đời sống của nhân dân đi lên, kéo gần khoảng cách chênh lệch với các vùng, miền khác trong đất nước.

Tư vấn cho lãnh đạo địa phương, các tổ chức xã hội, cộng đồng các giải pháp/kế sách giúp giảm tỷ lệ hộ nghèo theo hướng bền vững

Trong công tác giảm nghèo nhanh và bền vững hiện nay, vai trò của Nhà nước là rất cần thiết khách quan, vì nhà nước ban hành các chính sách và Chương trình giảm nghèo bền vững, trên cơ sở các chính sách và Chương trình giảm nghèo bền vững chung này, các địa phương xây dựng kế hoạch, giải pháp cụ thể trên địa bàn để tổ chức thực hiện.

1.2.4. Những nhân tố ảnh hưởng đến quản lý nhà nước về giảm nghèo

1.2.4.1. Những yếu tố chủ quan

– Công tác lãnh đạo, chỉ đạo, quyết tâm chính trị

Công tác giảm nghèo bền vững là vấn đề cấp bách và phức tạp, liên quan đến nhiều đối tượng trong xã hội và có tác động trực tiếp đến việc giải quyết vấn đề chính sách và thực thi chính sách. Chính sách giảm nghèo lại là một chính sách lớn bao gồm nhiều hợp phần chính sách khác nhau, bên cạnh đó mỗi hợp phần chính sách lại hướng tới những mục tiêu khác nhau. Vì vậy, muốn công tác giảm nghèo bền vững được triển khai có hiệu quả cần sự tập trung lãnh đạo, chỉ đạo sát sao của các cấp, các ngành trong thực hiện các giải pháp giảm nghèo thông qua việc triển khai một cách đồng bộ, đầy đủ các chính sách giảm nghèo.

– Năng lực quản lý của cán bộ quản lý công tác giảm nghèo

Đây là yếu tố có vai trò quyết định đến kết quả tổ chức thực hiện công tác giảm nghèo. Năng lực tổ chức, quản lý của đội ngũ cán bộ, công chức trong thực hiện chính sách giảm nghèo là thước đo bao gồm nhiều tiêu chí phản ánh về đạo đức công vụ, về năng lực thiết kế tổ chức, năng lực phân tích, dự báo để có thể chủ động ứng phó được với những tình huống phát sinh trong quá trình tổ chức thực hiện chính sách… Các cán bộ, công chức trong cơ quan công quyền khi được giao nhiệm vụ tổ chức thực hiện chính sách, cần nêu cao tinh thần trách nhiệm và chấp hành tốt kỷ luật công vụ trong lĩnh vực này mới đạt hiệu quả thực hiện. Tinh thần trách nhiệm và ý thức kỷ luật được thể hiện trong thực tế thành năng lực thực tế. Đây là một yêu cầu rất quan trọng đối với mỗi cán bộ, công chức để thực hiện việc chuyển tải ý đồ chính sách của nhà nước vào cuộc sống. Nếu thiếu năng lực thực tế, các cơ quan có thẩm quyền tổ chức thực hiện chính sách sẽ đưa ra những kế hoạch không bám sát với thực tế, dẫn đến lãng phí nguồn lực được huy động, làm giảm hiệu lực, hiệu quả của chính sách, thậm chí còn làm biến dạng chính sách trong quá trình tổ chức thực hiện… Năng lực thực tế và đạo đức công vụ của cán bộ, công chức còn thể hiện ở thủ tục giải quyết những vấn đề trong quan hệ giữa các cơ quan nhà nước với cá nhân và tổ chức trong xã hội.

– Liên kết giữa các cơ quan quản lý trong công tác giảm nghèo

Chiến lược phát triển bền vững Việt Nam giai đoạn 2011-2020 đã được Thủ tướng Chính phủ ký ban hành ngày 12/4/2012 tại Quyết định số 432/QĐ-TTg. Điểm nổi bật ở chiến lược là việc gắn chặt mục tiếu xóa đói, giảm nghèo với chiến lược phát triển, coi xóa đói, giảm nghèo là một bộ phận cấu thành của chiến lược phát triển kinh tế – xã hội của đất nước. Xóa đói, giảm nghèo vừa là mục tiêu, vừa là tiền đề, điều kiện và thước đo của sự phát triển bền vững, là yếu tố cơ bản bảo đảm công bằng xã hội.

Để triển khai chiến lược này, kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội hằng năm đều có lồng ghép các chương trình, mục tiêu quốc gia liên quan đến xóa đói, giảm nghèo, như: Chương trình mục tiêu quốc gia xóa đói, giảm nghèo và việc làm; Chương trình mục tiêu quốc gia về nước sạch và vệ sinh môi trường; Chương trình mục tiêu quốc gia về dân số và kế hoạch hóa gia đình; Chương trình mục tiêu quốc gia về phòng chống một số bệnh xã hội, bệnh nguy hiểm HIV/AIDS… Vì vậy, trong quá trình thực thi các chương trình, chính sách giảm nghèo cần sự chung tay, phối hợp chặt chẽ, kịp thời, đồng bộ của các cấp, các ngành.

– Nguồn lực của nhà nước hỗ trợ công tác giảm nghèo

Để tổ chức triển khai thực hiện chính sách giảm nghèo đạt được kết quả và hiệu quả trong điều kiện hiện nay, nhà nước luôn phải tăng cường các nguồn lực vật chất để phục vụ cho việc triển khai thực hiện chính sách. Việc đầu tư trang thiết bị kỹ thuật và phương tiện hiện đại để hỗ trợ quá trình thực hiện chính sách của nhà nước hiện đã trở thành một nguyên lý phát triển.

Việc quyết định đầu tư đến đâu, theo cách nào là do nhà nước chủ động lựa chọn trên cơ sở năng lực hiện có của cán bộ, công chức thực hiện chính sách. Nếu các điều kiện vật chất kỹ thuật đáp ứng được yêu cầu sẽ giúp cho tính khả thi của công tác tổ chức thực hiện chính sách luôn được tăng cường.

Ở Việt Nam hiện nay, cơ cấu đầu tư chưa hợp lý, tỷ lệ đầu tư cho nông nghiệp và nông thôn còn thấp, chủ yếu mới tập trung cho thuỷ lợi; các trục công nghiệp chính, chú trọng nhiều vào đầu tư thay thế nhập khẩu, thu hút nhiều vốn; chưa chú trọng đầu tư các ngành công nghiệp thu hút nhiều lao động, chưa chú ý khuyến khích kịp thời phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa; nhiều chính sách trợ cấp (lãi suất tín dụng, trợ giá, trợ cước…) không đúng đối tượng làm ảnh hưởng xấu đến sự hình thành thị trường nông thôn, thị trường ở những vùng sâu, vùng xa.

Kết cấu hạ tầng giao thông đến các vùng sâu, vùng xa, vùng đói nghèo còn thiếu và yếu kém. Việc tiếp cận đến các vùng này còn hết sức khó khăn. Vốn đầu tư của Nhà nước chưa đáp ứng được yêu cầu, đóng góp nguồn lực của nhân dân còn hạn chế, chủ yếu bằng lao động do vậy đã ảnh hưởng đến kết quả thực hiện chính sách XĐGN trong thời gian qua.

1.2.4.2. Những yếu tố khách quan

– Hội nhập kinh tế

Hội nhập kinh tế đã mở ra các mối quan hệ kinh tế, thương mại, tạo điều kiện cho phát triển kinh tế – xã hội của Việt Nam. Tuy vậy hội nhập kinh tế cũng đặt ra nhiều thách thức, khó khăn, đưa lại những rủi ro khó dự báo và quy mô lớn về những dịch bệnh, sự bất an về giá cả thị trường, đây là những thách thức lớn trong công tác quản lý nhà nước về giảm nghèo bền vững ở Việt Nam hiện nay.

Hơn nữa, quá trình hội nhập kinh tế, tự do hóa thương mại làm tăng nhu cầu sử dụng lao động, mang lại cơ hội việc làm, tăng thu nhập cho người lao động, nhưng trong quá trình đó đòi hỏi người lao động phải có tay nghề cao, chất lượng lao động tốt. Trong khi đó, đại đa số người lao động Việt Nam trình độ chuyên môn thấp, sống chủ yếu ở các vùng nông thôn, lao động trong lĩnh vực nông nghiệp nơi có năng suất thấp, đòi hỏi các cơ quan quản lý nhà nước phải đề ra những chính sách nhằm nâng cao hiệu quả lao động góp phần giảm nghèo bền vững và hiệu quả.

Mặt khác, hội nhập kinh tế cũng tạo cơ hội cho Việt Nam thu hút các nguồn vốn viện trợ chính thức (ODA) để đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế, xã hội, đầu tư phát triển giáo dục – đào tạo, giải quyết việc làm nhằm giảm nghèo bền vững hiệu quả.

– Thiên tai – Biến đổi khí hậu:

Việt Nam có 2/3 dân số sống ở nông thôn – nơi có tỷ lệ đói nghèo cao nhất và chủ yếu làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp – thường là những người trực tiếp bị ảnh hưởng bởi các tác động cực đoan của thời tiết như thiên tai và biến đổi khí hậu. Một mặt, do kế sinh nhai bị mất hoặc thiệt hại nghiêm trọng. Mặt khác, thiên tai làm thay đổi tiêu cực về nguồn cung lương thực và có thể bóp méo giá cả hàng hóa và cản trở phân phối lương thực, gây ảnh hưởng bất lợi đến khả năng phục hồi sau thiên tai – vốn đã rất thấp – của người nghèo, cuối cùng là gia tăng đói nghèo. Rất nhiều hộ gia đình nông thôn đã bị tái nghèo sau mỗi đợt thiên tai.

Vì vậy, trong quá trình thực hiện các chính sách về giảm nghèo, nhà nước cần phải có những nghiên cứu cụ thể về tác động của biến đổi khi hậu với từng vùng từ đó có những chính sách giảm nghèo phù hợp với từng vùng miền. Vấn đề nhà ở, sinh kế, đều phải được thiết kế khác nhau từng lĩnh vực. Một chính sách tốt là một chính sách dựa trên những nghiên cứu khoa học, xuất phát từ nguyện vọng của người dân và phải được sự nhất trí cao của chính quyền địa phương. Đồng thời cần có nghiên cứu bài bản về tác động của biến đổi khí hậu tới hoạt động giảm nghèo ở các vùng miền, các địa phương.

– Phong tục tập quán/năng lực của hộ nghèo

Những người nghèo phần lớn có trình độ học vấn thấp, ít có cơ hội kiếm được việc làm tốt, ổn định. Mức thu nhập của họ hầu như chỉ bảo đảm nhu cầu dinh dưỡng tối thiểu và do vậy không có điều kiện để nâng cao trình độ của mình trong tương lai để thoát khỏi cảnh nghèo khó. Bên cạnh đó, trình độ học vấn thấp ảnh hưởng đến các quyết định có liên quan đến giáo dục, sinh đẻ, nuôi dưỡng con cái… không những của thế hệ hiện tại mà cả thế hệ trong tương lai. Suy dinh dưỡng ở trẻ em và trẻ sơ sinh là nhân tố ảnh hưởng đến khả năng đến trường của con em các gia đình nghèo nhất và sẽ làm cho việc thoát nghèo thông qua giáo dục trở nên khó khăn hơn. Bên cạnh đó vẫn còn không ít những phong tục tập quán lạc hậu chưa được loại bỏ, nhất là ở những vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn như thói quen phát nương làm rẫy, sống trên các triền núi cao, các hoạt động văn hóa tâm linh như ma, chay, hiếu, hỷ, cúng, lễ được tổ chức kéo dài và tốn kém vẫn còn khá phổ biến. Điều này đã và đang là một trong những yếu tố ảnh hưởng không nhỏ đến kết quả và hiệu quả của quá trình tổ chức thực hiện chính sách giảm nghèo.

Do đó, trong quá trình thực hiện chức năng quản lý nhà nước về giảm nghèo bền vững, các cấp chính quyền cần phải nhận diện được những yếu tố ảnh hưởng đến quá trình này nhất là các yếu tố ảnh hưởng tiêu cực đến quá trình thực hiện, để tìm ra cơ chế, giải pháp phù hợp nhằm giảm nhẹ hậu quả của những tác động tiêu cực, làm cho quá trình thực hiện chính sách giảm nghèo mang lại kết quả và hiệu quả như mong muốn của nhà nước và của các đối tượng chính sách, góp phần thực hiện có kết quả và hiệu quả các mục tiêu phát triển kinh tế xã hội và công tác giảm nghèo bền vững của các địa phương trong thời gian tới.

LIỆN HỆ:

SĐT+ZALO: 0935568275

E:\DỮ LIỆU COP CỦA CHỊ YẾN\LUAN VAN VIEN HAN LAM\VIEN HAN LAM DOT 9\QUAN LY KINH TE\THAI THO

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *