Quản lý Nhà nước về du lịch trên địa bàn thành phố Tam Kỳ

Quản lý Nhà nước về du lịch trên địa bàn thành phố Tam Kỳ

Quản lý Nhà nước về du lịch trên địa bàn thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam

1. Tính cấp thiết của đề tài

Địa danh Tam Kỳ xuất hiện từ năm 1906, khi thời nhà Nguyễn, vua Thành Thái quyết định nâng huyện Hà Đông lên thành phủ và sau đó đổi tên thành phủ Tam Kỳ. Sau ngày đất nước thống nhất 1975, chính quyền cách mạng sáp nhập tỉnh Quảng Đà và Quảng Nam thành tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng, huyện Tam Kỳ được tái lập. Tháng 11 năm 1996, Quốc hội khóa IX đã ra nghị quyết chia tách tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng thành tỉnh Quảng Nam và thành phố Đà Nẵng; thị xã Tam Kỳ trở thành tỉnh lỵ của tỉnh Quảng Nam.

Sau ngày được tái lập, với sự nỗ lực vượt bậc, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân thành phố Tam Kỳ đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa quan trọng, tạo được những dấu ấn khá rõ nét về phát triển kinh tế – xã hội. Tốc độ tăng trưởng GDP những năm gần đây của thành phố luôn đạt mức cao, khoảng 15%/ năm. Năm 2015, thành phố Tam Kỳ được Tổ chức Định cư con người Liên Hợp Quốc tại Châu Á trao tặng giải thưởng “Phong cảnh thành phố châu Á năm 2015″…

Tam Kỳ là một vùng đất giàu truyền thống yêu nước, anh hùng cách mạng, truyền thống văn hóa và hiếu học. Trong lịch sử, các thế hệ đã có nhiều cống hiến to lớn trong công cuộc khai phá, mở mang bờ cõi và giữ nước, góp phần viết lên những trang sử hào hùng của dân tộc. Trong các cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, Tam Kỳ luôn đi đầu các phong trào cách mạng, đánh giặc bảo vệ Tổ quốc. Hòa bình lập lại, Tam Kỳ cùng với người dân trong toàn tỉnh Quảng Nam vượt khó xây dựng và phát triển quê hương.

Các khu kinh tế, khu công nghiệp, khu đô thị phát triển mạnh mẽ; năng lực sản xuất tăng nhanh; Đời sống của nhân dân ngày càng được cải thiện. Trước đây, Tam Kỳ chỉ là một đô thị (thị xã) nhỏ, nay đã phát triển nhanh chóng, quy hoạch khang trang, sạch đẹp và được công nhận là đô thị loại II.

Tiếp tục phát huy truyền thống anh hùng và những kết quả đạt được trong những năm qua, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân Tam Kỳ nổ lực phấn đấu hoàn thành thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội năm 2016 – 2018 như các Nghị quyết Đại hội Đảng bộ thành phố Tam Kỳ lần thứ XX và Đại hội Đảng bộ tỉnh Quảng Nam lần thứ XXI đã đề ra.

Cùng với phát triển kinh tế, Du lịch được xác định trở thành ngành kinh tế mũi nhọn; chính quyền tỉnh Quảng Nam và thành phố Tam Kỳ ban hành nhiều cơ chế, chính sách nhằm tạo điều kiện cho du lịch phát triển; Nhờ đó, ngành Du lịch đã có những bước phát triển vượt bậc trong thời gian qua, trong đó lượng khách du lịch quốc tế luôn duy trì mức tăng trưởng khá. Công tác quảng bá xúc tiến du lịch ngày càng được tổ chức quy mô và chuyên nghiệp từng. Sản phẩm du lịch, chất lượng dịch vụ, phục vụ tại các cơ sở kinh doanh du lịch được chú trọng nâng cấp theo hướng chuyên nghiệp. Môi trường tự nhiên, xã hội công tác bảo đảm an ninh, an toàn cho du khách được tăng cường, công tác bảo tồn các giá trị tài nguyên du lịch đạt hiệu quả. Kinh tế tư nhân của cư nhân thành phố Tam Kỳ khởi sắc và phát triển khá mạnh.

Thành phố Tam Kỳ với nguồn tài nguyên du lịch phong phú, cùng điều kiện thiên nhiên ưu đãi, lưu giữ nhiều di sản di tích lịch sử, văn hóa cùng hệ sinh thái tự nhiên núi – rừng – biển độc đáo và đang phục vụ rất tốt cho phát triển du lịch.

Tuy nhiên, trong thời gian qua, công tác phát huy giá trị di sản theo tinh thần “du lịch là ngành kinh tế mũi nhọn” đang gặp phải những khó khăn. Cụ thể là: Nhận thức của cán bộ và nhân dân về vấn đề này chưa sâu sắc; kinh phí đầu tư phát triển cho ngành chưa tương xứng với mục tiêu đề ra. Đặc biệt trong quá trình phát triển du lịch có nơi trên địa bàn còn xảy ra tình trạng buông lỏng quản lý nên dẫn đến tình trạng chất lượng dịch vụ du lịch không đạt như mong muốn. Tình hình đó, đòi hỏi các cơ quan quản lý nhà nước địa phương cần tiếp tục tăng cường phối hợp trong công tác quản lý nhà nước về phát triển du lịch.

Trên cơ sở lý luận và thực tiễn từ địa phương, xuất phát từ nhu cầu thực tiễn đang trở nên ngày càng bức thiết, tôi chọn chủ đề: “Quản lý Nhà nước về du lịch trên địa bàn thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam” làm Đề tài Luận văn cao học chuyên ngành Quản lý kinh tế. Nghiên cứu chủ đề này, hướng tới mục tiêu thực tiễn cho sự phát triển của địa phương. Luận văn cố gắng đưa ra những phân tích đánh giá thực trạng phát triển du lịch của địa phương, phát hiện vấn đề đặc biệt là từ góc độ quản lý nhà nước, nhận diện bối cảnh, xu thế, triển vọng phát triển du lịch tại địa phương, tìm kiếm các giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước về du lịch trên địa bàn thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam, góp phần thực hiện các mục tiêu phát triển của Thành phố và của tỉnh Quảng Nam trong giai đoạn tới.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn

3.1. Mục đích nghiên cứu

Luận văn đi sâu vào phân tích sự phát triển du lịch của thành phố Tam Kỳ, phát hiện vấn đề, làm rõ bối cảnh và triển vọng để tìm kiếm các giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với phát triển du lịch du lịch Tam Kỳ góp phần thúc đẩy ngành du lịch của địa phương phát triển nhanh, bền vững.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

– Nghiên cứu những vấn đề lý luận của quản lý nhà nước về du lịch

– Nghiên cứu thực trạng du lịch và thực trạng quản lý nhà nước về du lịch của Tam Kỳ; phát hiện ưu điểm, hạn chế, bất cập và nguyên nhân của thực trạng, đặc biệt nhấn mạnh nguyên nhân quản lý nhà nước của các hạn chế, bất cập

– Đề xuất giải pháp chủ yếu nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về du lịch trên địa bàn thành phố.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Hoạt động quản lý nhà nước về du lịch trên địa bàn tỉnh phố Tam Kỳ, cụ thể là nghiên cứu công cụ quản lý nhà nước, các biện pháp, giải pháp thúc đẩy quá trình quản lý nhà nước trong lĩnh vực đã đặt ra.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

+ Không gian: Trên địa bàn thành phố Tam Kỳ.

+ Thời gian: 2016 đến 2018, hướng tới 2025.

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

5.1. Cơ sở lý luận

Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác -Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Quản lý nhà nước; quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước đối với công tác quản lý nhà nước nói chung và quản lý nhà nước về du lịch nói riêng.

5.2. Phương pháp nghiên cứu

Sử dụng các phương pháp phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh, khảo nghiệm thực tiễn… Dựa vào các phương pháp nghiên cứu nêu trên, người viết tiến hành thu thập, xử lý số liệu, dữ liệu có liên quan.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn

6.1. Ý nghĩa lý luận

– Hệ thống hóa một số vấn đề về quản lý nhà nước về du lịch tại địa bàn.

– Cung cấp sự hiểu biết thực trạng phát triển du lịch và quản lý nhà nước về du lịch tại thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam trong giai đoạn gần đây, nhận diện các vên đề đặt ra cũng như sự hiểu biết bối cảnh, triển vọng vấn đề trong giai đoạn tới.

6.2. Ý nghĩa thực tiễn

Tìm kiếm các giải pháp có tác động thực tiễn (giải pháp chính sách và biện pháp uản lý nhà nước nhằm thúc đẩy phát triển du lịch tại địa phương).

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, luận văn được kết cấu thành 3 chương:

Chương 1. Cơ sở khoa học về công tác quản lý nhà nước về du lịch.

Chương 2. Thực trạng thực hiện công tác quản lý nhà nước về du lịch trên địa bàn thành phố Tam Kỳ tỉnh Quảng Nam hiện nay.

Chương 3. Giải pháp tăng cường quản lý nhà nước về du lịch trên địa bàn thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam.

CHƯƠNG 1

CƠ SỞ KHOA HỌC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ DU LỊCH

1.1. Lý luận chung về quản lý Nhà nước về du lịch

1.1.1. Khái niệm về quản lý Nhà nước

Hoạt động quản lý bắt nguồn từ sự phân công, hợp tác lao động, phát sinh khi cần có sự nỗ lực tập thể để thực hiện mục tiêu chung. Quản lý diễn ra ở mọi tổ chức, từ phạm vi nhỏ đến phạm vi lớn, từ đơn giản đến phức tạp.

Quản lý là hoạt động nhằm tác động một cách có tổ chức và định hướng của chủ thể quản lý lên một đối tượng quản lý để điều chỉnh các quá trình xã hội và hành vi của con người, nhằm duy trì tính ổn định và phát triển của đối tượng quản lý theo những mục tiêu đã định.

Quản lý bao gồm các yếu tố sau:

– Chủ thể quản lý: là tác nhân tạo ra các tác động quản lý. Chủ thể có thể là một cá nhân hoặc tổ chức.

– Khách thể quản lý: chịu sự tác động hay chịu sự điều chỉnh của chủ thể quản lý, đó là hành vi của con người và các quá trình xã hội.

– Đối tượng quản lý: tiếp nhận sự tác động của chủ thể quản lý. Tùy theo từng loại đối tượng khác nhau mà người ta chia thành các dạng quản lý khác nhau.

– Mục tiêu quản lý: là cái đích cần phải đạt tới tại một thời điểm nhất định do chủ thể quản lý định trước.

Quản lý là một hoạt động phức tạp và nó phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau. Các yếu tố đó là: con người; hệ thống và tư tưởng chính trị; tổ chức; thông tin; văn hóa…

Quản lý nhà nước xuất hiện cùng với sự xuất hiện của Nhà nước. Quản lý nhà nước thay đổi phụ thuộc vào chế độ chính trị, trình độ phát triển kinh tế – xã hội của mỗi quốc gia qua các giai đoạn lịch sử.

Trên cơ sở những lý luận thì quản lý nhà nước là một dạng quản lý xã hội đặc biệt, mang tính quyền lực nhà nước và sử dụng pháp luật nhà nước để điều chỉnh các hành vi của con người trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội do các cơ quan trong bộ máy nhà nước thực hiện, nhằm thỏa mãn nhu cầu hợp pháp của con người, duy trì sự ổn định và phát triển của xã hội.

1.1.2. Khái niệm về du lịch

Ngày nay, du lịch là một hoạt động không thể thiếu trong đời sống con người, ngoài ra chúng đã, đang và tiếp tục trở thành lĩnh vực kinh doanh, dịch vụ quan trọng trong nền kinh tế ở hầu hết tất cả các quốc gia trên thế giới.

Cùng với sự phát triển của du lịch, khái niệm du lịch được hiểu theo nhiều cách khác nhau tuỳ theo góc độ xem xét.

Theo trang tin điện tử: Tổng quan về du lịch Việt Nam, danh lam thắng cảnh đưa ra lý luận và phân tích khái niệm về du lịch dưới góc độ nhìn nhận của các nhà khoa học, như sau:

Vào năm 1941, W. Hunziker và Kraff (Thụy Sỹ) đưa ra định nghĩa: Du lịch là tổng hợp những và các hiện tượng và các mối quan hệ nảy sinh từ việc di chuyển và dừng lại của con người tại nơi không phải là nơi cư trú thường xuyên của họ; hơn nữa, họ không ở lại đó vĩnh viễn và không có bất kỳ hoạt động nào để có thu nhập  tại nơi đến.

Theo Guer Freuler, du lịch là một hiện tượng thòi đại của chúng ta dựa ứên sự tăng trưởng của nhu cầu khôi phục sức khoẻ và sự thay đổi của môi trường xung quanh, dựa vào sự phát sinh, phát triển tình cảm đối với vẻ đẹp của thiên nhiên.

Theo nhà kinh tế Kalisiotis, du lịch là sự di chuyển tạm thời của cá nhân hay tập thể từ nơi này đến nơi khác nhằm thoa mãn nhu cấu tinh thần, đạo đức, do đó tạo nên các hoạt động kinh tế.

Theo M. Coltman, du lịch là tổng thể những hiện tượng và những mối quan hệ phát sinh từ sự tác động qua lại lẫn nhau giữa khách du lịch, nhà kinh doanh du lich, chính quyền sở tai và cồng đồng cu dàn địa phương trong quá trình thu hút và lưu giữ khách du lịch.

Với cách tiếp cận tổng hợp ấy, các thành phần tham gia vào hoạt động du lịch bao gồm:

– Khách du lịch;

– Các doanh nghiệp cung cấp hàng hóa, dịch vụ cho khách du lịch;

– Chính quyền sở tại;

– Cộng đồng dân cư địa phương.

Theo định nghĩa của Tổ chức Du lịch Thế giới: Du lịch được hiểu là tổng hợp các mối quan hệ, hiện tượng và các hoạt động kinh tế bắt nguồn từ các cuộc hành trình và lưu trú của cá nhân hay tập thể ở bên ngoài nơi cư trú thường xuyên của họ với mục đích hòa bình. Nơi họ đến không phải là nơi làm việc của họ.

Tại Việt Nam, mặc dù du lịch là một lĩnh vực khá mới mẻ nhưng các nhà nghiên cứu của Việt Nam cũng đưa ra các khái niệm xét trên nhiều góc độ nghiên cứu khác nhau.

Luật Du lịch được Quốc hội thông qua năm 2005 đã đưa ra khái niệm: “Du lịch là các hoạt động có liên quan đến chuyến đi của con người ngoài nơi cư trú thường xuyên của mình nhằm đáp ứng nhu cầu tham quan, tìm hiểu, giải trí, nghỉ dưỡng trong một khoảng thời gian nhất định” [9, tr.6].

Ở từ điển Bách khoa toàn thư Việt Nam, hiểu về du lịch trên hai quan điểm:

Thứ nhất, du lịch là một dạng nghỉ dưỡng sức, tham quan tích cực của con người ngoài nơi cư trú với mục đích: nghỉ ngơi, giải trí, xem danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử, công trình văn hóa nghệ thuật. Theo nghĩa này, du lịch được xem xét ở góc độ cầu, góc độ người đi du lịch.

Thứ hai, du lịch là một ngành kinh doanh tổng hợp có hiệu quả cao về nhiều mặt: nâng cao hiểu biết về thiên nhiên, truyền thống lịch sử và văn hóa dân tộc, từ đó góp phần làm tăng thêm tình yêu đất nước; đối với người nước ngoài là tình hữu nghị với dân tộc mình; về mặt kinh tế du lịch là lĩnh vực kinh doanh mang lại hiệu quả rất lớn; cố thể coi là hình thức xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ tại chỗ. Theo nghĩa này, du lịch được xem xét ở góc độ một ngành kinh tế.

1.1.3. Quản lý Nhà nước về du lịch

1.1.3.1. Khái niệm

Quản lý Nhà nước về du lịch là quá trình tác động của Nhà nước đến du lịch thông qua các công cụ quản lý nhằm mục tiêu thỏa mãn nhu cầu tinh thần của chức năng người cũng như phát triển du lịch đúng định hướng của Nhà nước, tạo nên sự công bằng trong hoạt động du lịch để du lịch thực sự là một ngành kinh tế mũi nhọn trên cơ sở dử dụng có hiệu quả nhất các nguồn lực kinh tế trong và ngoài nước trong điều kiện mở cửa và hội nhập quốc tế.

1.1.3.2. Chức năng quản lý Nhà nước về du lịch

Du lịch là ngành kinh tế tương đối mới mẻ đối với các nước đang phát triển, đặc biệt là đối với nước ta. Tuy nhiên, đây là một ngành kinh doanh dịch vụ đặc biệt mang tính chiến lược (ngành mũi nhọn) trong giai đoạn phát triển hiện nay của đất nước. Do vậy quản lý nhà nước về du lịch có vai trò rất quan trọng, vì quản lý có chức năng định hướng, tạo điều kiện, hỗ trợ để du lịch phát triển hiệu quả, phát huy được mọi tiềm năng du lịch sẵn có về du lịch, thu hút ngày càng đông lượng khách du lịch, tạo việc làm và tăng thu nhập cho đông đảo người lao động, đồng thời tăng thu nhập cho đông đảo người lao động, đồng thời tăng thu ngân sách cho Nhà nước.

Quản lý nhà nước về Du lịch là quá trình tác động của Nhà nước đến Du lịch thông qua hệ thống văn bản pháp luật với mục tiêu phát triển du lịch đúng định hướng, tạo nên một trật tự trong phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn. Đối tượng của hoạt động quản lý đó chính là hoạt động du lịch, cơ quan tổ chức các hoạt động du lịch và cả du khách.

– Chức năng hoạch định: Nhà nước thực hiện chức năng hoạch định chiến lược để định hướng hoạt động du lịch, xác lập các chương trình, đề án, cụ thể hóa các chiến lược, đặc biệt là lộ trình hội nhập khu vực và quốc tế. Thiết lập khuôn khổ pháp lý thông qua việc ban hành và tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về du lịch, tạo khuôn khổ pháo lý cho họt động du lịch.

– Chức năng tổ chức và phối hợp: bằng việc tạo ra các cơ quan và hệ thống tổ chức quản lý về du lịch, Nhà nước sử dụng bộ máy này để hoạch định các chiến lược, quy hoạch các chính sách, văn bản quy phạm pháp luật… đồng thời thực hiện những vấn đề thuộc về quản lý nhà nước nhằm đưa ra các chính sách phù hợp về du lịch vào thực tiễn, biến quy hoạch, kế hoạch thành hiện thực, tạo điều kiện cho du lịch phát triển.

Hình thành cơ chế phối hợp quản lý hiện hữu từ trung ương đến địa phương trong quản lý du lịch thành phố, huyện, thị xã… Trong khu vực quốc tế thì chức năng này thể hiện ở sự phối hợp giữa các quốc gia có quan hệ song phương, hoặc trong cùng một khối kinh tế, thương mại du lịch nhằm đang dạng hóa, đang phương thức các quan hệ hợp tác trong hoạt động du lịch nhằm đạt được các mục tiêu trong cam kết sẵn có.

  • Chức năng điều tiết các hoạt động du lịch và tác động thị trường: Nhà nước hướng dẫn và kích thích các doanh nghiệp du lịch hoạt động theo định hướng đã vạch ra. Can thiệp và điều tiết thị trường nhằm ổn định kinh tế vĩ mô. Nhà nước dùng nhiều công cụ, biện pháp khác nhau để điều tiết can thiệp thị trường và hoạt động kinh doanh du lịch, xử lý đúng đắn các quan hệ trao đổi.

Nhà nước hỗ trợ các doanh nghiệp về vốn, thông tin tài chính, kết cấu hạ tầng của thị trường và bảo đảm kinh doanh du lịch đúng pháp luật nhằm tránh thất thoát, và sinh lợi cho người hoạt động du lịch, tăng thu cho ngân sách nhà nước.

– Chức năng kiểm soát: Giám sát các hoạt động của mọi chủ thể theo gia hoạt động kinh doanh du lịch cũng như chế độ quản lý của các chủ thể đó. Cấp và thu hồi giấy phép trong hoạt động kinh doanh du lịch. Phát hiện những lệch lạc, nguy cơ chệch hướng hoặc vi phạm phấp luật và những quy định của nhà nước. Kiểm tra đánh giá sức mạnh của hệ thống quản lý du lịch của nhà nước cũng như đánh giá năng lực của độ ngũ cán bộ công chức thực hiện chức năng quản lý nhà nước về du lịch.

1.1.3.3. Vai trò quản lý nhà nước về du lịch

– Vai trò định hướng: Nhà nước có vai trò định hướng phát triển du lịch và hướng dẫn các nhà kinh doanh trong lĩnh vực du lịch hoạt động hướng theo các mục tiêu phát triển du lịch của nhà nước đề ra. Thông qua các công cụ chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, hệ thống chính sách, thông tin nhằm định hướng quá trình phát triển du lịch.

– Vai trò tổ chức: Tổ chức là một chức năng quan trọng của quản lý nhà nước về du lịch. Nhà nước sắp xếp lại các đơn vị kinh doanh du lịch, đảm bảo công ác tổ chức, quy hoạch các khu, các điểm du lịch đảm bảo hoạt động hiệu quả. Bên cạnh đó, nhà nước sắp xếp lại hệ thống quản lý, sắp xếp lại các cơ quan quản lý nhà nước về du lịch từ Trung ương đến cơ sở, đổi mới thể chế và thủ tục hành chính, đào tạo và đào tạo lại cán bộ công chức trong quá trình quản lý nhà nước và doanh nghiệp.

– Vai trò điều tiết các hoạt động du lịch và can thiệp thị trường: Nhà nước là người đại diện quyền lợi hợp pháp của mọi chủ thể kinh doanh nói chung và kinh doanh du lịch nói riêng, khuyến khích và đảm bảo cạnh tranh bình đẳng trước pháp luật, chống độc quyền. Nhà nước can thiệp, điều tiết thị trường kinh Doanh du lịch cạnh tranh bình đẳng, lành lạnh, không dể gây trở ngại cho qúa trình phát triển. Quá trình can thiệp thị trường nhà nước sử dụng nhiều biệp pháp pháp lý, chế tài để can thiệp.

– Vai trò kiểm tra, giám sát và xử lý vi phạm: Nhà nước giám sát hoạt động của mọi chủ thể kinh doanh du lịch cũng như chế độ quản lý nhà nước của các chủ thể đó về các thủ tục pháp lý như, giấy phép kinh doanh, chất lượng và tiêu chuẩn sản phẩm và nghĩa vụ nộp thuế…

1.2. Nội dung quản lý nhà nước về du lịch

Điều 4, pháp lệnh du lịch có quy định nội dung quản lý nhà nước về du lịch gồm những nội dung sau:

– Xây dựng và tổ chức thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và chính sách phát triển du lịch.

– Xây dựng, ban hành và tổ chức thực hiện văn bản quy phạm pháp luật, tiêu chuẩn định mức kinh tế – kỹ thuật trong hoạt động du lịch.

– Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật và thông tin về du lịch.

– Tổ chức, quản lý hoạt động đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực; nghiên cứu, ứng dụng khoa học và công nghệ.

– Tổ chức điều tra, đánh giá tài nguyên du lịch để xây dựng quy hoạch phát triển du lịch, xác định khu du lịch, điểm du lịch, tuyến du lịch, đô thị du lịch.

– Tổ chức thực hiện hợp tác quốc tế về du lịch; hoạt động xúc tiến du lịch ở trong nước và nước ngoài.

– Quy định tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về du lịch, sự phối hợp của các cơ quan nhà nước trong việc quản lý nhà nước về du lịch.

– Cấp, thu hồi giấy phép, giấy chứng nhận về hoạt động du lịch.

– Kiểm tra, thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm pháp luật về du lịch.

1.3. Trách nhiệm quản lý nhà nước về du lịch và kết quả đạt được trong thời gian qua

1.3.1. Trách nhiệm quản lý nhà nước về du lịch

Tại Chương VIII, Luật Du lịch, được Quốc hội thông qua ngày 19/6/2017 quy định Quản lý Nhà nước về Du lịch với những nội dung trọng tâm [9].

  • Chính phủ quản lý nhà nước về du lịch.

Ban hành hoặc trình cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành và tổ chức thực hiện văn bản quy phạm pháp luật về du lịch; xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách phát triển du lịch; danh mục các địa điểm tiềm năng phát triển khu du lịch quốc gia; Điều phối, liên kết các hoạt động du lịch liên quốc gia, liên vùng, liên tỉnh; Xây dựng tiêu chuẩn quốc gia, quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về du lịch; xây dựng cơ sở dữ liệu quản lý về du lịch; Phối hợp với các cơ quan có liên quan, tổ chức xã hội – nghề nghiệp về du lịch phổ biến, giáo dục pháp luật về du lịch; Tổ chức, quản lý hoạt động đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực du lịch; nghiên cứu, ứng dụng khoa học và công nghệ trong lĩnh vực du lịch; hướng dẫn về giao dịch điện tử trong lĩnh vực du lịch; Tổ chức điều tra, đánh giá tài nguyên du lịch; Thực hiện hợp tác quốc tế về du lịch; hoạt động xúc tiến du lịch ở trong nước và nước ngoài; Quản lý, tổ chức thực hiện việc cấp, thu hồi giấy phép, thẻ hướng dẫn viên du lịch và các văn bản chứng nhận khác về hoạt động du lịch; Xã hội hóa hoạt động đầu tư, phát triển sản phẩm du lịch, xúc tiến du lịch, đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực du lịch; Kiểm tra, thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm pháp luật về du lịch.

  • Quản lý nhà nước về du lịch của Bộ, cơ quan ngang Bộ

+ Các Bộ, cơ quan ngang Bộ, trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, có trách nhiệm phối hợp với Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch trong việc thực hiện quản lý nhà nước về du lịch.

+ Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì, phối hợp với Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, cơ quan nhà nước có liên quan ban hành hoặc trình cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành chính sách ưu đãi, hỗ trợ đầu tư trong lĩnh vực du lịch; huy động nguồn lực, thu hút đầu tư phát triển du lịch; lồng ghép các nội dung liên quan đến phát triển du lịch trong các chiến lược, chương trình, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội.

+ Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, cơ quan nhà nước có liên quan ban hành hoặc trình cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành chính sách về tài chính, thuế và hải quan nhằm tạo điều kiện phát triển du lịch; bảo đảm nguồn lực tài chính cho các hoạt động xúc tiến du lịch quốc gia.

+ Bộ Công Thương chủ trì, phối hợp với Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, cơ quan nhà nước có liên quan ban hành hoặc trình cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành chính sách khuyến khích sản xuất, cung cấp hàng hóa, đồ lưu niệm, hàng thủ công, dịch vụ chất lượng cao để phát triển du lịch, xây dựng hệ thống cửa hàng miễn thuế phục vụ khách du lịch tại một số địa bàn du lịch trọng điểm; lồng ghép xúc tiến du lịch trong xúc tiến thương mại.

+ Bộ Ngoại giao chủ trì, phối hợp với Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, cơ quan nhà nước có liên quan tuyên truyền, quảng bá hình ảnh, đất nước, con người Việt Nam; tham mưu chính sách về thị thực phục vụ phát triển du lịch.

– Quản lý nhà nước về du lịch của Ủy ban nhân dân các cấp

+ Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, thực hiện quản lý nhà nước về du lịch tại địa phương; cụ thể hóa chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách phát triển du lịch phù hợp với thực tế tại địa phương.

+ Ban hành hoặc trình cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành các chính sách ưu đãi, thu hút đầu tư để khai thác tiềm năng, thế mạnh về du lịch của địa phương; hỗ trợ phát triển du lịch cộng đồng;

+ Quản lý tài nguyên du lịch, khu du lịch, điểm du lịch, hoạt động kinh doanh du lịch và hướng dẫn du lịch trên địa bàn;

+ Bảo đảm an ninh, trật tự, an toàn xã hội, môi trường, an toàn thực phẩm tại khu du lịch, điểm du lịch, nơi tập trung nhiều khách du lịch;

+ Tuyên truyền, nâng cao nhận thức của người dân để bảo đảm môi trường du lịch thân thiện, lành mạnh và văn minh;

+ Tổ chức bố trí nơi dừng, đỗ cho các phương tiện giao thông đã được cấp biển hiệu phương tiện vận tải khách du lịch để tiếp cận điểm tham quan du lịch, cơ sở lưu trú du lịch; tổ chức rà soát, lắp đặt biển báo, biển chỉ dẫn vào khu du lịch, điểm du lịch;

1.3.2. Quản lý nhà nước về du lịch góp phần phát triển kinh tế – xã hội thời gian qua

Trong những năm qua, du lịch Việt Nam đang trên đà phát triển, lượng khách quốc tế đến cũng như khách du lịch nội địa ngày càng tăng. Du lịch Việt Nam ngày càng được biết đến nhiều hơn trên thế giới, nhiều điểm đến trong nước được bình chọn là địa chỉ yêu thích của du khách quốc tế. Chất lượng và tính cạnh tranh của du lịch là những vấn đề nhận được nhiều sự chú ý và thảo luận rộng rãi.

Hệ thống di sản văn hóa và thiên nhiên thế giới của Việt Nam được UNESCO công nhận ngày càng phong phú. Nhiều điểm du lịch được các tổ chức uy tín bình chọn là địa chỉ yêu thích của đông đảo du khách quốc tế. Trong đó, điển hình như Vịnh Hạ Long được trang web BuzzFeed của Mỹ bình chọn là 1 trong 25 địa danh có vẻ đẹp khó tin nhất trên thế giới; Hà Nội được TripAdvisor bình chọn là 1 trong 10 thành phố thu hút khách du lịch hàng đầu trên thế giới năm 2014; Việt Nam được Tạp chí du lịch Travel & Leisure của Mỹ bình chọn đứng thứ 6 trong số 20 điểm đến tốt nhất dựa trên độ an toàn và thân thiện của người dân dành cho khách du lịch lẻ; Hang Sơn Đoòng được Tạp chí du lịch Business Insider của Mỹ bình chọn là 1 trong 12 hang động ấn tượng nhất thế giới và Tạp chí National Geographic phiên bản tiếng Nga bình chọn là tour du lịch mạo hiểm đẳng cấp nhất thế giới của năm 2014; Tuyến du lịch trên sông Mê Kông (đoạn Việt Nam-Campuchia) được báo Telegraph (Anh) xếp thứ 4/5 tuyến du lịch trên sông hàng đầu châu Á…

Ngoài ra, nhiều doanh nghiệp lữ hành, khách sạn của Việt Nam cũng đã được các tổ chức, website tiêu dùng vinh danh do chất lượng dịch vụ xuất sắc của mình.

Điều này cho thấy chất lượng du lịch Việt Nam đang dần tốt lên, đi vào chiều sâu thay vì chiều rộng theo đúng định hướng trong Chiến lược phát triển du lịch Việt Nam “Phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, du lịch chiếm tỷ trọng ngày càng cao trong cơ cấu GDP, tạo động lực thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội. Phát triển du lịch theo hướng chuyên nghiệp, hiện đại, có trọng tâm, trọng điểm; chú trọng phát triển theo chiều sâu đảm bảo chất lượng và hiệu quả, khẳng định thương hiệu và khả năng cạnh tranh”.

Năm 2016, ngành Du lịch Việt Nam đón được trên 10 triệu lượt khách quốc tế, tăng gấp đôi so với năm 2010. Năm 2017 đón được trên 12,9 triệu lượt, thực hiện thành công chỉ tiêu Chính phủ giao tăng khoảng 30% lượng khách du lịch quốc tế, tăng 27,6% so với cùng kỳ năm 2017. Năm 2018, ngành du lịch đã đón khoảng 15,6 triệu khách quốc tế, tăng 19,9% so với năm 2017, phục vụ trên 80 triệu lượt khách nội địa, tổng thu từ du lịch đạt 620.000 tỷ đồng, đóng góp hơn 8% vào GDP cả nước.

Về lượng khách du lịch nội địa, năm 2016 đạt 62 triệu lượt, tăng hơn gấp đôi năm 2011; năm 2017 đạt 73 triệu lượt; Năm 2018 phục vụ trên 80 triệu lượt khách nội địa.

Về tổng thu từ khách du lịch, năm 2016 đạt 400.000 tỷ đồng, năm 2017 đạt 510.000 tỷ đồng; Năm 2018, tổng thu từ khách du lịch đạt tổng thu từ khách du lịch đạt hơn 620.000 tỷ đồng.

Về doanh nghiệp lữ hành, tính đến hết năm 2017 cả nước có 1.802 doanh nghiệp được cấp phép kinh doanh dịch vụ lữ hành quốc tế và gần 2.000 doanh nghiệp đăng ký hoạt động kinh doanh dịch vụ lữ hành nội địa. Trong năm 2018 có 1.894 doanh nghiệp được cấp giấy phép kinh doanh quốc tế mới; cấp mới 4.678 thẻ hướng dẫn viên.

Về cơ sở lưu trú du lịch, tính đến hết năm 2017, cả nước có 25.600 cơ sở lưu trú du lịch với trên 508.000 buồng, trong đó hạng cao cấp (từ 3 sao đến 5 sao) có 863 cơ sở với 101.400 buồng. Về đội ngũ hướng dẫn viên du lịch, đến nay cả nước có 21.026 hướng dẫn viên được cấp thẻ, trong đó có 12.889 hướng dẫn viên quốc tế và 8.137 hướng dẫn viên nội địa. Năm 2018, có 113 cơ sở lưu trú phân khúc từ 3-5 sao được công nhận.

Các nhiệm vụ trọng tâm trong năm 2018 được tích cực triển khai, trong đó trọng tâm là công tác chuẩn bị tổ chức Diễn đàn Du lịch ASEAN ATF và Hội chợ Travex 2019 tại Quảng Ninh. Các đề án trọng điểm của du lịch Việt Nam được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt bao gồm: Quỹ hỗ trợ phát triển du lịch; Cơ cấu lại ngành Du lịch đáp ứng yêu cầu phát triển thành ngành kinh tế mũi nhọn; Ứng dụng công nghệ thông tin trong lĩnh vực du lịch giai đoạn 2018-2020, định hướng đến năm 2025.

Các hoạt động xúc tiến, quảng bá được tăng cường hiệu quả với việc tổ chức thành công hai hội chợ du lịch quốc tế là VITM Hà Nội và ITE TP. Hồ Chí Minh; đón 19 đoàn famtrip, presstrip, blogger từ các thị trường trọng điểm như Thái Lan, Italia, Đài Loan, Nga, Nhật Bản, Úc, Trung Quốc, Hàn Quốc… đến khảo sát du lịch Việt Nam; tham gia 7 hội chợ du lịch quốc tế và tổ chức 14 chương trình giới thiệu du lịch Việt Nam tại Trung Quốc, Tây Âu, Bắc Âu, Canada-Mỹ, Nhật Bản…

Tổng cục Du lịch đã phối hợp tổ chức thành công Năm Du lịch quốc gia 2018 – Quảng Ninh với chủ đề “Hạ Long – Di sản, Kỳ quan – Điểm đến thân thiện”. Tổ chức lễ vinh danh tôn vinh 85 doanh nghiệp du lịch hàng đầu Việt Nam năm 2017, Hội thảo quốc tế về phát triển du lịch đường bộ Việt – Trung, Hội thảo quốc tế về du lịch tàu biển.

Đồng thời đẩy mạnh phối hợp liên ngành, liên vùng, ký kết thỏa thuận hợp tác với các đơn vị liên quan. Hỗ trợ các địa phương trong việc xây dựng, phát triển sản phẩm du lịch, qua đó thu hút thêm nhiều khách du lịch.

Hoạt động du lịch tại các địa phương diễn ra rất sôi nổi với sự tăng trưởng ấn tượng về lượng khách và tổng thu từ khách du lịch tại một số địa phương tiêu biểu như thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Kiên Giang, Hải Phòng, Lâm Đồng, Thanh Hóa, Quảng Bình, Quảng Nam… Đầu tư về du lịch tăng cả về số lượng và chất lượng với nhiều dự án từ những tập đoàn kinh tế lớn như Vin Group, Sun Group… Các địa phương tích cực phối hợp, liên kết để tổ chức các hội nghị hợp tác phát triển du lịch, đẩy mạnh các hoạt động xúc tiến quảng bá, xây dựng nhiều sản phẩm du lịch mới nhằm đa dạng hóa sản phẩm, đem lại những trải nghiệm phong phú cho du khách trong và ngoài nước.

Du lịch Việt Nam nhận được nhiều giải thưởng danh giá, uy tín trên thế giới, trong đó Việt Nam được trao tặng giải thưởng Điểm đến du lịch hàng đầu châu Á tại Lễ trao Giải thưởng Du lịch Thế giới – World Travel Awards (WTA) khu vực châu Á và châu Úc năm 2018 diễn ra vào tháng 9 vừa qua.

Việt Nam tham gia Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) và Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC), liên kết du lịch là vấn đề tất yếu đặt ra đối với mỗi địa phương nhằm khai thác lợi thế tiềm năng đưa ngành du lịch phát triển, trở thành ngành công nghiệp mũi nhọn, đóng góp nhiều hơn cho ngân sách địa phương.

Theo các chuyên gia kinh tế, du lịch sẽ trở thành ngành công nghiệp đóng góp một phần quan trọng cho phát triển kinh tế ở mỗi địa phương. Với tính chất là ngành kinh tế tổng hợp có tính liên ngành, liên vùng và xã hội hóa cao, sự phát triển của ngành công nghiệp du lịch không chỉ nằm trong một tỉnh mà luôn phải vươn ra khỏi phạm vi hành chính địa phương, một quốc gia, một khu vực.

Việc Việt Nam gia nhập AEC và TPP hiện nay giúp người dân đi lại tự do và một nghiên mới đây của Viện Kinh tế Việt Nam cũng cho thấy trong 10 – 15 năm tới, số người trung lưu khu vực châu Á – Thái Bình Dương tăng nhanh mà giới trung lưu tăng lên thì họ đi du lịch nhiều hơn, tiêu tiền nhiều hơn. Đây chính là cơ hội rất tốt cho ngành Du lịch Việt Nam tận dụng cơ hội thu hút khách.

Trước áp lực cạnh tranh ngày càng tăng, hiện nay việc gắn kết, cùng phát triển du lịch giữa các địa phương đã được triển khai và có nhiều sự thuận lợi hơn nhờ cơ sở hạ tầng đang ngày càng được Nhà nước đầu tư xây dựng nhằm phục vụ phát triển kinh tế đất nước. Theo TS. Trần Du Lịch, nếu không liên kết phát triển du lịch, để địa phương nào cũng tự phát sẽ “phá” tiềm năng, không tạo ra được sản phẩm có sức cạnh tranh với các nước ASEAN.

Trong khi đó, PGS.TS. Trần Đình Thiên, Viện trưởng Viện Kinh tế Trung ương lại cho rằng, nếu không có chiến lược liên kết phát triển du lịch thì tài nguyên sẽ bị khai thác đến… hoang tàn. Thực tế cũng cho thấy, liên kết

LIỆN HỆ:

SĐT+ZALO: 0935568275

E:\DỮ LIỆU COP CỦA CHỊ YẾN\LUAN VAN VIEN HAN LAM\VIEN HAN LAM DOT 9\QUAN LY KINH TE\LA DINH NGHIA\SAU BAO VE

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *