Quản lý nhà nước về nông nghiệp huyện Duy Xuyên

Quản lý nhà nước về nông nghiệp huyện Duy Xuyên

Quản lý nhà nước về nông nghiệp huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam

1. Tính cấp thiết của đề tài

Nghị quyết hội biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng đã xác định “Xây dựng nền nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa lớn, ứng dụng công nghệ cao, nâng cao chất lượng sản phẩm, đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm; nâng cao giá trị gia tăng, đẩy mạnh xuất khẩu. Đẩy nhanh cơ cấu lại ngành nông nghiệp, xây dựng nền nông nghiệp sinh thái phát triển toàn diện cả về nông, lâm, ngư nghiệp theo hướng hiện , bền vững, trên cơ sở phát huy lợi thế so sánh và tổ chức lại sản xuất, thúc đẩy ứng dụng sâu rộng khoa học – công nghệ, nhất là công nghệ sinh học, công nghệ thông tin vào sản xuất, quản lý nông nghiệp và đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện hóa nông nghiệp, nông thôn để tăng năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh, bảo đảm chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh, bảo đảm vững chắc an ninh lương thực quốc gia cả trước mắt và lâu dài; nâng cao thu nhập và đời sống của nông dân; chú trọng đầu tư vùng trọng điểm sản xuất nông nghiệp; có chính sách phù hợp để tích tụ, tập trung ruộng đất, thu hút mạnh các nguồn lực đầu tư phát triển nông nghiệp; từng bước hình thành các tổ hợp nông nghiệp – công nghiệp – dịch vụ công nghệ cao”.

Duy Xuyên là huyện đồng bằng, bán sơn địa nằm ở phía bắc tỉnh Quảng Nam. Những năm qua, với nỗ lực to lớn của các cấp, các ngành của huyện trong công tác quản lý nhà nước về nông nghiệp đã phát huy tiềm năng,lợi thế về điều kiện vị trí địa lý, tự nhiên, kinh tế-xã hội và tranh thủ nhiều nguồn lực đầu tư để đưa ngành nông nghiệp đạt được những kết quả tích cực, việc chuyển đổi cơ cấu giống cây trồng, con vật nuôi, công tác dồn điền đổi thửa đạt được những kết quả đáng khích lệ, việc thủy lợi hóa đất màu được tăng cường, sản xuất lương thực tăng, lâm nghiệp và nuôi trồng thủy sản có bước phát triển.

Tuy nhiên, sản xuất nông nghiệp của huyện còn bộc lộ những hạn chế như tính hiệu quả và sức cạnh tranh của sản phẩm chưa cao, tình trạng được mùa mất giá vẫn tiếp tục diễn ra, lặp đi lặp lại, thường xuyên có những cuộc giải cứu nông sản thừa; thu nhập từ nông nghiệp thấp so với các ngành khác; đa phần nông dân giữ ruộng để sản xuất quảng canh; sản xuất nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa chưa nhiều, dịch vụ nông nghiệp chưa phát triển mạnh, kinh tế hợp tác xã hoạt động chưa hiệu quả; việc ứng dụng khoa học kỹ thuật trong sản xuất nông nghiệp chưa được quan tâm đầu tư đúng mức; ngành lâm nghiệp chưa phát triển mạnh, còn lãng phí diện tích đất đai. Một bộ phận nông dân có đời sống khó khăn, trình độ dân trí chưa cao đã ảnh hưởng nhất định đến sản xuất nông nghiệp.

Điều này cho thấy vai trò quản lý của nhà nước trong lĩnhvực này của huyện chưa thực sự hiệu quả, thể hiện qua các điểm sau đây: năng lực quản lý của các ngành chức năng chưa đáp ứng yêu cầu phát triển của kinh tế; các chế độ, chính sách hỗ trợ trong nông nghiệp chưa được triển khai hiệu quả. Những vi phạm phổ biến diễn ra như vật tư nông nghiệp giả, vi phạm an toàn thực phẩm, sử dụng chất cấm, kháng sinh trong chăn nuôi. Bên cạnh đó, trước những xu thế thay đổi chung hiện nay của ngành nông nghiệp về sự phát triển ngày càng mạnh mẽ của khoa hoc công nghệ, tác động của hội nhập kinh tế và biến đổi khí hậu, đặt ra yêu cầu công tác QLNN về nông nghiệp ở huyện cần thiết phải được nâng cao hơn nữa.

Xuất phát từ những lý do trên, tác giả chọn đề tài “Quản lý nhà nước về nông nghiệp huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam” làm luận văn tốt nghiệp cao học của mình để nghiên cứu đánh giá thực trạng, phát hiện các vấn đề tồn tại, hạn chế và nguyên nhân để tìm giải pháp khắc phục nhằm tăng cường hiệu huyện.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu.

Làm rõ thực trạng QLNN đối với nông nghiệp ở huyện Duy Xuyên; chỉ ra những hạn chế, nguyên nhân hạn chế. Từ đó đề xuất các giải pháp hoàn thiện QLNN đối với nông nghiệp trên địa bàn huyện trong giai đoạn tới.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

– Làm rõ cơ sở lý luận và kinh nghiệm QLNN về nông nghiệp ở một số địa phương, rút ra bài học cho huyện Duy Xuyên.

– Làm rõ thực trạng QLNN về nông nghiệp ở huyện Duy Xuyên trong thời gian qua; phát hiện những hạn chế, nguyên nhân hạn chế.

– Đề xuất các quan điểm, giải pháp nhằm hoàn thiện QLNN về nông nghiệp ở huyện Duy Xuyên trong thời gian tới.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của đề tài luận văn là hoạt động QLNN đối với nông nghiệp ở huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam.

Phạm vi nghiên cứu

– Giới hạn phạm vi nội dung nghiên cứu: Quản lý nhà nước đối với nông nghiệp bao gồm nhiều nội dung phức tạp, đặc biệt trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế và tái cơ cấu nông nghiệp, vấn đề quản lý nông nghiệp càng trở nên phức tạp hơn. Vì vậy, trong khuôn khổ luận văn thạc sỹ, tác giả tập trung nghiên cứu một số nội dung chính về QLNN về nông nghiệp. Những nội dung khác được đề cập ở mức độ khác nhau, tùy theo từng nội dung cụ thể.

Trong luận văn này, QLNN về nông nghiệp được giới hạn là quản lý ngành trồng trọt, ngành chăn nuôi và thủy sản.

– Phạm vi nghiên cứu về không gian: Các hoạt động QLNN đối với nông nghiệp trên địa bàn huyện Duy Xuyên

– Phạm vi nghiên cứu về thời gian: Thực trạng QLNN về nông nghiệp ở huyện Duy Xuyên trong thời gian 5 năm: từ năm 2013-2017, giải pháp được đề xuất cho giai đoạn từ 2019 – 2025.

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

5.1. Cơ sở lý luận

Phương pháp luận của luận văn là chủ nghĩa duy vật biện chứng, duy vật lịch sử.

5.2. Phương pháp nghiên cứu

+ Thu thập dữ liệu thứ cấp: Thông qua các thông tin từ Chi cục thống kê huyện, các Báo cáo về nông nghiệp của UBND huyện và các phòng chuyên môn của huyện. Bên cạnh đó tác giả luận văn còn sử dụng các kết quả đã công bố tại các luận văn, tạp chí, giáo trình của các tác giả để phục vụ cho nghiên cứu.

+ Thu thập dữ liệu sơ cấp: Khảo sát cá nhân, tổ chức về công tác QLNN về nông nghiệp trên địa bàn huyện Duy Xuyên thông qua các câu hỏi có sẵn Phiếu phỏng vấn để khảo sát đánh giá sự đánh giá của người được hỏi về các nội dung QLNN về phát triển nông nghiệp bền vững ở huyện Duy Xuyên.

+ Lựa chọn địa bàn nghiên cứu là 4 xã gồm Duy Châu (giáp sông thu Bồn, thường xuyên bị ngập lụt), Duy Sơn (thuộc miền núi), Duy Vinh (là nơi hợp lưu giao thủy của các dòng sông Thu Bồn, Ly Ly và Trường Giang), Duy Nghĩa (giáp với biển), 1 thị trấn Nam Phước (đang hướng đô thị).

+ Lựa chọn đối tượng phỏng vấn: Phỏng vấn theo bảng câu hỏi gồm 100 hộ dân tại 4 xã, 1 thị trấn và 20 diện cán bộ làm quản lý nông nghiệp.

+ Phương pháp phân tích thông tin:

Định tính: phương pháp logic, biện luận và so sánh đối chiếu thông tin từ các nguồn khác nhau

Định lượng: Phân tích thống kê mô tả tỉ lệ phần trăm theo nhóm.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn

6.1. Ý nghĩa lý luận

Luận văn góp phần làm rõ thêm những vấn đề lý luận về quản lý nông nghiệp trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế và biến đổi khí hậu.

6.2. Ý nghĩa thực tiễn

Luận văn là tài liệu tham khảo cho các nhà quản lý về nông nghiệp huyện Duy Xuyên. Qua đó giúp cho nhà quản lý về nông nghiệp huyện Duy Xuyên tăng cường quản lý Nhà nước về nông nghiệp trong thời gian tới.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, luận văn được chia thành 3 chương:

Chương 1: Cơ sở lý luận và kinh nghiệm QLNN đối với nông nghiệp ở một số địa phương;

Chương 2: Thực trạng QLNN đối với nông nghiệp ở huyện Duy Xuyên trong thời gian 2013 – 2017

Chương 3: Quan điểm, giải pháp hoàn thiện QLNN đối với nông nghiệp ở huyện Duy Xuyên trong thời gian 2019 – 2025.

CHƯƠNG 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ KINH NGHIỆM QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC

ĐỐI VỚI NÔNG NGHIỆP Ở MỘT SỐ ĐỊA PHƯƠNG

1.1. Nông nghiệp

1.1.1. Khái niệm nông nghiệp 

Theo Từ điển tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên: nông nghiệp là ngành sản xuất vật chất cơ bản của xã hội, cung cấp sản phẩm trồng trọt và sản xuất chăn nuôi [22]. 

Trong tác phẩm Kinh tế Nông nghiệp – lý thuyết và thực tiễn, tác giả Đinh Phi Hổ quan niệm: “Nông nghiệp là một trong những ngành sản xuất vật chất quan trọng của nền kinh tế quốc dân. Hoạt động nông nghiệp không những gắn liền với các yếu tố kinh tế, xã hội mà còn gắn với các yếu tố tự nhiên. Nông nghiệp theo nghĩa rộng gồm có: trồng trọt, chăn nuôi, lâm nghiệp và thủy sản” [13]. 

Theo đó, kinh tế nông nghiệp bao gồm:  Trồng trọt là ngành sử dụng đất đai với cây trồng làm đối tượng chính để sản xuất ra lương thực, thực phẩm, tư liệu cho công nghiệp và thỏa mãn các nhu cầu về vui chơi giải trí, tạo cảnh quan (hoa viên, cây kiềng, sân banh, sân golf). 

Chăn nuôi là một trong hai ngành sản xuất chủ yếu của nông nghiệp (theo nghĩa hẹp), với đối tượng sản xuất là các loại động vật nuôi. Đây là ngành cung cấp thực phẩm nhiều chất đạm như thịt, sữa, trứng; cung cấp da, len, lông; sản phẩm phụ của chăn nuôi dùng làm phân bón; gia súc dùng làm sức kéo. 

Lâm nghiệp là các hoạt động chăm sóc nuôi dưỡng và bảo vệ rừng; 
khai thác, vận chuyển và chế biến các sản phẩm từ rừng; trồng cây, tái tạo rừng, duy trì tác dụng phòng hộ của rừng. 

Ngư nghiệp bao gồm đánh bắt và nuôi trồng thủy sản trong đó đánh bắt là hoạt động lâu đời của con người nhằm cung cấp thực phẩm cho mình thông qua các hình thức đánh bắt cá và các thủy sinh vật khác. 

1.1.2. Những đặc điểm chủ yếu của nông nghiệp

Nông nghiệp là một trong hai ngành sản xuất vật chất chủ yếu của xã hội. Sản xuất nông nghiệp được tiến hành trên địa bàn rộng lớn, phức tạp, phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên, nên mang tính khu vực rõ rệt. Đặc điểm này cho thấy, ở đâu có đất và lao động thì có thể tiến hành sản xuất nông nghiệp. Sản xuất nông nghiệp có những đặc điểm riêng mà các ngành khác không có, cụ thể:

Thứ nhất, đó là tính vùng. Sản xuất nông nghiệp được tiến hành trên một địa bàn rộng lớn, phức tạp, phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên nên mang tính khu vực cao. Ở mỗi quốc gia, mỗi vùng có điều kiện khí hậu, thời tiết, lịch sử hình thành các loại đất, quá trình khai phá, sử dụng khác nhau thì hoạt động nông nghiệp sẽ khác nhau.

Thứ hai, ruộng đất là tư liệu sản xuất chủ yếu không thể thay thế được. Ruộng đất bị giới hạn về mặt diện tích, con người không thể tăng thêm theo ý muốn chủ quan nhưng sức sản xuất của ruộng đất chưa giới hạn. Chính vì thế, trong quá trình sử dụng phải biết quý trọng đất, sử dụng đất tiết kiệm, cải tạo, bồi dưỡng để làm cho ruộng đất ngày càng màu mỡ hơn, cần xem xét thật kỹ càng khi chuyển từ đất nông nghiệp sang các loại đất khác.

Thứ ba, đối tượng sản xuất nông nghiệp là cây trồng, vật nuôi. Các loại này phát triển theo quy luật sinh học (sinh trưởng, phát triển và diệt vong), nhạy cảm với các yếu tố ngoại cảnh. Với tư cách là tư liệu sản xuất thì chúng là tư liệu sản xuất đặc biệt bởi nó được sản xuất trong nông nghiệp bằng cách sử dụng sản phẩm thu được của chu kỳ trước. Do đó, đòi hỏi phải thường xuyên chọn lọc, lai tạo ra những giống mới phù hợp với điều kiện từng vùng để cho năng suất cao.

Thứ tư, sản xuất nông nghiệp có tính thời vụ cao. Đây là đặc thù điển hình nhất bởi quá trình sản xuất nông nghiệp là quá trình tái sản xuất kinh tế gắn với quá trình tái sản xuất tự nhiên; thời gian hoạt động và thời gian sản xuất xen kẽ vào nhau, song lại không hoàn toàn trùng hợp nhau, sinh ra tính thời vụ cao trong nông nghiệp. Tính thời vụ không thể xóa bỏ được mà chỉ có thể hạn chế nó. Do đó, người nông dân phải khai thác tốt quy luật này để giảm chi phí sản xuất, cũng như phải có giải pháp tổ chức sản xuất hợp lý để hạn chế những khó khăn, khai thác hiệu quả sản xuất.

Thứ năm, sản xuất nông nghiệp phụ thuộc điều kiện tự nhiên và mang tính đặc thù địa phương. Sản xuất nông nghiệp phụ thuộc rất nhiều vào điều kiện tự nhiên như: đất đai, nguồn nước, khí hậu, thời tiết. Ở mỗi vùng, miền, ngoài sự khác nhau về điều kiện tự nhiên, còn có sự khác biệt về điều kiện kinh tế, xã hội, văn hóa, tập quán, con người… Do vậy, cần nâng cao chất lượng công tác quy hoạch nhằm xây dựng những vùng chuyên canh, sản xuất lớn vừa đạt hiệu quả về kinh tế – xã hội, vừa phù hợp với từng vùng, miền. Mỗi vùng, miền không chỉ có những sản phẩm nông nghiệp phù hợp với điều kiện tự nhiên mà còn có những sản phẩm nông nghiệp mang lợi thế cạnh tranh bởi tính đặc sản và chất lượng nông sản. 

1.2. Quản lý nhà nước đối với nông nghiệp

1.2.1. Khái niệm quản lý nhà nước về nôngnghiệp

Để làm rõ khái niệm QLNN về nông nghiệp, trước hết luận văn nghiên cứu, tìm hiểu khái niệm về QLNN.

Trong luận án tiến sỹ quản lý kinh tế nghiên cứu về “Đổi mới QLNN đối với nông nghiệp Việt Nam trước yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế”của Hoàng Sỹ Kim; tác giả chỉ ra rằng, QLNN là “hoạt động thực hiện quyền lực nhà nước của các cơ quan trong bộ máy nhà nước nhằm thực hiện các chức năng đối nội và đối ngoại của nhà nước trên cơ sở các quy luật phát triển xã hội, nhằm mục đích ổn định và phát triển đất nước” [18].

Bên cạnh đó, trong luận án tiến sĩ quản lý hành chính công, tác giả Nguyễn Văn Chử nghiên cứu về “Hoàn thiện nội dung QLNN đối với chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp ở Việt Nam hiện nay”, tác giả cũng chỉ ra rằng, QLNN: “Là một dạng quản lý xã hội đặc biệt, mang tính quyền lực nhà nước và sử dụng pháp luật để điều chỉnh hành vi hoạt động của con người trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội do các cơ quan trong bộ máy nhà nước thực hiện, nhằm thỏa mãn nhu cầu hợp pháp của con người, duy trì sự ổn định và phát triển của xã hội” [9].

Như vậy, QLNN là hoạt động quyền lực của cơ quan nhà nư ớ c thông qua công cụ pháp luật nhằm mục đích ổn định và phát triển xã hội.

Về khái niệm QLNN về nông nghiệp, trong luận án tiến sỹ quản lý kinh tế nghiên cứu về Đổi mới QLNN đối với nông nghiệp Việt Nam trước yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế của Hoàng Sỹ Kim, tác giả chỉ ra rằng: “QLNN về lĩnh vực nông nghiệp là hoạt động sắp xếp, tổ chức, điều hành, hướng dẫn, kiểm tra của hệ thống cơ quan quản lý nhà nước từ Trung ương tới địa phương đối với lĩnh vực nông nghiệp trên cơ sở nhận thức vai trò, vị trí và đặc điểm kinh tế – kỹ thuật, chuyên môn của ngành nông nghiệp để khai thác và sử dụng các nguồn lực trong và ngoài nước, nhằm đạt được mục tiêu xác định với hiệu quả cao nhất” [18].

Trong Giáo trình Kinh tế nông nghiệp, tác giả Vũ Đình Thắng cho rằng: “QLNN về kinh tế trong nông nghiệp là sự quản lý vĩ mô của Nhà nước đối với nông nghiệp thông qua các công cụ kế hoạch, pháp luật và các chính sách để tạo điều kiện và tiền đề, môi trường thuận lợi cho các hoạt động sản xuất – kinh doanh nông nghiệp hướng tới mục tiêu chung của toàn nền nông nghiệp; xử lý những việc ngoài khả năng tự giải quyết của đơn vị kinh tế trong hoạt động kinh tế trên tất cả các lĩnh vực sản xuất, lưu thông, phân phối, tiêu dùng các sản phẩm nông nghiệp; điều tiết các lợi ích giữa các vùng, các ngành, sản phẩm nông nghiệp, giữa nông nghiệp với toàn bộ nền kinh tế; thực hiện sự kiểm soát đối với tất cả các hoạt động trong nền nông nghiệp và kinh tế nông thôn làm ổn định và lành mạnh hóa mọi quan hệ kinh tế và xã hội…” [30].

Từ các quan niệm trên, luận văn đưa ra khái niệm: QLNN về nông nghiệp là một bộ phận trong quản lý kinh tế quốc dân, thể hiện sự tác động chi phối, có định hướng bằng quyền lực và thông qua bộ máy nhà nước;thực hiện bằng các biện pháp, công cụ quản lý để nông nghiệp đạt được mục tiêu kinh tế, hiệu quả xã hội, sự vận hành phù hợp với các quy luật khách quan.

1.2.2. Đặc điểm quản lý nhà nước về nông nghiệp

1.2.2.1. QLNN về nông nghiệp có tính phức tạp cao

Sản xuất nông nghiệp có tính chất liên ngành, diễn ra trong phạm vi không gian rộng lớn và đối tượng của ngành thì luôn thay đổi, phát sinh từ cung cấp các điều kiện sản xuất chế biến và tiêu thụ sản phẩm, điều này đã làm tăng thêm mức độ phức tạp của công tác QLNN về nông nghiệp so với các ngành khác.

Bên cạnh đó, sự không đồng đều về trình độ phát triển sản xuất và quản lý cùng với các điều kiện về vật chất kỹ thuật và đa dạng hóa của các vùng làm tăng cao mức độ phức tạp của công tác QLNN về nông nghiệp.

1.2.2.2. QLNN về nông nghiệp khó khăn hơn so với quản lý các ngành khác

Các hoạt động sản xuất nông nghiệp chủ yếu diễn ra trên địa bàn nông thôn, là khu vực có hạ tầng phát triển chậm, mức sống dân cư thấp,bên cạnh đó, đất sản xuất manh mún; phạm vi rộng lớn, đa dạng về địa hình, hoạt động sản xuất diễn ra không giống nhau; đây là khó khăn rất lớn trong việc phân bổ nguồn lực, nguồn vốn cũng như sự đầu tư kỹ thuật mới cho nông nghiệp.

Mặt khác, chủ thể chính trong sản xuất nông nghiệp là nông dân, so với các ngành khác, họ không chỉ thiếu vốn mà còn thiếu kiến thức, trình độ không đồng đều, điều này khiến cho công tác QLNN về nông nghiệp khó khăn hơn so với các ngành khác, đặc biệt là trong công tác giám sát, kiểm tra, xử lý vi phạm.

Tư liệu sản xuất của ngành nông nghiệp chủ yếu là đất đai, so với các ngành khác, nó là tài liệu không thể thay thế được, vì vậy, đây là khó khăn trong công tác QLNN về nông nghiệp, khiến cho công tác quản lý phải chú trọng bảo tồn quỹ đất và đẩy mạnh nghiên cứu, ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ vào nông nghiệp để khai thác hiệu quả nguồn đất.

Đối tượng của ngành nông nghiệp rất rộng, luôn thay đổi và phát sinh theo quá trình vận động, phát triển của thị trường như giống cây trồng, thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật, phân bón, thức ăn chăn nuôi, sản xuất hữu cơ,.. nên khó có thể hoàn thiện đầy đủ hệ thống tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật, vì vậy gây khó khăn cho công tác QLNN.

1.2.2.3.Có sự phối hợp của nhiều ngành, nhiều cấp

Nguồn thu từ nông nghiệp là nguồn thu nhập chủ yếu của cư dân nông thôn và hoạt động của ngành diễn ra trên phạm vi rộng, ở mọi địa hình, dó đó, trong công tác QLNN về nông nghiệp có sự phối hợp chặt chẽ của các ngành, các cấp cũng như các đoàn thể, mặt trận để đảm bảo sự ổn định và phát triển của ngành nhằm đạt mục tiêu nâng cao đời sống cho cư dân nông thôn.

Bên cạnh đó, trong chính ngành nông nghiệp, từ khâu sản xuất, chế biến và tiêu thụ đều có sự liên quan của các ngành như Tài nguyên – môi trường, Kinh tế – Hạ tầng, Tài chính – kế hoạch, … vì vậy, trong công tác QLNN về lĩnh vực này yêu cầu phải có sự phối hợp chặt chẽ của các ngành nhằm đảo bảo sự vận hành của các hoạt động SX, KD tuân thủ theo quy định.

1.2.3. Vai trò của Nhà nước đối với nông nghiệp

Trong quá trình phát triển nông nghiệp, quản lý nhà nước có vai trò quan trọng, góp phần vào điều chỉnh, hướng dẫn quá trình vận động nội tại của nông nghiệp phù hợp với các điều kiện khách quan và chiến lược phát triển kinh tế – xã hội chung của nền kinh tế. Vai trò quản lý nhà nước về nông nghiệp được thể hiện với các chức năng cơ bản sau:

Thứ nhất, Nhà nước tạo lập môi trường và điều kiện thuận lợi cho nông nghiệp phát triển. Nhà nước tạo lập môi trường chính trị – xã hội ổn định; thiết lập môi trường pháp lý, tạo ra môi trường đầu tư hấp dẫn, một sân chơi chung, cạnh tranh lành mạnh giữa các thành phần kinh tế. Nhà nước vận dụng các quy luật kinh tế khách quan và sử dụng những chính sách, cơ chế nhằm mở rộng thị trường, khuyến khích đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn.

Thứ hai, Nhà nước định hướng phát triển nông nghiệp phù hợp với điều kiện chính trị, KT-XH trong nước, phù hợp với điều kiện kinh tế khu vực và thế giới bằng những chủ trương, chính sách, pháp luật. Nhà nước định hướng phát triển nông nghiệp góp phần vào thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện hoá đất nước; hoạch định chính sách, chỉ tiêu kế hoạch vĩ mô cho từng thời kỳ; thực hiện xoá đói, giảm nghèo, nâng cao đời sống và văn minh xã hội.

Thứ ba, Nhà nước tổ chức và điều tiết sự phát triển của nông nghiệp. Tổ chức là một chức năng quan trọng của quản lý nhà nước về nông nghiệp nhất là trong điều kiện kinh tế thị trường mở cửa và hội nhập như hiện nay. Nhà nước xây dựng, đổi mới hệ thống tổ chức bộ máy và cán bộ quản lý nhà nước về nông nghiệp, cải tiến công cụ quản lý, thủ tục hành chính trong lĩnh vực nông nghiệp, đảm bảo tổ chức tinh gọn, vững mạnh, có hiệu lực và hiệu quả.

Nhà nước cung cấp hàng hoá và dịch vụ công cộng, đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ thuật, đảm bảo môi trường chính trị ổn định, đảm bảo công bằng và phúc lợi xã hội. Nhà nước thực hiện chức năng điều tiết chi phối thị trường bằng cách sử dụng cả biện pháp kinh tế và biện pháp hành chính. Đồng thời, Nhà nước sử dụng hàng loạt các công cụ quản lý kinh tế vĩ mô bao gồm hệ thống chính sách, các đòn bẩy kinh tế, quỹ dự trữ hàng hoá, cán cân thương mại, tỷ giá hối đoái, tín dụng, tài chính, thuế quan, hạn ngạch, tiêu chuẩn hoá… nhằm đạt tới các mục tiêu đề ra.

Thứ tư, Nhà nước thực hiện chức năng kiểm tra các hoạt động liên quan đến nông nghiệp nhằm đảm bảo trật tự, kỷ cương, uốn nắn những hành vi trái pháp luật; ngăn ngừa những hành động tiêu cực như: sản xuất và kinh doanh hàng giả (nông sản, thực phẩm, giống, vật tư phân bón, thuốc bảo vệ thực vật giả, kém chất lượng), đầu cơ, buôn lậu… nhằm bảo vệ quyền bình đẳng trước pháp luật, sự cạnh tranh lành mạnh cũng như quyền lợi của người tiêu dùng và doanh nghiệp. Nhà nước thực hiện chức năng kiểm tra để phát hiện những kẽ hở và nhược điểm của cơ chế chính sách quản lý đã ban hành trong lĩnh vực nông nghiệp nói riêng, cơ chế chính sách kinh tế nói chung để kịp thời sửa đổi, đồng thời, phổ biến những kinh nghiệm, phát hiện và nhân rộng những nhân tố mới, tích cực của sản xuất nông nghiệp trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân.

1.2.4. Phân cấp quản lý nhà nước về nông nghiệp cấp huyện

Theo quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng nhân dân và UBND cấp huyện trong lĩnh vực nông nghiệp tại Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 [27] và quy định tại Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật [26], công tác xây dựng các chiến lược, chính sách không thuộc phạm vi, thẩm quyền của cấp huyện; mà phạm vi, thẩm quyền đối với cấp huyện là thực hiện hóa chủ trương, chính sách, pháp luật của Nhà nước ở địa phương trong lĩnh vực nông nghiệp sao cho phù hợp với điều kiện KT-XH, điều kiện tự nhiên của mỗi địa phương, cũng như thực hiện đầy đủ, toàn diện và đúng đắn nhất những gì đã đề ra; góp phần đảm bảo sự thống nhất trong lãnh đạo, chỉ đạo và quản lý bộ máy hành chính nhà nước.

1.3. Nội dung quản lý nhà nước đối với nông nghiệp ở cấp huyện

Nội dung QLNN đối với nông nghiệp rất đa dạng, ở cấp huyện tác giả chỉ đi sâu nghiên cứu một số nội dung chủ yếu sau:

– QLNN về ban hành, triển khai và thực hiện chính sách phát triển kinh tế nông nghiệp.

Trên cơ sở chính sách, kế hoạch phát triển nông nghiệp đã được xây dựng, chính quyền cấp huyện ban hành hệ thống chính sách khuyến 
khích phát triển nông nghiệp trên địa bàn huyện. Đồng thời, thông qua việc 
nghiên cứu, ban hành, cụ thể hoá và tổ chức thực hiện các chính sách, pháp 
luật chung của Trung ương cũng như địa phương cho phù hợp với điều kiện 
của huyện, sẽ khai thác được tiềm năng và lợi thế so sánh về phát triển nông 
nghiệp. Các chính sách về khuyến khích đầu tư, ưu đãi trong thuê đất và tín 
dụng; ưu tiên, hỗ trợ xây dựng cơ sở vật chất hạ tầng nông nghiệp, nông thôn; hướng nông nghiệp phát triển theo hướng bền vững, bảo vệ môi trường; đào tạo, phát triển nguồn nhân lực, khuyến khích hoạt động đào tạo nghề cho 
nông nhân; thực hiện chính sách xã hội, cải thiện đời sống nhân dân… sẽ tạo 
động lực cho nông nghiệp phát triển toàn diện, bảo đảm sự phát triển nông 
nghiệp hài hoà và phù hợp với phát triển kinh tế – xã hội của huyện. 

Tiêu chí đánh giá gồm:

+ Kết quả thực hiện so với chỉ tiêu kế hoạch.

+ Kết quả triển khai thực hiện các chương trình, chính sách.

+ Mức độ hài lòng của người dân, cán bộ quản lý.

– QLNN phân bổ, khai thác nguồn tài nguyên đất đai phát triển nông nghiệp.

Đất có vai trò và ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế xã hội. Đất đai dành cho sản xuất nông nghiệp ngày càng bị thu hẹp, thay vào đó là đất đai dành cho sản xuất phi nông nghiệp tăng nhanh. Đây là một xu hướng biến động phù hợp với quy luật của sự phát triển kinh tế xã hội. Tuy nhiên các vấn đề đảm bảo an ninh lương thực quốc gia, ổn định đời sống của người dân và hạn chế những trường hợp vi phạm đất đai (nhất là những vi phạm về việc tự ý chuyển nhượng, chuyển đổi, sử dụng đất sai mục đích) thì việc quản lý, phân bổ, khai thác nguồn tài nguyên đất đai phát triển nông nghiệp một cách hợp lý, hiệu quả, bền vững luôn được tăng cường.

Tiêu chí đánh giá gồm:

+ Việc phân bổ và sử dụng đất sản xuất nông nghiệp.

+ Việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất

+ Mức độ hài lòng của người dân, cán bộ quản lý.

– QLNN quá trình tái cơ cấu nông nghiệp

Theo Quyết định số 899/QĐ-TTg, ngày 10 tháng 6 năm 2013 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án “Tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững” [34] thì tái cơ cấu ngành nông nghiệp là một hợp phần của tái cơ cấu tổng thể nền kinh tế quốc dân, phù hợp với chiến lược và kế hoạch phát triển kinh tế, xã hội của cả nước; gắn với phát triển kinh tế , xã hội và bảo vệ môi trường.

Quản lý nhà nước về tái cơ cấu nông nghiệp là tăng cường sự tham gia của tất cả các thành phần kinh tế, xã hội từ trung ương đến địa phương trong quá trình tái cơ cấu ngành; đẩy mạnh phát triển đối tác công tư (PPP) và cơ chế đồng quản lý, phát huy vai trò của các tổ chức cộng đồng. Hướng dẫn, ban hành các chính sách hỗ trợ đề nông dân và doanh nghiệp trực tiếp đầu tư đổi mới quy trình sản xuất, công nghệ và thiết bị để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh và sử dụng tài nguyên hiệu quả hơn.

Tiêu chí đánh giá gồm:

  • Việc ban hành các chính sách hỗ trợ nâng cao giá trị nông nghiệp.
  • Kết quả thu hút, hỗ trợ kinh doanh liên kết tiêu thụ sản phẩm.

+ Mức độ hài lòng của người dân, cán bộ quản lý.

QLNN về sử dụng và đào tạo nguồn nhân lực nông nghiệp

Theo Nghị quyết số 26-NQ/TW, ngày 5 tháng 8 năm 2008 Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khoá X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn; đào tạo nguồn nhân lực cho nông nghiệp, nông thôn được cụ thể hoá là: “Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng kiến thức khoa học kỹ thuật sản xuất nông nghiệp tiên tiến, hiện cho nông dân; đào tạo nghề cho bộ phận con em nông dân để chuyển nghề, xuất khẩu lao động; đồng thời tập trung đào tạo nâng cao kiến thức cho cán bộ quản lý, cán bộ cơ sở….”. Đây là một chủ trương lớn của Đảng nhằm phát triển nông nghiệp, nông thôn. Do đó việc quản lý đào tạo nguồn nhân lực nông nghiệp đặc biệt là quản lý đào tạo, bồi dưỡng kiến thức khoa học kỹ thuật sản xuất nông nghiệp tiên tiến, hiện cho nông dân và đào tạo nâng cao kiến thức cán bộ quản lý nông nghiệp là hết sức cần thiết để phát triển nông nghiệp bền vững.

Khung tiêu chí đánh giá gồm:

 + Chất lượng đào tạo nghề cho lao động nông thôn

+ Chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý

+ Mức độ hài lòng của người dân, cán bộ quản lý.

– QLNN đối với công tác sản xuất nông nghiệp.

Để sản xuất những loại sản phẩm có chất lượng, năng suất cao, có thị trường tiêu thụ tốt thì đòi hỏi nhà nước cần phải quản lý sử dụng giống cây trồng, vật nuôi, thủy sản, phân bón chất lượng, chặt chẽ. Thường xuyên kiểm tra, giám sát vật tư nông nghiệp, bảo vệ thực vật, đầu tư khoa học công nghệ trong sản xuất nông nghiệp.

Tiêu chí đánh giá gồm:

+ Kết quả thực hiện kiểm tra, giám sát và xử lý các vi phạm lĩnh vực nông nghiệp.

+ Mức độ hài lòng của người dân, cán bộ quản lý.

– QLNN về tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp

Để có thể khai thác tốt thị trường tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp, Nhà nước có vai trò quan trọng trong việc mở rộng liên doanh, liên kết sản xuất, kiểm soát nâng cao chất lượng sản phẩm, quảng bá thương hiệu sản phẩm sản xuất của nông dân. Hỗ trợ đầu tư vốn trong quá trình chuyển giao công nghệ tiên tiến, hiện cho nông dân nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm nông nghiệp. Do đó, để tiến đến sản xuất nông nghiệp bền vững, theo hướng sản xuất hàng hóa là rất khó khăn, nếu Nhà nước cần giải quyết yếu tố thị trường nông sản tạo đầu ra cho sản xuất nông nghiệp của huyện Duy Xuyên.

Tiêu chí đánh giá gồm:

+ Chất lượng quá trình kinh doanh, liên kết sản xuất.

+ Thị trường đầu ra sản phẩm nông nghiệp.

+ Chất lượng sản phẩm nông nghiệp.

+ Mức độ hài lòng của người dân, cán bộ quản lý.

LIỆN HỆ:

SĐT+ZALO: 0935568275

E:\DỮ LIỆU COP CỦA CHỊ YẾN\LUAN VAN VIEN HAN LAM\VIEN HAN LAM DOT 9\QUAN LY KINH TE\HUYNH THI KIM ANH\SAU BAO VE

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *