Quản lý nhà nước về du lịch trên địa bàn quận Thanh Khê

Quản lý nhà nước về du lịch trên địa bàn quận Thanh Khê

Quản lý nhà nước về du lịch trên địa bàn quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng

1.Tính cấp thiết của đề tài

Ngày nay trên thế giới du lịch trở thành hiện tượng kinh tế – xã hội phổ biến, là cầu nối tình hữu nghị, phương tiện gìn giữ hòa bình và hợp tác giữa các quốc gia, dân tộc. Ở nhiều nước, du lịch là một trong những ngành kinh tế hàng đầu, phát triển với tốc độ cao. Ở Việt Nam, sau hơn 30 năm đổi mới, ngành du lịch đã có nhiều khởi sắc, thay đổi diện mạo và từng bước khẳng định vị trí, tầm quan trọng, sức ảnh hưởng của ngành trong nền kinh tế quốc dân, góp phần phát triển kinh tế – xã hội, thúc đẩy giao lưu văn hóa giữa các quốc gia, dân tộc; đóng góp tích cực trong quá trình hội nhập, cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Có thể nói rằng, không có ngành kinh tế nào đi tắt đón đầu đuổi kịp trình độ phát triển của các nước trong khu vực, rút ngắn khoảng cách và chống tụt hậu về kinh tế nhanh bằng ngành du lịch. Vì vậy, những năm qua, Đảng và Nhà nước ta có sự quan tâm đặc biệt đến ngành “Công nghiệp không khói” này. Nhận thấy tầm quan trọng đó, Nghị quyết của Đại hội Đảng bộ Thành phố Đà Nẵng lần thứ XXI cũng đã nêu ra 3 bước đột phá, trong đó phát triển mạnh các ngành dịch vụ, nhất là du lịch được đặt lên hàng đầu.

Quận Thanh Khê là một địa phương có nhiều tiềm năng để phát triển về du lịch. Nằm ở trung tâm về phía Tây Bắc, cửa ngõ giao thông thành phố Đà Nẵng,có nhà ga; tiếp giáp bến xe trung tâm, sân bay quốc tế. Diện tích tự nhiên 9,44 km2,với đường bờ biển dài 4,287km, là một trong hai quận của thành phố có đội tàu khai thác hải sản xa bờ có công suất lớn, là điều kiện thuận lợi đối với các hoạt động kinh doanh về du lịch.

Những năm qua, công tác quản lý nhà nướcvề du lịch được đảng bộ và chính quyền quận luôn được quan tâm,củng cố thường xuyên. Do đó, các hoạt động kinh doanh về du lịch thời gian qua đã có nhiều đóng góp tích cực cho sự phát triển kinh tế – xã hội của quận. Tuy nhiên, công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động này ở quận Thanh Khê còn những hạn chế nhất định, công tác triển khai các quy hoạch về du lịch chưa đồng bộ, chưa cócác điểm nhấn, phát triển du lịch còn chạy theo phong trào;chính sách thu hút đầu tư đối với doanh nghiệp chưa khả thi, chưa thật sự thu hút mạnh; chưa quan tâm đầy đủ đến việc bảo vệ, tôn tạo tài nguyên du lịch. Việc kiểm tra, đánh giá cấp chứng nhận các tiêu chuẩn chất lượng về cơ sở kinh doanh lưu trú, các đơn vị vận tải, lữ hành chưa hiệu quả, tỷ lệ vi phạm còn nhiều; cơ sở vật chất và kỹ thuật du lịch còn nghèo nàn, mang tính tự phát. Bên cạnh đó, cơ quan quản lý nhà nước chưa thực sự mạnh tay đối với các trường hợp vi phạm về điều kiện kinh doanh. Chính những tồn tại, hạn chế trong công tác quản lý nhà nước đối với các hoạt động kinh doanh về du lịch trên đã cản trở việc phát triển du lịch của quận, ảnh hưởng đến công tác thu hút, kêu gọi đầu tư vào hoạt động du lịch.

Xuất phát từ những vấn đề trên, tác giả chọn đề tài luận văn“Quản lý nhà nước về du lịch trên địa bàn quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng”để nghiên cứu là cần thiết, có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục tiêu nghiên cứu

Tìm kiếm các giải pháp nhằm tăng cường công tác quản lý nhà nướcvề du lịch của quận Thanh Khê.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

– Hệ thống hoá các vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến công tác quản lý nhà nướcđối với hoạt động kinh doanh du lịch.

– Làm rõ thực trạng công tác quản lý nhà nước trong lĩnh vực du lịch của quậnThanh Khê thời gian qua.

– Đề xuất các giải pháp nhằm tăng cường công tác quản lý nhà nướctrong lĩnh vực lĩnh vực du lịch của quận Thanh Khê trong thời gian đến.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Những vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động kinh doanh du lịch vận dụng vào điều kiện cụ thể của quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

Về không gian: nghiên cứu hoạt động du lịch tại quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng.

Về thời gian: nghiên cứu thực trạng trong giai đoạn 2013 – 2017. Các giải pháp, kiến nghị trong đề tài có ý nghĩa trong thời gian tới.

Nội dung: nghiên cứu các hoạt động kinh doanh du lịch và các giải pháp đề xuất ở góc độ cơ quan quản lý nhà nước cấp quận.

5. Cách tiếp cận và phương pháp nghiên cứu

5.1. Cách tiếp cận

– Cách tiếp cận duy vật lịch sử:Đặt trong bối cảnh nghiên cứu trong điều kiện lịch sử cụ thể của quận. Các xu hướng đã được nghiên cứu trong quá khứ được sử dụng cho việc nghiên cứu định hướng trong tương lai.

– Cách tiếp cận duy vật biện chứng: Công tác quản lý hoạt động du lịch trong trạng thái luôn phát triển và nghiên cứu nó trong mối quan hệ với các yếu tố khác, từ đó tìm ra mối quan hệ nguyên nhân- kết quả trong công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động du lịch.

5.2. Phương pháp nghiên cứu

Luận văn sử dụng các phương pháp như sau:

– Phương pháp thu thập số liệu thứ cấp:thông qua nghiên cứu từ Niên giám thống kê, các báo cáo tổng kết, chuyên đề, đề án, các tài liệu khoa học của thành phố Đà Nẵng và của quận Thanh Khê, từ các phòng, ban của quận về tình hình hoạt động kinh doanh liên quan đến du lịch của quận Thanh Khê, các báo cáo của địa phương liên quan đến hoạt động du lịch để phân tích, đánh giá các vấn đề mang tính định lượng như doanh thu, lượt khách, số lượng khách sạn, nhà hàng, lao động phục vụ du lịch…

– Phương pháp thống kê, phân tích, so sánh và suy luận logic để tổng hợp các số liệu, phân tích thực trạng dựa trên nguồn số liệu đã thu thập được để tìm ra các vấn đề trong quản lý về du lịch tại quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng.

– Phương pháp đánh giá các kết quả dựa trên kết quả phân tích, thống kê để làm rõ mặt làm được cũng như hạn chế và những nguyên nhân của hạn chế đó. Qua đó có được đầy đủ thông tin về thực trạng công tác quản lý nhà nước về hoạt động du lịch trên địa bàn quận Thanh Khê nhằm đưa ra các giải pháp hoàn thiện phù hợp.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn

6.1. Ý nghĩa lý luận

Với cách tiếp cận hệ thống, đề tài sẽ góp phần đem lại những phương pháp phân tích tổng thể để nhận diện và phân tích toàn diện thực trạng về ngành du lịch và đưa ra các giải pháp thiết thực nhằm hoàn thiện công tác quản lý về du lịch tại một địa phương.

6.2. Ý nghĩa thực tiễn

Kết quả thực tế của đề tài sẽ nhận diện được các hạn chế từ công tác quản lý về du lịch tại quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng, từ đó đề xuất các giải pháp cũng như những kiến nghị nhằm hoàn thiện công tác quản lý để phát triển ngành du lịch quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng tương xứng với tiềm năng của mình trong thời gian đến.

7. Kết cấu của luận văn

Luận văn được trình bày theo lối truyền thống, ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, tài liệu tham khảo đề tài được chia làm 3 chương với tên gọi như sau:

Chương 1: Cơ sở lý luận quản lý nhà nước vềdu lịch.

Chương 2: Thực trạng công tác quản lý nhà nước về du lịch trên địa bàn quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng.

Chương 3: Giải pháp hoàn thiện công tác quản lý nhà nước về du lịch trên địa bànquận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng.

CHƯƠNG 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ DU LỊCH

1.1. Du lịch và quản lý nhà nước về du lịch

1.1.1. Một số vấn đề về du lịch

1.1.1.1. Khái niệm du lịch

Thuật ngữ “du lịch” xuất hiện từ rất lâu và có rất nhiều công trình nghiên cứu. Vì vậy, có nhiều cách định nghĩa khác nhau về du lịch do các nhà nghiên cứu có cách tiếp cận và quan điểm riêng của mình. Có người cho rằng du lịch chỉ là sự đi chơi của các cá nhân trong một khoảng cách nhất định về địa lý. Một số khác khi đề cập đến khái niệm “du lịch” thì lại quan tâm đến sự lưu trú qua đêm của du khách.

Khái niệm “du lịch” có ý nghĩa đầu tiên là sự khởi hành và lưu trú tạm thời của con người ngoài nơi cư trú thường xuyên của họ. Tuy nhiên, du lịch là một hiện tượng kinh tế – xã hội phức tạp và trong quá trình phát triển, nội dung của nó ngày càng mở rộng và phong phú. Một số tiếp cận khác nhau đã có những khái niệm khác nhau và ngày càng có nhiều tác giả đưa ra quan điểm của mình về du lịch:

Theo Tổ chức Du lịch Thế giới (World Tourism Organization):“Du lịch bao gồm tất cả mọi hoạt động của những người du hành, tạm trú, trong mục đích tham quan, khám phá và tìm hiểu, trải nghiệm hoặc trong mục đích nghỉ ngơi, giải trí, thư giãn; cũng như mục đích hành nghề và những mục đích khác, trong thời gian liên tục nhưng không quá một năm ở bên ngoài môi trường định cư nhưng loại trừ các du hành mà có mục đích chính là kiếm tiền”.

Tại Hội nghị Liên hợp quốc về du lịch họp tại Rome – Italia (1963), các chuyên gia quốc tế đưa ra quan niệm: Du lịch là cả một quy trình gồm tất cả các hoạt động của du khách từ lúc dự trù chuyến đi cho đến lúc di chuyển và đến nơi cư trú, ăn ở, mua sắm, giải trí, giao tiếp, nghỉ ngơi đến lúc trở về nhà và hồi tưởng. Như vậy, du lịch là tổng hợp các hoạt động kinh tế bắt nguồn từ các cuộc hành trình và lưu trú của cá nhân hay tập thể ở bên ngoài nơi ở thường xuyên của họ hay người nước họ với mục đích hòa bình [6, tr.9].

Xét trên góc độ kinh doanh: “Du lịch là quá trình tổ chức các điều kiện về sản xuất và phục vụ nhằm thỏa mãn, đáp ứng các nhu cầu của người đi du lịch”.

Một khái niệm do ông Michael Coltrman (Mỹ) thì du lịch được định nghĩa như sau: Du lịch là sự kết hợp và tương tác của 4 nhóm nhân tố trong quá trình phục vụ du khách bao gồm: Du khách; Nhà cung ứng dịch vụ du lịch; Cư dân sở tại; Chính quyền nơi đón khách du lịch.

Vào năm 1941, Tiến sĩ Hunziker và Giáo sư, Tiến sĩ Kraft (Thụy Sỹ) đưa ra định nghĩa: “Du lịch là tổng hợp những hiện tượng và các mối quan hệ nảy sinh từ việc di chuyển và dừng lại của con người tại nơi không phải là nơi cư trú thường xuyên của họ; hơn nữa, họ không ở lại đó vĩnh viễn và không có bất kỳ hoạt động nào để có thu nhập tại nơi đến”.

Ở Việt Nam, theo Luật Du lịch năm 2017 được quy định tại Điều 3, khái niệm du lịch được định nghĩa: “Du lịch là các hoạt động có liên quan đến chuyến đi của con người ngoài nơi cư trú thường xuyên trong thời gian không quá một năm liên tục nhằm đáp ứng nhu cầu tham quan, nghỉ dưỡng, giải trí, tìm hiểu, khám phá tài nguyên du lịch hoặc kết hợp với mục đích hợp pháp khác”[13].

Theo từ điển Bách khoa toàn thư Việt Nam, du lịch được hiểu trên hai khía cạnh:

– Thứ nhất, du lịch là một dạng nghỉ dưỡng sức, tham quan tích cực của con người ngoài nơi cư trú với mục đích: nghỉ ngơi, giải trí, xem danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử, công trình văn hóa nghệ thuật. Theo nghĩa này, du lịch được xem xét ở góc độ cầu, góc độ người đi du lịch.

– Thứ hai, du lịch là một ngành kinh doanh tổng hợp có hiệu quả cao về nhiều mặt: nâng cao hiểu biết về thiên nhiên, truyền thống lịch sử và văn hóa dân tộc, từ đó góp phần làm tăng thêm tình yêu đất nước; đối với người nước ngoài là tình hữu nghị với dân tộc mình; về mặt kinh tế du lịch là lĩnh vực kinh doanh mang lại hiệu quả rất lớn; cố thể coi là hình thức xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ tại chỗ. Theo nghĩa này, du lịch được xem xét ở góc độ một ngành kinh tế.

Hoạt động du lịch liên quan đến nhiều chủ thể. Theo quy định tại Điều 3 Luật Du lịch năm 2017: “hoạt động du lịch là hoạt động của khách du lịch, tổ chức, cá nhân kinh doanh du lịch và cơ quan, tổ chức, cá nhân, cộng đồng dân cư có liên quan đến du lịch” [13].

Như vậy, du lịch là một hoạt động có nhiều đặc thù, gồm nhiều thành phần tham gia đó là du khách, nhà cung ứng dịch vụ, chính quyền địa phương nơi đón du khách và dân cư sở tại, tạo thành một tổng thể hết sức phức tạp. Hoạt động du lịch có mối quan hệ kết hợp và tương tác giữa các đối tượng trên. Đối với du khách là một cuộc hành trình và lưu trú ở một nơi ngoài nơi ở thường xuyên nhằm thỏa mãn nhu cầu vật chất, tinh thần; đối với nhà cung ứng dịch vụ du lịch là quá trình tổ chức các điều kiện cung ứng dịch vụ phục vụ du khách để đạt lợi nhuận; đối với chính quyền địa phương đó là quản lý, tổ chức các điều kiện về cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất, kỹ thuật để phục vụ du khách, tổ chức các hoạt động dịch vụ phục vụ việc lưu trú, hành trình du lịch của du khách, tổ chức tiêu thụ sản phẩm du lịch của địa phương, nâng cao mức sống dân cư, bảo vệ môi trường tự nhiên, môi trường xã hội; đối với dân cư tham gia hoạt động du lịch nhằm tăng lợi ích kinh tế, đồng thời tham gia giám sát, bảo đảm, hạn chế tới mức thấp nhất những tác động tiêu cực và rủi ro của du lịch đối với môi trường, văn hóa, điều kiện sống dân cư địa phương.Hoạt động du lịch vừa có đặc điểm của ngành kinh tế, vừa có đặc điểm của ngành văn hóa – xã hội.

1.1.1.2. Các loại hình du lịch cơ bản

Căn cứ vào nhu cầu của thị trường và trên cơ sở của tài nguyên du lịch có khả năng khai thác và các điều kiện phát triển du lịch, người ta thường kết hợp các yếu tố này với nhau để xác định các loại hình du lịch. Mục đích của việc xác định các loại hình du lịch nhằm vào việc xây dựng chiến lược phát triển du lịch của quốc gia, địa phương và định hướng chiến lược kinh doanh cho các doanh nghiệp du lịch. Hoạt động du lịch diễn ra rất phong phú và đa dạng. Mỗi loại hình du lịch đều có những tác động nhất định lên môi trường. Tuy nhiên, trong thực tế hoạt động du lịch có sự đan xen giữa các loại hình du lịch trong quá trình phục vụ khách du lịch.

Việc phân chia các loại hình du lịch căn cứ vào những đặc điểm sau:

a.Phân loại theo phạm vi lãnh thổ:

Du lịch nội địa: là khách du lịch thực hiện chuyến đi du lịch trong phạm vi quốc gia của mình.

Du lịch quốc tế: là sự di chuyển từ nước này sang nước khác, du khách phải ra khỏi vùng lãnh thổ biên giới và tiêu bằng ngoại tệ nơi họ đến du lịch.

b.Phân loại theo mục đích chuyến đi:

Du lịch tham quan văn hóa-lịch sử: Đây là một loại hình du lịch mang tính phổ biến nhất và cốt lõi của các chương trình du lịch. Con người khi đi du lịch với những mục đích khác nhau, nhưng cái chủ yếu vẫn là tìm hiểu truyền thống văn hóa, phong tục tập quán, nếp sống của cộng đồng dân cư nơi họ đến du lịch. Vì thế, việc khai thác tài nguyên du lịch nhân văn và xã hội ở đây để phục vụ du khách đóng vai trò quyết định.

Du lịch sinh thái: Là loại hình du lịch dựa vào thiên nhiên, gắn với bản sắc văn hóa địa phương với sự tham gia của cộng đồng xã hội nhằm phát triển bền vững. Khách du lịch lựa chọn loại hình du lịch này nhằm thưởng thức phong cảnh thiên nhiên và trở về đời sống tự nhiên hoang dã.

Du lịch làng nghề: là loại hình du lịch văn hoá tổng hợp đưa du khách tới tham quan các Làng nghề truyền thống. Tour du lịch làng nghề là dịp được khám phá, tìm hiểu quy trình kỹ thuật của nghề truyền thống, thâm nhập cuộc sống cộng đồng với những phong tục, tập quán và các nghi thức phường, hội riêng của các làng nghề truyền thống trên khắp miền đất nước. 

Du lịch nghĩ dưỡng: Du lịch được coi như một phương tiện nhằm tái hồi phục sức lao động con người sau thời gian lao động vất vả. Loại hình du lịch nghĩ dưỡng được phân thành ba loại khác nhau theo tiêu thức địa lý đó là: Du lịch nghỉ dưỡng ven biển và đảo; du lịch nghỉ dưỡng ở vùng núi và du lịch nghỉ dưỡng ở vùng nước khoáng.

Du lịch giải trí: Là một nhu cầu không thể thiếu được của du khách, vì vậy, ngoài thời gian tham quan du khách cần thư giãn, nghỉ ngơi để phục hồi sức khỏe, do đó các khu vui chơi cần phải có các chương trình vui chơi giải trí cho du khách.

Du lịch công vụ: Đây là loại hình du lịch của những người đi công tác, dự hội nghị, hội thảo, thăm dò đầu tư, thương mại và kết hợp với mục đích du lịch. Số lượng khách đi theo loại hình du lịch này khá lớn và nhiều nước đặt ra mục tiêu là trung tâm hội nghị, hội thảo và triển lãm của thế giới và khu vực.

Du lịch thăm thân nhân: Đây là loại hình du lịch phát triển mạnh mẽ trong điều kiện thế giới rộng mở, con người có thể đi làm việc và định cư ở bất cứ nơi nào trên trái đất, họ mong muốn trở về quê hương để thăm người thân kết hợp du lịch.

Du lịch thể thao: Loại hình du lịch này gồm hai nhóm, đó là du lịch thể thao dành cho các vận động viên thi đấu và khách du lịch đi xem các sự kiện thi đấu thể thao.

Du lịch tôn giáo: Tôn giáo, tín ngưỡng đã hình thành và tồn tại hàng ngàn năm nay. Con người ngoài đời sống vật chất còn có đời sống tinh thần, trong đó có vấn đề tâm linh.

Du lịch mạo hiểm: Đây là loại hình du lịch dành cho những người yêu thích mạo hiểm để chứng tỏ bản lĩnh cá nhân.

1.1.1.3. Đặc điểm của hoạt động kinh doanh du lịch

Kinh doanh du lịch là một ngành dịch vụ kinh doanh tổng hợp và có một số đặc điểm sau:

Hoạt động du lịch phụ thuộc vào tài nguyên du lịch: bất cứ một du khách nào, với động cơ và hình thức du lịch ra sao thì yêu cầu đối với họ là được tham quan, vui chơi giải trí, tìm hiểu thưởng thức các giá trị về thiên nhiên, lịch sử, văn hóa, xã hội… của một xứ sở. Đó có thể là các bãi biển, thác nước, núi non, hang động kỳ thú, các loài động thực vật quý hiếm, các lâu đài thành quách, đền chùa với nhiều lối kiến trúc cổ và các ngày lễ hội; các trung tâm kinh tế, văn hóa lớn; rừng quốc gia, các khu di chỉ… Tài nguyên du lịch có loại do thiên nhiên tạo ra nhưng có loại do quá trình phát triển lịch sử qua nhiều thế hệ của con người tạo ra. Đây chính là cơ sở khách quan hình thành nên các tuyến, điểm du lịch.

Kinh doanh du lịch là ngành dịch vụ kinh doanh tổng hợp phục vụ nhu cầu tiêu dùng đa dạng của khách du lịch. Những người đi du lịch dù thuộc đối tượng nào thì trong thời gian đi du lịch, mức tiêu dùng của họ thường cao hơn mức tiêu dùng bình quân của đại bộ phận dân cư. Chưa kể một bộ phận lớn khách du lịch quốc tế là tầng lớp thượng lưu, những thương gia, những nhà kinh doanh, trí thức, chính khách… có điều kiện về tài chính. Vì vậy ngành du lịch phải là một ngành kinh doanh tổng hợp phục vụ cho nhu cầu về nghỉ ngơi, đi lại, ăn uống, tham quan, giải trí, mua hàng, có hoặc không kết hợp với các hoạt động chữa bệnh, thể thao, nghiên cứu khoa học và các dạng nhu cầu khác của khách sao cho vừa thuận tiện, an toàn, vừa sang trọng, lịch sự và có khả năng đáp ứng các nhu cầu dịch vụ ở mức độ cao cấp.

Hoạt động du lịch còn phải đảm bảo nhu cầu an ninh, chính trị và trật tự an toàn xã hội cho du khách, cho địa phương, điểm đến.

Như vậy, đây là một ngành đặc biệt có nhiều đặc điểm và tính chất pha trộn nhau tạo thành một tổng thể rất phức tạp. Hoạt động của ngành du lịch vừa mang đặc điểm của một ngành kinh tế, vừa mang đặc điểm của một ngành văn hóa – xã hội.

1.1.2. Khái niệm và vai trò của quản lý nhà nước về du lịch

1.1.2.1. Quản lý nhà nước về du lịch

Quản lý nhà nước là sự điều hành của bộ máy nhà nước, hoạt động của các tổ chức nhà nước trên các phương diện luật pháp, hành pháp và tư pháp. Quản lý nhà nước là dạng quản lý xã hội mang tính quyền lực nhà nước, sử dụng quyền lực nhà nước để điều chỉnh các quan hệ xã hội và các hoạt động của con người.

Hoạt động quản lý nhà nước được thể hiện bằng các quyết định của các cơ quan nhà nước dưới hình thức các văn bản pháp lý. Trong đó, các nguyên tắc, quy tắc, tiêu chuẩn, biện pháp được quy định chặt chẽ để không ngừng đáp ứng sự phù hợp giữa chủ thể và khách thể quản lý, bảo đảm sự cân đối, hài hòa về sự phát triển của quá trình xã hội

Tóm lại, quản lý nhà nước là hoạt động thực thi quyền hành pháp của nhà nước, đó là sự tác động có tổ chức và điều chỉnh bằng pháp luật nhà nước đối với các quá trình xã hội và hoạt động của con người để duy trì và phát triển các mối quan hệ xã hội, trật tự pháp luật nhằm thực hiện những chức năng và nhiệm vụ của nhà nước trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa do các cơ quan trong hệ thống chính phủ từ trung ương đến cơ sở tiến hành.

Như vậy, theo nghĩa chung nhất, quản lý nhà nước vừa là chức năng, vừa là quyền hạn và nhiệm vụ, nó được hiểu là Nhà nước sử dụng quyền lực chung đã được thể chế hóa tác động thường xuyên và liên tục đến các quá trình, lĩnh vực hay quan hệ xã hội nhằm đạt được mục đích quản lý.

Xuất phát từ lý luận chung quản lý nhà nước như trên, chúng ta có thể hiểu quản lý nhà nước về du lịch là sự tác động có tổ chức và được điều chỉnh bằng quyền lực nhà nước thông qua hệ thống các công cụ quản lý bao gồm chính sách, pháp luật, quy hoạch, kế hoạch nhà nước đối với các quá trình, hoạt động du lịch của con người để duy trì và phát triển ngày càng cao các hoạt động du lịch trong nước và quốc tế nhằm đạt được hiệu quả kinh tế – xã hội đặt ra.

Quản lý nhà nước về du lịch có những đặc điểm sau:

Hoạt động du lịch luôn đòi hỏi sự quản lý của nhà nước để duy trì và phát triển. Việc phát triển du lịch phụ thuộc rất lớn vào khuôn khổ pháp lý và những chính sách thích hợp với điều kiện và trình độ phát triển của đất nước. Do vậy, vấn đề quản lý nhà nước đối với du lịch là một vấn đế cần thiết được đặt lên hàng đầu. Hoạt động du lịch trong nền kinh tế cần phải có sự tham gia của nhà nước:

Thứ nhất, mang tính quyền lực, tính tổ chức cao và tính mệnh lệnh đơn phương của nhà nước. Nhà nước ban hành, các đơn vị, tổ chức, cá nhân phải phục tùng và tuân theo, sự chống đối được xử lý theo chế tài và luật định.

Thứ hai, được xây dựng bởi một hệ thống quy định, chế tài theo thứ bậc chặt chẽ và thông suốt từ Trung ương tới địa phương.

Thứ ba, có tính liên tục, tương đối ổn định và thích ứng. Đảm bảo các hoạt động không bị gián đoạn trong bất kỳ tình huống nào. Chính vì vậy, ổn định ở đây mang tính tương đối, không phải là cố định, không thay đổi, luôn phải thích ứng với thực tế trong từng thời kỳ, thích nghi với xu thế của thời đại.

Thứ tư, có mục tiêu chiến lược, chương trình, kế hoạch để thực hiện cụ thể. Các mục tiêu này mang tính trước mắt và lâu dài. Nhà nước cần xây dựng các chương trình, dự án và kế hoạch dài hạn, trung hạn và ngắn hạn.

Thứ năm, có tính chủ động, sáng tạo và linh hoạt. Tính chủ động, sáng tạo và linh hoạt này được thể hiện trong việc điều hành, phối hợp, phát huy sức mạnh tổng hợp.

Quản lý nhà nước về du lịch có các thành tố sau:

Chủ thể quản lý: là các cơ quan đại diện của nhà nước hoặc được nhà nước trao quyền, ủy quyền.

Các cơ quan quản lý nhà nước về du lịch cấp Trung ương bao gồm: Tổng Cục Du lịch cùng các vụ chức năng; các bộ, ngành như bộ Tài chính, bộ Kế hoạch đầu tư, Ngân hàng Nhà nước.

Ở địa phương, trong cơ cấu bộ máy nhà nước cũng có các cơ quan tương tự như cấp Trung ương như sở Văn hóa Thể thao và Du lịch; sở Tài chính; công an…, nhưng chỉ có chức năng quản lý ở địa bàn và chịu sự chỉ đạo của các cơ quan ngành dọc trong cơ cấu bộ máy nhà nước.

Đối tượng quản lý: là các hoạt động, quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực du lịch như các đơn vị kinh doanh, nhà hàng, khách sạn, khách du lịch…

1.1.2.2. Vai trò của quản lý nhà nước về du lịch

a.Vai trò định tính

Xây dựng các chính sách, khuôn khổ pháp lý thông qua việc ban hành và tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về du lịch, quy hoạch, điều hành hoạt động du lịch, bảo vệ và khai thác hiệu quả các tài nguyên du lịch thông qua các công cụ kinh tế, giáo dục và hành chính.

Hoạch định các chiến lược, quy hoạch, chính sách, các văn bản quy phạm pháp luật nhằm đưa chính sách phù hợp với thực tiễn.

b.Vai trò phối hợp

Phối hợp trong công tác quản lý nhà nước giữa ngành hoạt động du lịch với các ngành khác từ trung ương đến địa phương.

Phối hợp giữa các quốc gia có quan hệ song phương hoặc trong cùng một khối kinh tế, thương mại du lịch nhằm đa dạng hóa đa phương thức quan hệ hợp tác quốc tế trong du lịch, đạt tới các mục tiêu và đảm bảo thực hiện các cam kết đã ký kết.

c.Vai trò điều tiết

Trong hoạt động du lịch ở nước ta hiện nay, cạnh tranh chưa bình đẳng, không lành mạnh là một trong những vấn đề gây trở ngại lớn cho quá trình phát triển ngành. Do vậy, nhà nước phải có vai trò điều tiết mạnh.

Nhà nước trên cở sở nắm bắt những quy luật vận động khách quan của nền kinh tế, định hướng cho hoạt động du lịch phát triển theo hướng tích cực. Nhà nước tạo cơ sở pháp lý, có chính sách khuyến khích các tổ chức và cá nhân tham gia vào hoạt động du lịch.

d.Vai trò hỗ trợ

Nhà nước với tư cách là một chủ thể quản lý nhưng đồng thời cũng là chủ thể kinh tế thông qua việc sử dụng các nguồn lực của nhà nước như đất đai, tài nguyên nhằm tạo điều kiện, hỗ trợ cho du lịch phát triển, ví dụ như việc đầu tư tôn tạo môi trường, xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ du lịch.

Hoàn thiện thể chế, chính sách phù hợp với điều kiện từng địa phương nhằm thu hút các nguồn lực bên ngoài đầu tư vào hoạt động du lịch. Ví dụ như ban hành các chính sách ưu đãi đối với các doanh nghiệp đầu tư du lịch vào địa phương có kinh tế khó khăn, hỗ trợ vay vốn, thuế, đất đai.

Duy trì, tạo môi trường ổn định cho việc thực thi các hoạt động kinh doanh về du lịch.

Mở rộng quan hệ đối ngoại với các quốc gia như ký kết các hiệp định về cấp visa cho khách du lịch.

e.Vai trò kiểm tra, giám sát

Thực hiện kiểm tra, giám sát việc thực thi các chủ trương, chính sách, các luật, thông tư, nghị định hướng dẫn và các văn bản triển khai của địa phương đối với hoạt động kinh doanh du lịch.

Thực hiện kiểm tra, giám sát, hướng dẫn các doanh nghiệp hoạt động theo đúng định hướng, chủ trương của Đảng và nhà nước, kiểm tra, đánh giá hệ thống tổ chức quản lý du lịch của nhà nước cũng như năng lực của đội ngũ cán bộ công chức quản lý nhà nước về hoạt động du lịch.

Nhà nước thường xuyên giám sát hoạt động của mọi chủ thể hoạt động du lịch cũng như chế độ quản lý của các chủ thể đó nhằm phát hiện và xử lý những sai sót, lệch lạc, nguy cơ chệch hướng hoặc vi phạm pháp luật và các quy định của nhà nước, từ đó đưa ra các quyết định điều chỉnh thích hợp nhằm tăng cường hiệu quả quản lý nhà nước đối với hoạt động du lịch.

1.2. Nội dung quản lý nhà nước về du lịch

Trong xu thế toàn cầu hóa, khu vực hóa hoạt động du lịch, việc hợp tác, liên kết luôn đi liền với cạnh tranh đòi hỏi phải có chiến lược tổng thể phát triển du lịch xuất phát từ điều kiện của mình, vừa phát huy được tính đặc thù, huy động nội lực để tăng khả năng thu hút khách du lịch, tranh thủ được nguồn lực bên ngoài. Tùy theo điều kiện từng quốc gia, trong từng giai đoạn phát triển mà xác định nội dung quản lý nhà nước về du lịch cho phù hợp. Để du lịch phát triển nhanh và bền vững, đảm bảo các mục tiêu về kinh tế, văn hóa, xã hội, đảm bảo an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội: quản lý nhà nước về du lịch có các nội dung chủ yếu như sau:

1.2.1. Xây dựng và tổ chức thực hiện quy hoạch, kế hoạch phát triển du lịch

Trong nền kinh tế thị trường, hoạt động du lịch diễn ra rất phức tạp, do đó nhà nước phải đề ra các chính sách, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển du lịch và dùng công cụ này tác động vào lĩnh vực du lịch để thúc đẩy du lịch phát triển nhanh và bền vững, trở thành ngành kinh tế mũi nhọn. Để làm được điều này, nhà nước phải xác định được chiến lược tổng thể phát triển du lịch phù hợp với điều kiện đất nước, vừa phát huy được tính đặc thù, huy động được nội lực để tăng khả năng hấp dẫn khách du lịch, phù hợp với thông lệ quốc tế, tranh thủ nguồn lực đầu tư từ bên ngoài.

Trong hoạt động kinh doanh, mục tiêu cuối cùng là các đơn vị kinh doanh có lợi nhuận, đóng góp vào ngân sách địa phương. Do đó, nếu không được định hướng phát triển đúng sẽ gây lãng phí, kém hiệu quả do không phù hợp với nhu cầu thị trường và thực tế phát triển của địa phương, nhất là các hoạt động đầu tư xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật như nhà hàng, khách sạn… vì thế, nhà nước phải hết sức quan tâm đến việc xây dựng và tổ chức thực hiện các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển du lịch.

1.2.2. Xây dựng, ban hành và tổ chức thực hiện văn bản quy phạm pháp luật, tiêu chuẩn định mức kinh tế – kỹ thuật trong hoạt động du lịch

Hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật được xây dựng từ các quy định chính sách, pháp luật của nhà nước, buộc mọi tổ chức, cá nhân tuân thủ. Để các quy định, chính sách đó đi vào cuộc sống thì nhà nước phải xây dựng, ban hành và tổ chức thực hiện chúng một cách nghiêm chỉnh. Như vậy, muốn quản lý sự phát triển ngành du lịch tại địa phương, các cơ quan nhà nước ở địa phương cần chỉ đạo thực hiện các quy định, chính sách của Trung ương ban hành có hiệu quả tại địa phương mình, ban hành các văn bản quy phạm pháp luật tại địa phương xuất phát từ yêu cầu quản lý phát triển ngành ở địa phương nhưng không trái luật pháp nhà nước quy định. Mục đích là thiết lập môi trường pháp lý để đưa các hoạt động du lịch vào khuôn khổ, tạo điều kiện thuận lợi cho du lịch phát triển. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện các văn bản, các chính sách, pháp luật du lịch trên địa bàn, xử lý nghiêm minh mọi hành vi vi phạm pháp luật. Không tùy tiện thay đổi các chính sách của mình, xóa bỏ các văn bản cũ trái với các văn bản mới ban hành, tránh sự trùng lặp gây khó khăn cho hoạt động du lịch.

Việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật phải đảm bảo theo đúng quy định của pháp luật và quy định của cơ quan nhà nước cấp trên; phải đảm bảo tính ổn định, bình đẳng và nghiêm minh trong quá trình thực thi văn bản quy phạm pháp luật.

1.2.3. Tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về du lịch, sự phối hợp của các cơ quan nhà nước trong việc quản lý nhà nước về du lịch

Du lịch là hoạt động mang tính liên ngành, do đó quản lý nhà nước đối với hoạt động du lịch phải tạo được những cân đối chung, điều tiết được thị trường, ngăn ngừa và xử lý những đột biến xấu, tạo môi trường pháp lý thuận lợi cho mọi hoạt động du lịch phát triển. Để thực hiện tốt điều này thì tổ chức bộ máy quản lý nhà nước phải được tổ chức thống nhất, đồng bộ, có hiệu quả từ Trung ương đến địa phương, đồng thời các cơ quan trong bộ máy đó phải luôn được phối hợp chặt chẽ với nhau để đảm bảo du lịch luôn có sự thống nhất trong tổ chức và hoạt động.

Hiện nay, theo quy định của Luật Du lịch Việt Nam (2017) thì Chính phủ giao bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch quản lý nhà nước về du lịch và chịu trách nhiệm trước Chính phủ, bộ, cơ quan ngang bộ trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình và theo sự phân công của Chính phủ có trách nhiệm phối hợp với cơ quan quản lý nhà nước về du lịch ở Trung ương trong việc thực hiện quản lý nhà nước về du lịch. Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình và theo sự phân cấp của Chính phủ có trách nhiệm thực hiện quản lý nhà nước về du lịch tại địa phương; cụ thể hóa chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, cơ chế, chính sách phát triển du lịch phù hợp với thực tế tại địa phương và có biện pháp đảm bảo an ninh trật tự, an toàn xã hội, vệ sinh môi trường tại khu du lịch, điểm du lịch, tuyến du lịch. Các cơ quan quản lý nhà nước về du lịch ở Trung ương và địa phương phải thống nhất và luôn giữ mối quan hệ chặt chẽ, liên quan mật thiết với nhau trong việc tổ chức thực hiện pháp luật và thực hiện quản lý nhà nước về du lịch. [13]

1.2.4. Đào tạo, phát triển nguồn nhân lực

Bất kỳ một ngành hay một lĩnh vực nào, quá trình kinh doanh hoạt động phát triển và đứng vững được trong xã hội không phải ở nguồn tài chính, mà ở nguồn nhân lực. Nguồn nhân lực chính là yếu tố đầu tiên và quan trọng nhất để có thể thực hiện được mục tiêu và những chiến lược đã đề ra. Ngành du lịch cũng không nằm ngoài quy luật này. Nguồn nhân lực có nhiệm vụ đáp ứng nhu cầu của khách hàng, đồng thời với việc bảo đảm chất lượng của dịch vụ trong bối cảnh cạnh tranh ngày càng gay gắt trên thị trường như hiện nay. Vấn đề đào tạo, phát triển nguồn nhân lực du lịch trong thời kỳ hội nhập ở các đơn vị kinh doanh du lịch cũng như ở các cơ quan quản lý nhà nước là đặc biệt quan trọng.

Lực lượng lao động nhất là lao động có trình độ chuyên môn tham gia vào lĩnh vực du lịch ngày càng tăng, góp phần vào sự phát triển của du lịch. Du lịch cần số lượng lớn nguồn nhân lực để đáp ứng công việc như nhân viên khách sạn, hướng dẫn viên du lịch, nhân viên tại các địa điểm du lịch…

Trong ngành du lịch, nguồn nhân lực có thể chia làm 4 loại: nhân lực trong lĩnh vực quản lý nhà nước; doanh nhân và những người kinh doanh du lịch; nhân lực chuyên môn nghiệp vụ trong lĩnh vực kinh doanh du lịch; những người làm nghề tự do và người dân tham gia hoạt động trong lĩnh vực du lịch.

Ngành du lịch bao gồm nhiều lĩnh vực hoạt động kinh doanh khác nhau, nên khi xác định tiêu chuẩn chất lượng cần phải hướng đến từng nhóm: nhóm những người trực tiếp (những người làm việc trong các cơ quan quản lý nhà nước về du lịch, các doanh nghiệp du lịch, các đơn vị sự nghiệp trong ngành du lịch) và gián tiếp tham gia vào quá trình phục vụ du lịch (các cơ quan, các doanh nghiệp và cộng đồng dân cư nơi khách du lịch đến thăm quan).

1.2.5. Tổ chức quản lý và xúc tiến du lịch

Để du lịch phát triển nhanh và bền vững, chính quyền các cấp phải làm tốt công tác tổ chức quản lý và xúc tiến du lịch. Việc tổ chức quản lý nhằm đảm bảo an ninh trật tự, an toàn xã hội trên địa bàn và tại các cơ sở lưu trú và các điểm du lịch. Đăng ký tạm trú cho khách du lịch, nghiêm cấm các hành vi tiêu cực như trộm cắp, bạo lực… Cơ quan quản lý nhà nước về du lịch cần tổ chức làm tốt công tác tuyên truyền, tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về du lịch cũng như xây dựng các quy chuẩn trong hoạt động du lịch trên địa bàn. Đề ra các quy định nhằm đảm bảo vệ sinh môi trường, an toàn thực phẩm tại các cơ sở kinh doanh ăn uống, nhà hàng, khu, điểm phục vụ du lịch; tổ chức tuyên truyền, vận động nhân dân tham gia phong trào ứng xử văn minh, thu hút khách du lịch, tiếp nhận và giải quyết kịp thời yêu cầu của khách du lịch…

Về hoạt động xúc tiến du lịch: Chính quyền cấp tỉnh thu hút các nguồn lực trong xã hội để phát triển cơ sở hạ tầng giao thông, cơ sở vật chất kỹ thuật nhằm phát triển du lịch. Việc quảng bá, xúc tiến du lịch bằng nhiều hình thức như tổ chức các hội nghị, hội thảo, hội chợ xúc tiến du lịch, các chương trình hợp tác, liên kết phát triển du lịch; xây dựng các chuyên trang, chuyên đề quảng bá du lịch trên các website của địa phương…

1.2.6. Kiểm tra, thanh tra, xử lý vi phạm pháp luật về du lịch

Sự phát triển nhanh của du lịch sẽ làm phát sinh các hành vi tiêu cực như khai thác quá mức các công trình, khu, điểm du lịch, làm ô nhiễm môi trường sinh thái, những hoạt động kinh doanh du lịch vi phạm pháp luật, trái với bản sắc văn hóa của đất nước, địa phương, đi ngược lại thuần phong mỹ tục… Do đó, cơ quan quản lý nhà nước phải chỉ đạo thực hiện thường xuyên công tác kiểm tra, thanh tra và giám sát đối với hoạt động du lịch để phòng ngừa hoặc ngăn chặn kịp thời những hành vi tiêu cực có thể xảy ra. Để thực hiện tốt nội dung này, cơ quan nhà nước phải làm tốt công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật và những quy định về đầu tư khai thác các điểm, khu du lịch trên địa bàn; thực hiện việc đăng ký và hoạt động đúng theo đăng ký đã kinh doanh, nhất là những hoạt động kinh doanh có điều kiện như: kinh doanh lưu trú, kinh doanh lữ hành…, đồng thời cần xử lý nghiêm mọi hành vi vi phạm pháp luật về du lịch trên địa bàn.

1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động quản lý nhà nước về du lịch

1.3.1. Tổ chức bộ máy quản lý nhà nước

Cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về du lịch có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của hoạt động kinh doanh du lịch. Tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về du lịch đối với hoạt động du lịch phù hợp với yêu cầu phát triển thì sẽ thúc đẩy hoạt động kinh doanh du lịch phát triển nhanh và tích cực. Ngược lại, sẽ làm cho hoạt động kinh doanh du lịch chậm phát triển, gây lãng phí tài nguyên du lịch. Nếu xây dựng được một tổ chức hoạt động hiệu lực, hiệu quả thì sẽ giúp nhà nước phát huy hiệu quả tích cực trong công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động kinh doanh du lịch.

1.3.2. Cơ chế hoạt động

Để thống nhất quản lý nhà nước về du lịch trên toàn quốc, Trung ương sẽ phân định chức năng, thẩm quyền quản lý nhà nước về du lịch cho chính quyền địa phương thông qua các quy định pháp luật. Đồng thời, thông qua việc ban hành các chủ trương, chính sách sẽ định hướng, tạo động lực, đầu tư phát triển du lịch, ưu tiên vốn phát triển, mở rộng thị trường và môi trường đầu tư. Do đó, cơ chế, pháp luật của nhà nước đầy đủ, đồng bộ, rõ ràng, cụ thể và khoa học, xuất phát từ thực tiễn sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho cơ quan quản lý nhà nước về du lịch triển khai các hoạt động quản lý nhà nước về du lịch một cách hiệu quả.

Cơ quan quản lý nhà nước về du lịch ở địa phương thực hiện quản lý theo phân cấp, dưới sự chỉ đạo của các cơ quan quản lý cấp trên. Các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền thực hiện quản lý hoạt động du lịch bằng hệ thống các công cụ quản lý kinh tế như chiến lược, quy hoạch, chính sách, kế hoạch phát triển du lịch, các quy định của pháp luật trong phạm vi thẩm quyền được phân cấp.

Chính quyền địa phương căn cứ vào thẩm quyền được phân cấp của mình sẽ tổ chức thực hiện chủ trương, chính sách của nhà nước trên địa bàn quận. Đồng thời, xây dựng và thực thi các chính sách, kế hoạch phát triển du lịch của quận nhằm tạo lập môi trường thuận lợi cho hoạt động du lịch và các doanh nghiệp du lịch. Do đó, chính quyền địa phương có các chủ trương phù hợp với yêu cầu thực tiễn sẽ góp phần nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về du lịch. Việc quản lý nhà nước về du lịch của địa phương tốt sẽ tháo gỡ được nhiều khó khăn, vướng mắc, giải phóng các rào cản để huy động nguồn lực cho đầu tư phát triển du lịch, đảm bảo sử dụng nguồn lực đúng mục đích, hiệu quả, bảo vệ môi trường sinh thái, văn hóa; khai thác được nguồn nhân lực phục vụ quá trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa, hội nhập đất nước; chuyển dịch cơ cấu kinh tế và các mục tiêu kinh tế – xã hội, đảm bảo quốc phòng, an ninh.

Chính quyền địa phương thiếu quan tâm, buông lỏng trong công tác quản lý nhà nước về du lịch, thiếu kiểm tra, kiểm soát việc thực thi chủ trương, chính sách về phát triển hoạt động du lịch của các bên tham gia sẽ làm phát sinh các hiện tượng vi phạm, tác động tiêu cực đến hoạt động phát triển du lịch. Vì vậy, các cấp chính quyền phải có trách nhiệm thực hiện đúng chức năng quản lý nhà nước đối với hoạt động du lịch, tạo sự ảnh hưởng tích cực trong hoạt động quản lý nhà nước của mình.

1.3.3. Nguồn nhân lực quản lý

Năng lực, trình độ của cán bộ quản lý nhà nước về du lịch: đội ngũ cán bộ, công chức thực hiện chức năng, nhiệm vụ của cơ quan quản lý nhà nước về du lịch, tham mưu xây dựng chính sách phát triển du lịch, ban hành các văn bản, quy định và tổ chức, điều hành, quản lý các hoạt động du lịch của địa phương. Do đó, họ sẽ là nhân tố quan trọng góp phần xây dựng, tạo lập môi trường cho hoạt động du lịch. Năng lực, trình độ chuyên môn nghiệp vụ và phẩm chất của đội ngũ cán bộ quản lý có ý nghĩa quyết định đến hiệu quả và hiệu lực quản lý nhà nước về du lịch.

Du lịch là ngành sử dụng nhiều nhân lực, vì vậy, nguồn nhân lực là một trong những nhân tố ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động du lịch và quản lý nhà nước về du lịch. Người lao động sẽ trực tiếp thực hiện các hoạt động du lịch, khai thác các nguồn lực, phục vụ du lịch, cung ứng dịch vụ, sản phẩm phục vụ du khách. Chính quyền địa phương xây dựng được nguồn nhân lực du lịch chất lượng cao là yếu tố quan trọng để tạo ra nhiều sản phẩm du lịch chất lượng cao, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của điểm đến du lịch nói chung và mỗi doanh nghiệp nói riêng.

1.3.4. Đường lối phát triển du lịch

Đường lối phát triển du lịch có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với mỗi quốc gia, bởi nó chính là chìa khóa đem lại sự thành công. Đường lối du lịch được biểu hiện cụ thể qua các chính sách, chiến lược xác định phương hướng, mục tiêu phát triển du lịch về tổng thể dài hạn. Nó góp phần hỗ trợ và giúp các nhà quản lý chủ động trong kế hoạch đầu tư phát triển ngành du lịch, tạo cơ sở xây dựng các quyết sách đúng đắn, phù hợp với điều kiện thực tế. Như vậy, có thể nói việc xây dựng được chiến lược phát triển, đưa ra được những bước đi đúng hướng sẽ tạo cho ngành du lịch có những bước đột phá mới trong tiến trình hoạt động. Ngược lại, nếu đưa ra những đường hướng không phù hợp với quy luật và thực tế phát triển nói chung sẽ trở thành nguyên nhân kìm hãm sự phát triển du lịch.

Hoạt động du lịch là đối tượng của quản lý nhà nước về du lịch tại địa phương hay lãnh thổ nào đó. Hoạt động du lịch tốt thể hiện qua sự phát triển của du lịch. Đối tượng của quản lý nhà nước về du lịch vận động và thay đổi theo thời gian và theo quy luật kinh tế khách quan. Trong khi các quyết định của quản lý nhà nước mang tính chủ quan, chỉ có hiệu lực nếu phù hợp và có tính khoa học cao. Do đó, quản lý nhà nước về du lịch cũng luôn phải đổi mới toàn diện từ hoạch định, tổ chức, điều hành tới kiểm soát và điều chỉnh. Chỉ có như vậy, công tác quản lý nhà nước mới có hiệu lực thực sự.

1.3.5. Điều kiện kinh tế-xã hội

Kinh tế phát triển sẽ là tiền đề cho cơ sở hạ tầng du lịch phát triển, tạo điều kiện thuận lợi thu hút doanh nghiệp đầu tư vào hoạt động du lịch ở địa phương. Trong đó, tình hình phát triển kinh tế của địa phương là nhân tố quan trọng tác động đến sự phát triển ngành du lịch.

Một địa phương có nền kinh tế kém phát triển thì cơ quan quản lý nhà nước sẽ ban hành chính sách ưu đãi về du lịch, chú trọng chính sách ưu đãi về đất đai, thuế, hỗ trợ tào tạo nguồn nhân lực…; đối với địa phương có nền kinh tế phát triển thì chính sách ưu đãi về du lịch sẽ hướng đến chất lượng phục vụ du lịch. Chính vì thế, khi cơ quan quản lý ban hành một chính sách ưu đãi về du lịch sẽ cân nhắc đến vấn đề về kinh tế của địa phương đó để có thể lựa chọn, đưa ra một chính sách phù hợp sát với tình hình thực tế.

Bất cứ một quốc gia hoặc một vùng lãnh thổ, địa phương nào nếu không đảm bảo được điều kiện về an ninh, an toàn cho du khách thì hoạt động du lịch không thể phát triển được. Cơ quan quản lý nhà nước cần đảm bảo an ninh trật tự nhằm tạo ấn tượng tốt đẹp, bảo đảm an toàn cho du khách. Bên cạnh đó, sự phát triển nền sản xuất xã hội có tầm ảnh hưởng quan trọng đến nhu cầu du lịch con người. Song song đó là công tác tuyên truyền, vận động người dân, tăng cường quảng bá du lịch địa phương trên các phương tiện thông tin đại chúng nhằm thu hút đông đảo du khách tìm đến điểm du lịch.

Cơ sở vật chất kỹ thuật ảnh hưởng đến sự sẵn sàng đón tiếp cũng như chất lượng dịch vụ du lịch cung cấp cho khách hàng. Có hai loại cơ sở vật chất kỹ thuật đó là: cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch và cơ sở hạ tầng xã hội.

1.3.6. Công nghệ thông tin

Sự phát triển của công nghệthông tin là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến du lịch, giúp việc quản lý tiết kiệm được rất nhiều thời gian trong công tác điều hành, phối hợp và kiểm tra, giám sát. Thông qua công nghệ, có thể thông tin, tuyên truyền đến các cơ sở kinh doanh du lịch về những chính sách, quy định mới được ban hành giúp doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân có thể nắm bắt được các quy định của nhà nước về hoạt động kinh doanh du lịch.

Việc khai thác hiệu quả công nghệ thông tin giúp cơ quan quản lý giải quyết các thủ tục hành chính nhanh hơn, chính xác hơn. Mặt khác, Internet là yếu tố đặc biệt quan trọng ảnh hưởng đến du lịchvì Internet cho phép người du lịch tìm hiểu và thu thập thông tin về các địa điểm du lịch, bên cạnh đó các ứng dụng này cũng giúp các công ty du lịch tìm hiểu về xu hướng du lịch của người đi du lịch.

Ứng dụng khoa học công nghệ thông tin giúp cơ quan quản lý nhà nước có thể khai thác tiết kiệm, hiệu quả các nguồn tài nguyên thiên nhiên; kịp thời phát hiện, xử lý các hoạt động gây ô nhiễm môi trường như xử lý nước thải, chất thải du lịch, bảo vệ nguồn nước, không khí; ứng dụng khoa học và công nghệ trong dự báo thời tiết để chủ động phòng tránh thiên tai (động đất, sóng thần, gió, bão…).

1.4. Kinh nghiệm quản lý nhà nước về du lịch của một số địa phương

1.4.1. Kinh nghiệm quản lý nhà nước về du lịch ở thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu

Vũng Tàu là thành phố thuộc tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, có lợi thế về biển. Thời gian qua, Vũng Tàu đã đẩy mạnh công tác quản lý nhà nước về du lịch, chú trọng cải thiện văn hóa, tạo môi trường thông thoáng về kinh doanh du lịch trên địa bàn thành phố. Hằng năm, Vũng Tàu phối hợp với sở Công thương tổ chức tập huấn các lớp về kỹ năng bán hàng và văn hóa kinh doanh cho đội ngũ cán bộ quản lý và nhân viên khách sạn, nhà hàng nhằm nâng cao kỹ năng và phong cách phục vụ chuyên nghiệp. Thành phố thành lập đường dây nóng nhằm chấn chỉnh tình trạng gian lận thương mại, lắp đặt panô quảng bá địa chỉ tin cậy du lịch và tổ chức kiểm tra, giám sát thường xuyên. Ủy ban nhân dânthành phố Vũng Tàu đã ban hành các văn bản chỉ đạo các đơn vị hoạt động kinh doanh du lịch thực hiện niêm yết giá bán hàng hóa, dịch vụ theo đúng quy định nhằm đảm bảo việc kinh doanh lành mạnh, uy tín tạo sự yên tâm, ấn tượng tốt cho du khách khi đến Vũng Tàu.

Từ 4,8 triệu lượt khách năm 2014, du lịch Vũng Tàu đặt mục tiêu nâng cao tổng số lượt khách du lịch lên 5,3 triệu lượt khách trong năm 2015.

Phát huy vai trò quản lý về du lịch đối với tất cả các đối tượng, mọi thành phần kinh tế hoạt động kinh doanh dịch vụ và dịch vụ du lịch trên địa bàn thành phố. Tăng cường phối hợp với các cấp, các ngành tạo sự chuyển biến đồng bộ trong hoạt động du lịch. Chính quyền thành phố phối hợp với các ngành chức năng tăng cường đảm bảo an ninh trật tự, an toàn cho du khách và bảo vệ môi trường trên địa bàn. Sắp xếp bộ máy theo hướng tinh gọn, đẩy mạnh công nghệ hóa trong hoạt động quản lý nhà nước, giải quyết kịp thời khó khăn, vướng mắc của các doanh nghiệp du lịch, tạo sự gắn bó, hợp tác vì mục tiêu phát triển du lịch.

LIỆN HỆ:

SĐT+ZALO: 0935568275

E:\DỮ LIỆU COP CỦA CHỊ YẾN\LUAN VAN VIEN HAN LAM\VIEN HAN LAM DOT 9\QUAN LY KINH TE\LE THI KIM NGA\SAU BAO VE

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *