Quản lý ngân sách nhà nước cấp xã trên địa bàn huyện Tiên Phước

Quản lý ngân sách nhà nước cấp xã trên địa bàn huyện Tiên Phước

Quản lý ngân sách nhà nước cấp xã trên địa bàn huyện Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam

1. Tính cấp thiết của đề tài

Ngân sách Nhà nước (NSNN) là một vấn đề hệ trọng của Quốc gia, đóng vai trò rất quan trọng trong các hoạt động kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng và đối ngoại của đất nước. Nó luôn gắn liền với vai trò của nhà nước theo từng giai đoạn nhất định. Đối với nền kinh tế thị trường hiện nay, ngân sách nhà nước có vai trò là công cụ định hướng vĩ mô đối với toàn bộ nền kinh tế, xã hội, định hướng phát triển sản xuất, điều tiết thị trường, bình ổn giá cả, điều chỉnh đời sống xã hội.

Nhà nuớc có thể thực hiện điều tiết vĩ mô nền kinh tế xã hội thành công khi có nguồn tài chính được đảm bảo. Nó phụ thuộc vào việc quản lý các nguồn thu của NSNN. Để huy động đầy đủ nguồn thu vào ngân sách nhằm thực hiện chỉ tiêu của nhà nước thì những hình thức thu ngân sách phải phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế – xã hội của địa phương và đất nước.

Ngân sách xã là một cấp trong hệ thống ngân sách Nhà nước. Qua những năm thực hiện Luật Ngân sách Nhà nước, công tác quản lý tài chính ngân sách đã đạt được một số kết quả nhất định, đóng góp quan trọng vào công tác quản lý hoạt động kinh tế – xã hội của chính quyền cơ sở xã, thị trấn. Để thực hiện Luật Ngân sách nhà nước, Chính phủ, Bộ Tài chính đã ban hành các văn bản dưới luật quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật Ngân sách nhà nước.

Chính quyền địa phương triển khai thực thi các nội dung của Luật Ngân sách nhà nước. Thực hiện theo hướng dẫn công tác quản lý tài chính ngân sách các cấp trong đó có ngân sách xã.

Trong tiến trình đổi mới nền kinh tế, các hình thức thu NSNN ở địa phương đã từng bước thay đổi, điều chỉnh để thực hiện nhiệm vụ tập trung nguồn thu cho NSNN. Cùng với quá trình quản lý thu NSNN thì việc quản lý chi NSNN cũng có vị trí rất quan trọng trong quản lý điều hành NSNN góp phần ổn định phát triển kinh tế – xã hội của đất nước, nhất là trong điều kiện đất nước hội nhập kinh tế thế giới. Tuy nhiên, trong những năm qua, việc thực hiện quản lý thu, chi NSNN vẫn còn nhiều hạn chế bất cập (từ quy trình lập, chấp hành và quyết toán, đến kiểm tra, giám sát…) ảnh hưởng đến hiệu quả và hiệu lực quản lý ngân sách nhà nước tại các cơ sở xã. Việc tăng cường kiểm tra, kiểm soát, hoàn thiện quy trình quản lý ngân sách cấp xã ở huyện Tiên Phước là hết sức cần thiết trong giai đoạn hiện nay.

Xuất phát từ những lý do trên, học viên chọn đề tài: “Quản lý ngân sách nhà nước cấp xã trên địa bàn huyện Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam” làm luận văn tốt nghiệp thạc sĩ quản lý kinh tế với mục tiêu góp phần giải quyết các vấn đề tồn tại, nâng cao hiệu quả công tác quản lý ngân sách cấp xã trên địa bàn huyện Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

Trên cơ sở đó, làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn có liên quan để đề xuất giải pháp nhằm hoàn thiện quản lý NSNN cấp xã trên địa bàn huyện Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam cho phù hợp với điều kiện hiện nay.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

– Hệ thống hóa những nội dung lý luận cơ bản của NSX và quản lý NSX.

– Phân tích thực trạng quản lý NSX trên địa bàn huyện Tiên Phước từ năm 2014 đến năm 2018.

– Đề xuất một số giải pháp nhằm tăng cường công tác quản lý NSNN trên địa bàn huyện Tiên Phước trong thời gian tới.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Đề tài tập trung nghiên cứu các vấn đề lý luận và thực tiễn về công tác quản lý ngân sách xã huyện Tiên Phước trên các khía cạnh nguồn thu, nhiệm vụ chi của ngân sách xã, trình độ chuyên môn của đội ngũ kế toán, tài chính cấp xã.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

– Về không gian: Luận văn tập trung nghiên cứu những vấn đề liên quan đến các công tác quản lý NSX tại huyện Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam

– Về thời gian: Phân tích, đánh giá thực trạng giai đoạn 2014 – 2018; đề xuất phương hướng và giải pháp đến năm 2020.

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

5.1. Cơ sở lý luận

Luận văn tiếp cận nghiên cứu dựa trên tiền đề Luật ngân sách nhà nước năm 2015 có hiệu lực thi hành từ năm 2017, các văn bản pháp lý triển khai Luật NSNN của trung ương như: Nghị định số 60/2003/NĐ-CP của Chính Phủ, Nghị định 73/2003/NĐ – CP của Chính Phủ, Thông tư 344/2016/TT – BTC của bộ Tài chính và phân cấp của UBND tỉnh Quảng Nam, các số liệu và dữ liệu được công bố chính thức bởi cơ quan tài chính nhà nước.

5.2. Phương pháp nghiên cứu

Kết hợp sử dụng các phương pháp tiếp cận hệ thống, phương pháp phân tích tài liệu thứ cấp; phương pháp so sánh; phương pháp thống kê, phương pháp tổng hợp.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn

6.1. Ý nghĩa lý luận

Góp phần làm rõ hơn một số vấn đề về lý luận, pháp lý về QLNN về ngân sách

Đánh giá thực trạng ( thành tựu, hạn chế ), kết quả QLNN, phân tích công tác quản lý Nhà nước về quản lý ngân sách cấp xã trên địa bàn huyện Tiên Phước – Tỉnh Quảng Nam.

Đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác quản lý Nhà nước về quản lý ngân sách cấp xã trên địa bàn huyện trong bối cảnh mới.

6.2. Ý nghĩa thực tiễn

Luận văn cũng có thể làm tài liệu tham khảo cho HĐND, Uỷ ban nhân dân, các ban ngành của huyện Tiên Phước hiểu đúng về những nội dung cơ bản trong công tác quản lý Nhà nước về quản lý ngân sách cấp xã. Đồng thời có thể làm tài liệu tham khảo cho những ai quan tâm nghiên cứu vấn đề này.

7. Kết cấu luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chương:

Chương 1: Một số vấn đề cơ bản về quản lý ngân sách nhà nước cấp xã.

Chương 2: Thực trạng quản lý ngân sách cấp xã trên địa bàn huyện Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam.

Chương 3: Giải pháp hoàn thiện công tác quản lý ngân sách cấp xã trên địa bàn huyện Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam.

CHƯƠNG 1

MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ QUẢN LÝ NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC

CẤP XÃ

1.1. Cơ sở pháp lý và lý luận chung về quản lý ngân sách nhà nước

1.1.1. Ngân sách nhà nước

1.1.1.1. Khái niệm ngân sách nhà nước

Thuật ngữ “NSNN” có từ lâu và ngày nay được dùng phổ biến trong đời sống kinh tế – xã hội và được diễn đạt dưới nhiều góc độ khác nhau. Song quan niệm NSNN được bao quát nhất cả về lý luận và thực tiễn của nước ta hiện nay.

Trong pháp luật thực định, tại Điều 4 của Luật Ngân sách nhà nước năm 2015 định nghĩa: “Ngân sách nhà nước là toàn bộ các khoản thu, chi của Nhà nước được dự toán và thực hiện trong một khoảng thời gian nhất định do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định để bảo đảm thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước”. [26].

Tuy nhiên xét về ý nghĩa trong hệ thống tài chính, NSNN là bộ phận chủ đạo, là điều kiện vật chất quan trọng để Nhà nước thực hiện các nhiệm vụ của mình; mặt khác nó còn là công cụ quan trọng để Nhà nước thực hiện điều tiết vĩ mô nền kinh tế xã hội.

1.1.1.2. Đặc điểm của Ngân sách nhà nước

Trong thực tế nhìn bề ngoài, hoạt động NSNN là hoạt động thu chi tài chính ủa Nhà nước. Hoạt động đó đa dạng, phong phú, được tiến hành hầu hết trên các ĩnh vực, tác động đến mọi chủ thể kinh tế – xã hội. Tuy đa dạng, phong phú như ậy, nhưng chúng có những đặc điểm chung:

Các hoạt động thu chi của NSNN luôn luôn gắn chặt với quyền lực kinh tế – hính trị của Nhà nước, được Nhà nước tiến hành trên cơ sở những luật lệ nhất định. Đằng sau những hoạt động thu chi tài chính đó chứa đựng nội dung kinh tế – xã hội nhất định và chứa đựng các quan hệ kinh tế, quan hệ lợi ích nhất định. Trong các quan hệ lợi ích đó, lợi ích quốc gia, lợi ích chung bao giờ cũng được đặt lên hàng đầu và chi phối các mặt lợi ích khác trong thu, chi ngân sách nhà nước .

Quá trình thực hiện các chỉ tiêu thu, chi NSNN nhằm hình thành quỹ tiền tệ tập trung của Nhà nước và là quá trình phân phối và phối lại giá trị tổng sản phẩm xã hội phục vụ cho việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước trên các lĩnh vực, trong từng giai đoạn lịch sử nhất định.

1.1.2. Vai trò và chức năng của ngân sách nhà nước

Như vậy, chúng ta thấy rằng thu, chi của NSNN hoàn toàn không giống bất ỳ một hình thức thu chi của một loại quỹ nào.

Thu của NSNN phần lớn đều mang tính chất bắt buộc, còn các khoản chi của NSNN lại mang tính chất không hoàn lại. Đây là đặc trưng nổi bật của NSNN trong bất cứ một nhà nước nào. Xuất phát từ quyền lực của Nhà nước và các nhu cầu về tài chính để thực hiện chức năng quản lý và điều hành của Nhà nước đối với nền kinh tế – xã hội. Do nhu cầu chi tiêu của mình, Nhà nước đã sử dụng quyền lực thông qua hệ thống pháp luật tài chính, buộc mọi pháp nhân và thể nhân phải đóng góp một phần thu nhập của mình cho NSNN, tức là các chủ thể kinh tế thực hiện nghĩa vụ của mình với Nhà nước. Sự bắt buộc đó là hoàn toàn khách quan, vì lợi ích của toàn xã hội chứ không phải phục vụ cho lợi ích riêng của Nhà nước. Các đối tượng nộp thuế cũng hoàn toàn ý thức được nghĩa vụ của mình trong việc đảm bảo sự tồn tại và phát triển của Nhà nước. Họ cũng hiểu được vai trò của Nhà nước trong việc sử dụng các nguồn lực tài chính nhằm thực hiện các chức năng kinh tế, xã hội, do nhân dân giao phó.

Sự tồn tại và hoạt động của Nhà nước chính là yếu tố quyết định tính chất oạt động của NSNN, nói lên bản chất của NSNN. Mọi hoạt động của NSNN đều nhằm vào việc tạo lập và sử dụng các nguồn lực tài chính; nó phản ánh hệ thống các quan hệ kinh tế giữa Nhà nước và các chủ thể trong xã hội, phát sinh do Nhà nước tạo lập thông qua NSNN. Đó là mối quan hệ kinh tế giữa phần nộp vào NSNN và phần để lại cho các chủ thể kinh tế trong xã hội. Phần nộp vào ngân sách sẽ tiếp tục được phân phối lại nhằm thực hiện các chức năng của Nhà nước và phục vụ cho các nhu cầu phát triển kinh tế – xã hội. Với quyền lực tối cao của mình, Nhà nước có thể sử dụng các công cụ sẵn có để bắt buộc mỗi thành viên trong xã hội cung cấp cho mình các nguồn lực tài chính cần thiết. Song cơ sở tạo lập các nguồn lực tài chính xuất phát từ sản xuất, mà chủ thể của sản xuất chính là các thành viên trong xã hội. Mọi thành viên đều có lợi ích kinh tế và đấu tranh bảo vệ lợi ích kinh tế đó, nghĩa là thông qua quyền lực của mình, Nhà nước sử dụng các công cụ, chính sách giải quyết hài hoà giữa lợi ích Nhà nước và lợi ích của các thành viên trong xã hội. Do vậy muốn có NSNN đúng đắn, lành mạnh thì phải tôn trọng và vận dụng các quy luật kinh tế một cách khách quan, phải dựa trên cơ sở đảm bảo hài hoà lợi ích của Nhà nước và lợi ích cho các thành viên trong xã hội. Một NSNN lớn mạnh phải đảm bảo sự cân đối trên cơ sở khuyến khích phát triển sản xuất kinh doanh, bao quát hết toàn bộ các nguồn thu, nuôi dưỡng nguồn thu để đáp ứng nhu cầu chi ngày càng tăng. NSNN có 2 chức năng chính sau:

Thứ nhất, NSNN là chức năng phân phối. Bất kỳ một Nhà nước nào, muốn tồn tại và duy trì được các chức năng của mình, trước hết phải có nguồn lực tài chính. Đó là các khoản chi cho bộ máy quản lý Nhà nước, cho lực lượng quân đội, công an, cho nhu cầu văn hoá, giáo dục, y tế, phúc lợi xã hội, chi cho đầu tư phát triển,… Nhưng muốn tạo lập được NSNN, trước hết phải tập hợp các khoản thu theo luật định, cân đối chi tiêu theo tiêu chuẩn định mức đúng với chính sách hiện hành. Đó chính là sự huy động các nguồn lực tài chính và đảm bảo nhu cầu chi tiêu theo kế hoạch của Nhà nước, thực hiện việc cân đối thu chi bằng tiền của Nhà nước.

Thứ hai, NSNN là giám đốc quá trình huy động các khoản thu và thực hiện các khoản chi. Thông qua chức năng này, NSNN kiểm tra, giám sát quá trình động viên các nguồn thu, tránh tình trạng trốn lậu thuế, chây ỳ nộp thuế của các đối tượng thực hiện nghĩa vụ nộp NSNN hoặc bị lạm dụng, làm trái pháp luật, coi thường pháp luật và các chính sách động viên khác. Trong khâu cấp phát nếu buông lỏng việc kiểm tra, kiểm soát chi thì dễ dẫn đến tình trạng làm sai luật định và các chế độ chi quy định. Đồng thời thông qua kiểm tra, kiểm soát hoạt động thu chi NSNN giúp ta giám sát việc chấp hành các chế độ, chính sách của Đảng và Nhà nước. Thông qua đó đánh giá hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội của vốn NSNN, hiệu quả của các chủ trương, chính sách, chế độ do Đảng và Nhà nước đề ra.

Như vậy, hai chức năng phân phối và giám đốc luôn có mối quan hệ mật thiết với nhau, có vị trí và tầm quan trọng như nhau, không thể coi chức năng này hơn chức năng kia, mà phải coi trọng cả hai chức năng ở mọi lúc, mọi nới trong tạo lập và sử dụng vốn NSNN.

1.1.3. Phân loại ngân sách nhà nước

a. Các khoản thu NSNN

– Các khoản thu từ thuế, phí, lệ phí.

Đây là các khoản thu bắt buộc thực hiện nghĩa vụ của các doanh nghiệp, các tổ chức và công dân do những yêu cầu tất yếu về kinh tế – chính trị – xã hội để bảo đảm các hoạt động của bộ máy Nhà nước, giữ vững quốc phòng, an ninh và bảo đảm các sự nghiệp xã hội .

– Các khoản thu từ hoạt động kinh tế của Nhà nước.

Đây là các quan hệ thu thực hiện lợi ích kinh tế các loại tài sản và vốn bằng tiền thuộc sở hữu toàn dân giao cho Nhà nước quản lý và cho phép các chủ thể trong nền kinh tế sử dụng. Các quan hệ này cũng là bắt buộc, nhưng dựa trên các yếu tố kinh tế là đảm bảo cho chủ sở hữu thực hiện được lợi ích kinh tế, quyền sở hữu các loại tài sản đưa vào quá trình sản xuất xã hội. Những ai sử dụng nhiều tài sản của Nhà nước vào mục đích kinh doanh trên các địa bàn và những ngành nghề có hiệu quả kinh tế cao thì phải đóng góp nhiều vào NSNN.

Trình độ xã hội hóa càng cao, quy mô sở hữu càng lớn thì nguồn thu tập trung vào NSNN và những nguồn lực tài chính cũng càng nhiều.

Thực hiện thu đúng, thu đủ từ các hình thức này không chỉ đảm bảo nguồn lực tài chính cho Nhà nước, mà còn là hình thức cụ thể thực hiện quản lý chặt các tài sản thuộc sở hữu Nhà nước để bảo tồn và phát triển chế độ sở hữu toàn dân.

– Các khoản đóng góp của các tổ chức và cá nhân thuộc đối tượng phải đóng góp theo luật định.

– Các khoản viện trợ: hình thức chủ yếu là viện trợ không hoàn lại, của các tổ chức, các tổ chức phi chính phủ của các nước và quốc tế. Nguồn thu này chủ yếu phụ thuộc vào đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước. Đây là nguồn thu nhất thời, không ổn định, không tính toán trước một cách chính xác.

– Các khoản do Nhà nước vay để bù đắp bội chi được đưa vào cân đối NSNN.

Khoản thu này được thực hiện thông qua quan hệ tín dụng Nhà nước trong nước và quốc tế để sử dụng vào mục đích đầu tư phát triển kinh tế. Đây là nguồn thu không thuộc quyền sở hữu Nhà nước, đến kỳ hạn Nhà nước phải thanh toán.

Vì vậy, việc sử dụng hình thức này đòi hỏi các tổ chức Nhà nước phải tính toán nhu cầu đầu tư, hiệu quả kinh tế – xã hội của công trình và khả năng thu hồi vốn để trả nợ.

– Các khoản thu khác theo quy định của pháp luật.

b. Các khoản chi lấy từ ngân sách nhà nước

Chi NSNN là một hệ thống các quan hệ rất đa dạng, phức tạp, bao gồm

Các khoản chi phát triển kinh tế – xã hội.

– Các khoản chi bảo đảm quốc phòng, an ninh, bảo đảm hoạt động của bộ máy Nhà nước. Đây là những khoản chi bắt buộc trong NSNN của mọi quốc gia nhằm để giữ vững an ninh tổ quốc, ổn định chính trị – xã hội.

Quy mô khoản chi này tuỳ thuộc vào việc xác định chức năng nhiệm vụ và tổ chức bộ máy Nhà nước xuất phát từ tình hình kinh tế – chính trị – xã hội ở trong nước và quốc tế. Trên cơ sở xác định quy mô chi tiêu cần thiết cho lĩnh vực này, tiến hành phân bổ các loại thuế trực thu và gián thu, thông qua thực thu các sắc thuế mà bảo đảm nguồn lực tài chính đầy đủ cho nhu cầu này.

Các khoản chi trả nợ của Nhà nước: tuỳ theo mức độ bội chi của ngân sách, quy mô và các điều kiện tín dụng Nhà nước về thời hạn trả nợ và mức lãi suất mà khoản chi này có tỷ lệ cao hay thấp trong tổng chi NSNN. Ở nước ta hiện nay, do hậu quả của việc quản lý vốn vay chưa tốt, để thất thoát lớn và việc sử dụng hiệu quả thấp, nên nợ nước ngoài tồn đọng rất lớn, vì vậy chi trả nợ nước ngoài đang là vấn đề căng thẳng. Khả năng trả nợ thấp, tuy nhiên chúng ta vẫn phải đảm bảo uy tín trong quan hệ quốc tế. Để giải quyết vấn đề này, chúng ta cần khống chế nhu cầu chi tiêu trong nước để dành tiền trả nợ.

Đối với vay từ nguồn trong nước dưới nhiều hình thức, trong đó chủ yếu là hình thức tín phiếu kho bạc Nhà nước ngắn hạn và tín phiếu dài hạn để huy động vốn trong dân vào nhu cầu đầu tư. Hướng chủ yếu của tín dụng Nhà nước là các khoản vay dài hạn đầu tư phát triển kinh tế. Nhưng hình thức này chỉ phát triển trong điều kiện sức mua đồng tiền ổn định và lãi suất hợp lý đem lại lợi ích người cho vay, đồng thời đảm bảo cho Nhà nước thanh toán được nợ.

Các khoản chi dự trữ nhà nước (từ 3 – 5% tổng số dư). Đây là khoản dự phòng cho những nhu cầu đột xuất bất trắc có thể xảy ra trong khi thực hiện nhiệm vụ của Nhà nước.

Các khoản chi viện trợ và các khoản chi khác theo quy định của pháp luật. NSNN bao gồm hai cấp: Trung ương và địa phương. Quan hệ giữa hai cấp này được thực hiện theo nguyên tắc chủ yếu là phân định nguồn thu và nhiệm vụ chi cụ thể; thực hiện bổ sung từ ngân sách cấp trên cho ngân sách cấp dưới để bảo đảm sự cân bằng, phát triển cân đối và thực hiện được nhiệm vụ của các vùng, các địa phương. NSNN được cân đối theo nguyên tắc tổng số thu từ thuế, phí, lệ phí phải lớn hơn tổng số chi thường xuyên và góp phần tích luỹ ngày càng cao vào đầu tư phát triển. Nếu có bội chi thì số bội chi đó phải nhỏ hơn chi đầu tư phát triển, tiến tới cân bằng thu – chi ngân sách. Nếu có vay để bù đắp bội chi NSNN thì phải trên nguyên tắc tiền vay không được sử dụng cho tiêu dùng mà chỉ sử dụng vào mục đích phát triển và có kế hoạch thu hồi vốn vay để đảm bảo cân đối ngân sách, chủ động trả nợ đến hạn. Ngân sách địa phương được cân đối theo quy tắc: tổng số chi không được vượt quá tổng số thu.

1.2. Cơ sở pháp lý và lý luận về quản lý ngân sách cấp xã

1.2.1. Khái niệm quản lý ngân sách cấp xã

Về bản chất ngân sách xã là hệ thống các quan hệ kinh tế giữa Nhà nước với các chủ thể khác, phát sinh trong quá trình tạo lập, phân phối và sử dụng quỹ tiền tệ của chính quyền nhà nước cấp xã nhằm phục vụ cho việc thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của chính quyền nhà nước cấp cơ sở trong khuôn khổ đã được phân công, phân cấp quản lý.

Ngân sách xã là một loại quỹ tiền tệ của cơ quan chính quyền nhà nước cấp cơ sở. Hoạt động của quỹ này thể hiện trên hai phương diện: huy động nguồn thu vào quỹ (gọi tắt là thu ngân sách xã) và phân phối, sử dụng các khoản vốn quỹ đó (gọi tắt là chi ngân sách xã).

Hoạt động thu, chi của ngân sách xã luôn gắn chặt với chức năng, nhiệm vụ của chính quyền xã đã được phân công, phân cấp; đồng thời luôn chịu sự kiểm tra giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước ở cấp xã. Vì vậy, các chỉ tiêu thu, chi của ngân sách xã luôn mang tính pháp lý.

Các quan hệ thu, chi ngân sách xã rất đa dạng và biểu hiện dưới nhiều hình thức khác nhau. Nhưng số thu hoặc số chi theo từng hình thức chỉ có thể được thực thi một khi nó đã được ghi vào dự toán và đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt.

Về hình thức, quá trình vận động của quỹ ngân sách xã gồm: quá trình huy động nguồn thu và quá trình phân phối, sử dụng ngân sách xã – thể hiện toàn bộ hoạt động của ngân sách xã kể từ khi bắt đầu hình thành cho tới khi kết thúc chuyển sang năm mới. Đây được xem là chu trình ngân sách xã. Như vậy chu trình ngân sách bao gồm các khâu: lập dự toán, chấp hành dự toán và quyết toán ngân sách xã.

Quản lý ngân sách xã là hoạt động thu thập, xử lý, kiểm tra, giám sát toàn bộ hoạt động kinh tế – tài chính của xã, bao gồm: hoạt động thu, chi ngân sách và các hoạt động tài chính khác thuộc phân cấp của xã.

1.2.2. Đặc trưng của ngân sách cấp xã

Ngân sách xã có vị trí vô cùng quan trọng trong hoạt động của xã, phường được thể hiện qua đặc điểm của ngân sách xã. Đặc điểm đó được khái quát như sau:

Thứ nhất: NSX là một loại quỹ tiền tệ của cơ quan chính quyền Nhà nước cấp cơ sở. Hoạt động của quỹ này thể hiện trên hai phương diện: huy động nguồn thu (thu ngân sách xã) và phân phối sử dụng vốn, quỹ đã (chi ngân sách xã)

Thứ hai: Hoạt động thu, chi NSX luôn gắn chặt với chức năng, nhiệm vụ của chính quyền xã đã được phân cấp; đồng thời chịu sự kiểm tra, giám sát của cơ quan quyền lực Nhà nước ở cấp xã và chính quyền cấp trên. Vì vậy các chỉ tiêu thu chi NSX mang tính pháp lý cao.

Thứ ba: Các hoạt động thu, chi NSX chính là thể hiện quan hệ về lợi ích giữa một bên là lợi ích chung của nhân dân mà chính quyền xã là người đại diện với một bên là lợi ích của các chủ thể kinh tế xã hội khác.

Thứ tư: Quan hệ thu chi NSX rất đa dạng và biểu hiện dưới nhiều hình thức khác nhau. Nhưng số thu, số chi theo từng hình thức chỉ có thể được thực hiện khi nó đã được ghi vào dự toán và đã được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền phê duyệt đây cũng chính là đặc điểm của ngân sách nói chung.

1.2.3. Nội dung quản lý ngân sách cấp xã

a. Nội dung thu, chi của ngân sách cấp xã

Nguồn thu của ngân sách xã do Hội đồng nhân dân (HĐND) cấp tỉnh quyết định phân cấp trong phạm vi nguồn thu ngân sách địa phương được hưởng. Nguồn thu và nhiệm vụ chi của ngân sách xã được hình thành trên cơ sở tiềm năng và nhu cầu phát triển kinh tế, xã hội của địa phương kết hợp với các nhiệm vụ về quản lý kinh tế, xã hội mà chính quyền xã được phân công, phân cấp thực hiện.

Đó chính là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa phân cấp quản lý về kinh tế – xã hội với sự phân cấp về quản lý tài chính, ngân sách. Và trên một phương diện nhất định, căn cứ vào nguồn thu và nhiệm vụ chi của ngân sách xã được phân giao, người ta có thể coi đó là nội dung của ngân sách xã.

Theo Thông tư số 344/2016/TT-BTC của Bộ Tài chính ban hành ngày 30 tháng 12 năm 2016, về việc quy định quản lý ngân sách xã và các hoạt động tài chính khác của xã, phường, thị trấn thì nguồn thu và nhiệm vụ chi của ngân sách xã được quy định như sau: [6]

* Thu ngân sách xã

– Các khoản thu 100%

Các khoản thu ngân sách xã hưởng một trăm phần trăm là các khoản thu dành cho xã sử dụng toàn bộ để chủ động về nguồn tài chính đảm bảo các nhiệm vụ chi thường xuyên, chi đầu tư phát triển.

Căn cứ vào nguồn thu, chế độ phân cấp quản lý kinh tế – xã hội và nguyên tắc đảm bảo tối đa nguồn tại chỗ cân đối cho các khoản thu, chi thường xuyên, khi phân cấp nguồn thu, HĐND cấp tỉnh xem xét dành cho ngân sách xã hưởng 100% các khoản thu dưới đây.

Các khoản phí, lệ phí giao cho xã tổ chức thu theo quy định.

+ Thu từ các hoạt động sự nghiệp của xã, phần nộp vào NSNN theo
quy định của pháp luật.

+ Thu từ quỹ đất công ích và hoa lợi công sản khác do xã quản lý theo quy định của pháp luật.

+ Tiền thu từ xử phạt vi phạm hành chính, phạt, tịch thu khác theo quy định của pháp luật do cấp xã thực hiện.

+ Thu từ tài sản được xác lập quyền sở hữu của nhà nước do các cơ quan, đơn vị, tổ chức thuộc xã xử lý theo quy định của pháp luật, sau khi trừ đi các chi phí theo quy định của pháp luật.

+ Các khoản huy động đóng góp từ các cơ quan, tổ chức, cá nhân gồm: các khoản huy động đóng góp theo quy định của pháp luật, các khoản đóng góp theo nguyên tắc tự nguyện để đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng do HĐND xã quyết định đưa vào ngân sách xã quản lý;

+ Viện trợ không hoàn lại của các tổ chức quốc tế, các tổ chức khác, các cá nhân ở ngoài nước trực tiếp cho ngân sách xã;

+ Thu kết dư ngân sách xã năm trước.

+ Thu chuyển nguồn ngân sách cấp xã năm trước chuyển sang;

+ Các khoản thu khác của ngân sách xã theo quy định của pháp luật.

– Các khoản thu phân chia theo tỷ lệ phần trăm (%) giữa ngân sách xã, thị trấn với ngân sách cấp trên:

+ Thuế sử dụng đất phi nông nghiệp;

+ Thuế sử dụng đất phi nông nghiệp thu từ hộ gia đình;

+ Lệ phí môn bài thu từ cá nhân, hộ kinh doanh;

+ Lệ phí trước bạ nhà, đất.

Căn cứ vào khả năng thực tế nguồn thu và nhiệm vụ chi của xã, Hội đồng nhân dân cấp tỉnh quyết định tỷ lệ phần trăm (%) đến tối đa là 100% các khoản thu quy định tại Khoản 2 Điều 9, Thông tư 344/2016/TT- BTC [6].

Ngoài các khoản thu phân chia như trên ngân sách xã còn được HĐND
cấp tỉnh phân cấp thêm nguồn thu từ các khoản thu ngân sách địa phương được hưởng 100%, các khoản thu phân chia giữa ngân sách trung ương và ngân sách địa phương. [6]

– Thu bổ sung từ ngân sách cấp trên cho ngân sách xã.

Thu bổ sung từ ngân sách cấp trên cho ngân sách xã gồm:

+ Thu bổ sung để cân đối ngân sách là mức chênh lệch giữa dự toán chi được giao và dự toán thu từ các nguồn thu được phân cấp (gồm các khoản thu 100% và các khoản thu phân chia theo tỷ lệ). Số bổ sung cân đối này được xác định từ đầu thời kỳ ổn định ngân sách và được giao từ 3 đến 5 năm.

+ Thu bổ sung có mục tiêu là các khoản bổ sung theo từng năm để hỗ trợ xã thực hiện một số nhiệm vụ cụ thể.

* Chi của ngân sách xã

Chi của ngân sách xã gồm: chi đầu tư phát triển và chi thường xuyên. HĐND cấp tỉnh quyết định phân cấp nhiệm vụ chi cho ngân sách xã. Căn cứ vào chế độ phân cấp quản lý kinh tế – xã hội của nhà nước, các chính sách chế độ về hoạt động của các cơ quan nhà nước, Đảng cộng sản Việt Nam, các tổ chức chính trị xã hội và nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội của xã khi phân cấp nhiệm vụ chi cho ngân sách xã, HĐND tỉnh xem xét giao cho ngân sách xã thực hiện các nhiệm vụ chi dưới đây.

Các khoản chi thường xuyên, gồm:

+ Chi quốc phòng: Chi thực hiện chế độ, chính sách đối với lực lượng dân quân tự vệ và các khoản chi khác về dân quân tự vệ thuộc nhiệm vụ chi của ngân sách xã theo quy định của Luật dân quân tự vệ; chi thực hiện việc đăng ký nghĩa vụ quân sự, công tác nghĩa vụ quân sự khác thuộc nhiệm vụ chi của ngân sách xã theo quy định của Luật nghĩa vụ quân sự; các khoản chi khác theo quy định của pháp luật;

+ Chi an ninh và trật tự an toàn xã hội: Chi tuyên truyền, vận động và tổ chức phong trào bảo vệ an ninh, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn xã; các khoản chi khác theo quy định của pháp luật;

+ Chi sự nghiệp giáo dục: Hỗ trợ hoạt động giáo dục, đào tạo trên địa bàn xã;+ Chi cho nhiệm vụ ứng dụng, chuyển giao công nghệ (không có nhiệm vụ chi nghiên cứu khoa học và công nghệ);

+ Chi sự nghiệp y tế: Hỗ trợ phục vụ chăm sóc sức khỏe nhân dân trên địa bàn xã;

+ Chi hoạt động văn hóa, thông tin;

+ Chi hoạt động phát thanh, truyền thanh;

+ Chi hoạt động thể dục, thể thao;

+ Chi hoạt động bảo vệ môi trường, bao gồm thu gom, xử lý rác thải;

+ Chi các hoạt động kinh tế bao gồm: Duy tu, bảo dưỡng, sửa chữa, cải tạo các công trình phúc lợi, các công trình kết cấu hạ tầng, các công trình khác do xã quản lý; hỗ trợ khuyến khích phát triển các hoạt động kinh tế như: khuyến công, khuyến nông, khuyến ngư, khuyến lâm theo chế độ quy định; các hoạt động kinh tế khác;

+ Chi hoạt động của các cơ quan quản lý nhà nước, tổ chức chính trị và các tổ chức chính trị – xã hội; hỗ trợ hoạt động cho các tổ chức chính trị xã hội – nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội – nghề nghiệp theo quy định của pháp luật:

Chi hoạt động của các cơ quan nhà nước: Tiền lương cho cán bộ, công chức; tiền công lao động và hoạt động phí đại biểu Hội đồng nhân dân; các khoản phụ cấp khác theo quy định của Nhà nước; công tác phí; chi về hoạt động, văn phòng, như: chi phí điện, nước, văn phòng phẩm, phí bưu điện, điện thoại, hội nghị, chi tiếp tân, khánh tiết; chi mua sắm, sửa chữa thường xuyên trụ sở, phương tiện làm việc và tài sản cố định khác; đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, kinh phí công đoàn cho cán bộ xã và các đối tượng khác theo chế độ quy định; chi khác theo chế độ quy định;

Kinh phí hoạt động của tổ chức Đảng Cộng sản Việt Nam ở xã;

Kinh phí hoạt động của các tổ chức chính trị – xã hội ở xã (Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Cựu chiến binh Việt Nam, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Hội Nông dân Việt Nam) sau khi trừ các khoản thu theo điều lệ và các khoản thu khác (nếu có);

Kinh phí hỗ trợ hoạt động cho các tổ chức chính trị xã hội – nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội – nghề nghiệp ở xã theo quy định của pháp luật;

+ Chi cho công tác xã hội do xã quản lý: Trợ cấp hằng tháng cho cán bộ xã nghỉ việc theo chế độ quy định (không kể trợ cấp hằng tháng cho cán bộ xã nghỉ việc và trợ cấp thôi việc 01 lần cho cán bộ xã nghỉ việc từ ngày 01 tháng 01 năm 1998 trở về sau do bảo hiểm xã hội chi trả); chi thăm hỏi các gia đình chính sách; trợ giúp xã hội và công tác xã hội khác;

+ Các khoản chi thường xuyên khác ở xã theo quy định của pháp luật.

Chi đầu tư phát triển, gồm:

+ Chi đầu tư xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội từ nguồn vốn đầu tư trong cân đối ngân sách xã theo phân cấp của cấp tỉnh theo các lĩnh vực chi.

+ Chi đầu tư xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội của xã từ nguồn huy động đóng góp từ các cơ quan, tổ chức, cá nhân theo quy định của pháp luật và Luật đầu tư công cho từng dự án nhất định, do Hội đồng nhân dân xã quyết định đưa vào ngân sách xã quản lý theo các lĩnh vực chi được quy định.

b. Lập dự toán ngân sách cấp xã

Hàng năm trên cơ sở hướng dẫn của uỷ ban nhân dân huyện, uỷ ban nhân dân xã lập dự toán ngân sách năm sau trình HĐND xã quyết định.

Căn cứ lập dự toán ngân sách xã:

Các nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội, đảm bảo an ninh – quốc phòng, trật tự an toàn xã hội.

Chính sách, chế độ thu NSNN, cơ chế phân cấp nguồn thu, nhiệm vụ chi ngân sách xã và tỷ lệ phân chia nguồn thu do HĐND tỉnh quy định.

Chế độ, tiêu chuẩn, định mức chi ngân sách do chính phủ, thủ tướng chính phủ, Bộ Tài chính và HĐND cấp tỉnh quy định.

Số kiểm tra về dự toán ngân sách xã do UBND huyện thông báo. Tình hình thực hiên dự toán ngân sách xã năm hiện hành và các năm trước đó.

Trình tự lập dự toán ngân sách xã:

Ban Tài chính và ngân sách xã kết hợp với cơ quan thuế hoặc đội thu thuế (nếu có) tính toán các khoản thu ngân sách nhà nước trên địa bàn (trong phạm vi phân cấp do xã quản lý).

Các ban, tổ chức thuộc UBND xã căn cứ vào chức năng nhiệm vụ được giao và chế độ, định mức, tiêu chuẩn chi lập dự toán chi của đơn vị tổ chức này.

Ban Tài chính và ngân sách xã lập dự toán thu, chi và cân đối ngân sách trình UBND xã, báo cáo chủ tịch hoặc phó chủ tịch HĐND xã để xem xét gửi UBND huyện và phòng Tài chính – Kế hoạch huyện. Thời gian báo cáo dự toán ngân sách xã do UBND cấp tỉnh quy định.

Đối với năm đầu thời kỳ ổn định ngân sách, phòng Tài chính – Kế hoạch huyện làm việc với UBND xã về việc cân đối thu chi ngân sách xã thời kỳ ổn định mới theo khả năng bố trí cân đối chung của ngân sách địa phương. Đối với những năm tiếp theo của thời kỳ ổn định, phòng Tài chính – Kế hoạch huyện chỉ tổ chức làm việc với UBND xã khi UBND xã có yêu cầu.

Quyết định dự toán ngân sách xã:

Sau khi nhận được quyết định giao nhiệm vụ thu, chi do UBND huyện quyết định, UBND xã hoàn chỉnh dự toán ngân sách xã và phương án bổ sung ngân sách xã trình HĐND xã phê duyệt. Sau khi dự toán xã được HĐND xã phê duyệt, UBND xã báo cáo với UBND huyện, phòng Tài chính – Kế hoạch huyện đồng thời công khai ngân sách xã cho nhân dân biết theo chế độ công khai tài chính về ngân sách xã.

Điều chỉnh ngân sách xã hàng năm (nếu có) trong các trường hợp có yêu cầu của UBND cấp trên để đảm bảo phù hợp với định hướng chung hoặc có sự biến động lớn về nguồn thu và nhiệm vụ chi.

c. Chấp hành dự toán ngân sách cấp xã.

Hàng năm xã phải tổ chức chấp hành dự toán ngân sách theo đúng điều
khoản về Luật Ngân sách và Nghị định của Chính phủ, các Thông tư hướng dẫn chấp hành dự toán ngân sách của Bộ Tài chính.

Căn cứ dự toán ngân sách xã và phương án phân bổ ngân sách xã cả năm đã được HĐND xã phê chuẩn, UBND xã phân bổ chi tiết dự toán chi ngân sách xã theo mục lục NSNN (kèm theo biểu mẫu) gửi Kho bạc Nhà nước (KBNN) nơi giao dịch để làm căn cứ thanh toán và kiểm soát chi. Căn cứ vào dự toán và khả năng thu, nhu cầu chi của từng quý, UBND xã lập dự toán thu, chi quý (có chia ra tháng gửi KBNN nơi giao dịch). Đối với những xã có các nguốn thu chủ yếu theo mùa vụ, UBND xã đề nghị cơ quan tài chính cấp trên thực hiện tiến độ cấp số bổ sung cân đối trong dự toán được giao (nếu có) cho phù hợp để điều hành chi theo tiến độ công việc. Chủ tịch UBND xã (hoặc người được uỷ quyền) là chủ tài khoản thu chi ngân sách xã. Xã có quỹ tiền mặt tại xã để thanh toán các khoản có giá trị nhỏ. Định mức tồn quỹ tiền mặt tại xã do KBNN huyện quy định cho từng loại xã. Riêng những xã ở xa KBNN, điều kiện đi lại khó khăn, chưa thể thực hiện việc nộp trực tiếp các khoản thu của ngân sách xã vào KBNN, định mức tồn quỹ tiền mặt được quy định ở mức phù hợp.

Ban Tài chính và ngân sách xã có nhiệm vụ phối hợp với cơ quan thuế đảm bảo thu đúng, thu đủ và kịp thời. Nghiêm cấm thu không biên lai, thu để ngoài sổ sách. Khi thu phải giao biên lai lại cho đối tượng nộp cho cơ quan thuế, phòng Tài chính – Kế hoạch huyện có nhiệm vụ cung cấp biên lai đầy đủ, kịp thời cho ban tài chính xã để thực hiện thu nộp NSNN.

Việc hoàn trả khoản thu ngân sách xã, KBNN xác nhận rõ số tiền đã thu vào ngân sách xã hoặc cơ quan thu xác nhận (đối tượng nộp ngân sách qua cơ quan thu) để ban tài chính làm căn cứ hoàn trả.

Đối với các khoản thu ngân sách xã được hưởng 100%, KBNN chuyển một liên chứng từ cho ban tài chính xã. Đối với các khoản thu phân chia với ngân sách cấp trên, KBNN lập dự toán ngân sách bảng kê các khoản thu ngân sách có phân chia cho xã gửi ban tài chính xã. Đối với số thu bổ sung ngân sách huyện cho ngân sách xã, phòng TCKH huyện căn cứ vào dự toán số bổ sung đã giao cho từng xã, dự toán thu, chi từng quý của các xã và khả năng cân đối của ngân sách huyện, thông báo số bổ sung hàng quý cho xã chủ động điều hành ngân sách. Phòng TCKH huyện cấp số bổ sung cho xã theo định kỳ hàng tháng. Khi thực hiện nhiệm vụ chi, ban tài chính và ngân sách xã phải thẩm tra nhu cầu sử dụng kinh phí của các tổ chức, đơn vị. Bố trí nguồn theo dự toán năm và dự toán quý để đáp ứng nhu cầu chi.

Kiểm tra giám sát việc thực hiện việc chi ngân sách, sử dụng tài sản của các tổ chức, đơn vị sử dụng ngân sách, phát hiện và báo cáo, đề xuất kịp thời chủ tịch UBND xã những trường hợp vi phạm chế độ, tiêu chuẩn, định mức để có biện pháp giải quyết, việc chấp hành dự toán chi ngân sách phải đảm bảo nguyên tắc: đã ghi trong dự toán, đúng chế độ, tiêu chuẩn, định mức quy định được chủ tịch UBND xã (hoặc người được uỷ quyền) chuẩn chi. Cấp phát ngân sách xã chỉ dùng hình thức lệnh chi tiền. Trường hợp thanh toán bằng tiền mặt phải kèm theo giấy đề nghị rút tiền mặt. KBNN kiểm tra nếu đủ điều kiện thì tiến hành thanh toán. Trong trường hợp thật cần thiết như tạm ứng, công tác phí, ứng tiền trước cho khách hàng, cho nhà thầu theo hợp đồng, chuẩn bị hội nghị, tiếp khách… được tạm ứng để chi. Trong trường hợp này, trên lệnh chi tiền chỉ ghi tổng số tiền tạm ứng, kèm theo giấy đề nghị rút tiền mặt. Nếu như các khoản thanh toán ngân sách xã qua KBNN cho đối tượng có mở tài khoản giao dịch tại KBNN hoặc ngân hàng thì phải thực hiện bằng hình thức chuyển khoản. Khi đó phải sử dụng lệnh chi tiền bằng chuyển khoản. Các khoản chi từ nguồn thu được giữ tại xã, Ban Tài chính và ngân sách xã phối hợp với KBNN định kỳ làm thủ tục hạch toán thu, chi vào ngân sách xã.

Đối với chi thường xuyên, ưu tiên chi trả tiền lương và các khoản phụ cấp cho cán bộ xã, nghiêm cấm việc nợ lương. Các khoản chi cấp bách phải căn cứ dự toán năm, tính cấp bách của công việc, khả năng của ngân sách xã tại thời điểm chi.

Đối với chi đầu tư phát triển: việc quản lý vốn đầu tư xây dựng cơ bản của ngân sách xã phải thực hiện theo quy định của Nhà nước về quản lý đầu tư xây dựng cơ bản và phân cấp của tỉnh. Bộ Tài chính sẽ quy định việc cấp phát thanh toán và quyết toán vốn đầu tư xây dựng cơ bản của ngân sách xã. Đối với các dự án đầu tư bằng nguồn đóng góp theo nguyên tắc tự nguyện ngoài các quy định chung cần phải mở sổ theo dõi và phản ánh kịp thời mọi khoản đóng góp bằng tiền, ngày công lao động, hiện vật của nhân dân. Quá trình thi công, nghiệm thu và thanh toán phải có ban giám sát do nhân dân cử ra. Kết quả đầu tư và quyết toán phải thông báo rộng rãi cho nhân dân biết.

d. Quyết toán ngân sách cấp xã

Ban Tài chính và ngân sách xã lập báo cáo quyết toán thu, chi ngân sách xã hàng năm trình UBND xã xem xét để trình HĐND xã phê chuẩn, đồng thời gửi phòng TCKH huyện để tổng hợp trình UBND huyện. Thời gian gửi báo cáo quyết toán năm cho phòng TCKH huyện do UBND tỉnh qui định.

Quyết toán ngân sách xã không được lớn hơn quyết toán chi ngân sách xã. Toàn bộ chuyển nguồn ngân sách năm trước (nếu có), được chuyển vào thu ngân sách năm sau. Sau khi HĐND xã phê chuẩn báo cáo quyết toán được lập thành 5 bản, gửi cho HĐND xã, UBND xã, phòng TCKT huyện, KBNN nơi xã giao dịch, lưu ban Tài chính xã và thông báo công khai nơi công cộng cho nhân dân trong xã biết.

Phòng TCKH huyện có trách nhiệm kiểm tra báo cáo quyết toán thu, chi ngân sách xã, trường hợp có sai sót phải báo cáo với UBND huyện yêu cầu HĐND xã điều chỉnh.

Trên đây là toàn bộ nội dung quản lý ngân sách xã, ta thấy quản lý ngân sách xã là một quá trình khó khăn và phức tạp. Do vậy, hoàn thiện công tác quản lý ngân sách xã là một yêu cầu cấp thiết nhằm làm lành mạnh hoá các hoạt động tài chính ở xã, nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn ngân sách xã

e. Kiểm tra, giám sát ngân sách cấp xã

Kiểm tra tiến hành ở tất cả các khâu trong quy trình quản lý ngân sách xã. Kiểm tra là một biện pháp nhằm đảm bảo cho các quy định về chế độ ngân sách xã, đảm bảo quy định về chế độ kế toán được chấp hành nghiêm chỉnh, việc kiểm tra, kiểm toán phải được tiến hành một cách thường xuyên và ở tất cả các bước trong quản lý ngân sách xã. Kiểm tra để phát hiện ra những vấn đề không đúng chế độ, không đúng pháp luật để từ đó có các biện pháp xử lý và uốn nắn kịp thời.

Nâng cao vai trò giám sát của HĐND xã đối với công tác ngân sách xã; các cơ quan tài chính cấp trên, đặc biệt là phòng Tài chính – kế hoạch huyện, thành, thị phải thường xuyên kiểm tra, hướng dẫn về mặt chuyên môn nghiệp vụ cho công tác quản lý ngân sách xã. Việc tiến hành kiểm tra nội bộ là vô cùng quan trọng; đồng thời UBND cấp trên, các cơ quan chức năng, các cơ quan bảo vệ pháp luật sẵn sàng vào cuộc khi có dấu hiệu để tìm ra, ngăn chặn, xử lý những sai phạm,…từ đó làm cho ngân sách xã hoạt động theo đúng quỹ đạo, hiệu quả, nền tài chính lành mạnh.

Hình thức kiểm tra bao gồm:

Kiểm tra định kỳ: Đây là việc kiểm tra của các cơ quan, đơn vị chức năng theo kế hoạch nhất định. Việc kiểm tra được tiến hành đối với hoạt động của ngân sách xã trong một thời gian nhất định.

Kiểm tra đột xuất: Đây là việc kiểm tra của các cơ quan, đơn vị chức năng một cách đột xuất, thường khi có các sự việc xảy ra hoặc có đơn thư khiếu nại, tố cáo liên quan đến công tác quản lý ngân sách xã.

Kiểm tra thường xuyên: Đây là công tác kiểm tra thường xuyên trong quá trình hoạt động của ngân sách xã. Công tác kiểm tra thường gắn với các cơ quan chủ quản của ngân sách xã như ngành tài chính, thuế, KBNN…

LIỆN HỆ:

SĐT+ZALO: 0935568275

E:\DỮ LIỆU COP CỦA CHỊ YẾN\LUAN VAN VIEN HAN LAM\VIEN HAN LAM DOT 9\QUAN LY KINH TE\NGUYEN PHUOC TUNG

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *