Quản lý nhà nước về công tác giảm nghèo trên địa bàn huyện Quế Sơn

Quản lý nhà nước về công tác giảm nghèo trên địa bàn huyện Quế Sơn

Quản lý nhà nước về công tác giảm nghèo trên địa bàn huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam

1. Tính cấp thiết của đề tài

Nghèo đói hiện đang là vấn đề xã hội bức xúc, là sự thách thức, cản trở lớn đối với sự phát triển bền vững của mỗi quốc gia, khu vực và toàn bộ nền văn minh nhân loại. Chính vì vậy, trong những năm gần đây nhiều quốc gia và các tổ chức quốc tế đã quan tâm tìm các giải pháp nhằm hạn chế nghèo đói và giảm dần khoảng cách phân hoá giàu, nghèo trên phạm vi toàn thế giới, trong đó có cả Việt Nam.

Ở nước ta, giảm nghèo là một trong những chủ trương lớn của Đảng và nhà nước nhằm cải thiện đời sống vật chất cho người nghèo, thu hẹp khoảng cách và trình độ phát triển giữa các vùng, các địa bàn và các dân tộc. Trong những năm qua, Đảng, Nhà nước đã có nhiều chủ trương, chính sách, tập trung đầu tư nguồn lực cho công tác giảm nghèo, qua đó đã góp phần giảm tỷ lệ hộ nghèo, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và thực hiện công bằng xã hội, nâng cao chất lượng cuộc sống của con người.

Quế Sơn là huyện trung du của tỉnh Quảng Nam, có tổng diện tích tự nhiên 25.746 ha, nằm cách Thành phố Tam Kỳ 30 km về phía Bắc, cách Thành phố Đà Nẵng 40 km về phía Tây Nam. Phía bắc giáp với huyện Duy Xuyên, phía Nam giáp với huyện Hiệp Đức, phía Đông giáp với huyện Thăng Bình, phía Tây giáp với huyện Nông Sơn. Địa hình huyện Quế Sơn có trên 60% diện tích là vùng đồi núi, vùng đồng bằng nhỏ hẹp và xen kẽ giữa các khu vực đồi gò, giao thông đi lại gặp nhiều khó khăn; đời sống nhân dân chủ yếu dựa vào rừng để làm nương rẫy. Cây trồng nông nghiệp chủ lực là lúa nước và lúa rẫy, chăn nuôi gia súc: Trâu, Bò, Dê là chủ yếu.

Trong những năm qua, các cấp ủy Đảng, chính quyền đã quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo và triển khai thực hiện tốt các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về công tác giảm nghèo, tập trung đầu tư nguồn lực để đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, các chính sách khuyến khích thoát nghèo bền vững, cùng với sự chung tay, hỗ trợ chia sẻ của cộng đồng đã giúp nhân dân huyện nhà có điều kiện tiếp cận và thụ hưởng chính sách hỗ trợ sản xuất, các dịch vụ y tế, giáo dục, dạy nghề….góp phần tác động tích cực đến công tác giảm nghèo trên địa bàn huyện đạt nhiều kết quả với tỷ lệ hộ nghèo giảm hàng năm giảm từ 2,0-2.5%.

Tuy nhiên, việc thực hiện quản lí nhà nước về giảm nghèo trên địa bàn huyện vẫn còn một số hạn chế, khó khăn nhất định. Cụ thể như: công tác lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện ở một số cấp ủy Đảng, chính quyền chưa kịp thời, đồng bộ, chưa có giải pháp giảm nghèo cụ thể; công tác thông tin, tuyên truyền chưa đa dạng, phong phú; nguồn lực đầu tư cho công tác giảm nghèo hạn chế, chưa đáp ứng yêu cầu; các chính sách hỗ trợ kinh tế cho hộ nghèo để phát triển sản xuất chưa nhiều, mức đầu tư thấp, tổ chức thực hiện gặp nhiều vướng mắc, chưa đáp ứng yêu cầu thực tế để đạt mục tiêu giảm nghèo bền vững; việc sơ kết, tổng kết đánh giá rút kinh nghiệm, khen thưởng chưa được chú trọng và thực hiện kịp thời, một số người nghèo tư tưởng còn trông chờ ỉ lại vào chính sách hỗ trợ của nhà nước đối với người nghèo mà không tự lực thoát nghèo…. Bên cạnh đó, chuẩn nghèo giai đoạn 2016 – 2020 được áp dụng theo phương pháp tiếp cận đo lường nghèo từ đơn chiều sang đa chiều, sử dụng kết hợp cả chuẩn nghèo về thu nhập và mức độ thiếu hụt tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản đã tạo ra một số khó nhăn nhất định cho một bộ phận cán bộ và nhân dân do chưa nắm bắt kịp thời phương pháp điều tra theo chuẩn nghèo đa chiều như hiện nay.

Mặc dù trong những năm qua, đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu về giải pháp giảm nghèo trên phạm vi cả nước nói chung và một số địa phương nói riêng. Đối với huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam chưa có đề tài nào nghiên cứu và cũng chưa có giải pháp nào mang lại hiệu quả cao. Do đó cần có những giải pháp phù hợp với điều kiện thực tế tại địa phương để thúc đẩy sự phát triển kinh tế của huyện, giảm tỷ lệ hộ nghèo trên địa bàn toàn huyện theo theo Nghị quyết đại hội huyện đảng bộ đề ra đến năm 2020 trên địa bàn toàn. Vì vậy, em chọn đề tài “Quản lý nhà nước về công tác giảm nghèo trên địa bàn huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam” để nghiên cứu luận văn tốt nghiệp.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về giảm nghèo, quản lý nhà nước về giảm nghèo làm cơ sở cho việc đề xuất giải pháp nhằm hoàn thiện công tác quản lý nhà nước về giảm nghèo trên địa bàn huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Hệ thống hóa những vấn đề cơ sở lý luận của quản lý nhà nước về giảm nghèo.

Đánh giá thực trạng quản lý nhà nước về giảm nghèo trên địa bàn huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam. Từ đó, chỉ ra những kết quả đạt được, hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế đó.

Đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác quản lý nhà nước về giảm nghèo trên địa bàn huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

– Đối tượng nghiên cứu: Là hoạt động quản lý nhà nước về giảm nghèo trên địa bàn huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam

4.2. Phạm vi nghiên cứu

– Phạm vi về nội dung: Nghiên cứu về các nội dung liên quan đến công tác quản lý nhà nước về giảm nghèo.

– Phạm vi về không gian: Nghiên cứu quản lý nhà nước về công tác giảm nghèo trên địa bàn huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam

– Phạm vi về thời gian: Nghiên cứu thực trạng công tác quản lý nhà nước về giảm nghèo trên địa bàn huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam trong giai đoạn 2013-2017 và đề xuất các giải pháp trong luận văn có ý nghĩa trong những năm tới.

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu

5.1. Phương pháp luận

Phương pháp thu thập số liệu thứ cấp: Số liệu, tài liệu trong luận văn được thu thập chủ yếu từ Nghị quyết, Quyết định, báo cáo tổng kết hằng năm, qua các giai đoạn của UBND huyện Quế Sơn, phòng Lao động – Thương binh và xã hội huyện Quế Sơn, thông tin do cán bộ địa phương cung cấp; các kết quả nghiên cứu, các kinh nghiệm giảm nghèo của các địa phương, để phân tích, đánh giá, tổng hợp phục vụ đề tài nghiên cứu

5.2. Phương pháp nghiên cứu

– Phương pháp phân tích:

+ Phương pháp thống kê mô tả:

Dựa trên các Báo cáo đánh giá tình hình thực hiện Chương trình mục tiêu giảm nghèo giai đoạn 2011-2015, mục tiêu và các giải pháp thực hiện Chương trình giảm nghèo bền vững giai đoạn 2016-2020 của UBND huyện Quế Sơn; Báo cáo kết quả thực hiện chương trình mục tiêu giảm nghèo năm 2016, 2017; Báo cáo kết quả điều tra, rà soát hộ nghèo năm 2018; Báo cáo tổng kết tình hình kinh tế -xã hội huyện Quế Sơn hằng năm tiến hành, phân tích, so sánh, đánh giá, mô tả lại thực trạng trong công tác QLNN về giảm nghèo tại huyện Quế Sơn nhằm đề xuất giải pháp quản lý nhà nước về giảm nghèo trên địa bàn huyện, phân tích thực trạng nhằm đề xuất giải pháp quản lý phù hợp.

+ Phương pháp phân tích hệ thống:

Sử dụng phương pháp thống kê mô tả và nhiều tiêu thức đánh giá khác nhau, từ các số liệu, tài liệu đã thu thập được thông qua số liệu để đánh giá tình hình, chuyển biến trong công tác quản lý giảm nghèo theo từng giai đoạn và đề xuất các giải pháp hoàn thiện công tác quản lý phù hợp với tình hình thực tế tại huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam.

+ Phương pháp so sánh: được sử dụng nhằm đánh giá thực trạng giảm nghèo trên địa bàn huyện và thực trạng quản lý nhà nước về công tác giảm nghèo trên địa bàn huyện Quế Sơn. Sử dụng các số liệu thu thập được, luận văn so sánh công tác giảm nghèo qua các năm và quản lý nhà nước về giảm nghèo theo thời gian và không gian.

Ngoài ra luận văn còn thu thập, tìm kiếm thông tin trên mạng Internet, một số sách báo, công trình nghiên cứu khác nhau.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn

6.1. Ý nghĩa lý luận

Luận văn tổng hợp và làm rõ thêm các quan điểm lý luận về giảm nghèo hiện nay, trên cơ sở đó làm rõ vai trò của quản lý nhà nước về giảm nghèo ở nước ta.

6.2. Ý nghĩa thực tiễn

Luận văn đã phân tích, đánh giá thực trạng quản lý nhà nước về giảm nghèo trên địa bàn huyện Quế Sơn, qua đó chỉ ra được những hạn chế và nguyên nhân làm cơ sở cho việc đề xuất một số giải pháp hoàn thiện quản lý nhà nước trong lĩnh vực này trên địa bàn của huyện.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo nội dung của luận văn gồm có 3 chương:

Chương 1: Cơ sở lý luận quản lí nhà nước về giảm nghèo

Chương 2: Thực trạng quản lí nhà nước về giảm nghèo trên địa bàn huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam.

Chương 3: Một số giải pháp hoàn thiện quản lí nhà nước về giảm nghèo trên địa bàn huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam.

CHƯƠNG 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN QUẢN LÍ NHÀ NƯỚC VỀ GIẢM NGHÈO

1.1. Khái quát về giảm nghèo và quản lí nhà nước về giảm nghèo

1.1.1. Khái niệm nghèo và tiêu chí xác định chuẩn nghèo đa chiều ở Việt Nam hiện nay

1.1.1.1. Khái niệm về nghèo

* Quan niệm của thế giới

Tại Hội nghị chống nghèo đói do Ủy ban Kinh tế – Xã hội Khu vực Châu Á-Thái Bình Dương tổ chức tại BangKok tháng 9/1993, các nước trong khu vực thống nhất rằng “Nghèo là tình trạng một bộ phận dân cư không có khả năng thỏa mãn những nhu cầu cơ bản của con người mà nhu cầu ấy phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế xã hội, phong tục tập quán của từng vùng và những phong tục ấy được xã hội thừa nhận”. Theo khái niệm này thì tiêu chí và chuẩn mực đánh giá về nghèo đói còn để ngỏ về định lượng hay nói cách khác tiêu chuẩn về đánh giá nghèo đói ở các quốc gia và các vùng lãnh thổ là khác nhau”

Đến năm 1995, Hội nghị thượng đỉnh thế giới về Phát triển xã hội tổ chức tại tại Copenhagen (Đan Mạch) đã đưa ra khái niệm:“ Người nghèo là tất cả những ai mà thu nhập thấp hơn dưới 1 đô la Mỹ (USD) mỗi ngày cho mỗi người, số tiền được coi như đủ mua với những sản phẩm thiết yếu để tồn tại”. Khác với khái niệm trên, khái niệm này đã có tính định lượng nhưng không tính đến sự thay đổi về thời gian của vấn đề nghèo và cũng chỉ mới đề cập nghèo đơn chiều (về thu nhập)

Trong “Báo cáo về tình hình phát triển thế giới-Tấn công nghèo đói” năm 2000, WB thừa nhận quan điểm truyền thống hiện nay về nghèo đói: Đói nghèo “không chỉ bao hàm sự khốn cùng về vật chất (được đo lường theo một khái niệm thích hợp về thu nhập hoặc tiêu dùng) mà còn là sự hưởng thụ thiếu thốn cả về giáo dục và y tế”. Báo cáo đã mở rộng quan niệm về nghèo đói khi tính đến cả nguy cơ dễ bị tổn thương, dễ gặp rủi ro của người nghèo. Báo cáo nêu bật “nghèo có nghĩa là không có nhà cửa, quần áo, ốm đau và không ai chăm sóc, mù chữ và không được đến trường”. Báo cáo chỉ ra “người nghèo đặc biệt dễ bị tổn thương trước những biểu hiện bất lợi nằm ngoài khả năng kiểm soát của họ. Họ thường bị các thể chế của nhà nước và xã hội đối xử tàn tệ, bị gạt ra rìa và không có tiếng nói trong các thể chế đó”.

Theo Liên hợp quốc (UN): “Nghèo là thiếu năng lực tối thiểu để tham gia hiệu quả vào các hoạt động xã hội. Nghèo có nghĩa là không có đủ ăn, đủ mặc, không được đi học, không được đi khám, không có đất đai để trồng trọt hoặc không có nghề nghiệp để nuôi sống bản thân, không được tiếp cận tín dụng. Nghèo cũng có nghĩa sự không an toàn, không có quyền, và bị loại trừ của các cá nhân, hộ gia đình và cộng đồng. Nghèo có nghĩa dễ bị bạo hành, phải sống ngoài lề xã hội hoặc trong các điều kiện rủi ro, không được tiếp cận nước sạch và công trình vệ sinh an toàn” (Tuyên bố Liên hợp quốc, 6/2008, được lãnh đạo của tất cả các tổ chức UN thông qua)

Mặc dù các khái niệm được đưa ra có một số điểm khác biệt nhưng có thể thấy các quốc gia, các nhà chính trị và các học giả đều thống nhất rằng nghèo là một hiện tượng đa chiều, tình trạng nghèo cần được nhìn nhận là sự thiếu hụt/không được thỏa mãn các nhu cầu cơ bản của con người. Như vậy, nghèo đa chiều có thể được hiểu là tình trạng con người không được đáp ứng một hoặc một số nhu cầu cơ bản trong cuộc sống.

* Quan niệm của Việt Nam

Nghèo: Là tình trạng một bộ phận dân cư chỉ có điều kiện thoả mãn một phần các nhu cầu tối thiểu cơ bản của cuộc sống và có mức sống thấp hơn mức sống trung bình của cộng đồng của từng vùng, từng khu vực xét trên mọi phương diện. Trong hoàn cảnh nghèo thì người nghèo và hộ nghèo cũng chỉ vật lộn với những mưu sinh hàng ngày và kinh tế vật chất, biểu hiện trực tiếp nhất ở bữa ăn. Họ không thể vươn tới các nhu cầu về văn hóa, tinh thần hoặc những nhu cầu này phải cắt giảm bớt tới mức tổi thiểu gần nhất, gần nhu không có.

Một cách hiểu khác: Nghèo là một bộ phận dân cư có mức sống dưới ngưỡng quy định của sự nghèo. Nhưng ngưỡng nghèo còn phụ thuộc vào đặc điểm cụ thể của từng địa phương, từng thời kỳ cụ thể hay từng giai đoạn phát triển kinh tế xã hội cụ thể của từng địa phương hay từng quốc gia.

Nghèo được chia thành các mức khác nhau: nghèo tuyệt đối, nghèo tương đối, nghèo có nhu cầu tối thiểu.

– Nghèo tuyệt đối là tình trạng một bộ phận dân cư không được hưởng và thỏa mãn nhu cầu cơ bản, tối thiểu để duy trì cuộc sống.

– Nghèo tương đối là tình trạng một bộ phận dân cư có mức sống dưới mức trung bình của cộng đồng ở một thời kỳ nhất định. Nghèo tương đối gắn liền với sự chênh lệch về mức sống của một bộ phận dân cư so với mức sống

– Nghèo có nhu cầu tối thiểu: Đây là tình trạng một bộ phận dân cư có những đảm bảo tối thiểu để duy trì cuộc sống như đủ ăn, đủ mặc, đủ ở và một số sinh hoạt hàng ngày nhưng ở mức tối thiểu

Ở Việt Nam, trong giai đoạn 2011-2015 chuẩn nghèo, tỷ lệ hộ nghèo và xác định đối tượng nghèo hoàn toàn dựa vào các tiêu chí thu nhập, trong đó chuẩn nghèo được xác định theo phương pháp “chi phí cho các nhu cầu cơ bản”.Sau 30 năm đổi mới, phát triển và hội nhập, Việt Nam đã chuyển từ một quốc gia thu nhập thấp sang nhóm nước có thu nhập trung bình nên cách tiếp cận đánh giá nghèo đơn chiều theo thu nhập đã bộc lộ những hạn chế. Từ đó, trong giai đoạn 2016-2020, việc xác định chuẩn nghèo, tiêu chí hộ nghèo được áp dụng theo phương pháp đa chiều.

1.1.1.2. Tiêu chí đánh giá nghèo.

Khái niệm nghèo đa chiều đề cập ở Việt Nam từ năm 2013 nhằm hướng tới việc dựng lên một bức tranh đầy đủ và toàn diện hơn về thực trạng nghèo ở nước ta. Quốc hội khóa 13, kỳ họp thứ 7 đã thông qua Nghị quyết số 76/2014/QH13 về việc đẩy mạnh thực hiện mục tiêu giảm nghèo bền vững đến năm 2020, trong đó nêu rõ: “Xây dựng chuẩn nghèo mới theo phương pháp tiếp cận đa chiều nhằm bảo đảm mức sống tối thiểu và đáp ứng các dịch vụ xã hội cơ bản”. Ngày 19/12/2014 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 2324/QĐ-TTg về kế hoạch hành động triển khai Nghị quyết số 76/ 2014/QH13 của Quốc Hội; Ngày 15/9/2015 Thủ tướng Chính phủ đã ký kết quyết định số 1614/QĐ-TTg phê duyệt Đề án tổng thể “ Chuyển đổi phương pháp tiếp cận đo lường nghèo từ đơn chiều sang đa chiều áp dụng cho giai đoạn 2016-2020”. Ngày 19/11/2015, Thủ tướng Chính phủ đã ký ban hành Quyết định số: 59/2015/QĐ-TTg về việc ban hành chuẩn nghèo tiếp cận đa chiều áp dụng cho giai đoạn 2016-2020. Theo đó, tiêu chí đo lường nghèo được xây dựng trên cơ sở:

– Các tiêu chí về thu nhập

– Mức độ thiếu hụt trong tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản, bao gồm: tiếp cận về y tế, giáo dục, nhà ở, nước sạch và vệ sinh, tiếp cận thông tin.

Bảng 1.1. Chuẩn nghèo của Việt Nam thời kỳ 2006-2020

Đơn vị: đồng/ người/ tháng

Giai đoạn

Khu vực

2006 – 20102011 – 20152016 – 2020
Nông thôn200.000400.000700.000
Thành thị260.000500.000900.000

Nguồn: Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội

Để đo lường mức độ thiếu hụt các dịch vụ xã hội cơ bản sẽ dựa vào 10 chỉ số sau: (1)Tiếp cận các dịch vụ y tế; (2)Bảo hiểm y tế; (3) Trình độ giáo dục của người lớn; (4) Tình trạng đi học của trẻ em; (5) Chất lượng nhà ở; (6) Diện tích nhà ở bình quân đầu người; (7) Nguồn nước sinh hoạt; (8) Hố xí/ nhà tiêu hợp vệ sinh; (9) Sử dụng dịch vụ viễn thông; (10) Tài sản phục vụ tiếp cận thông tin.

Căn cứ vào chuẩn thu nhập và mức độ thiếu hụt tiếp cận dịch vụ xã hội cơ bản Quyết định 59/2015/QĐ-TTg của Thủ tướng chính phủ đã nêu rõ các tiêu chí xác định hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ có mức sống trung bình cụ thể như sau:

* Hộ nghèo:

Khu vực nông thôn: là hộ đáp ứng một trong hai tiêu chí sau: Có thu nhập bình quân đầu người/tháng từ đủ 700.000 đồng trở xuống; có thu nhập bình quân đầu người/tháng trên 700.000 đồng đến 1.000.000 đồng và thiếu hụt từ 3 chỉ số đo lường mức độ thiếu hụt tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản trở lên.

Khu vực thành thị: là hộ đáp ứng một trong hai tiêu chí sau: Có thu nhập bình quân đầu người/tháng từ đủ 900.000 đồng trở xuống; có thu nhập bình quân đầu người /tháng trên 900.000 đồng đến 1.300.000 đồng và thiếu hụt từ 3 chỉ số đo lường mức độ thiếu hụt tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản trở lên.

* Hộ cận nghèo:

Khu vực nông thôn: là hộ đáp ứng một trong hai tiêu chí sau: Có thu nhập bình quân đầu người/tháng trên 700.000 đồng đến 1.000.000 đồng và thiếu hụt dưới 3 chỉ số đo lường mức thiếu hụt tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản

Khu vực thành thị: là hộ đáp ứng một trong hai tiêu chí sau: Có thu nhập bình quân đầu người/tháng trên 900.000 đồng đến 1.300.000 đồng và thiếu hụt dưới 3 chỉ số đo lường mức độ thiếu hụt tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản.

* Hộ có mức sống trung bình:

Khu vực nông thôn: Có thu nhập bình quân đầu người /tháng trên 1.000.000 đồng đến 1.500.000 đồng

Khu vực thành thị: Có thu nhập bình quân đầu người /tháng trên 1.300.000 đồng đến 1.950.000 đồng

Thông tư số 17/2016/TT-BLĐTBXH ngày 28/6/2016 của Bộ Lao động-Thương binh và xã hội về hướng dẫn quy trình rà soát hộ nghèo, hộ cận nghèo hằng năm theo chuẩn nghèo tiếp cận đa chiều áp dụng cho giai đoạn 2016-2020 thì tiêu chí xác định hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ có mức sống trung bình hằng năm được rà soát, chấm điểm, phân loại, xác định theo Phiếu B (theo Phụ lục số 3b ban hành kèm theo Thông tư này) cụ thể như sau:

* Danh sách hộ nghèo, hộ cận nghèo qua rà soát, bao gồm:

– Hộ nghèo khu vực thành thị là hộ có tổng điểm B1 từ 140 điểm trở xuống hoặc hộ có tổng điểm B1 trên 140 điểm đến 175 điểm và có tổng điểm B2 từ 30 điểm trở lên;

– Hộ nghèo khu vực nông thôn là hộ có tổng điểm B1 từ 120 điểm trở xuống hoặc hộ có tổng điểm B1 trên 120 điểm đến 150 điểm và có tổng điểm B2 từ 30 điểm trở lên;

– Hộ cận nghèo khu vực thành thị là hộ có tổng điểm B1 trên 140 điểm đến 175 điểm và có tổng điểm B2 dưới 30 điểm;

– Hộ cận nghèo khu vực nông thôn là hộ có tổng điểm B1 trên 120 điểm đến 150 điểm và có tổng điểm B2 dưới 30 điểm;

* Danh sách hộ thoát nghèo, hộ thoát cận nghèo qua rà soát, bao gồm:

– Hộ thoát nghèo khu vực thành thị:

+ Hộ thoát nghèo vượt qua chuẩn cận nghèo là hộ có tổng điểm B1 trên 175 điểm;

+ Hộ thoát nghèo, nhưng vẫn còn là hộ cận nghèo là hộ có tổng điểm B1 trên 140 điểm đến 175 điểm và có tổng điểm B2 dưới 30 điểm;

– Hộ thoát nghèo khu vực nông thôn:

+ Hộ thoát nghèo vượt qua chuẩn cận nghèo là hộ có tổng điểm B1 trên 150 điểm;

+ Hộ thoát nghèo, nhưng vẫn là hộ cận nghèo là hộ có tổng điểm B1 trên 120 điểm đến 150 điểm và có tổng điểm B2 dưới 30 điểm;

– Hộ thoát cận nghèo khu vực thành thị là hộ có tổng điểm B1 trên 175 điểm;

– Hộ thoát cận nghèo khu vực nông thôn là hộ có tổng điểm B1 trên 150 điểm.

Việc xác định hộ nghèo sẽ dựa trên kết quả chấm điểm tài sản của hộ gia đình (thông qua mẫu phiếu B để tính điểm B1 – ước lượng thu nhập thông qua tài sản, B2 – xác định mức độ thiếu hụt tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản), đây là phương pháp ước lượng thu nhập dựa trên cơ sở đánh giá 14 nhóm đặc điểm của hộ gia đình, trong đó có xem xét giá trị sử dụng tài sản của hộ gia đình liên quan đến tạo thu nhập (không đánh giá giá trị, nguồn gốc của tài sản).

Việc quy định các chỉ tiêu, mức cho điểm để đánh giá tài sản, ước lượng mức thu nhập của hộ gia đình do Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội xây dựng dựa trên kết quả thống kê, khảo sát mức sống hộ gia đình của các vùng trên toàn quốc do Tổng cục Thống kê (Bộ Kế hoạch và Đầu tư) thực hiện; các chỉ tiêu, mức điểm cho từng chỉ tiêu được Tổng cục Thống kê nghiên cứu, xây dựng chặt chẽ, khoa học, logic, dựa trên những yếu tố chung nhất của từng vùng, phù hợp với những đặc điểm cơ bản của các hộ gia đình sinh sống trên địa bàn, dễ thực hiện và xác minh đúng thực trạng của hộ gia đình, khắc phục được những khó khăn khi thực hiện theo phương pháp cũ trong giai đoạn 2011-2015.

1.1.2. Quan niệm chung về giảm nghèo

Giảm nghèo là một phạm trù lịch sử mang tính tương đối, bởi vì nghèo vẫn luôn tồn tại trong xã hội, do sự khác biệt về năng lực, thể chất, thu nhập, địa vị xã hội…giữa các cá nhân với nhau. Nói cách khác, có thể xóa được đói (nghèo tuyệt đối) nhưng không thể xóa được nghèo tương đối mà chỉ có thể giảm nghèo. Giảm nghèo là quá trình làm cho bộ phận dân cư nghèo nâng cao mức sống, từng bước thoát khỏi tình trạng nghèo. Biểu hiện ở tỷ lệ phần trăm và số lượng người nghèo giảm.

Ở Việt Nam, giảm nghèo được quán triệt trong các chủ trương, đường lối của Đảng trên cơ sở những luận điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tương Hồ Chí Minh. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng (năm 2016), đã tiếp tục nhấn mạnh: “Đổi mới chính sách giảm nghèo theo hướng tập trung, hiệu quả và tiếp cận phương pháp đo lường nghèo đa chiều nhằm bảo đảm an sinh xã hội cơ bản và tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản”. Trong đó, “phương pháp đo lường nghèo đa chiều” là một khái niệm hoàn toàn mới.

Tóm lại, có thể hiểu giảm nghèo là tổng thể các biện pháp, chính sách của Nhà nước và xã hội hay là của chính những đối tượng thuộc diện nghèo, nhằm tạo điều kiện để họ có thể tăng thu nhập, thoát khỏi tình trạng thu nhập không đáp ứng được những nhu cầu tối thiểu và thỏa mãn được các nhu cầu cơ bản khác của con người: y tế, giáo dục và điều kiện sống trên cơ sở chuẩn nghèo được quy định theo từng địa phương, từng khu vực và quốc gia.

1.1.3. Khái niệm quản lí nhà nước về giảm nghèo

Có nhiều cách hiểu khác nhau về quản lý nhưng nhìn chung có thể hiểu: Quản lý là sự tác động có ý thức của chủ thể quản lý lên đối tượng quản lý một cách gián tiếp hoặc trực tiếp nhằm đạt được những mục tiêu nhất định trong điều kiện biến đổi của môi trường.

Trong hệ thống phạm trù quản lý có khái niệm quản lý nhà nước, đó là hoạt động thực thi quyền lực nhà nước thông qua các văn bản quy phạm pháp luật do các cơ quan nhà nước thực hiện nhằm xác lập một trật tự ổn định, phát triển xã hội theo những mục tiêu mà tầng lớp cầm quyền theo đuổi. Bao gồm toàn bộ hoạt động của cả bộ máy nhà nước từ lập pháp, hành pháp đến tư pháp vận hành như một thực thể thống nhất.

Quản lý nhà nước (QLNN) được hiểu theo hai nghĩa:

Theo nghĩa rộng: Quản lý nhà nước là toàn bộ hoạt động của bộ máy nhà nước, từ hoạt động lập pháp, hoạt động hành pháp, đến hoạt động tư pháp.

Theo nghĩa hẹp: Quản lý nhà nước chỉ bao gồm hoạt động hành pháp.

Quản lý nhà nước được đề cập trong luận văn này là khái niệm quản lý nhà nước theo nghĩa rộng: Quản lý nhà nước bao gồm toàn bộ các hoạt động từ ban hành các văn bản luật, các văn bản mang tính luật đến việc chỉ đạo trực tiếp hoạt động của đối tượng bị quản lý và vấn đề tư pháp đối với đối tượng quản lý cần thiết của Nhà nước.

Hoạt động quản lý Nhà nước chủ yếu và trước hết được thực hiện bởi tất cả các cơ quan nhà nước, song có thể các tổ chức chính trị – xã hội, đoàn thể quần chúng và nhân dân trực tiếp thực hiện nếu được Nhà nước trao quyền, ủy quyền thực hiện chức năng của Nhà nước theo quy định của pháp luật.

Cho đến nay chưa có khái niệm cụ thể hoặc định nghĩa chính xác quản lý nhà nước về giảm nghèo, có thể sơ bộ đưa ra khái niệm quản lý nhà nước về giảm nghèo như sau:

Quản lý nhà nước về giảm nghèo là hoạt động có ý thức do Nhà nước thực hiện thông qua các công cụ (cơ chế, chính sách, pháp luật, hệ thống tổ chức, nguồn lực…) và các biện pháp hành chính khác (thanh tra, kiểm tra, giám sát…) tác động vào người nghèo với mục tiêu xóa đói giảm nghèo, đảm bảo công bằng, an sinh xã hội trong từng giai đoạn nhất định.

* Đặc điểm của Quản lý Nhà nước về giảm nghèo:

– Là hoạt động vừa mang tính chấp hành, vừa mang tính điều hành. Tính chấp hành được thể hiện ở sự thực hiện trên thực tế các văn bản luật, pháp lệnh, chính sách, nghị quyết do các cơ quan có thẩm quyền ban hành. Tính điều hành thể hiện ở chỗ để đảm bảo cho các văn bản pháp luật của cơ quan có thẩm quyền được thực hiện trên thực tế thì các chủ thể quản lý Hành chính Nhà nước phải tiến hành các hoạt động tổ chức và chỉ đạo trực tiếp đối với các đối tượng quản lý thuộc quyền.

– Hoạt động Quản lý Nhà nước về giảm nghèo cần có tính chủ động và sáng tạo. Điều này thể hiện ở việc các chủ thể quản lý căn cứ vào tình hình, đặc điểm của từng đối tượng nghèo, từng địa phương để đề ra các biện pháp quản lý thích hợp. Tính chủ động sáng tạo còn thể hiện rõ nét trong hoạt động xây dựng, ban hành các văn bản quy phạm pháp luật để điều chỉnh hoạt động quản lý của Nhà nước. Tính chủ động sáng tạo được nội hàm bởi chính bản thân sự phức tạp, đa dạng, phong phú của đối tượng nghèo và đòi hỏi các chủ thể quản lý phải áp dụng biện pháp giải quyết mọi tình huống phát sinh một cách có hiệu quả nhất.

– Tính không vụ lợi: Quản lý nhà nước về giảm nghèo cần phải coi việc phục vụ lợi ích công làm động cơ và mục đích của hoạt động. Quản lý Nhà nước không phải vì lợi ích thù lao, càng không theo đuổi mục đích kinh doanh lợi nhuận. Cán bộ QLNN phải bảo đảm “cần, kiệm, liêm, chính, chí,công ,vô, tư”

– Nội dung cốt lõi nhất trong quản lý nhà nước về công tác giảm nghèo là hoạch định các chính sách và quản lý các nguồn lực

Mặc dù được đưa vào hoạch định chính sách và quản lý các nguồn lực nhưng theo nghĩa rộng, khi nói đến quản lý nhà nước luôn luôn được tính đến khía cạnh quản lý hành chính nhà nước. Việc tính đến hoạt động quản lý hành chính nhà nước có nghĩa là tính đến sự điều hành và phân phối các nguồn lực trong giảm nghèo. Hơn nữa, Quản lý hành chính nhà nước nói ở đây được đặt trong khuôn khổ của một mục tiêu phát triển công bằng, bền vững theo hướng xây dựng một xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ công bằng và văn minh

– Khái niệm Quản lý nhà nước về giảm nghèo: là sự tác động của nhà nước bằng cơ chế, chính sách của tổ chức bộ máy nhằm quản lý, điều hành và tổ chức thực hiện giảm nghèo từng bước, nâng cao chất lượng đời sống nhân dân, ổn định và phát triển đất nước, hạn chế nguy cơ tái nghèo.

1.1.4. Vai trò của quản lí nhà nước về giảm nghèo

Quản lý nhà nước về giảm nghèo có vai trò nhất định đối với quá trình phát triển kinh tế-xã hội. Thông qua việc xây dựng và ban hành các chính sách, cơ chế phù hợp như tạo việc làm, dạy nghề, hỗ trợ tài chính, đẩy mạnh phát triển khoa học công nghệ, đào tạo cho đội ngũ lao động nghèo trở thành lực lượng lao động có chuyên môn, tay nghề, kỹ năng lao động, sản xuất, bổ sung vào nguồn lực của mỗi quốc gia, giải quyết việc làm, tăng thu nhập, nâng cao chất lượng cuộc sống cho bộ phận dân cư nghèo, bảo đảm cho nền kinh tế ổn định và phát triển trên diện rộng với chất lượng cao hơn.

Sự quản lý của Nhà nước tạo môi trường kinh tế – xã hội và khuôn khổ hành lang pháp lý ổn định, an toàn cho các hoạt động sản xuất kinh doanh, tạo điều kiện giúp đỡ người nghèo tiếp cận các dịch vụ cơ bản: việc làm, giáo dục, y tế, chính sách hỗ trợ… Bằng quyền lực của mình, công tác quản lý của Nhà nước góp phần hạn chế những tác động tiêu cực nảy sinh do tình trạng đói nghèo gây ra với mỗi cá nhân, hộ gia đình, cộng đồng nghèo; đồng thời góp phần giữ vững ổn định chính trị, xã hội. Khi mức sống được nâng cao, người nghèo từng bước được tiếp cận với những dịch vụ thiết yếu và tham gia các hoạt động đoàn thể, xã hội; các vấn đề về nhận thức giáo dục, chăm sóc sức khỏe… cũng được quan tâm hơn. Đời sống vật chất và tinh thần được cải thiện, giúp củng cố thêm lòng tin của nhân dân với Đảng, Nhà nước, chính quyền và chế độ xã hội. Điều đó góp phần làm ổn định chính trị cho đất nước đồng nghèo.

Ngoài ra, Nhà nước còn giúp người nghèo gỡ bỏ rào cản ngăn cách kinh tế để giảm nghèo, là cầu nối vận động thuyết phục mọi tổ chức, cá nhân trong xã hội chung tay giúp đỡ người nghèo, thực hiện công tác tuyên truyền cho người nghèo để họ ý thức được rằng sự hỗ trợ của nhà nước, của xã hội chỉ là chất kích thích, là động lực và là tạo đà cho chính bản thân họ đứng lên hăng hái lao động sản xuất để chiến thắng được nghèo. Thực tế kinh nghiệm thế giới cho thấy, sự thiếu vắng vai trò của Nhà nước đặc biệt có hại đối với người nghèo, cộng đồng nghèo, vì người nghèo không tự bảo vệ được các quyền của mình, hơn nữa cũng cần nhấn mạnh trong thành quả chung của tăng trưởng kinh tế thì Nhà nước có vai trò nòng cốt và có trách nhiệm thu hút sự tham gia tích cực của cộng đồng, các tổ chức chính trị, kinh tế, xã hội. Nhà nước tạo điều kiện để người nghèo tham gia đầy đủ vào quá trình phát triển, có cơ hội bình đẳng như mọi người dân.

1.1.5. Tiêu chí đánh giá quản lí nhà nước về giảm nghèo

– Xây dựng, ban hành các văn bản quản lí nhà nước về giảm nghèo có đúng thẩm quyền, phù hợp với các văn bản của Trung ương, tỉnh; có phù hợp với tình hình thực tế của địa phương chưa.

– Triển khai thực hiện chính sách, chương trình giảm nghèo có kịp thời, sâu rộng đến người dân chưa; số lần tập huấn trong thực hiện giảm nghèo, số lần truyên tuyền về công tác giảm nghèo tại địa phương.

– Kết quả thực hiện chính sách giảm nghèo như chính sách tín dụng ưu đãi, đào tạo nghề và giải quyết việc làm, chính sách bảo hiểm y tế, chính sách hỗ trợ nhà ở……., so sánh kết quả thực hiện của năm liền kề

– Số lần kiểm tra, giám sát việc thực hiện trong công tác giảm nghèo

– Số lượng hộ nghèo giảm trong năm, so sánh với kế hoạch đề ra

1.2. Nội dung quản lí nhà nước về giảm nghèo

1.2.1. Xây dựng các chương trình, kế hoạch, chính sách giảm nghèo

Căn cứ vào các văn bản hanh hành của Trung ương, Tỉnh thì công tác giảm nghèo được cơ quan nhà nước cấp huyện được hoạch định bằng các chương trình, kế hoạch, chính sách và thời gian thực hiện chương trình theo từng giai đoạn: 5 năm, 10 năm… hoặc phân kỳ cho từng giai đoạn 5 năm và phải dựa trên điều kiện phát triển kinh tế – xã hội của địa phương.

Chương trình giảm nghèo là: một hệ thống các giải pháp xác định rõ vai trò của Nhà nước, của các tổ chức trong xã hội, trong việc phân phối hợp lý các hành động của mình để nâng cao mức sống cho người nghèo, tạo cho người nghèo những cơ hội phát triển trong đời sống cộng đồng bằng chính lao động của bản thân.

Kế hoạch giảm nghèo là một công cụ quản lý của nhà nước theo mục tiêu, được thể hiện bằng những mục tiêu định hướng giảm nghèo phải đạt được trong một khoảng thời gian nhất định ở một địa phương, đồng thời đưa ra những giải pháp, hoạt động cần thực hiện để đạt được những mục tiêu đó một cách có hiệu quả nhất.

Xây dựng các chính sách để giảm nghèo như: Chính sách tín dụng ưu đãi đối với người nghèo, Chính sách khuyến nông – lâm – ngư và hỗ trợ phát triển sản xuất, phát triển ngành nghề, Chính sách hỗ trợ hộ nghèo về nhà ở, Chính sách hỗ trợ y tế cho người nghèo, Chính sách hỗ trợ về giáo dục, Chính sách trợ giúp pháp lý cho người nghèo

Tóm lại, thông qua thực hiện các chương trình phát triển kinh tế-xã hội, các chương trình giảm nghèo, bộ mặt các xã nghèo được cải thiện rõ rệt. Người nghèo đã được hỗ trợ cải thiện một bước về điều kiện sống, tiếp cận tốt hơn các chính sách và nguồn lực hỗ trợ của nhà nước, một số nhu cầu xã hội cơ bản của người nghèo bước đầu đã được áp dụng (như nhà ở, nước sinh hoạt, khám chữa bệnh, học tập. Về lâu dài, tác động của các chính sách, chương trình giảm nghèo đã giúp người nghèo có được cơ hội vươn lên trong cuộc sống, vượt qua tình trạng nghèo đói và giải quyết những nhu cầu thiết yếu của gia đình và bản thân tại địa phương.

1.2.2. Triển khai thực hiện các chính sách giảm nghèo

1.2.2.1. Nội dung triển khai thực hiện các chính sách giảm nghèo

Triển khai thực hiện các chính sách giảm nghèo là việc nhà nước tìm cách thức để các chính sách này tiếp cận đến người nghèo một cách hiệu quả nhất và phù hợp với tình hình cụ thể mỗi địa phương. Để triển khai thực hiện các chính sách này cơ quan nhà nước cấp huyện phải tạo nên một hệ thống hành chính với cơ chế, tổ chức bộ máy gọn nhẹ, đội ngũ cán bộ, công chức về cơ bản có phẩm chất, năng lực và trình độ đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp phát triển kinh tế – xã hội của đất nước để đạt mục tiêu giảm nghèo nhanh và bền vững. Cơ quan nhà nước cấp huyện cần kết hợp tạo cơ hội và tăng cường trao quyền và sự tham gia của người nghèo.

Trên cơ sở chính sách giảm nghèo được phê duyệt thì cơ quan nhà nước cấp huyện có trách nhiệm tuyên truyền, công bố và phổ biến các chính sách pháp luật đến các tổ chức, cá nhân, người dân có liên quan để triển khai thực hiện, giúp họ nắm bắt kịp thời, có sự phối hợp hiệu quả và tham gia giám sát thực hiện. Sự tham gia người nghèo vào các chính sách giảm nghèo có ý nghĩa quan trọng đối với giảm nghèo và góp phần tạo nên hiệu quả cho chính sách. Bên cạnh đó, cơ quan nhà nước cấp huyện chủ động thường xuyên theo dõi trực tiếp, nắm bắt tình hình giảm nghèo, đánh giá kết quả, rút ra bài học kinh nghiệm và tiếp tục xây dựng hệ thống chính sách giảm nghèo để triển khai thực hiện chính sách đó cho các giai đoạn tiếp theo.

1.2.2.2. Quy trình thực hiện chính sách

– Ban hành các văn bản và kế hoạch tổ chức thực hiện

– Phổ biến tuyên truyền về chính sách về giảm nghèo

– Tổ chức bộ máy và phân công phối hợp thực hiện

– Huy động bố trí nguồn lực thực hiện chính sách

– Kiểm tra, giám sát và đánh giá quá trình thực hiện chính sách

1.2.2.3. Tiêu chí đánh giá

– Số buổi tập huấn

– Số hộ nghèo được tập huấn, hướng dẫn cách làm ăn….

– Số hộ dân biết áp dụng làm ăn phát triển kinh tế sau khi được tập huấn, hướng dẫn.

– Số hộ nghèo thoát nghèo hằng năm.

1.2.3. Nguồn lực cho công tác giảm nghèo

Nhà nước thực hiện đa dạng hóa nguồn vốn huy động để triển khai thực hiện Chương trình giảm nghèo, bảo đảm huy động đầy đủ, kịp thời theo đúng cơ cấu đã được quy định; tăng cường huy động vốn từ ngân sách địa phương và các nguồn huy động đóng góp hợp pháp của doanh nghiệp và vận động tài trợ của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước; vốn đối ứng, tham gia đóng góp của người dân, đối tượng thụ hưởng.

Các lực lượng tham gia công tác giảm nghèo gồm: Cấp ủy, chính quyền địa phương, các tổ chức kinh tế xã hội và bản thân người nghèo. Các hộ nghèo cần tranh thủ sự hỗ trợ từ bên ngoài như hỗ trợ của nhà nước từ các chương trình, dự án giảm nghèo, biết tận dụng hỗ trợ của các cấp chính quyền, được tập huấn kỹ thuật, được vay vốn ưu đãi biết tiếp thu và tận dụng vào sản xuất; biết nắm lấy những cơ hội từ thể chế, chương trình, chính sách, nắm bắt thông tin và quyết định đúng trong các tình huống lựa chọn…

Nguồn lực để thực hiện giảm nghèo bền vững là các điều kiện cần có về con người, nguồn vốn và các phương tiện cần thiết khác để đảm bảo thực hiện các mục tiêu mà chính sách đã đề ra. Quá trình triển khai thực hiện chính sách đòi hỏi rất nhiều nguồn lực khác nhau, trong đó phải kể đến các nguồn lực sau: Nguồn lực về con người (nguồn nhân lực.), nguồn tài chính, nguồn lực Khoa học công nghệ, nguồn lực về tài nguyên thiên nhiên để thực hiện tốt chính sách giảm nghèo, các cơ quan quản lý nhà nước cần quản lý, khai thác có hiệu quả và tiết kiệm các nguồn tài nguyên, để nguồn tài nguyên thực sự là một nguồn lực giúp cho Việt Nam có thể giảm nghèo bền vững, đảm bảo sự phát triển bền vững trong tương lai.

Bằng nguồn lực của Nhà nước và của toàn xã hội, Nhà nước xây dựng các biện pháp thiết yếu như: tăng đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng, cho vay vốn, trợ giúp đào tạo nghề, cung cấp thông tin, chuyển giao công nghệ, giúp đỡ tiêu thụ sản phẩm, lập các quỹ cứu trợ xã hội…để giúp đỡ và bảo vệ người nghèo, đặc biệt đối với vùng miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng có điều kiện kinh tế xã hội khó khăn. Nhà nước duy trì liên tục sự trao đổi, phân phối mang tính thị trường nhưng không loại người nghèo ra khỏi những nguồn lực và lợi ích chung về kinh tế.

Bên cạnh đó, Nhà nước cần có sự đổi mới mạnh mẽ hơn về cơ chế điều hành, phương thức quản lý để phân bổ nguồn lực giảm nghèo phù hợp giai đoạn phát triển mới và phù hợp với điều kiện kinh tế, xã hội của từng địa phương.

1.2.4. Tổ chức bộ máy, nguồn nhân lực làm công tác giảm nghèo

Chương trình giảm nghèo được thực hiện theo quan điểm toàn diện, công bằng, bền vững hơn với việc tiếp cận và triển khai các giải pháp giảm nghèo theo hướng đa chiều. Để chương trình đạt mục tiêu đề ra đòi hỏi phải tiến hành đồng bộ nhiều giải pháp, trong đó, việc xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác giảm nghèo các cấp có năng lực, nhiệt huyết, tận tâm với công việc được coi là yếu tố đặc biệt quan trọng.

QLNN về công tác giảm nghèo của cơ quan nhà nước, được chia thành bốn cấp, thống nhất quản lý từ Trung ương đến địa phương, cụ thể:

Cấp Trung ương: Chính phủ thống nhất quản lý chung, Bộ Lao động-Thương bình và Xã hội là cơ quan thường trực, chủ trì thực hiện chương trình giảm nghèo bền vững quốc gia, đồng thời phối hợp với các bộ ngành liên quan trong việc tổ chức, điều hành và thực hiện QLNN đối với hoạt động giảm nghèo bền vững

UBND cấp tỉnh: UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chịu trách nhiệm thực hiện chương trình giảm nghèo tại địa phương; lập kế hoạch và lồng ghép các hoạt động giảm nghèo, phê duyệt các kế hoạch, dự án, tiểu dự án giảm nghèo thuộc thẩm quyền; huy động và quản lý kinh phí, điều phối và chỉ đạo thực hiện các hoạt động giảm nghèo tại địa phương với sự hỗ trợ, tham mưu của Sở LĐTB&XH, Sở Tài chính, Sở Kế hoạch và Đầu tư, Ban Dân tộc và các sở ban, ngành liên quan; chỉ đạo xây dựng và phê duyệt kế hoạch giảm nghèo hàng năm của huyện nghèo; hàng năm tổ chức giám sát, đánh giá kết quả thực hiện chương trình giảm nghèo gửi Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội tổng hợp báo cáo Chính phủ

UBND cấp huyện: UBND cấp huyện, thị xã chủ trì và phối hợp với Sở LĐTB&XH, căn cứ vào những văn bản của Chính phủ và UBND cấp trên để rà soát chính xác số hộ nghèo, hộ cận nghèo hàng năm trên địa bàn quản lý; đánh giá đúng thực trạng đói nghèo của địa phương, phân tích rõ nguyên nhân nghèo đói của từng xã, thôn, từng hộ gia đình để có giải pháp hỗ trợ hiệu quả; căn cứ vào mục tiêu, nhiệm vụ, cơ chế chính sách, định mức, tiêu chuẩn của Nhà nước để xây dựng đề án hỗ trợ giảm nghèo bền vững trên địa bàn trình cấp có thẩm quyền phê duyệt; xây dựng bản đồ thông tin nghèo của địa phương để phân tích diễn biến nghèo, xác định những xã có tỷ lệ nghèo cao, những địa bàn trọng điểm nhằm tập trung nguồn lực đầu tư có hiệu quả; cùng với nguồn vốn của Trung ương, ngân sách tỉnh, các huyện, thị xã cần tổ chức huy động các nguồn lực, vận động sự tham gia của các doanh nghiệp trên địa bàn để tổ chức thực hiện tốt hoạt động giảm nghèo bền vững.

UBND cấp xã: UBND xã là đầu mối thực hiện các kế hoạch, dự án giảm nghèo; huy động sự tham gia của người dân ở cấp cơ sở vào việc thực hiện giảm nghèo; hàng năm, tiến hành rà soát, bình xét hộ nghèo, hộ cận nghèo trên địa bàn xã, báo cáo cấp trên về thực trạng nghèo đói tại địa bàn.

* Nguồn nhân lực làm công tác giảm nghèo

Cấp Ủy và UBND các cấp tuyển dụng, bổ nhiệm cán bộ làm công tác giảm nghèo bảo đảm các tiêu chuẩn theo quy định: có chuyên môn phù hợp, có đạo đức, năng lực, có tâm huyết trong công tác giảm nghèo

Cán bộ làm công tác giảm nghèo các cấp thường xuyên được tham gia các lớp đào tạo, bồi dưỡng kiến thức thực hiện chương trình giảm nghèo; tham gia sinh hoạt tại các tổ chức đoàn thể chính trị để rèn luyện, phát triển kỹ năng phục vụ cho công tác giảm nghèo bền vững; tập huấn, bồi dưỡng về chủ trương, chính sách, các kỹ năng nghiệp vụ quản lý, điều hành thực hiện công tác giảm nghèo bền vững. Cán bộ làm công tác chuyên trách giảm nghèo được trả lương, thù lao, phụ cấp và được hưởng các chế độ về bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội theo quy định.

LIỆN HỆ:

SĐT+ZALO: 0935568275

E:\DỮ LIỆU COP CỦA CHỊ YẾN\LUAN VAN VIEN HAN LAM\VIEN HAN LAM DOT 9\QUAN LY KINH TE\NGUYEN CANH NGHIA

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *