Quản lý hoạt động bồi dưỡng chuyên môn cho giáo viên tại các trường mầm non huyện Đồng Xuân tỉnh Phú Yên

Quản lý hoạt động bồi dưỡng chuyên môn cho giáo viên tại các trường mầm non huyện Đồng Xuân tỉnh Phú Yên

Quản lý hoạt động bồi dưỡng chuyên môn cho giáo viên tại các trường mầm non huyện Đồng Xuân tỉnh Phú Yên

1. Lý do chọn đề tài

Giáo dục mầm non là cấp học đầu tiên trong hệ thống giáo dục quốc dân, thực hiện việc nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ em từ 3 tháng tuổi đến 6 tuổi. Giáo dục mầm non đặt nền móng cho sự phát triển về thể chất, nhận thức, tình cảm xã hội và thẩm mỹ cho trẻ em. Những kỹ năng mà trẻ được tiếp thu qua chương trình chăm sóc giáo dục mầm non sẽ là nền tảng cho việc học tập và thành công sau này của trẻ. Nói đến giáo dục mầm non Bác Hồ kính yêu đã khẳng định: “Giáo dục mầm non tốt sẽ mở đầu cho một nền giáo dục tốt”.

Thế kỷ XXI, thế kỷ của nền văn minh và trí tuệ, giáo dục mầm non cũng cần có chuyển biến mới về chất lượng. Việc đổi mới về nội dung, phương pháp dạy học được đặt ra không chỉ đối với bậc học mầm non mà là trong toàn bộ hệ thống giáo dục. Trong đó nhân tố quyết định chất lượng chăm sóc giáo dục trẻ là đội ngũ giáo viên. Bởi lẽ để trẻ có thể phát triển toàn diện, có nhân cách tốt hay không đều phụ thuộc vào việc chăm sóc trẻ ngay từ lứa tuổi mầm non. Giáo dục trẻ không chỉ thông qua lời nói, cử chỉ hay một hành động đơn thuần nào đó của con người mà vấn đề là ở chất lượng của một quá trình chăm sóc giáo dục  trẻ của đội ngũ giáo viên mầm non trong các nhà trường. Trước tình hình đó, việc bồi dưỡng chuyên môn cho đội ngũ giáo viên là một yêu cầu cấp bách, là điều kiện tiên quyết nhằm khẳng định sự tồn tại và xây dựng “thương hiệu” của nhà trường. Bồi dưỡng đội ngũ giáo viên nói chung và giáo viên mầm non nói riêng được xem như là một “nút bấm” tạo sự chuyển biến cho cả hệ thống giáo dục quốc dân.

Đội ngũ cán bộ giáo viên có vai trò quyết định trong việc chăm sóc giáo dục trẻ ở các trường mầm non vì vậy bất kỳ người quản lý nào đều suy nghĩ “làm thế nào để trường mầm non trở thành một nhà trường phát triển tốt?”. Muốn thế trước hết phải có đội ngũ mạnh, vững về chuyên môn và điều đó không thể bỏ qua việc bồi dưỡng chuyên môn cho lực lượng cán bộ giáo viên. Mục tiêu của công tác bồi dưỡng là nhằm hoàn thiện quá trình đào tạo, khắc phục những thiếu sót lệch lạc trong công tác giảng dạy, về quan điểm, nội dung phương pháp giáo dục đồng thời theo kịp những yêu cầu của xã hội.

Trên thực tế hiện nay, đội ngũ GVMN huyện Đồng Xuân đều được đào tạo theo đúng chuyên môn của ngành học. Song do trình độ tiếp thu, năng lực, năng khiếu, điều kiện của mỗi giáo viên một khác: một số giáo viên trẻ mới ra trường lại có con nhỏ nên việc thích ứng với chương trình mới còn chậm, qua loa, chưa đồng bộ; một số giáo viên theo học các lớp đào tạo của hệ liên kết, tại chức nên phương pháp dạy trẻ còn nhiều hạn chế, nghệ thuật và kinh nghiệm giảng dạy chưa thực sự đáp ứng được yêu cầu đổi mới, dẫn đến chất lượng giáo dục chưa đồng đều.

Xuất phát từ những lý do trên và từ thực tiễn giáo dục hiện nay cũng như thực tế chất lượng đội ngũ GVMN ở các trường mầm non huyện Đồng Xuân tỉnh Phú Yên, việc đề xuất các biện pháp quản lý hoạt động bồi dưỡng chuyên môn cho giáo viên các trường mầm non hiện nay là cần thiết, vì vậy vấn đề được lựa chọn nghiên cứu “Quản lý hoạt động bồi dưỡng chuyên môn cho giáo viên tại các trường mầm non huyện Đồng Xuân tỉnh Phú Yên”.

2. Mục tiêu nghiên cứu

Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn hoạt động quản lý hoạt động bồi dưỡng chuyên môn cho giáo viên hiện nay ở các trường mầm non huyện Đồng Xuân tỉnh Phú Yên từ đó đề xuất các biện pháp quản lý hoạt động bồi dưỡng chuyên môn cho giáo viên, góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên các trường mầm non huyện Đồng Xuân.

3. Khách thể nghiên cứu, đối tượng nghiên cứu

3.1. Khách thể nghiên cứu

Hoạt động bồi dưỡng chuyên môn cho giáo viên mầm non ở trường mầm non.

3.2. Đối tượng nghiên cứu

Quản lý hoạt động bồi dưỡng chuyên môn cho giáo viên các trường mầm non huyện Đồng Xuân, tỉnh Phú Yên.

4. Giả thuyết khoa học

Hiện nay, việc quản lý, tổ chức các hoạt động bồi dưỡng chuyên môn cho giáo viên các trường mầm non huyện Đồng Xuân, tỉnh Phú Yên đã có những kết quả tích cực nhưng vẫn còn nhiều khó khăn và hạn chế. Nếu đề xuất được các biện pháp quản lý một cách khoa học, thiết thực và thực hiện đồng bộ các giải pháp thì sẽ khắc phục được các hạn chế, góp phần vào việc nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên và hoàn thành tốt mục tiêu cụ thể của GDMN.

5. Nhiệm vụ nghiên cứu

5.1. Nghiên cứu cơ sở lý luận về việc quản lý hoạt động bồi dưỡng chuyên môn cho giáo viên mầm non

5.2. Khảo sát, đánh giá thực trạng công tác quản lý hoạt động bồi dưỡng chuyên môn cho giáo viên mầm non ở các trường mầm non huyện Đồng Xuân tỉnh Phú Yên.

5.3. Đề xuất các biện pháp quản lý hoạt động bồi dưỡng chuyên môn cho giáo viên mầm non ở các trường mầm non huyện Đồng Xuân tỉnh Phú Yên.

6. Phạm vi nghiên cứu

Đề tài nghiên cứu thực tiễn quản lý hoạt động bồi dưỡng chuyên môn cho giáo viên các trường mầm non huyện Đồng Xuân, tỉnh Phú Yên giai đoạn 2015 – 2020 và đề xuất biện pháp quản lý của Hiệu trưởng về hoạt động bồi dưỡng chuyên môn cho giáo viên các trường mầm non huyện Đồng Xuân, tỉnh Phú Yên giai đoạn 2020 – 2025.

7. Phương pháp nghiên cứu

7.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận

Sử dụng các phương pháp phân tích, tổng hợp lý thuyết để xây dựng cơ sở lý luận về quản lý hoạt động bồi dưỡng chuyên môn cho GVMN.

7.2. Nhóm các phương pháp nghiên cứu thực tiễn

Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi, phỏng vấn, nghiên cứu hồ sơ, quan sát.

7.3. Phương pháp toán thống kê: để xử lý kết quả điều tra, khảo sát.

7.4. Phương pháp chuyên gia: Xin ý kiến lãnh đạo, chuyên gia…

8. Đóng góp của đề tài

8.1. Về lý luận

Góp phần hệ thống hóa một số vấn đề lý luận về bồi dưỡng chuyên môn cho giáo viên và để quản lý hoạt động này ở các trường mầm non.

8.2. Về thực tiễn

Đề xuất một số biện pháp quản lý hoạt động bồi dưỡng chuyên môn cho giáo viên mầm non phù hợp, có hiệu quả giúp góp phần vào việc nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên và hoàn thành tốt mục tiêu cụ thể của GDMN.

9. Cấu trúc luận văn

MỞ ĐẦU

NỘI DUNG

Chương 1. Cơ sở lý luận về quản lý hoạt động bồi dưỡng chuyên môn cho giáo viên mầm non.

Chương 2. Thực trạng quản lý hoạt động bồi dưỡng chuyên môn cho giáo viên các trường mầm non huyện Đồng Xuân tỉnh Phú Yên.

Chương 3. Biện pháp quản lý hoạt động bồi dưỡng chuyên môn cho giáo viên các trường mầm non huyện Đồng Xuân tỉnh Phú Yên.

KẾT LUẬN

KHUYẾN NGHỊ

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

PHỤ LỤC

Quản lý hoạt động bồi dưỡng chuyên môn cho giáo viên tại các trường mầm non huyện Đồng Xuân tỉnh Phú Yên
Quản lý hoạt động bồi dưỡng chuyên môn cho giáo viên tại các trường mầm non huyện Đồng Xuân tỉnh Phú Yên

CHƯƠNG 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG BỒI DƯỠNG

CHUYÊN MÔN CHO GIÁO VIÊN MẦM NON

1.1. Tổng quan nghiên cứu vấn đề

1.1.1. Nghiên cứu ở nước ngoài

1.1.2. Nghiên cứu ở trong nước

1.2. Các khái niệm chính của đề tài

1.2.1. Quản lý

Xuất phát từ những góc độ nghiên cứu khác nhau, rất nhiều học giả trong và ngoài nước đã đưa ra giải thích không giống nhau về quản lý. Cho đến nay, vẫn chưa có một định nghĩa thống nhất về quản lý. Đặc biệt là kể từ thế kỉ 21, các quan niệm về quản lý lại càng phong phú.

Theo tác giả F.W Taylor: “Quản lý là biết được chính xác điều bạn muốn người khác làm và sau đó hiểu được rằng họ đã hoàn thành công việc một cách tốt nhất và rẻ nhất [16].

Harold Koontz, Cyril O’Donnell, Heinz Weihrich cho rằng: “Quản lý là thiết kế một môi trường mà trong chính thống về phối hợp các nguồn vốn trong xí nghiệp (nhân lực, tài chính, thiết bị…) nhằm đạt mục tiêu xác định” [8].

Theo từ điển tiếng Việt thì “quản lý là hoạt động của con người tác động vào tập thể hoặc người khác để phối hợp điều chỉnh phân công thực hiện mục tiêu chung” [16].

Tác giả Đặng Quốc Bảo: “Quản lý là một quá trình tác động gây ảnh hưởng của chủ thể quản lý đến khách thể quản lý nhằm đạt được mục tiêu chung” [1].

Hà Thế Ngữ – Đặng Vũ Hoạt định nghĩa: “Quản lý là một quá trình có định hướng, có mục tiêu; quản lý là một hệ thống, là quá trình tác động đến hệ thống đạt được những mục tiêu nhất định. Những mục tiêu này đặc trưng cho trạng thái mỗi hệ thống và người quản lý mong muốn” [21].

Bùi Minh Hiền cho rằng: Quản lý là sự tác động có tổ chức, có hướng đích của chủ thể quản lý (người quản lý) đến khách thể quản lý (người bị quản lý) trong một tổ chức nhằm làm cho tổ chức vận hành và đạt được mục đích của tổ chức” [12].

Từ những khái niệm và quan điểm trên, có thể tóm lược chung: Quản lý là sự tác động có mục đích, có tổ chức, có kế hoạch của chủ thể đến đối tượng và khách thể quản lý nhằm sử dụng hiệu quả các nguồn lực để cùng thực hiện thành công nhiệm vụ, mục tiêu dự kiến đề ra.

Quá trình tác động của hoạt động quản lý thể hiện qua sơ đồ sau:

Công cụ

quản lý

Chủ thể quản lý

Khách thể quản lý

Chức năng quản lý

Phương pháp quản lý

Hình 1.1. Quá trình tác động của hoạt động quản lý

1.2.2. Chức năng của quản lý

Chức năng quản lý là một dạng hoạt động quản lý chuyên biệt thông qua đó chủ thể quản lý tác động vào khách thể quản lý nhằm thực hiện một mục tiêu nhất định.

Có nhiều quan điểm phân định các chức năng cơ bản của quản lý:

Tác giả Hà Sỹ Hồ cho Rằng: Tập hợp các chức năng quản lý là nội dung của quản lý với tư cách là một quá trình [15].

Tác giả Thái Văn Thành cho rằng: “Chức năng quản lý là một dạng hoạt động quản lý chuyên biệt, thông qua đó chủ thể tác động vào khách thể quản lý nhằm thực hiện một mục tiêu nhất định [26].

Năm 1990, công trình The Management Challenge, An Introduction to Management của Higgins James M được công bố và trong công trình này tác giả khẳng định quản lý có 4 chức năng là kế hoạch (planning), tổ chức (organizing) chỉ đạo (leading) và kiểm tra (controlling). Như vậy, quản lý có 4 chức năng cơ bản là kế hoạch hoá, tổ chức, chỉ đạo và kiểm tra.

– Kế hoạch hoá là việc dựa trên những thông tin về chế định GDĐT, bộ máy tổ chức và nhân lực của tổ chức, nguồn tài lực và vật lực của tổ chức, môi trường hoạt động của tổ chức và các thông tin về lĩnh vực hoạt động của tổ chức mà vạch ra mục tiêu, dự kiến nguồn lực (nhân lực, vật lực, tài lực), dự kiến thời lượng, xác định nguồn huy động các phương tiện và điều kiện, đồng thời chỉ ra các biện pháp thực hiện mục tiêu.

– Tổ chức là việc thiết lập cấu trúc bộ máy, bố trí nhân lực và xây dựng cơ chế hoạt động; đồng thời ấn định chức năng, nhiệm vụ cho các bộ phận và cá nhân; quy định cơ chế huy động, sắp xếp và phân bổ các nguồn lực vật chất nhằm thực hiện đúng kế hoạch đã có. V.Lênin từng nói: “Tổ chức sẽ nhân sức mạnh lên gấp mười lần”.

– Chỉ đạo là việc hướng dẫn công việc, liên kết, liên hệ, động viên, kích thích, giám sát các bộ phận và mọi cá nhân thực hiện kế hoạch đã có theo đúng dụng ý đã xác định trong khi thực hiện đúng chức năng của tổ chức.

– Kiểm tra là việc theo dõi mọi hoạt động của từng đơn vị hoặc mỗ cá nhân trong tổ chức bằng nhiều phương pháp và hình thức (trực tiếp hoặc gián tiếp, thường xuyên hoặc định kỳ…) nhằm so sánh kết quả hoạt động với mục tiêu đã xác định để nhận biết về chất lượng và hiệu quả của hoạt động đó. Từ đó tìm ra những mặt được, những mặt chưa phù hợp và những sai phạm để đưa ra các quyết định phát huy, điều chỉnh hoặc xử lý.

Theo lý thuyết thông tin, kiểm tra là quá trình thiết lập mối quan hệ ngược trong quản lý, do đó: “Lập kế hoạch là sự nhìn về phía trước, còn kiểm tra là nhìn về phía sau”

Có thể diễn tả mối quan hệ giữa các chức năng quản lý qua hình 1.2

image3

Hình 1.2. Quan hệ giữa các chức năng quản lý

1.2.3. Quản lý giáo dục

Cũng như quản lý xã hội nói chung, quản lý giáo dục là hoạt động có ý thức của con người nhằm theo đuổi những mục đích của mình. Chỉ có con người mới có khả năng khách thể hóa mục đích, nghĩa là thể hiện cái nguyên mẫu lý tưởng của tương lai được biểu hiện trong mục đích đang ở trạng thái khả năng sang trạng thái hiện thực. Chúng ta biết, mục đích giáo dục cũng chính là mục đích của quản lý (tuy nó không phải là mục đích duy nhất của mục đích quản lý giáo dục).

Thực tế, khái niệm “quản lý giáo dục” có nhiều cấp độ. Trong đó có hai cấp độ chủ yếu: cấp vĩ mô và cấp vi mô. Cấp quản lý vĩ mô tương ứng với việc quản lý một đối tượng có quy mô lớn nhất, bao quát toàn bộ hệ thống quản lý ngành giáo dục của cả nước. Nhưng trong hệ thống này lại có nhiều hệ thống con, tương ứng với hệ thống còn có hoạt động quản lý vi mô quản lý một nhà trường.

Quan niệm về quản lý vĩ mô và quản lý vi mô trong giáo dục, sẽ gồm hai nhóm khái niệm tương ứng: quản lý một hệ thống giáo dục (quản lý vĩ mô) và quản lý một nhà trường (quản lý vi mô).

Tác giả M.I.Konđacôp coi quản lý giáo dục là một phần của quản lý xã hội: “Quản lý xã hội một cách khoa học không phải là cái gì khác mà chính là việc tác động một cách hợp lý đến hệ thống xã hội, việc làm cho hệ thống đó phù hợp với những quy luật vốn có của nó.” [19]

Theo tác giả Trần Kiểm: “Quản lý giáo dục được hiểu là hệ thống những tác động tự giác (có ý thức, có mục đích, có kế hoạch, có hệ thống, hợp quy luật) của chủ thể quản lý đến tập thể giáo viên, công nhân viên, tập thể sinh viên, cha mẹ sinh viên và các lực lượng xã hội trong và ngoài nhà trường nhằm thực hiện có chất lượng và hiệu quả mục tiêu giáo dục của nhà trường” [17].

Từ các khái niệm nêu trên, chúng ta có thể thấy rõ bốn yếu tố của QLGD, đó là: chủ thể quản lý, đối tượng quản lý, khách thể quản lý và mục tiêu quản lý. Ta có thể diễn tả 4 yếu tố này bằng hình sau:

Chủ

thể quản

Đối

tượng

quản

Khách thể

quản

Hình 1.3. Khái niệm quản lý

Trong thực tiễn, các yếu tố nêu trên không tách rời nhau mà ngược lại, chúng có quan hệ tương tác gắn bó với nhau. Chủ thể quản lý tạo ra những tác nhân tác động lên đối tượng quản lý, nơi tiếp nhận tác động của chủ thể quản lý và cùng với chủ thể quản lý hoạt động theo một quỹ đạo nhằm cùng thực hiện mục tiêu của tổ chức. Khách thể quản lý nằm ngoài hệ thống hệ quản lý giáo dục. Nó là hệ thống khác hoặc các ràng buộc của môi trường… Nó có thể chịu tác động hoặc tác động trở lại đến hệ thống giáo dục và hệ thống quản lý giáo dục. Vấn đề đặt ra đối với chủ thể quản lý là làm như thế nào để những tác động từ phía khách thể quản lý đến giáo dục là tích cực, cùng thực hiện mục tiêu chung.

Như vậy, QLGD là quản lý quá trình GD-ĐT ở một cơ sở nhất định, là tập hợp các tác động có mục đích, có kế hoạch, hợp quy luật của chủ thể quản lý ở các cấp khác nhau trong hệ thống lên các đối tượng quản lý trực thuộc, thông qua việc thực hiện các chức năng quản lý và việc sử dụng hợp lý các tiềm năng, cơ hội nhằm làm cho hệ thống giáo dục vận hành, đảm bảo được các tính chất và nguyên lý của nền giáo dục Việt Nam đạt được mục tiêu giáo dục.

1.2.4. Quản lý trường học

Trường học là một tổ chức giáo dục cơ sở mang tính nhà nước- xã hội, là nơi trực tiếp làm công tác giáo dục thế hệ trẻ.

Theo Phạm Minh Hạc: Quản lý nhà trường là thực hiện đường lối giáo dục của Đảng trong phạm vi trách nhiệm của mình, tức là đưa nhà trường vận hành theo nguyên lý giáo dục để tiến tới mục tiêu giáo dục, mục tiêu đào tạo đối với thế hệ trẻ. [11].

Theo Nguyễn Ngọc Quang “Trường học là thành tố khách thể cơ bản của tất cả các cấp quản lý giáo dục, vừa là hệ thống độc lập tự quản của xã hội. Do đó quản lý nhà trường nhất thiết phải vừa có tính nhà nước vừa có tính xã hội (Nhà nước và xã hội cộng đồng, hợp tác trong việc quản lý nhà trường [23].

Các nhà trường hoạt động theo Luật Giáo đục và Điều lệ nhà trường do Bộ trưởng Bộ GDĐT ban hành.

Điều lệ một nhà trường bao gồm những nội dung chủ yếu sau:

– Vị trí, nhiệm vụ và quyền hạn của nhà trường;

– Tổ chức các hoạt động giáo dục trong nhà trường;

– Nhiệm vụ và quyền hạn của nhà giáo;

– Nhiệm vụ và quyền hạn của người học;

– Cơ sở vật chất và thiết bị nhà trường;

– Quan hệ của nhà trường- gia đình và xã hội.

Người đứng đầu một nhà trường có chức danh “Hiệu trưởng”. Hiệu trường là người chịu trách nhiệm quản lý các hoạt động của nhà trường do cơ quan nhà nước có thẩm quyền bổ nhiệm.

Như vậy, quản lý nhà trường bao gồm quản lý các hoạt động bên trong nhà trường và phối hợp quản lý giữa nhà trường với các lực lượng giáo dục xã hội, trong đó cốt lõi là quản lý quá trình dạy học và giáo dục. Quản lý nhà trường vừa mang tính Nhà nước vừa mang tính xã hội. Cho nên quản lý nhà trường phải biết phối hợp với các lực lượng xã hội để cùng thực hiện mục tiêu GDĐT.

Để hoạt động quản lý nhà trường đạt được mục tiêu và mang lại hiệu quả cao, nhân tố quan trọng hàng đầu chính là đội ngũ cán bộ quản lý nhà trường. Quá trình quản lý nhà trường thực chất là quản lý quá trình lao động sư phạm của thầy giáo, quản lý hoạt động học tập – tự học tập của học sinh và quản lý cơ sở vật chất- thiết bị phục vụ dạy và học. Trong đó, người cán bộ Trường học là một tổ chức giáo dục cơ sở mang tính nhà nước – xã hội, là nơi trực tiếp làm công tác giáo dục thế hệ trẻ.

1.2.5. Bồi dưỡng

Bồi dưỡng là quá trình truyền đạt thêm một lượng kiến thức nhất định, làm tăng thêm năng lực hoặc phẩm chất cho một đối tượng học tập cụ thể (Từ điển Tiếng Việt – Viện ngôn ngữ – 2012).

Theo quan niệm của tổ chức UNESCO là: “Bồi dưỡng với ý nghĩa nâng cao nghề nghiệp. Quá trình này chỉ diễn ra khi cá nhân và tổ chức có nhu cầu nâng cao kiến thức hoặc kỹ năng chuyên môn, nghiệp vụ của bản thân nhằm đáp ứng nhu cầu lao động nghề nghiệp “.

Hiểu theo nghĩa rộng trong GD-ĐT: Bồi dưỡng được hiểu là một dạng đào tạo phi chính quy, về bản chất thì bồi dưỡng là một con đường của đào tạo và người được bồi dưỡng của chương trình bồi dưỡng được hiểu là những người đang đương nhiệm trong các cơ quan giáo dục hay trong các nhà trường. Đó là quá trình tác động của chủ thể giáo dục đến đối tượng được giáo dục, làm cho đối tượng được bồi dưỡng tăng thêm năng lực phẩm chất và phát triển theo chiều hướng tốt hơn. Công tác bồi dưỡng được thực hiện trên nền tảng các loại trình độ đã được đào tạo cơ bản từ trước. Bồi dưỡng là một hoạt động có chủ đích, nhằm cập nhật những kiến thức mới, tiến bộ, hoặc nâng cao trình độ cho giáo viên để tăng thêm năng lực phẩm chất theo yêu cầu của nghề dạy học. Hoạt động bồi dưỡng chuyên môn là việc làm thường xuyên liên tục của mỗi giáo viên, cấp học, ngành học nhằm không ngừng nâng cao trình độ của đội ngũ để thích ứng đòi hỏi của phát triển kinh tế -xã hội.

Bồi dưỡng là quá trình tác động của chủ thể giáo dục đến đối tượng được giáo dục, làm cho đối tượng được bồi dưỡng tăng thêm năng lực, phẩm chất và phát triển theo chiều hướng tốt hơn [20].

Bồi dưỡng là một hoạt động có chủ đích nhằm cập nhật những kiến thức mới tiến bộ, hoặc nâng cao trình độ giáo viên để tăng thêm năng lực, phẩm chất theo yêu cầu của ngành học. Công tác bồi dưỡng được thực hiện trên nền tảng các loại trình độ đã được đào tạo cơ bản từ trước. Hoạt động bồi dưỡng là việc làm thường xuyên, liên tục cho mỗi giáo viên, cấp học, ngành học, không ngừng nâng cao trình độ của đội ngũ để thích ứng với đòi hỏi của nền kinh tế xã hội. Nội dung bồi dưỡng được triển khai ở các mức độ khác nhau, phù hợp cho từng đối tượng cụ thể [13].

Bồi dưỡng là quá trình giáo dục có kế hoạch nhằm tăng giá trị cho con người, làm biến đổi thái độ, kiến thức, kỹ năng thông qua việc thu thập, xử lý thông tin thực tế trong một hoạt động hoặc chuỗi nhu cầu hành động nhằm nâng cao giá trị nhân cách, nâng cao năng suất và hiệu quả công việc. Sau khi được bồi dưỡng, năng lực cá nhân được gia tăng, đáp ứng nhu cầu phát triển nguồn nhân lực trong hiện tại và trong tương lai của tổ chức [20].

Qua các quan điểm trên, có thể nói bồi dưỡng thực chất bổ sung kiến thức kỹ năng, cập nhật kiến thức còn thiếu hoặc đã lạc hậu, để nâng cao trình độ trong lĩnh vực chuyên môn nào đó, giúp con người mở mang hoặc nâng cấp hệ thống tri thức, kỹ năng, kỹ xảo chuyên môn nghiệp vụ có sẵn nhằm nâng cao chất lượng hiệu quả công việc đang làm.

Như vậy, quá trình bồi dưỡng chính là quá trình tổ chức và thực hiện những tương tác qua lại giữa các thành tố cấu trúc trong đó chủ thể bồi dưỡng chuyên môn đóng vai trò chủ đạo, nhằm làm cho đối tượng bồi dưỡng chuyên môn hoạt động tích cực, qua đó nâng cao năng lực và phẩm chất, đáp ứng yêu cầu của xã hội. Quá trình bồi dưỡng thể hiện quan điểm giáo dục hiện đại đó là “Đào tạo liên tục và học tập suốt đời”.

1.2.6. Bồi dưỡng chuyên môn cho giáo viên mầm non

Việc bồi dưỡng chuyên môn cho giáo viên là quá trình tổ chức cho giáo viên cập nhật, bổ sung các tri thức chuyên môn nghiệp vụ và kỹ năng sư phạm để nâng cao trình độ về kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo trong quá trình dạy học.

Bồi dưỡng chuyên môn cho giáo viên là bồi dưỡng kiến thức chuyên môn; kỹ năng tay nghề; kiến thức, kỹ năng thực tiễn. Bồi dưỡng chuyên môn cho giáo viên có thể coi là việc đào tạo lại, đổi mới, cập nhật kiến thức và kỹ năng chuyên môn, nâng cao trình độ cho giáo viên, là sự nối tiếp tinh thần đào tạo liên tục trước và trong khi làm việc của người giáo viên. Hoạt động bồi dưỡng chuyên môn đối với mọi giáo viên là thường xuyên, liên tục. Đối với cấp mầm non, bồi dưỡng chuyên môn là bồi dưỡng cho giáo viên nắm vững các kiến thức khoa học cơ bản liên quan đến các CS-GD trẻ đáp ứng các yêu cầu theo 5 lĩnh vực phát triển, yêu cầu đổi mới giáo dục và yêu cầu hội nhập.

1.2.7. Quản lý hoạt động bồi dưỡng chuyên môn cho giáo viên mầm Snon

Quản lý hoạt động bồi dưỡng chuyên môn: Đó là công tác chỉ đạo việc xây dựng kế hoạch, tổ chức thực hiện chuyên môn của các tổ chuyên môn, chỉ đạo hoạt động chuyên môn của giáo viên. Chủ thể quản lý nhằm tác động đến đối tượng quản lý để các hoạt động chuyên môn đạt được hiệu quả cao nhất. Các biện pháp quản lý phải có mục tiêu xác định rõ ràng, cụ thể, có cơ sở khoa học và tính thực tiễn, biện pháp có tính khả thi và đạt được mục tiêu đề ra. Quản lý hoạt động bồi dưỡng chuyên môn cho đội ngũ giáo viên là quá trình tác động tới tập thể, cá nhân giáo viên, tạo cơ hội cho giáo viên tham gia vào các hoạt động dạy học, học tập trong và ngoài nhà trường, để giáo viên bổ sung kiến thức, kỹ năng chuyên môn nghiệp vụ, bồi dưỡng tư tưởng tình cảm, nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của sự nghiệp giáo dục.

1.3. Lý luận về hoạt động bồi dưỡng chuyên môn cho giáo viên mầm non

1.3.1. Trường mầm non trong hệ thống quốc dân

* Vai trò của giáo dục mầm non trong hệ thống giáo dục quốc dân

Ngành giáo dục luôn được quan tâm hàng đầu ở mỗi quốc gia vì giáo dục mang đến trực tiếp cho mỗi quốc gia những nhân lực, nhân tài ở mọi ngành nghề, lĩnh vực và mang tới xã hội những công dân tốt. Khởi đầu của nền giáo dục là giáo dục mầm non với học sinh ở độ tuổi là 1 -5 tuổi nên đây là được xem là hệ thống giáo dục đầu tiên trong ngành giáo dục. Hệ thống giáo dục mầm non đặt nền móng tới tính cách và nhận thức, tình cảm … của trẻ em. Nó mang tích chất quyết định tới sự phát triển về mọi mặt của trẻ và ảnh hưởng lớn tới sự phát triển của các mầm non tương lai của đất được và là yếu tố quan trọng trong việc phát triển nguồn nhân lực chất lượng cho đất nước.

Nhiệm vụ và quyền hạn của trường mầm non, trường mẫu giáo được quy định tại Điều 2 Quyết định 14/2008/QĐ-BGDĐT Điều lệ Trường mầm non và Thông tư 44/2010/TT-BGDĐT, cụ thể như sau: [4]

– Tổ chức thực hiện việc nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ em từ 3 tháng tuổi đến 6 tuổi theo chương trình giáo dục mầm non do Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành.

– Huy động trẻ em lứa tuổi mầm non đến trường; tổ chức giáo dục hoà nhập cho trẻ em có hoàn cảnh khó khăn, trẻ em khuyết tật; thực hiện phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em năm tuổi. Hằng năm, tự kiểm tra theo tiêu chuẩn quy định về phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em năm tuổi, báo cáo cấp có thẩm quyền bằng văn bản.

– Quản lý cán bộ, giáo viên, nhân viên để thực hiện nhiệm vụ nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục trẻ em.

– Huy động, quản lý, sử dụng các nguồn lực theo quy định của pháp luật.

– Xây dựng cơ sở vật chất theo yêu cầu chuẩn hoá, hiện đại hoá hoặc theo yêu cầu tối thiểu đối với vùng đặc biệt khó khăn.

– Phối hợp với gia đình trẻ em, tổ chức và cá nhân để thực hiện hoạt động nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục trẻ em.

– Tổ chức cho cán bộ quản lý, giáo viên, nhân viên và trẻ em tham gia các hoạt động xã hội trong cộng đồng.

– Thực hiện kiểm định chất lượng nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục trẻ em theo quy định.

– Thực hiện các nhiệm vụ và quyền hạn khác theo quy định của pháp luật.

Ý thức được tầm quan trọng của giáo dục mầm non tới sự phát triển của trẻ em, ngành giáo dục đã không ngừng nâng cao chất lượng giáo viên, cải thiện chương trình của giáo dục mầm non, đổi mới phương pháp giảng dạy, tăng cường cơ sở vật chất, đồ dùng đồ chơi… nhằm mang tới cho trẻ một môi trường chơi tập tốt nhất, một môi trường có thể phát triển toàn diện cho trẻ. Ngành giáo dục mầm non không chỉ quan tâm tới trẻ mà cũng rất quan tâm tới giáo viên, vì đối tượng giảng dạy của bậc học mầm non là trẻ có độ tuổi từ 1 – 5 tuổi nên các giáo viên rất vất vả, khó khăn trong việc quản lý, chăm sóc cũng như truyền đạt thông tin tới trẻ.

* Vị trí, vai trò, quyền hạn của Hiệu trưởng trường mầm non

Hiệu trưởng được quy định tại Điều 16 Điều lệ Trường mầm non ban hành kèm theo Văn bản hợp nhất 04/2015/VBHN-BGDĐT năm 2015 như sau:

– Hiệu trưởng nhà trường, nhà trẻ là người chịu trách nhiệm tổ chức, quản lý các hoạt động và chất lượng nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ em của nhà trường, nhà trẻ.

– Hiệu trưởng do Trưởng phòng giáo dục và đào tạo bổ nhiệm đối với nhà trường, nhà trẻ công lập, công nhận đối với nhà trường, nhà trẻ dân lập, tư thục theo quy trình bổ nhiệm hoặc công nhận Hiệu trưởng của cấp có thẩm quyền.

– Nhiệm kỳ của Hiệu trưởng nhà trường, nhà trẻ là 5 năm. Sau 5 năm, Hiệu trưởng được đánh giá và có thể bổ nhiệm lại hoặc công nhận lại. Đối với nhà trường, nhà trẻ công lập, mỗi Hiệu trưởng chỉ được giao quản lý một nhà trường hoặc một nhà trẻ không quá hai nhiệm kỳ.

– Sau mỗi năm học, mỗi nhiệm kì công tác, Hiệu trưởng nhà trường, nhà trẻ được cán bộ, giáo viên trong trường và cấp có thẩm quyền đánh giá về công tác quản lý các hoạt động và chất lượng giáo dục của nhà trường theo quy định.

– Người được bổ nhiệm hoặc công nhận làm Hiệu trưởng nhà trường, nhà trẻ phải đáp ứng các tiêu chuẩn sau:

Có trình độ chuẩn được đào tạo là có bằng trung cấp sư phạm mầm non, có ít nhất 5 năm công tác liên tục trong giáo dục mầm non. Trường hợp do yêu cầu đặc biệt của công việc, người được bổ nhiệm hoặc công nhận là Hiệu trưởng có thể có thời gian công tác trong giáo dục mầm non ít hơn theo quy định;

Đã hoàn thành chương trình bồi dưỡng cán bộ quản lý; có uy tín về phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống, chuyên môn, nghiệp vụ; có năng lực tổ chức, quản lý nhà trường, nhà trẻ và có sức khỏe.

– Nhiệm vụ và quyền hạn của Hiệu trưởng:

Xây dựng quy hoạch phát triển nhà trường; lập kế hoạch và tổ chức thực hiện kế hoạch giáo dục từng năm học; báo cáo, đánh giá kết quả thực hiện trước Hội đồng trường và các cấp có thẩm quyền;

Thành lập các tổ chuyên môn, tổ văn phòng và các hội đồng tư vấn trong nhà trường, nhà trẻ; bổ nhiệm tổ trưởng, tổ phó. Đề xuất các thành viên của Hội đồng trường trình cấp có thẩm quyền quyết định;

Phân công, quản lý, đánh giá, xếp loại; tham gia quá trình tuyển dụng, thuyên chuyển; khen thưởng, thi hành kỷ luật đối với giáo viên, nhân viên theo quy định;

Quản lý và sử dụng có hiệu quả các nguồn tài chính, tài sản của nhà trường, nhà trẻ;

Tiếp nhận trẻ em, quản lý trẻ em và các hoạt động nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ em của nhà trường, nhà trẻ; quyết định khen thưởng, phê duyệt kết quả đánh giá trẻ theo các nội dung nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ em do Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định;

Dự các lớp bồi dưỡng về chính trị, chuyên môn, nghiệp vụ quản lý; tham gia các hoạt động giáo dục 2 giờ trong một tuần; được hưởng chế độ phụ cấp và các chính sách ưu đãi theo quy định;

Thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở và tạo điều kiện cho các tổ chức chính trị – xã hội trong nhà trường, nhà trẻ hoạt động nhằm nâng cao chất lượng chăm sóc, giáo dục trẻ;

Thực hiện xã hội hóa giáo dục, phát huy vai trò của nhà trường đối với cộng đồng.

Hiệu trưởng là người có quyền hạn cao nhất trong trường mầm non và có vị trí và vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển của nhà trường. Bản thân người Hiệu trưởng luôn phải suy nghĩ để có được những quyết định phù hợp với quy định của nhà nước, của ngành và những quyết định đó cũng phải là những biện pháp quản lý khả thi nhằm đưa nhà trường phát triển đến một tầm cao mới. Người Hiệu trưởng phải tìm cách nâng cao trình độ nhận thức của giáo viên về đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, tạo điều kiện cho họ tham gia quản lý nhà trường. Bên cạnh đó phải làm tốt công tác xã hội hoá giáo dục, làm cho phụ huynh học sinh và các tổ chức xã hội có liên quan đến nhà trường hiểu biết về đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước đối với giáo dục mầm non, hiểu về tình hình thực tể của trường, thu hút sự quan tâm của các ngành, các cấp và của phụ huynh đối với nhà trường.

* Vai trò, nhiệm vụ, quyền hạn của giáo viên trong trường mầm non

Điều 35 của Điều lệ trường mầm non quy định nhiệm vụ của giáo viên như sau: [4]

– Bảo vệ an toàn sức khoẻ, tính mạng của trẻ em trong thời gian trẻ em ở nhà trường, nhà trẻ, nhóm trẻ, lớp mẫu giáo độc lập.

– Thực hiện công tác nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ em theo chương trình giáo dục mầm non: lập kế hoạch chăm sóc, giáo dục; Xây dựng môi trường giáo dục, tổ chức các hoạt động nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ em; Đánh giá và quản lý trẻ em; Chịu trách nhiệm về chất lượng nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ em; Tham gia các hoạt động của tổ chuyên môn, của nhà trường, nhà trẻ, nhóm trẻ, lớp mẫu giáo độc lập.

– Trau dồi đạo đức, giữ gìn phẩm chất, danh dự, uy tín của nhà giáo; Gương mẫu, thương yêu trẻ em, đối xử công bằng và tôn trọng nhân cách của trẻ em; Bảo vệ các quyền và lợi ích chính đáng của trẻ em; Đoàn kết, giúp đỡ đồng nghiệp.

– Tuyên truyền phổ biến kiến thức khoa học nuôi dạy trẻ em cho cha mẹ trẻ. Chủ động phối hợp với gia đình trẻ để thực hiện mục tiêu giáo dục trẻ em.

– Rèn luyện sức khỏe; Học tập văn hoá; Bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ để nâng cao chất lượng nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ em.

– Thực hiện các nghĩa vụ công dân, các quy định của pháp luật và của ngành, các quy định của nhà trường, quyết định của Hiệu trưởng.

Theo Điều 37 của điều lệ trường mầm non quy định thì giáo viên có những quyền hạn sau: [4]

– Đ­ược đảm bảo các điều kiện để thực hiện nhiệm vụ nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ em.

– Được đào tạo nâng cao trình độ, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ, được hưởng lương, phụ cấp và các chế độ khác theo quy định của pháp luật khi được cử đi học để nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ.

– Được hưởng mọi quyền lợi về vật chất, tinh thần và được chăm sóc, bảo vệ sức khoẻ theo chế độ, chính sách quy định đối với nhà giáo.

– Được bảo vệ nhân phẩm, danh dự.

– Được thực hiện các quyền khác theo quy định của pháp luật.

1.3.2. Sự cần thiết phải bồi dưỡng chuyên môn cho giáo viên trong giai đoạn đổi mới giáo dục hiện nay

Bồi dưỡng nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên mầm non về thực chất là xây dựng, phát triển nguồn nhân lực cho ngành giáo dục. Đây là việc làm có tính chiến lược và ý nghĩa sâu sắc:

– Chất lượng đội ngũ giáo viên và chất lượng giáo dục có quan hệ hữu cơ là hai mặt thống nhất của quá trình đổi mới GDMN. Chất lượng đội ngũ giáo viên phụ thuộc vào công tác đào tạo và bồi dưỡng giáo viên. Do đó hoạt động bồi dưỡng chuyên môn cho giáo viên mầm non có ý nghĩa thiết thực, đáp ứng yêu cầu đổi mới chương trình GDMN, nhất là đối với ngành học mầm non.

– Đào tạo và bồi dưỡng là hai mặt của một hệ thống nhất, bồi dưỡng chuyên môn cho giáo viên cũng đồng nghĩa với việc tiếp tục đào tạo, đây là yêu cầu cấp thiết để nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ. Hoạt động bồi dưỡng chuyên môn cho giáo viên vừa đáp ứng yêu cầu trước mắt, vừa đáp ứng yêu cầu lâu dài trong đổi mới giáo dục. Trong quá trình đổi mới chuyên môn cho giáo viên cần đề cao vai trò tự học sẽ mang lại hiệu quả cao nhất. Đó cũng là tiền đề tiến tới xã hội học tập. Vì vậy hoạt động bồi dưỡng chuyên môn cho giáo viên có ý nghĩa chiến lược lâu dài.

Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng có đánh giá: “Chất lượng giáo dục và đào tạo chưa đáp ứng yêu cầu phát triển, nhất là đào tạo nguồn nhân lực trình độ cao vẫn còn hạn chế; chưa chuyển mạnh sang đào tạo theo nhu cầu của xã hội. Chưa giải quyết tốt mối quan hệ giữa tăng số lượng, quy mô với nâng cao chất lượng, giữa dạy chữ và dạy người. Chương trình, nội dung, phương pháp dạy và học lạc hậu, đổi mới chậm; cơ cấu giáo dục không hợp lý giữa các lĩnh vực, ngành nghề đào tạo; chất lượng giáo dục toàn diện giảm sút, chưa đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá”. Đồng thời đại hội cũng đã nhấn mạnh các giải pháp: “Thực hiện đồng bộ các giải pháp phát triển và nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo. Đổi mới chương trình, nội dung, phương pháp dạy và học, phương pháp thi, kiểm tra theo hướng hiện đại; nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, đặc biệt coi trọng giáo dục lý tưởng, giáo dục truyền thống lịch sử cách mạng, đạo đức, lối sống, năng lực sáng tạo, kỹ năng thực hành, tác phong công nghiệp, ý thức trách nhiệm xã hội. Xây dựng đội ngũ giáo viên đủ về số lượng, đáp ứng yêu cầu về chất lượng”.

Qua đó chúng ta nhận thấy rằng hoạt động bồi dưỡng chuyên môn cho giáo viên là một vấn đề cần và cấp bách hiện nay bởi nó có tầm quan trọng đặc biệt trong việc nâng cao chất lượng giáo dục. Vì vậy các cơ quan quản lý giáo dục các cấp, cơ sở đào tạo, bồi dưỡng giáo viên phải luôn quan tâm, chú ý trong công tác quản lý, chỉ đạo, tổ chức thực hiện bồi dưỡng chuyên môn cho giáo viên.

1.3.3. Mục tiêu của hoạt động bồi dưỡng chuyên môn cho giáo viên mầm non

Mục tiêu bồi dưỡng chuyên môn cho đội ngũ giáo viên có thể hiểu là những kết quả muốn đạt được trong việc cập nhật, nâng cao, hoàn thiện chuyên môn, năng lực và nghiệp vụ cho giáo viên đang dạy học. Thực chất của quá trình bồi dưỡng là để bổ sung tri thức và kỹ năng còn thiếu hụt, hoặc đã lạc hậu để nâng cao trình độ, phát triển thêm năng lực trong một lĩnh vực hoạt động chuyên môn, dưới một hình thức phù hợp. Chỉ thị số 22/2003/CT-BGDĐT, ngày 05/6/2003 của Bộ trưởng Bộ giáo dục và đào tạo về bồi dưỡng nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục hàng năm đã đề ra mục tiêu:“ Nâng cao về nhận thức chủ nghĩa Mac – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; đường lối quan điểm của Đảng; chủ trương, chính sách của Nhà nước và của ngành; nâng cao năng lực chuyên môn, nghiệp vụ theo hướng cập nhật, hiện đại hóa phù hợp với thực tiễn phát triển giáo dục Việt Nam để đáp ứng các yêu cầu đổi mới về mục tiêu, nội dung, phương pháp giáo dục”.

Bồi dưỡng chuyên môn cho GVMN là một hoạt động sư phạm, là quá trình cung cấp những tri thức về chuyên môn, về nghiệp vụ quản lý, nhằm vun đắp, bổ sung thêm kiến thức, kỹ năng và kinh nghiệm cho đội ngũ giáo viên trên cơ sở những kiến thức, tri thức, kỹ năng, kỹ xảo chuyên môn nghiệp vụ họ đã có, nhằm nâng cao chất lượng CSGD trẻ nhằm phát triển toàn diện cho trẻ về thể chất và tinh thần.

Vì vậy, việc bồi dưỡng chuyên môn cho đội ngũ giáo viên là yêu cầu thường xuyên, liên tục đối với nghề dạy học. Nó có ý nghĩa quyết định đối với chất lượng giảng dạy của nhà trường và với bản thân giáo viên.

1.3.4. Nội dung hoạt động bồi dưỡng chuyên môn cho giáo viên mầm non

Chương trình bồi dưỡng thường xuyên GVMN nhằm bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng chuyên ngành bắt buộc hằng năm đối với GVMN; là căn cứ để quản lý, chỉ đạo tổ chức và biên soạn tài liệu phục vụ công tác bồi dưỡng, tự bồi dưỡng nhằm nâng cao năng lực chuyên môn, nghiệp vụ của GVMN, đáp ứng yêu cầu vị trí việc làm, nâng cao mức độ đáp ứng của GVMN với yêu cầu GDMN và yêu cầu của chuẩn nghề nghiệp GVMN.

Nội dung hoạt động bồi dưỡng chuyên môn cho GVMN dựa theo chương trình bồi dưỡng thường xuyên GVMN (ban hành kèm theo Thông tư số 12/2019/TT-BGDĐT ngày 26 tháng 8 năm 2019 của Bộ trưởng Bộ GDĐT) gồm những nội dung sau:

Thứ nhất: Nội dung chương trình bồi dưỡng cập nhật kiến thức, kỹ năng nghiệp vụ thực hiện nhiệm vụ năm học GDMN áp dụng trong cả nước: Bộ GDĐT quy định cụ thể từng năm học các nội dung bồi dưỡng về chủ trương, chính sách phát triển GDMN, Chương trình GDMN, các hoạt động giáo dục thuộc Chương trình GDMN.

Thứ hai: Nội dung chương trình bồi dưỡng cập nhật kiến thức, kỹ năng nghiệp vụ phát triển GDMN theo từng thời kỳ của mỗi địa phương: Sở GDĐT quy định cụ thể theo từng năm học các nội dung bồi dưỡng về phát triển GDMN của địa phương, thực hiện Chương trình GDMN, chương trình giáo dục địa phương; phối hợp với các dự án để triển khai kế hoạch bồi dưỡng thường xuyên (nếu có).

Thứ ba: Nội dung chương trình bồi dưỡng phát triển năng lực nghề nghiệp đáp ứng yêu cầu vị trí việc làm, kiến thức kỹ năng chuyên ngành: GVMN tự chọn các mô đun bồi dưỡng nhằm phát triển năng lực nghề nghiệp đáp ứng yêu cầu vị trí việc làm, kiến thức, kỹ năng chuyên ngành. Nội dung các mô đun bồi dưỡng cụ thể như sau:

* Phẩm chất nhà giáo:

– Đạo đức nghề nghiệp của người GVMN.

– Quản lý cảm xúc bản thân của người GVMN trong hoạt động nghề nghiệp.

– Rèn luyện phong cách làm việc khoa học của người GVMN.

– Quy tắc ứng xử của GVMN.

* Phát triển chuyên môn nghiệp vụ sư phạm:

– Sinh hoạt chuyên môn ở cơ sở GDMN.

– Hoạt động tự bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ của GVMN.

– Giáo dục mầm non theo quan điểm giáo dục lấy trẻ làm trung tâm.

– Phát triển Chương trình GDMN phù hợp với sự phát triển của trẻ em và bối cảnh địa phương.

– Lập kế hoạch giáo dục trẻ em trong nhóm, lớp trong các cơ sở GDMN.

– Tổ chức hoạt động nuôi dưỡng, chăm sóc trẻ em trong nhóm, lớp.

– Đảm bảo an toàn cho trẻ trong các cơ sở GDMN.

– Kỹ năng sơ cứu – phòng tránh và xử lý một số tình huống nguy hiểm, bệnh thường gặp ở trẻ em.

– Tổ chức các hoạt động phát triển nhận thức cho trẻ em theo quan điểm giáo dục lấy trẻ em làm trung tâm.

– Tổ chức các hoạt động phát triển vận động cho trẻ em theo quan điểm giáo dục lấy trẻ em làm trung tâm.

– Tổ chức các hoạt động phát triển ngôn ngữ/tăng cường tiếng Việt cho trẻ em theo quan điểm giáo dục lấy trẻ em làm trung tâm.

– Tổ chức các hoạt động phát triển tình cảm, kỹ năng xã hội cho trẻ em theo quan điểm giáo dục lấy trẻ em làm trung tâm.

– Tổ chức các hoạt động phát triển thẩm mỹ cho trẻ em theo quan điểm giáo dục lấy trẻ làm trung tâm.

– Giáo dục bảo vệ môi trường cho trẻ em lứa tuổi mầm non.

– Giáo dục trẻ ứng phó với biến đổi khí hậu.

– Tổ chức hoạt động chăm sóc, giáo dục trẻ em trong nhóm, lớp ghép nhiều độ tuổi tại cơ sở GDMN.

– Tổ chức hoạt động giáo dục kỹ năng sống cho trẻ em lứa tuổi mầm non.

– Tổ chức quan sát và đánh giá sự phát triển của trẻ em lứa tuổi mầm non.

– Phát hiện, sàng lọc và tổ chức các hoạt động chăm sóc, giáo dục đáp ứng trẻ em có nhu cầu đặc biệt.

– Làm đồ dùng dạy học, đồ chơi từ nguyên vật liệu có sẵn ở địa phương.

– Quản lý nhóm, lớp học ở cơ sở GDMN.

* Xây dựng môi trường giáo dục

– Xây dựng môi trường giáo dục đảm bảo an toàn, lành mạnh, thân thiện cho trẻ em lứa tuổi mầm non.

– Giáo dục kỷ luật tích cực cho trẻ em lứa tuổi mầm non.

– Kỹ năng giao tiếp ứng xử của GVMN với trẻ.

– Quyền dân chủ của người GVMN trong cơ sở GDMN.

* Phối hợp với gia đình và cộng đồng

– Phối hợp nhà trường với gia đình và cộng đồng để bảo vệ quyền trẻ em.

– Tổ chức các hoạt động chăm sóc, giáo dục trẻ em lứa tuổi mầm non dựa vào cộng đồng.

– Vấn đề lồng ghép giới trong GDMN.

– Quyền trẻ em, phòng, chống bạo hành và xử lý vi phạm về quyền trẻ em trong cơ sở GDMN.

* Sử dụng ngoại ngữ hoặc tiếng dân tộc và công nghệ thông tin; thể hiện khả năng nghệ thuật trong chăm sóc giáo dục trẻ mầm non.

– Tự học ngoại ngữ hoặc tiếng dân tộc cho GVMN.

– Ứng dụng công nghệ thông tin để nâng cao chất lượng chăm sóc, giáo dục trẻ em trong cơ sở GDMN.

Ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý nhóm, lớp ở cơ sở GDMN.

Xây dựng môi trường giáo dục giàu tính nghệ thuật trong nhóm, lớp tại cơ sở GDMN.

1.3.5. Hình thức và phương pháp hoạt động bồi dưỡng chuyên môn cho giáo viên

* Hình thức bồi dưỡng chuyên môn: Tùy theo nội dung và các điều kiện hiện có, các trường mầm non thường có các hình thức bồi dưỡng sau:

Bồi dưỡng tại chỗ: Là tổ chức bồi dưỡng tại trường, nơi giáo viên công tác, thông qua sinh hoạt nhóm, sinh hoạt tổ chuyên môn theo phương pháp nghiên cứu bài học, tổ chức hội thảo theo từng trường hoặc cụm trường… Có nhiều hoạt động phong phú để bồi dưỡng giáo viên theo hướng này:

Tổ chức cho giáo viên dự giờ, thăm lớp lẫn nhau.

Tổ chức chuyên đề về phương pháp chăm sóc – giáo dục trẻ.

Tổ chức rút kinh nghiệm sau mỗi học kỳ, mỗi năm học.

Các giáo viên trong trường có thể giúp đỡ lẫn nhau, làm việc theo cặp hoặc theo tổ; giáo viên giỏi giúp giáo viên còn hạn chế về chuyên môn, hạn chế về kỹ năng tổ chức các hoạt động học và chơi cho trẻ; giáo viên có kinh nghiệm giảng dạy giúp giáo viên mới ra trường.

Tổ chức cho giáo viên giao lưu, trao đổi kinh nghiệm.

Tạo điều kiện cho giáo viên tham dự các hội thảo.

Bồi dưỡng thường xuyên: Là bồi dưỡng theo chu kỳ cho GVMN để họ được bổ sung các kiến thức thiếu hụt và cập nhật kiến thức mới về chủ trương, đường lối giáo dục, về nội dung chương trình, phương pháp giáo dục trẻ. Việc bồi dưỡng này rất thiết thực, đòi hỏi mỗi giáo viên phải có ý thức tự bồi dưỡng, thường xuyên trau dồi kiến thức, nếu không sẽ khó có thể dạy tốt chương trình giáo dục mầm non mới.

Bồi dưỡng thay đổi sách, tài liệu: Là hình thức bồi dưỡng được tiến hành khi có những thay đổi về chương trình, nội dung và phương pháp giáo dục trẻ. Loại bồi dưỡng này chủ yếu giúp giáo viên có kiến thức mới, cập nhật những đổi mới trong chương trình về nội dung cũng như phương pháp giáo dục, kỹ năng sư phạm giúp cho đội ngũ GVMN có thể dạy tốt chương trình GDMN mới. Các đợt bồi dưỡng thay đổi tài liệu này thường diễn ra trong hè khi chuẩn bị bước vào năm học mới.

Bồi dưỡng thông qua tự học, tự nghiên cứu: với các yêu cầu như: phát huy hình thức tự bồi dưỡng, kết hợp nghe giảng, trao đổi, thảo luận; tăng cường thực hành, rút kinh nghiệm, chia sẻ cùng đồng nghiệp; chú trọng sử dụng các thiết bị, phương tiện, đồ dùng dạy học. Bồi dưỡng là loại hình của hoạt động dạy và học. Yếu tố nội lực trong dạy học là tự học; yếu tố nội lực trong bồi dưỡng là tự bồi dưỡng. Trong bồi dưỡng, việc tự bồi dưỡng sẽ phát huy hiệu quả tối ưu khi có sự định hướng của người hướng dẫn của tổ chức và có sự tác động đúng hướng của quản lý.

Bồi dưỡng tập trung chỉ có hiệu quả khi được quản lý hợp lý và phải dựa trên cơ sở ý thức tự giác và tự bồi dưỡng của người học.

* Phương pháp bồi dưỡng giáo viên: là cách làm cách triển khai hoạt động bồi dưỡng cho giáo viên.

Nội dung các phương pháp bồi dưỡng gồm có:

– Thuyết trình của báo cáo viên;

– Thuyết trình kết hợp minh họa hình ảnh;

– Thuyết trình kết hợp luyện tập thực hành;

– Nêu vấn đề, thảo luận theo nhóm;

– Nêu tình huống, tổ chức giải quyết theo nhóm;

– Nêu vấn đề, cá nhân nghiên cứu tài liệu, trình bày báo cáo;

– Tọa đàm, trao đổi;

– Phối hợp các phương pháp;

Nhà quản lý phải nắm được phương pháp sẽ tiến hành trong hoạt động bồi dưỡng từ đó biết được các phương pháp đó phù hợp hay chưa, cần điểu chỉnh bổ sung như thế nào, vì vậy phương pháp bồi dưỡng giáo viên là khâu đột phá có tính chất quyết định đến chất lượng và hiệu quả bồi dưỡng. Nhà quản lý cần chú ý:

– Đổi mới phương thức học tập của các giáo viên trong các chương trình bồi dưỡng theo hướng tập trung vào hoạt động của giáo viên với phương châm lấy tự học, tự bồi dưỡng là chính. Lôi cuốn, hướng dẫn cho giáo viên tích cực, chủ động, sáng tạo trong học tập với sự trợ giúp của tài liệu và phương tiện nghe nhìn, luôn phát hiện, tìm tòi, không cứng nhắc, gò bó, rập khuôn theo những gì đã có trong tài liệu.

– Tăng cường tổ chức theo nhóm môn học trong từng tập thể sư phạm, nêu thắc mắc, tự giải đáp ở tổ, nhóm, có chuyên gia giải đáp… Tạo điều kiện cho giáo viên được đóng góp kinh nghiệm bản thân vào xây dựng nội dung chương trình, đổi mới phương pháp dạy học – giáo dục.

Tóm lại, phương pháp bồi dưỡng là phương pháp dạy học cho người lớn, là những người đã có phương pháp sư phạm nên phương pháp bồi dưỡng phải linh hoạt, phù hợp, nghiêng về phương pháp tự học, tự nghiên cứu trên cơ sở hướng dẫn khai thác nhiều kênh thông tin. Hiện nay, khai thác những tiến bộ của khoa học công nghệ trong hoạt động bồi dưỡng đang được khuyến khích.

1.3.6. Quy trình bồi dưỡng chuyên môn

* Bước 1: Khảo sát nhu cầu bồi dưỡng của đội ngũ GVMN.

Cụ thể, tiến hành khảo sát trên đối tượng là giáo viên mầm non hiện nay, điểm mạnh, yếu.

Những yêu cầu về năng lực của GVMN cần có để đáp ứng yêu cầu hoạt động giảng dạy nhà trường trong bối cảnh đổi mới giáo dục hiện nay.

* Bước 2: Xác định các năng lực cần có của giáo viên mầm non.

Từ kết quả khảo sát và dựa vào Chuẩn của GVMN đi đến nhận định những năng lực cần có của GVMN đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục hiện nay, bao gồm: ăng lực về phẩm chất, chính trị, đạo đức nghề nghiệp; năng lực chuyên môn.

* Bước 3: Rà soát nội dung chương trình bồi dưỡng hiện hành, xác định mô đun kiến thức cụ thể, chuyên đề cụ thể.

Căn cứ vào chuyên môn của GVMN và chương trình bồi dưỡng, xác định các mô đun kiến thức và phân thành những mô đun kiến thức chung; kiến thức nghiệp vụ, rồi phân bổ thời gian cho mỗi chuyên đề lý thuyết, thực hành. Sau đó sắp xếp trật tự hợp lý các chuyên đề theo trình tự về thời gian.

* Bước 4: Thiết kế xây dựng các chuyên đề

Căn cứ theo chương trình bồi dưỡng chuyên môn, chúng tôi vẫn giữ nguyên tổng thời lượng và tên các module chuyên đề.

Tuy nhiên nội dung kiến thức trong từng chuyên đề có sự thay đổi, để có thể phát triển được những năng lực cần thiết cho GVMN, đáp ứng với thực tiễn yêu cầu đổi mới giáo dục.

* Bước 5: Thực thi, đánh giá, điều chỉnh chương trình.

Quá trình triển khai thực hiện chương trình có sự chỉ đạo của Sở GDĐT, Phòng GDĐT. Cụ thể với những nội dung kiến thức lý thuyết, những phần thực hành, thực tế gắn liền với thực tiễn nhà trường.

Quá trình thực hiện thường xuyên có sự kiểm tra, giám sát, việc giám sát và đánh giá thực hiện ở tất cả bước trong quy trình phát triển chương trình, đồng thời đánh giá phát triển chương trình được thực hiện thông qua mỗi chuyên đề và cả mức độ đạt được của mục tiêu đào tạo sau khi kết thúc khóa bồi dưỡng.

Trên cơ sở kết quả đánh giá, rút kinh nghiệm, khắc phục những điểm chưa phù hợp, để chương trình hoàn thiện hơn, đáp ứng tốt yêu cầu người học và yêu cầu thực tiễn đổi mới giáo dục hiện nay.

1.3.7. Các điều kiện phục vụ hoạt động bồi dưỡng chuyên môn cho giáo viên mầm non

Để giúp hoạt động bồi dưỡng giáo viên đạt kết quả như mong muốn thì cần chú ý các việc sau đây:

– Về cơ sở vật chất:

Điều kiện cơ sở vật chất và các yếu tố phục vụ cho công tác bồi dưỡng chuyên môn cho giáo viên giữ vai trò quan trọng góp phần vào sự thành công của công tác bồi dưỡng. Để triển khai các nội dung của hoạt động bồi dưỡng thì cần có các phương tiện, điều kiện cơ sở vật chất hỗ trợ như phòng, loa, máy chiếu, dụng cụ học tập…do đó căn cứ vào kế hoạch bồi dưỡng, nhà quản lý phải nắm bắt được các nhu cầu về cơ sở vật chất cần hỗ trợ trong quá trình bồi dưỡng. Từ đó rà soát, kiểm tra những gì hiện tại đã có, đồng thời có kế hoạch tham mưu mua sắm, huy động các nguồn lực hỗ trợ để bổ sung các trang thiết bị còn thiếu.

– Sắp xếp thời gian, địa điểm phù hợp cho hoạt động bồi dưỡng chuyên môn: giáo viên sẽ tham dự đầy đủ và có sự tập trung cao trong suốt khóa bồi dưỡng nếu thời gian và địa điểm được sắp xếp hợp lý. Thông thường, hè là thời gian phù hợp cho các hoạt động bồi dưỡng. Về địa điểm, nên chọn những cơ sở có thể đáp ứng tốt các điều kiện về cơ sở vật chất, thiết bị, thuận lợi về mặt giao thông, ăn uống.

– Quản lý việc sử dụng, bảo quản các thiết bị phục vụ cho công tác bồi dưỡng chuyên môn. Cần quản lý chặt chẽ việc sử dụng, bảo quản các thiết bị nhằm tận dụng tối đa hiệu quả của chúng và giảm thiểu các chi phí trong quá trình tổ chức hoạt động bồi dưỡng.

– Về chế độ chính sách: có cơ chế chính sách rõ ràng đối với công tác bồi dưỡng chuyên môn, phải có những cơ chế ưu đãi tạo điều kiện, quan tâm động viên đối với đội ngũ báo cáo viên tham gia giảng dạy, bồi dưỡng, cũng như những giáo viên tích cực tham gia bồi dưỡng. Đồng thời phải nhắc nhở phê bình và có hình thức xử lý đối với những giáo viên không tham gia bồi dưỡng chuyên môn.

1.3.8. Kiểm tra, đánh giá hoạt động bồi dưỡng chuyên môn cho giáo viên mầm non

Kiểm tra, đánh giá là một khâu của quy trình quản lý hoạt động bồi dưỡng đào tạo. Trong bất kỳ hoạt động quản lý nào cũng không thể thiếu được khâu kiểm tra, đánh giá. Kiểm tra, đánh giá việc thực hiện kế hoạch bồi dưỡng chuyên môn cho giáo viên phải đáp ứng các yêu cầu sau: Kế hoạch bồi dưỡng có tính khả thi, phù hợp với thực trạng và đáp ứng nhu cầu của giáo viên hay không? Nội dung bồi dưỡng có phù hợp với thực trạng và nhu cầu của giáo viên hay không? Cách thức tổ chức tiến hành bồi dưỡng như thế nào để có hiệu quả? Chuẩn bị các điều kiện cho hoạt động bồi dưỡng có đảm bảo không? Việc kiểm tra đánh giá kết quả bồi dưỡng chuyên môn được thực hiện như thế nào? Sử dụng kết quả đó để làm gì?

Kiểm tra việc bồi dưỡng chuyên môn cho giáo viên cần thực hiện các nội dung sau:

– Tiến hành kiểm tra, thu thập thông tin phản hồi. Xử lý các thông tin phản hồi để từ đó các nhà quản lý có thể biết được hiệu quả mà việc bồi dưỡng chuyên môn cho giáo viên mang lại, đồng thời có thể điều chỉnh mục tiêu và ra quyết định cho giai đoạn tiếp theo.

– Phát hiện những yếu tố tích cực, những kinh nghiệm tốt và những sai lệch trong hoạt động thực tiễn, đo chính xác mức độ sai lệch và xác định nguyên nhân sai lệch.

– Điều chỉnh: phát huy thành tích, uốn nắn sửa chữa những sai lệch, xử lý những vi phạm.

Các hình thức kiểm tra:

– Theo thời gian: Kiểm tra đột xuất; kiểm tra định kỳ.

– Theo nội dung: Kiểm tra toàn diện; kiểm tra chuyên đề.

– Theo phương pháp: Kiểm tra trực tiếp; kiểm tra gián tiếp.

– Theo số lượng của đối tượng kiểm tra: Kiểm tra toàn bộ; kiểm tra có lựa chọn.

Vì vậy, khi tiến hành kiểm tra, đánh giá hoạt động bồi dưỡng chuyên môn cho giáo viên cần tiến hành kiểm tra đầy đủ các bước từ thực hiện kế hoạch, nội dung, hình thức, điều kiện tổ chức và tính hiệu quả của công tác này. Sau đó tiến hành đánh giá kết quả hoạt động trên cơ sở đối với những mục tiêu đề ra, từ đó đề xuất ra những biện pháp phù hợp để cải thiện thực trạng nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả của hoạt động bồi dưỡng chuyên môn.

LIỆN HỆ:

SĐT+ZALO: 0935568275

E:\DỮ LIỆU COP CỦA CHỊ YẾN\DAI HOC DA NANG\GIAO DUC HOC\LE THI THINH

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *