Phòng ngừa tình hình tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ

Phòng ngừa tình hình tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ

Phòng ngừa tình hình tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ trên địa bàn thành phố Đà Nẵng

1. Tính cấp thiết của đề tài

Trong những năm gần đây, do nhiều nguyên nhân và điều kiện khách quan và chủ quan khác nhau, tình hình tội phạm nói chung, tình hình các tội xâm phạm TTATGT nói riêng (trong đó có tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ) diễn biến phức tạp gây ra hậu quả hết sức nghiêm trọng về tính mạng, sức khỏe, tài sản của người dân, nhất là ở những thành phố lớn như Đà Nẵng.

Theo thống kế của Phòng CSGT Công an TP Đà Nẵng trong 5 năm gần đây (từ năm 2016 đến năm 2020) trên địa bàn TP đã phát hiện 333.297 trường hợp vi phạm quy định về bảo đảm TTATGT đường bộ, trong đó lập biên bản xử lý 322.656 trường hợp (chiếm 96,8%). Trong tổng số các vụ vi phạm TTATGT đường bộ có 89 vụ khởi tố hình sự.

Trước tình trạng trên, Đảng bộ, chính quyền và toàn thể nhân dân TP Đà Nẵng đã triển khai đồng bộ nhiều biện pháp khác nhau, bước đầu đã kiềm chế được sự gia tăng các trường hợp vi phạm, kéo giảm được cả ba tiêu chí về tai nạn giao thông. Mặc dù vậy, tình hình TTATGT đường bộ trên địa bàn TP Đà Nẵng tuy có giảm nhưng không bền vững, tính chất vi phạm vẫn hết sức phức tạp, hậu quả do tai nạn giao thông đường bộ gây ra vẫn còn rất nghiêm trọng…

Nguyên nhân của tình trạng này có cả những yếu tố thuộc môi trường địa lý tự nhiên – xã hôi, có cả những yếu tố thuộc về chủ thể vi phạm, đặc biệt là ý thức tuân thủ pháp luật khi tham gia giao thông của người dân.

Về lý luận, cho đến nay chưa có một công trình nào nghiên cứu chuyên sâu, toàn diện về phòng ngừa tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ trên địa bàn TP Đà Nẵng. Do vậy, có nhiều vấn đề lý luận về vấn đề này cần phải làm sáng tỏ để chỉ dẫn thực tiễn.

Như vậy, cả thực tiễn và lý luận đòi hỏi phải có một công trình nghiên cứu toàn diện, hệ thống chuyên sâu về phòng ngừa tình hình tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ trên địa bàn một thành phố lớn ở nước ta.

Vì lý do trên, học viên lựa chọn đề tài: “Phòng ngừa tình hình tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ trên địa bàn thành phố Đà Nẵng” để nghiên cứu làm Luận văn Thạc sĩ, chuyên ngành Tội phạm học.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

Làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn phòng ngừa tình hình tội phạm vi quy định về tham gia giao thông đường bộ trên địa bàn TP Đà Nẵng để từ đó thiết lập các giải pháp tăng cường phòng ngừa trong thời gian tới.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

– Để đạt được mục đích trên, cần thực hiện các nhiệm vụ nghiên cứu sau đây:

+ Nghiên cứu, luận giải làm rõ những vấn đề lý luận về phòng ngừa tình hình tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ trên các phương diện: khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa, nội dung, biện pháp, nguyên tắc và chủ thể phòng ngừa.

+ Khảo sát, đánh giá thực tiễn phòng ngừa tình hình tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ trên địa bàn thành phố Đà Nẵng, rút ra những kết quả đạt được cũng như những hạn chế, thiếu sót cần khắc phục.

+ Dự báo những yếu tố tác động đến phòng ngừa tình hình tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ trên địa bàn thành phố Đà Nẵng, trên cơ sở đó đề ra mục tiêu, quan điểm chỉ đạo và giải pháp tăng cường phòng ngừa tội phạm này trong thời gian tới.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu: bao gồm những vấn đề lý luận và thực tiễn phòng ngừa tình hình tội phạm vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ.

4.2. Phạm vi nghiên cứu:

+ Về nội dung: nghiên cứu hoạt động phòng ngừa tình hình tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ dưới góc độ tội phạm học.

+ Về không gian, thời gian: nghiên cứu thực tiễn phòng ngừa tình hình tội phạm này trên địa bàn thành phố Đà Nẵng, trong 5 năm, từ năm 2016 đến năm 2020.

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu

5.1. Phương pháp luận

Đề tài được thực hiện dựa trên phương pháp luận duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước về bảo đảm TTATGT, về đấu tranh phòng chống tội phạm, bảo vệ quyền con người, bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức cũng như lợi ích chung của xã hội.

5.2. Phương pháp nghiên cứu

Đề tài sử dụng kết hợp các phương pháp nghiên cứu chuyên ngành tội phạm học để làm rõ những nội dung nghiên cứu như: phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê, quan sát, v.v..

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

Luận văn là một công trình nghiên cứu tương đối toàn diện, chuyên sâu về phòng ngừa tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ cả về lý luận và thực tiễn. Do vậy, kết quả nghiên cứu của luận văn có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sau đây:

6.1. Ý nghĩa lý luận

Góp phần làm phong phú thêm lý luận chuyên ngành tội phạm học về phòng ngừa tình hình một tội phạm cụ thể, ở một địa bàn cụ thể.

6.2. Ý nghĩa thực tiễn

Kết quả nghiên cứu luận văn có thể tham khảo để triển khai hoạt động phòng ngừa không chỉ ở địa bàn TP Đà Nẵng mà còn ở các địa bàn khác trong phạm vi cả nước.

Ngoài ra, luận văn còn có thể làm tài liệu tham khảo trong giảng dạy, học tập, nghiên cứu tại các cơ sở đào tạo ngành luật của cả nước ta.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung của luận văn được kết cấu thành 3 chương:

Chương 1: Những vấn đề lý luận và phòng ngừa tình hình tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ.

Chương 2: Tình hình, đặc điểm có liên quan và thực trạng phòng ngừa tình hình tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.

Chương 3: Dự báo và giải pháp tăng cường phòng ngừa tình hình tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ.

Chương 1

NHữNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÒNG NGừA TÌNH HÌNH TỘI

VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ THAM GIA GIAO THÔNG ĐưỜNG BỘ

1.1. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa phòng ngừa tình hình tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ

1.1.1. Khái niệm, đặc điểm

Phòng ngừa tình hình tội phạm là một trong những đối tượng, nội dung nghiên cứu quan trọng của tội phạm học, đồng thời cũng là mục đích cuối cùng của tội phạm học. Tội phạm học nghiên cứu tình hình tội phạm, nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm, nhân thân người phạm tội, phát hiện quy luật phát sinh tồn tại và vận động của tình hình tội phạm, trên cơ sở đó đề ra các giải pháp tác động vào quy luật đó nhằm mục đích cuối cùng là không để cho tội phạm xảy ra. Tuy nhiên, cho đến nay, khi đề cập đến khái niệm phòng ngừa tình hình tội phạm vẫn còn nhiều quan điểm khác như: “Phòng ngừa tội phạm được hiểu là tổng hợp các biện pháp do cơ quan, tổ chức và mọi công dân tiến hành dưới sự lãnh đạo của Đảng cầm quyền nhằm tác động vào các yếu tố làm phát sinh tội phạm cũng như loại trừ các yếu tố này vì mục đích ngăn chặn và tiến tới đẩy lùi tội phạm ra khỏi đời sống xã hội” [23, tr.59], hoặc: “Phòng ngừa tình hình tội phạm là hệ thống nhiều mức độ và biện pháp mang tính nhà nước, xã hội nhằm khắc phục các nguyên nhân và điều kiện của tội phạm hoặc làm vô hiệu hóa (làm yếu, hạn chế) chúng và bằng cách đó làm giảm và dần dần loại bỏ tình hình tội phạm” [32, tr.154]; “Phòng ngừa tội phạm là hoạt động của các cơ quan, tổ chức và công dân, thực hiện tổng thể các biện pháp tác động trực tiếp vào các nhóm nguyên nhân của tội phạm để kiểm soát, hạn chế tác động của tội phạm để kiểm soát, hạn chế tác động và loại trừ những nhóm nguyên nhân này…” [11, tr.31].

Mặc dù cách diễn đạt có khác nhau, nhưng các quan điểm về phòng ngừa tình hình tội phạm nêu trên đều thống nhất ở chỗ phòng ngừa tình hình tội phạm là việc áp dụng tổng thể các biện pháp khác nhau nhằm khắc phục, hạn chế, triệt tiêu những yếu tố là nguyên nhân, điều kiện làm phát sinh tình hình tội phạm, ngăn ngừa không để cho tội phạm xảy ra. Đây là những quan điểm về phòng ngừa tình hình tội phạm theo nghĩa hẹp, tức là theo đúng nghĩa của từ “phòng ngừa”. Tuy nhiên hiện nay, trong lý luận cũng như thực tiễn, phòng ngừa tình hình tội phạm còn được hiểu theo nghĩa rộng, theo đó: “Phòng ngừa tội phạm bao hàm một mặt, không để cho tội phạm xảy ra, thủ tiêu nguyên nhân và điều kiện phạm tội; mặt khác, bằng mọi cách để ngăn chặn tội phạm, kịp thời phát kiện tội phạm, xử lý nghiêm minh các trường hợp phạm tội, đưa họ trở thành công dân có ích cho xã hội” [19, tr.97]. Với quan niệm như vậy, hoạt động phòng ngừa tội phạm được triển khai theo hai phướng cơ bản: Một là, tập trung vao việc không để cho tội phạm xảy ra, tức là hướng vào việc hạn chế, tiến tới loại trừ, thủ tiêu những yếu tố là nguyên nhân, điều kiện làm phát sinh tội phạm; hai là, bằng mọi cách để kịp thời phát hiện, ngăn chặn, xử lý nghiêm minh tội phạm, giáo dục cải tạo người phạm tội trở thành công dân có ích cho xã hội. Như vậy, hiểu theo nghĩa rộng, phòng ngừa tình hình tội phạm bao hàm cả hoạt động phòng và cả hoạt động chống (hay đấu tranh chống) tội phạm. Đấu tranh chống tội phạm là hoạt động phát hiện và xử lý tội phạm đã xảy ra. Trái lại, phòng ngừa tội phạm (theo đúng nghĩa) là hoạt động nhằm không để cho tội phạm xảy ra. Với bản chất như vậy, hoạt động đấu tranh chống tội phạm và hoạt động phòng ngừa tội phạm là hai hoạt động có nội dung riêng không đồng nhất với nhau. Song, hai hoạt động này không độc lập hoàn toàn với nhau mà có mối quan hệ biện chứng với nhau. Có thể coi phòng ngừa tội phạm và đấu tranh chống tội phạm là hai mặt không thể tách rời của một tổng thể thống nhất, chống tội phạm vừa là một bộ phận không thể thiếu của phòng ngừa tội phạm, nhưng đồng thời cũng là mặt khác của phòng ngừa tội phạm, có ý nghĩa không nhỏ đối với phòng ngừa tội phạm. Tuy nhiên, không nên coi đấu tranh chống tội phạm là phương hướng cơ bản, vì hoạt động này không thể giải quyết tận gốc vấn đề tội phạm trong xã hội, là biện pháp mang tính chất thụ động. Ngược lại, phòng ngừa tội phạm theo đúng nghĩa của nó là hoạt động nhằm hạn chế, tiến tới xóa bỏ những yếu tố có thể trở thành nguyên nhân, điều kiện làm phát sinh tội phạm, không để cho tội phạm xảy ra. Hoạt động này có ưu điểm là xã hội không phải gánh chịu những hậu quả của tội phạm, cơ quan bảo vệ pháp luật không phải bỏ ra những chi phí cần thiết cho việc giải quyết vấn đề tội phạm, người dân không phải chịu sự trừng phạt của pháp luật. Vì vậy, phòng ngừa tội phạm luôn được coi là phương hướng chính, cơ bản trong cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm. Để đạt được mục tiêu ngăn chặn, tiến tới đẩy lùi, loại trừ tội phạm ra khỏi đời sống xã hội cần kết hợp chặt chẽ giữa chủ động, tích cực phòng ngừa với kiên quyết đấu tranh chống tội phạm. Đây là phương châm chỉ đạo trong chính sách phòng, chống tội phạm của Đảng và Nhà nước ta.

Để có thể đưa ra một khái niệm phòng ngừa tình hình tội phạm chính xác về mặt khoa học và phù hợp với thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm ở nước ta cần thống nhất nhận thức những vấn đề sau đây:

+ Một là, phòng ngừa tình hình tội phạm là trách nhiệm của tất cả các cơ quan nhà nước, các tổ chức và mọi người dân, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự điều hành của Nhà nước;

+ Hai là, phòng ngừa tình tội phạm xét về bản chất là hoạt động hạn chế, từng bước loại trừ những yếu tố đóng vai trò là nguyên nhân, điều kiện làm phát sinh tội phạm, do vậy cần được tiến hành, thường xuyên liên tục, lâu dài mới có thể giải quyết tận gốc vấn đề tội phạm.

+ Ba là, phòng ngừa tình hình tội phạm có mối quan hệ chặt chẽ với đấu tranh phòng chống tội phạm, mà chủ yếu là phát hiện kịp thời, xử lý nhanh chóng,nghiêm minh tội phạm đã xảy ra, giáo dục cải tạo người phạm tội hoàn lương, không tái phạm.

+ Bốn là, phòng ngừa tình hình tội phạm cần phải được triển khai bằng nhiều biện pháp khác nhau, với nhiều cấp độ khác nhau.

Tóm lại, trên cơ sở kế thừa những yếu tố hợp lý trong các quan điểm khoa học về phòng ngừa tình hình tội phạm nêu trên, kết hợp với thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm ở nước ta hiện nay, chúng tôi cho rằng phòng ngừa tình hình tội phạm cần phải hiểu là: “Hoạt động do tất cả các cơ quan nhà nước, các tổ chức và toàn thể nhân dân tiến hành thông qua việc áp dụng tổng thể các biện pháp cần thiết nhằm hạn chế, xóa bỏ những yếu tố hình thành nguyên nhân, điều kiện làm phát sinh tội phạm, không để tội phạm xảy ra trong đời sống xã hội”.

Phòng ngừa tình hình tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ là phòng ngừa tình hình một loại tội phạm cụ thể, do vậy khái niệm phòng ngừa tình hình tội vi phạm quy định về tham giao giao thông đường bộ cũng được xây dựng trên cơ sở khái niệm chung về phòng ngừa tình hình tội phạm.

Với cách tiếp cận như vậy, có thể đưa ra khái niệm phòng ngừa tình hình tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ như sau:

“Phòng ngừa tình hình tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ là hoạt động của tất cả các cơ quan nhà nước, các tổ chức và mọi cá nhân thông qua việc áp dụng tổng thể các biện pháp cần thiết nhằm hạn chế, xóa bỏ những yếu tố hình thành nguyên nhân, điều kiện làm phát sinh tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ không để tội phạm này xảy ra trong đời sống xã hội”.

Từ khái niệm trên, đồng thời qua nghiên cứu lý luận và thực tiễn phòng ngừa tình hình tội phạm cho thấy, phòng ngừa tình hình tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ có một số đặc điểm sau đây:

+ Thứ nhất, phòng ngừa tình hình tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ là trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân, của các cấp, các ngành, các tổ chức, các địa phương và mọi người dân, trong đó các cơ quan, lực lượng chuyên trách giữ vai trò nòng cốt.

Ở nước ta, phòng ngừa tình hình tội phạm nói chung, tình hình tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ nói riêng là trách nhiệm chung của toàn xã hội, chứ không phải là trách nhiệm riêng của một cơ quan, tổ chức nào. Chỉ khi nào có sự tham gia của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân, của tất cả các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội, tổ chức kinh tế và mọi người dân thì hoạt động này mới có thể đạt được hiệu quả thiết thực. Vì vậy, để cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm (trong đó có tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ) giành được kết quả thiết thực cần phải xây dựng và thực hiện cơ chế phát huy sức mạnh tổng hợp của các lực lượng tham gia phòng, chống tội phạm, phát huy vai trò nòng cốt của cơ quan, lực lượng chuyên trách, nhất là lực lượng CSGT, cũng như những người tham gia giao thông.

Mặt khác, để bảo đảm thắng lợi, cuộc đấu tranh phòng, chống tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ phải đặt dưới sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng, sự quản lý điều hành thống nhất của chính quyền các cấp từ trung ương đến địa phương, phát huy vai trò làm chủ của nhân dân trong phòng, chống tội phạm. Đây là vấn đề có tính nguyên tắc đảm bảo thắng lợi cuộc đấu tranh này.

+ Thứ hai, phòng ngừa tình hình tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ chủ yếu tập trung vào việc hạn chế, xóa bỏ những yếu tố là nguyên nhân, điều kiện làm phát sinh tội phạm này.

Phòng ngừa tình hình tội phạm nói chung, tình hình tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ nói riêng (hiểu trong phạm vi nguyên nghĩa của nó) là những hoạt động hạn chế, loại trừ, làm thay đổi nguyên nhân, điều kiện của tội phạm hoặc khống chế tác dụng của nó nhằm ngăn chặn tội phạm xảy ra. Do vậy, để phòng ngừa tình hình tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ có hiệu quả, thì mọi biện pháp phòng ngừa cần tập trung vào việc hạn chế, xóa bỏ những thành tố là nguyên nhân, điều kiện làm phát sinh tội phạm này.

Tội phạm nói chung, tội vi phạm những quy định về tham gia giao thông đường bộ nói riêng phát sinh, tồn tại, vận động trong đời sống xã hội luôn là kết quả của sự tác động qua lại giữa những yếu tố tiêu cực trong môi trường sống và những yếu tố tâm sinh lý- xã hội tiêu cực thuộc bản thân con người sống trong môi trường ấy. Do vậy, hoạt động phòng ngừa tình hình tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ, trước hết phải hướng vào việc hạn chế, loại bỏ những yếu tố tiêu cực thuộc môi trường sống trên tất cả các lĩnh vực: kinh tế, chính trị- tư tưởng, văn hóa- giáo dục, tổ chức quản lý xã hội, chính sách, pháp luật.

Mặt khác, tội vi phạm theo quy định về tham gia giao thông đường bộ là do con người gây ra, vì thế hoạt động phòng ngừa tình hình tội phạm này còn phải hướng vào việc khắc phục những phẩm chất cá nhân tiêu cực và những yếu tố không thuận lợi trong đời sống của họ, nhất là những người tham gia giao thông đường bộ, người có nguy cơ phạm tội cao.

Tuy nhiên, nếu tội phạm này đã xảy ra trên thực tế thì cần tập trung phát hiện kịp thời, xử lý nghiêm minh người phạm tội, giáo dục cải tạo họ trở thành người có ý thức tuân thủ các quy định về tham gia giao thông đường bộ, không tái phạm. Điều cần lưu ý là, trong hai hướng phòng, chống tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ nêu trên thì hoạt động hạn chế, xóa bỏ nguyên nhân, điều kiện làm phát sinh tội phạm này là phương hướng chính, phương hướng cơ bản.

+ Thứ ba, phòng ngừa tình hình tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ phải được tiến hành bằng nhiều biện pháp thiết thực khác nhau, trong đó có cả những biện pháp phòng ngừa xã hội và cả những biện pháp phòng ngừa nghiệp vụ (chuyên biệt) của các cơ quan, lực lượng chức năng.

Tình hình tội phạm nói chung, tình hình tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ nói riêng xảy ra trong đời sống xã hội hết sức đa dạng với những nguyên nhân, điều kiện cụ thể khác nhau. Điều đó đòi hỏi hoạt động phòng ngừa tình hình tội phạm này cần phải sử dụng đồng bộ các biện pháp khác nhau mới có thể ngăn chặn, loại trừ được tội phạm này trong đời sống xã hội.

Đây có thể là những biện pháp do Đảng, Nhà nước, các tổ chức, đoàn thể xã hội và mọi người dân tiến hành nhằm nâng cao mọi mặt đời sống xã hội, hạn chế, loại trừ những yếu tố tiêu cực ảnh hưởng xấu đến lối sống cộng đồng, đến trật tự an toàn công cộng (trong đó có trật tự, an toàn giao thông đường bộ) cũng như ảnh hưởng đến quá trình hình thành nhân cách của từng cá nhân khi tham gia giao thông đường bộ.

Bên cạnh những biện pháp phòng ngừa xã hội chung, các cơ quan và lực lượng chức năng (nhất là lực lượng CSGT. Thanh tra giao thông…) còn triển khai thực hiện các biện pháp phòng ngừa có tính chất chuyên môn, nghiệp vụ (phòng ngừa chuyên biệt) nhằm trực tiếp hạn chế, xóa bỏ nguyên nhân, điều kiện của tội vi phạm quy định về tham giao giao thông đường bộ, ngăn chặn tội phạm này xảy ra.

1.1.2. Ý nghĩa của phòng ngừa tình hình tội phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ

– Phòng ngừa tình hình tội phạm nói chung, tình hình tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ nói riêng có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc bảo đảm trật tự công cộng an toàn, bảo vệ tính mạng, sức khỏe của con người, tài sản của Nhà nước, của các tổ chức và tài sản riêng của công dân.

Với bản chất là hoạt động nhằm hạn chế, xóa bỏ những yếu tố tiêu cực cực hình thành nguyên nhân và điều kiện làm phát sinh tội phạm, không để cho tội phạm xảy ra, phòng ngừa tình hình tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ có hiệu quả thì xã hội không phải gánh chịu những thiệt hại về người, về của do tội phạm này gây ra, người dân (nhất là những người tham gia giao thông đường bộ) không phải chịu sự trừng phạt của pháp luật. Với nghĩa đó, phòng ngừa tình hình tội phạm này có giá trị nhân đạo và tiến bộ xã hội to lớn.

– Phòng ngừa tình hình tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ có hiệu quả còn đem lại những lợi ích kinh tế nhất định. Điều này thể hiện ở chỗ hoạt động phòng ngừa có hiệu quả tình hình tội phạm này không chỉ có tác dụng hạn chế được những thiệt hại to lớn về kinh tế do tội phạm trực tiếp gây ra, mà còn có tác dụng giảm bớt những chi phí mà Nhà nước, xã hội phải bỏ ra để khắc phục những hậu quả của tội phạm (hậu quả gián tiếp của tội phạm). Mặt khác, tổ chức phòng ngừa tốt tình hình tội phạm này thì tỷ lệ tội phạm xảy ra trên thực tế sẽ giảm. Điều đó sẽ kéo theo khả năng giảm ngân sách nhà nước dành cho hoạt động đấu tranh phòng, chống tội phạm.

– Phòng ngừa tình hình tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ còn góp phần tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về an ninh trật tự nhất là quản lý nhà nước về bảo đảm TTATGT thông.

Ở khía cạnh quản lý xã hội, phòng ngừa tình hình tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ là một “kênh”, một mặt quản lý xã hội, đó là quản lý nhà nước về an ninh trật tự, mà trực tiếp là quản lý nhà nước trong lĩnh vực bảo đảm trật tự, an toàn giao thông đường bộ. Thông qua hoạt động phòng ngừa tình hình tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ, các cơ quan chức năng của nhà nước có khả năng kiểm soát được tình hình tội phạm này, từ đó đề ra các quyết định quản lý đúng đắn, phù hợp với thực tế. Mặt khác, các biện pháp phòng ngừa tình hình tội phạm, nhất là biện pháp tổ chức quản lý mọi mặt đời sống xã hội không chỉ có tác dụng phòng ngừa tội phạm này mà còn có tác dụng duy trì trật tự xã hội, trong đó có trật tự giao thông đường bộ. Với nghĩa đó, phòng ngừa tình hình tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ có ý nghĩa không nhỏ về mặt quản lý xã hội nói chung, quản lý nhà nước trong lĩnh vực bảo đảm trật tự, an toàn giao thông đường bộ nói riêng.

1.2. Mục đích, nhiệm vụ, nội dung, biện pháp phòng ngừa tình hình tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ

1.2.1. Mục đích, nhiệm vụ

* Mục đích phòng ngừa

Mục đích phòng ngừa tình hình tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ chính là kết quả cuối cùng mà hoạt động này đặt ra và cần đạt đến.

Cũng như phòng ngừa tình hình tội phạm nói chung, phòng ngừa tình hình tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ luôn hướng tới mục đích kiềm chế sự gia tăng, làm giảm dần và tiến tới loại bỏ, thủ tiêu tội phạm này trong đời sống xã hội.

Như vậy, mục đích phòng ngừa tình hình tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ có các mức độ khác nhau: Trước hết là kiềm chế sự gia tăng, làm giảm dần tình hình tội phạm này; tiếp theo là tiến tới loại bỏ, thủ tiêu tình hình tội phạm này trong đời sống xã hội.

Tùy thuộc vào điều kiện, hoàn cảnh cụ thể ở mỗi thời kỳ, giai đoạn cụ thể của đất nước cũng như từng địa phương mà mục đích phòng ngừa tình hình tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ được đặt ra với những mức độ khác nhau.

Căn cứ vào tình hình hiện nay ở nước ta, cũng như ở từng địa phương, phòng ngừa tình hình tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ cần hướng tới mục đích: kiềm chế, làm giảm mức độ xảy ra của tội phạm này, tạo môi trường xã hội lành mạnh, an toàn, trật tự phục vụ có hiệu quả nhiệm vụ phát triển kinh tế- xã hội, bảo vệ cuộc sống hạnh phúc, bình yên cho nhân dân.

Để đạt được mục đích này, đòi hỏi phải đưa ra được hệ thống các biện pháp phòng ngừa phù hợp với thực trạng, diễn biến của tình hình tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ trong phạm vi cả nước cũng như ở từng địa phương; đồng thời phải tổ chức triển khai thực hiện các biện pháp phòng ngừa một cách đồng bộ và có hiệu quả trên thực tế.

Muốn vậy, các biện pháp phòng ngừa tình hình tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ phải được xây dựng trên cơ sở: khảo sát, đánh giá đầy đủ, toàn diện tình hình tội phạm đã xảy ra, dự báo được tình hình tội phạm này trong thời gian tới; xác định đúng nguyên nhân, điều kiện của tội phạm. Mặt khác, các biện pháp phòng ngừa tình hình tội phạm này còn phải phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh thực tế của đất nước cũng như ở từng địa bàn cụ thể nhằm đảm bảo tính khả thi, tính hiệu quả của các biện pháp phòng ngừa.

* Nhiệm vụ phòng ngừa

Nhiệm vụ phòng ngừa tình hình tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ là những cộng việc cụ thể phải thực hiện để đạt được mục đích đặt ra. Đây là những công việc mà tất cả các cơ quan nhà nước, các tổ chức và mọi người dân đều phải tham gia thực hiện tùy thuộc vào chức năng, thẩm quyền, trách nhiệm của mình. Để có thể đạt được mục đích phòng ngừa tình hình tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ nêu trên, cần tập trung thực hiện tốt các nhiệm vụ sau đây:

+ Thứ nhất, tiến hành nghiên cứu nhằm phác họa được bức tranh toàn cảnh về tình hình tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ trong phạm vi cả nước cũng như ở từng khu vực, từng địa bàn cụ thể; xác định chính xác nguyên nhân, điều kiện làm phát sinh tội phạm này. Đây là nhiệm vụ đầu tiên có ý nghĩa rất quan trọng, đảm bảo cho việc xây dựng phương án, đề xuất nội dung, biện pháp phòng ngừa phù hợp.

Nhiệm vụ này đòi hỏi sự tham gia của các nhà tội phạm học và các lực lượng chuyên trách đấu tranh phòng, chống tội phạm.

+ Thứ hai, dự báo diễn biến của tình hình tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ, những yếu tố ảnh hưởng, tác động đến tội phạm này trong thời gian tới.

Đây cũng là nhiệm vụ không kém phần quan trọng đối với việc chủ động xác định phương hướng, xây dựng chương trình, kế hoạch, đề ra biện pháp cũng như chuẩn bị lực lượng, phương tiện để phòng ngừa tình hình tội phạm có hiệu quả.

Nội dung dự báo cần tập trung vào các vấn đề như: Trạng thái và xu hướng vận động của tình hình tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ; những yếu tố sẽ tác động, ảnh hưởng đến tình hình tội phạm này, nhất là những yếu tố có khả năng sẽ trở thành nguyên nhân, điều kiện làm phát sinh tội phạm; khả năng phòng ngừa các cơ quan chức năng, v.v…

Đây là nhiệm vụ khó khăn, phức tạp, nhất là trong điều kiện ở nước ta hiện nay công tác dự báo tình hình tội phạm ít được quan tâm đúng mức.

+ Thứ ba, xây dựng chiến lược, chương trình, kế hoạch, xác định phương hướng, nội dung, biện pháp phòng ngừa tình hình tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ.

Thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm ở nước ta cho thấy, phòng ngừa tình hình tội phạm nói chung, tình hình tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ nói riêng là hoạt động có định hướng, mục tiêu, nhiệm vụ rõ ràng, cụ thể; mặt khác đây là hoạt động do nhiều lực lượng tiến hành. Vì vậy, để hoạt động phòng ngừa có hiệu quả cần thiết phải xây dựng chương trình, đề án, kế hoạch, xác định nội dung, biện pháp phòng ngừa phù hợp đối với từng hệ, loại đối ượng, từng tuyến địa bàn cụ thể, cũng như phù hợp với khả năng của từng loại chủ thể phòng ngừa trong những điều kiện địa lý, kinh tế- xã hội cụ thể. Trong mỗi chương trình, đề án, kế hoạch phòng ngừa tình hình tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ cần xác định rõ mục đích, yêu cầu, nội dung, biện pháp phòng ngừa phù hợp, có tính khả thi; xác định rõ trách nhiệm tham gia và mối quan hệ phối kết hợp giữa các lực lượng tham gia phòng, chống tội phạm.

Đây là nhiệm vụ của Nhà nước và các chủ thể có chức năng, nhiệm vụ phòng ngừa tình hình tội phạm mà luật định.

+ Thứ tư, tổ chức thực hiện chương trình, đề án, kế hoạch, nội dung, biện pháp phòng ngừa tình hình tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ trên thực tế. Nếu chỉ dừng lại ở việc soạn thảo chương trình, kề án, kế hoạch, xác định nội dung, biện pháp phòng ngừa thì chưa đủ cơ sở để đạt được mục đích phòng ngừa tội phạm này. Vì thế, điều quan trọng là phải tổ chức thực hiện chương trình, đề án, kế hoạch, biện pháp phòng ngừa một cách khoa học và hiệu quả nhất.

Công việc đầu tiên khi thực hiện nhiệm vụ này là tiến hành phổ biến, quán triệt chương trình, đề án, kế hoạch, nhằm tạo sự đồng thuận về mục đích, yêu cầu, nội dung, biện pháp tiến hành đối với các chủ thể có trách nhiệm phòng ngừa tình hình tội phạm này. Tiếp theo, là triển khai thực hiện từng nội dung, biện pháp phòng ngừa cụ thể ở địa bàn, lĩnh vực nhất định.

Trong quá trình triển khai thực hiện chương trình, đề án, kế hoạch, biện pháp phòng ngừa cần thường xuyên kiểm tra, đôn đốc, điều hành hoạt động phòng ngừa theo chương trình, đề án, kế hoạch đã vạch ra.

Sau khi kết thúc từng phần hoặc toàn bộ chương trình, đề án, kế hoạch phòng ngừa cần tổ chức sơ kết, tổng kết, đánh giá công việc đã thực hiện, rút ra những kết quả đã đạt được, cũng như những tồn tại, hạn chế cần khắc phục. Trên cơ sở đó đề ra phương hướng, biện pháp phát huy những kết quả đạt được cũng như khắc phục những vấn đề còn tồn tại, hạn chế.

1.2.2. Nội dung, biện pháp phòng ngừa tình hình tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ

1.2.2.1. Nội dung phòng ngừa

Cho đến nay xoay quanh vấn đề nội dung phòng ngừa tình hình tội phạm (trong đó có tình hình tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ) vẫn còn những quan điểm và cách tiếp cận khác nhau:

Có quan điểm cho rằng, nội dung phòng ngừa tình hình tội phạm là tất cả những mặt hoạt động cần tiến hành để phòng ngừa tội phạm đạt hiệu quả. Với quan điểm và cách tiếp cận như vậy, những người theo quan điểm này đã chỉ ra hai mặt (phương diện) hoạt động cơ bản cần tiến hành để phòng ngừa tội phạm, đó là: 1) Tiến hành các hoạt động nhằm hạn chế, loại bỏ những yếu tố hình thành nguyên nhân, điều kiện làm phát sinh tội phạm như cải thiện các quan hệ xã hội, hoàn thiện hệ thống pháp luật, xóa bỏ những yếu tố tiêu cực… để tình hình tội phạm không có cơ sở phát sinh, tồn tại; 2) Phát hiện, xử lý tội phạm mà trọng tâm là hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, cải tạo giáo dục người phạm tội. Như vậy, theo quan điểm này, thì nội dung phòng ngừa tình hình tội phạm bao hàm cả hoạt động phòng và cả hoạt động chống (đấu tranh chống) tội phạm.

Theo quan điểm khác, thì phòng ngừa tình hình tội phạm bao gồm hai bộ phận: một bộ phận gồm các hoạt động tác động vào “nhân” được gọi là hoạt động loại trừ tội phạm; bộ phận khác tác động vào “quả”, được gọi là hoạt động ngăn chặn tội phạm.

Chúng tôi đồng tình quan điểm này, bởi mục đích của phòng ngừa tình hình tội phạm là ngăn chặn, loại trừ tội phạm trong xã hội. Để đạt được mục đích này, phòng ngừa tình hình tội phạm phải được triển khai theo hai hướng: một là, hoạt động loại trừ tội phạm và hai là, hoạt động ngăn chặn tội phạm. Đây là hai nội dụng cơ bản của hoạt động phòng ngừa tình hình tội phạm.

* Hoạt động loại trừ tội phạm chính là những hoạt động do các cơ quan nhà nước, các tổ chức, đoàn thể xã hội và mọi người dân tiến hành nhằm hạn chế, triệt tiêu các yếu tố hình thành nguyên nhân, điều kiện làm phát sinh tội phạm.

Tội phạm phát sinh luôn là kết quả của sự tác động qua lại giữa những yếu tố tiêu cực thuộc môi trường sống bên ngoài và những yếu tố tâm- sinh lý xã hội, phẩm chất cá nhân tiêu cực thuộc bản thân người phạm tội. Do vậy, hoạt động loại trừ tội phạm cần tác động tới cả môi trường xã hội và cả con người sống trong môi trường đó. Trong hai hướng tác động đó, thì hoạt động tác động vào môi trường xã hội là hướng cơ bản, bởi môi trường xã hội vừa ảnh hưởng đến sự hình thành nhân cách cá nhân vừa là một thành tố tương tác với con người tạo thành nguyên nhân của tình hình tội phạm.

Tóm lại, hoạt động loại trừ tội phạm thực chất là hoạt động loại trừ những yếu tố tiêu cực trong môi trường xã hội và những yếu tố tâm- sinh lý tiêu cực của cá nhân sống trong môi trường đó mà trong sự tương tác lẫn nhau làm phát sinh tội phạm.

* Hoạt động ngăn chặn tội phạm là tổng thể những hoạt động nhằm ngăn ngừa các tội phạm tiềm tàng trong xã hội, không để chúng xảy ra, không để cho chúng thực hiện được đến cùng và không để xảy ra tái phạm

Với bản chất như vậy, hoạt động ngăn chặn tội phạm có đối tượng tác động không phải là các yếu tố tiêu cực đóng vai trò là nguyên nhân, điều kiện của tội phạm mà là tội phạm tiềm tàng (hay tình hình tội phạm tiềm tàng).

Tội phạm tiềm tàng có ba trạng thái khác nhau, đó là: trạng thái tội phạm chưa xảy ra, trạng thái tội phạm đang xảy ra nhưng chưa kết thúc, tức là vẫn tiếp tục tiếp diễn và trạng thái tội phạm đã bị xử lý nhưng vẫn có khả năng tiếp tục xảy ra (tái phạm). Thích ứng với ba trạng thái này, có ba dạng hoạt động (biện pháp) ngăn chặn tội phạm, đó là:

Thứ nhất, những hoạt động ngăn chặn không để tội phạm xảy ra. Đây là những hoạt động kiểm soát và quản lý xã hội đối với những điều kiện tồn tại của hành vi phạm tội tiềm tàng, người phạm tội tiềm tàng và nạn nhân tiềm tàng của tội phạm nhằm làm tê liệt việc phạm tội, hay nói cách khác là không để tội phạm xảy ra.

Những điều kiện tồn tại của hành vi phạm tội thường là những môi trường, hoàn cảnh, tình huống thuận lợi cho việc phạm tội, tức là những môi trường, hoàn cảnh, tình huống cụ thể mà ở đó hành vi phạm tội tiềm tàng có khả năng xảy ra, người phạm tôi tiềm tàng có khả năng thực hiện tội phạm, nạn nhân tiềm tàng của tội phạm có khả năng trở thành nạn nhân hiện thực của tội phạm. Đây cũng chính là cơ sở thực tế để dựa vào đó mà thiết lập các biện pháp ngăn chặn tội phạm thích ứng.

Đối với trạng thái tội phạm chưa xảy ra, nhưng có khả năng hiện thực sẽ xảy ra thì việc ngăn chặn không cho tội phạm xảy ra đòi hỏi phải tiến hành ba nhóm biện pháp, đó là:

1) Nhóm biện pháp làm tê liệt quá trình hiện thực hóa hành vi phạm tội tiềm tàng. Đây là những biện pháp tác động vào môi trường hoàn cảnh, tình huống có khả năng xảy ra tội phạm đã được nhận diện nhằm làm tê liệt quá trình hiện thực hóa hành vi phạm tội tiềm tàng.

Thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ ở nước ta cho thấy, những lĩnh vực, địa bàn, hoàn cảnh, tình huống có nguy cơ xảy ra tội phạm này thường là, khu đông dân cư, trường học, những điểm đen và giao thông, v.v…

2) Nhóm biện pháp quản lý, kiểm tra, giám sát người phạm tội tiềm tàng (người có nguy cơ phạm tội cao) được nhận diện trên cơ sở phân tích tình hình tội phạm của một số đối tượng trong các năm trước đó.

Thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ ở nước ta cho thấy, số đối tượng có nguy cơ phạm tội này thường là những người điều khiển phương tiện giao thông đường bộ nghiện ma túy, rượu và các chất kích thích khác… Đối với số đối tượng này không thể áp dụng các biện pháp quản lý, kiểm tra, kiểm soát (như kiểm tra nồng độ cồn có trong hơi thở của lái xe) để họ không có điều kiện gây ra tai nạn giao thông, dẫn tới phạm tội.

3) Nhóm biện pháp tác động vào nạn nhân tiềm tàng của tội phạm. Đây là nhóm biện pháp hướng tới việc triệt tiêu những nguy cơ trở thành nạn nhân của tội phạm đối với một số đối tượng.

Thực tế đấu tranh phòng, chống tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ ở nước ta trong những năm qua cho thấy, nạn nhân tiềm tàng của tội phạm này thường là những người không có ý thức bảo vệ an toàn cho chính mình, không có ý thức chấp hành quy định của pháp luật về tham gia giao thông đường bộ, hoặc là trẻ em…

– Thứ hai, những hoạt động ngăn chặn không để tội phạm tiếp tục diễn ra. Đây là những hoạt động mang tính cấp bách thể hiện sự phản ứng của Nhà nước và xã hội đối với hành vi phạm tội đang diễn ra hoặc có khả năng lặp đi, lặp lại nhiều lần nhằm chặn đứng hành vi phạm tội đang được thực hiện, không để cho hành vi phạm tội tiếp tục gây thiệt hại cho xã hội hoặc nhằm chặn đứng quá trình lặp lại của hành vi phạm tội, không để cho hành vi phạm tội được thực hiện nhiều lần. Với tính chất như vậy, những hoạt động (biện pháp) này chủ yếu do lực lượng chuyên trách đấu tranh phòng, chống tội phạm của ngành Công an thực hiện, đặc biệt là lực lượng CSGT.

– Thứ ba, những hoạt động ngăn chặn không để xảy ra tái phạm. Đây là những hoạt động (biện pháp) được triển khai thực hiện đối với trạng thái tội phạm đã xảy ra, đã được xử lý hình sự nhưng sau đó vẫn có khả năng tiếp tục xảy ra nhằm ngăn chặn hành vi tái phạm. Những biện pháp này chủ yếu do Cơ quan thi hành án hình sự tiến hành thông qua việc giáo dục, cải tạo người phạm tội hoàn lương, trở thành người có ích cho xã hội.

Thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm ở nước ta cho thấy, nếu tội phạm xảy ra mà được phát hiện kịp thời, xử lý nghiêm minh theo đúng pháp luật và bảo đảm thi hành án có hiệu quả sẽ: gây được lòng tin của nhân dân đối với cơ quan bảo vệ pháp luật, qua đó nâng cao được tính tích cực của mọi người dân trong đấu tranh phòng, chống tội phạm; làm mất hy vọng trốn tránh pháp luật của người phạm tội, vô hiệu hóa điều kiện tiếp tục phạm tội; người phạm tội nhận thức được tội lỗi của mình và quyết tâm cải tạo hoàn lương, không tái phạm.

1.2.2.2. Hệ thống các biện pháp phòng ngừa

Để phòng ngừa tình hình tội phạm nói chung, tình hình tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ nói riêng đạt được hiệu quả và mục đích đề ra cần phải có hệ thống các biện pháp phòng ngừa đa dạng, đa cấp độ, có cơ sở lý luận và thực tiễn và bảo đảm tính khả thi.

Hệ thống các biện pháp phòng ngừa tình hình tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ là tổng thể các biện pháp khác nhau, trong đó mỗi biện pháp có tính chất, phạm vi, mức độ tác động khác nhau, nhưng có quan hệ chặt chẽ, hỗ trợ lẫn nhau tạo thành một chỉnh thể thống nhất nhằm hạn chế, loại trừ những yếu tố hình thành nguyên nhân, điều kiện làm phát sinh tình hình tội phạm này, ngăn chặn không để tội phạm xảy ra.

– Căn cứ vào tính chất, chủ thể và mục đích áp dụng, các biện pháp phòng ngừa tình hình tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ có thể được phân thành hai tiểu hệ thống; đó là: hệ thống các biện pháp phòng ngừa xã hội và hệ thống các biện pháp phòng ngừa chuyên biệt (hay còn gọi là các biện pháp phòng ngừa chuyên môn, nghiệp vụ).

+ Hệ thống các biện pháp phòng ngừa xã hội bao gồm những biện pháp kinh tế, chính trị- tư tưởng, văn hóa- giáo dục; tổ chức- quản lý xã hội, chính sách pháp luật… do tất cả các cơ quan nhà nước, các tổ chức, đoàn thể xã hội và mọi người dân tiến hành dưới nhiều hình thức khác nhau trong quá trình xây dựng và phát triển mọi mặt đời sống xã hội nhằm tạo ra một mội trường xã hội tích cực làm tiền đề cho việc hạn chế, loại trừ những yếu tố có thể trở thành nguyên nhân, điều kiện làm phát sinh tội phạm này.

Với bản chất như vậy, các biện pháp phòng ngừa xã hội có một số đặc trưng cơ bản sau đây:

• Về tính chất: Các biện pháp phòng ngừa xã hội đều là những biện pháp mang tính xã hội, thể hiện sự phản ứng phòng vệ của xã hội mà mục đích của sự phản ứng đó là phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm. Việc áp dụng các biện pháp kinh tế, chính trị- tư tưởng, văn hóa- giáo dục, tổ chức- quản lý xã hội và chính sách- pháp luật đều hướng tới việc cải thiện mọi mặt đời sống xã hội, tổ chức tốt đời sống vật chất, tinh thần cho người dân, giáo dục lối sống tuân thủ các chuẩn mực xã hội, nhất là các quy định của pháp luật về tham gia giao thông đường bộ… nhằm tạo ra môi trường xã hội tích cực, thuận lợi cho việc hình thành nhân cách con người, hạn chế tối đa những yêu tố tiêu cực có thể trở thành nguyên nhân, điều kiện làm phát sinh tội phạm.

• Về chủ thể: Chủ thể phòng ngừa xã hội tình hình tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ hết sức đa dạng, bao gồm tất cả các cơ quan nhà nước, các tổ chức, đoàn thể quần chúng và mọi người dân dưới sự lãnh đạo của các cấp ủy đảng, sự điều hành, quản lý của chính quyền các cấp với vai trò làm chủ của nhân dân.

• Về mục đích, các biện pháp phòng ngừa xã hội không nhằm mục đích trực tiếp hạn chế, loại bỏ nguyên nhân, điều kiện làm phát sinh tội phạm mà hướng tới việc cải thiện toàn diện các điều kiện kinh tế, chính trị- tư tưởng, văn hóa- giáo dục, tổ chức- quản lý xã hội (nhất là quản lý nhà nước về an ninh trật tự), pháp luật làm tiền đề căn bản cho việc loại trừ các yếu tố tiêu cực có thể trở thành nguyên nhân, điều kiện làm phát sinh tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ.

• Về phạm vi tác động: Các biện pháp phòng ngừa xã hội có phạm vi tác động rộng đến nhiều yếu tố, nhiều đối tượng trong xã hội và có khả năng giải quyết tận gốc vấn đề tội phạm trong xã hội.

+ Hệ thống các biện pháp phòng ngừa chuyên biệt bao gồm chủ yếu các biện pháp có tính chất chuyên môn- nghiệp vụ do các cơ quan bảo vệ pháp luật có chức năng trực tiếp đấu tranh phòng, chống tội phạm tiến hành nhằm trực tiếp phát hiện, ngăn chặn, loại trừ những nguyên nhân, điều kiện của tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ, ngăn chặn không để tội phạm này xảy ra.

Như vậy, các biện pháp phòng ngừa chuyên biệt có một số đặc trưng khác với phòng ngừa xã hội, đó là:

Về tính chất: Các biện pháp phòng ngừa chuyên biệt không mang tính xã hội chung mà mang tính chuyên môn, nghiệp vụ riêng của từng cơ quan có chức năng trực tiếp đấu tranh phòng, chống tội phạm.

Về chủ thể: Chủ thể phòng ngừa chuyên biệt chỉ bao gồm những cơ quan, lực lượng có chức năng trực tiếp đấu tranh phòng, chống tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ như: Lực lượng CSGT của ngành Công an, Thanh tra giao thông, Viện Kiểm sát, Tòa án, Cơ quan thi hành hình sự, v.v…

• Về mục đích: Các biện pháp phòng ngừa chuyên biệt đều hướng tới việc hạn chế, loại trừ nguyên nhân, điều kiện làm phát sinh tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ, ngăn chặn không cho tội phạm này xảy ra, thực hiện đến cùng và tái phạm.

• Về phạm vi tác động: Các biện pháp phòng ngừa chuyên biệt có phạm vi tác động hẹp, đối với từng lĩnh vực, hệ loại đối tượng cụ thể tùy thuộc vào chức năng của chủ thể tiến hành.

Mối quan hệ giữa phòng ngừa xã hội và phòng ngừa chuyên biệt có sự khác nhau nhất định về tính chất biện pháp, chủ thể tiến hành, phạm vi, mục đích áp dụng nhưng có quan hệ chặt chẽ với nhau, tác động hỗ trợ cho nhau để đạt được mục đích chung là hạn chế, loại trừ tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ ra khỏi đời sống xã hội.

– Căn cứ vào phạm vi tác động, các biện pháp phòng ngừa tình hình tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ có thể chia thành hai nhóm: Các biện pháp phòng ngừa chung và các biện pháp phòng ngừa cá biệt.

+ Các biện pháp phòng ngừa chung có phạm vi đối tượng tác động là những yếu tố là nguyên nhân, điều kiện làm phát sinh tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ có tính phổ biến nhằm ngăn ngừa tội phạm này trên diện rộng.

+ Các biện pháp phòng ngừa cá biệt là những biện pháp tác động trực tiếp đến những đối tượng cụ thể nhằm hạn chế, loại trừ nguyên nhân, điều kiện làm phát sinh hành vi phạm tội của đối tượng trong những tình huống xác định.

Mục đích của phòng ngừa cá biệt là ngăn chặn trước, ngăn chặn trực tiếp tội phạm xảy ra và phòng ngừa sự tái phạm của một loại đối tượng cụ thể.

Là một trong những biện pháp phòng ngừa tình hình tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ, phòng ngừa cá biệt có ý nghĩa hết sức quan trọng trong cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm. Những biện pháp này có khả năng tác động trực tiếp đến những cá nhân có nguy cơ phạm tội cao, sống làm việc trong một môi trường với những điều kiện, hoàn cảnh cụ thể. Do vậy, việc xác định đúng đối tượng cần phải phòng ngừa cá biệt và các biện pháp cụ thể cần phải áp dụng không chỉ đảm bảo cho hoạt động phòng ngừa có trọng tâm, trọng điểm, mà còn hạn chế được tình trạng phân tán, dài trải, gây lãng phí, kém hiệu quả. Muốn vậy, trong từng lĩnh vực, từng địa bàn cụ thể thì lực lượng có chức năng phòng ngừa cần phải xác định được những đối tượng cần áp dụng biện pháp phòng ngừa cá biệt.

– Căn cứ vào nội dung, tính chất tác động, các biện pháp phòng ngừa có thể chia thành: Biện pháp kinh tế- xã hội; biện pháp chính trị, tư tưởng; biện pháp văn hóa, giáo dục; biện pháp tổ chức, quản lý và biện pháp pháp luật.

+ Biện pháp kinh tế- xã hội là biện pháp tác động về mặt kinh tế- xã hội thông qua việc phát huy tính tích cực của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, đồng thời khắc phục, hạn chế sự tác động của mặt trái nền kinh tế thị trường, giải quyết thỏa đáng những vấn đề xã hội bức xúc như công ăn, việc làm, đói nghèo, tệ nạn xã hội, mâu thuẫn về lợi ích kinh tế, v.v…

Thực tế đấu tranh phòng, chống tội phạm ở nước ta cho thấy, tình hình tội phạm, trong đó có tình tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ phát sinh, tồn tại, vận động trong đời sống xã hội có nguyên nhân, điều kiện từ lĩnh vực kinh tế- xã hội. Vì vậy, để chủ động phòng ngừa tình hình tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ thì một trong những biện pháp có hiệu quẳ là tập trung phát triển kinh tế, tăng cường tiềm lực kinh tế của đất nước cũng như ở từng địa phương. Qua đó tạo tiền đề cho việc giải quyết những vấn đề xã hội như: Tạo công ăn việc làm cho người lao động, chống thất nghiệp; xóa đói giảm nghèo nâng cao đời sống vật chất cho người dân…. Cùng với việc phát triển kinh tế, cần tập trung khắc phục những biểu hiện mặt trái của nền kinh tế thị trường, những tệ nạn xã hội, nhất là tệ nạn ma túy…

Những biện pháp mang tính kinh tế- xã hội nêu trên nếu được tiến hành thường xuyên, toàn diện chắc chẵn sẽ tạo tiền đề vững chắc về kinh tế- xã hội, góp phần kiềm chế, nhằm khắc phục và dần loại trừ nguyên nhân, điều kiện trong lĩnh vực kinh tế- xã hội của tình hình tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ.

+ Biện pháp chính trị, tư tưởng là biện pháp hướng vào giữ vững ổn định về chính trị tư tưởng, đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước và xã hội; nâng cao ý thức giác ngộ chính trị trong nhân dân, củng cố lòng tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, vào chế độ XHCN; kích thích lòng yêu nước, tự tôn dân tộc, trách nhiệm công dân; phát huy tư tưởng nhân ái; bao dung của con người Việt Nam, phát huy sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đổi mới đất nước, đấu tranh phòng, chống tội phạm, bảo đảm an toàn, trật tự xã hội, nhất là TTATGT đường bộ.

+ Biện pháp văn hóa, giáo dục là biện pháp hướng tới việc cải thiện, nâng cao đời sống văn hóa, tinh thần cho người dân; mở rộng và nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo, nâng cao trình độ dân trí, hình thành nhân cách, lối sống, thói quen, sở thích lành mạnh, phù hợp với các chuẩn mực xã hội… Qua đó tạo ra một môi trường xã hội có văn hóa, nhất là văn hóa tham gia giao thông, góp phần tích cực vào việc hạn chế sự hình thành các phẩm chất cá nhân tiêu cực, những thói quen, tật xấu đóng vai trò là nguyên nhân, điều kiện làm phát sinh tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ.

Văn hóa giao thông cũng như giáo dục về pháp luật về giao thông đường bộ là trách nhiệm của các cấp các ngành và của toàn xã hội tuy nhiên ở TP Đà Nẵng hay ở nhiều địa phương khác cũng vậy, văn hóa giao thông cũng như việc chấp hành các quy định của pháp luật giao thông lại thường được coi là trách nhiệm của cơ quan công an, chính vì vậy nên công tác tuyên truyền phổ biến giáo dục về pháp luật giao thông đường bộ trên địa bàn còn nhiều khó khăn hạn chế, không được chú trọng quan tâm.

Có những đối tượng sinh ra và sinh sống trong những gia đình có điều kiện không thuận lợi trong sự phát triển nhân cách, đã hình thành trong mình những tâm lý sai lệch, có thể dẫn đến tội vi phạm quy định về TGGTĐB.

Gia đình là nền tảng của xã hội vai trò của gia đình có ý nghĩa rất to lớn đến việc hình thành nhân cách cũng như thói quen và sở thích của mỗi cá nhân, cha mẹ ông bà là tấm gương để cho con cháu noi theo đối với những gia đình thường xuyên chăm lo cho con cái thì hình thành những nhân cách tốt cho con cái, tuy nhiên bên cạnh đó những gia đình không thường xuyên quan tâm con cái hay những gia đình khuyết thiếu, thiếu sự quan tâm dậy dỗ của cha mẹ hình thành nên những thói quen tùy tiện thích gì làm đấy thậm chí làm những điều trái với đạo đức và lương tâm vi phạm pháp luật.Đối với tội vi phạm quy định về TGGTĐB cũng vậy gia đình thiếu quan tâm hay gia đình khuyết thiếu cha hoặc mẹ tạo cho các em những thói quen xấu, thường xuyên tụ tập tụm năm tụm ba khi nổi hứng lên có thể là tổ chức đua xe gọi là cho vui hoặc điều khiển phương tiện giao thông đường bộ mà chạy qua tốc độ rú ga, lạng lách, đánh võng trên đường.

Môi trường nhà trường đây cũng là môi trường quan trọng trong việc hình thành đạo đức nhân cách của một con người, người xưa có câu “tiên học lễ, hậu học văn” trước tiên là học đạo đức lối sống sau đó mới học văn. Môi trường nhà trường mà có kỷ luật nghiêm thường xuyên tu dưỡng rèn luyện các em về đạo đức, lối sống và kỹ năng sống giúp các học sinh có thể nhận thức và định hướng các hành vi của mình. Còn ngược lại môi trường nhà trường mà kỷ luật lỏng lẻo, thiếu quan tâm đến cán bộ và học viên, cán bộ giáo viên còn vi phạm quy định nhà trường, vi phạm đạo đức lối sống hay vi phạm pháp luật dẫn đến hình thành trong ý thức của học viên là thiếu sự tôn trọng, sự coi thường và việc giáo dục đạo đức, lối sống trong môi trường nhà trường chỉ còn là hình thưc không đạt được hiệu quả đề ra.

Đối với lĩnh vực trật tự an toàn giao thông môi trường là nơi tuyên truyền có ý nghĩa nhất ngay từ bậc học mầm non đến tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông hay bậc đại học đều có những tiết học tìm hiểu về luật giao thông ngay khi còn ngồi trên ghế nhà trường các em đã được trang bị một cách đầy đủ các kiến thức về pháp luật giao thông đường bộ cũng như các kỹ năng khi tham gia giao thông chính vì vậy nhà trường nào mà thường xuyên quan tâm đến trật tự an toàn giao thông thì nhà trường đó tỉ lệ học sinh khi tham gia giao thông là vi phạm rất ít.

Nơi công tác đây cũng là nơi mà việc chấp hành các quy định trở thành phong trào có sức lan tỏa rộng. Ở những cơ quan đơn vị kỷ luật nghiêm coi việc vi phạm luật giao thông đường bộ là vi phạm nội quy và quy định thi đua của cá nhân và đơn vị thì nơi đó việc chấp hành rất tốt, còn những nơi mà lơ là coi nhẹ xem nhẹ kỷ luật của người đứng đầu không nghiêm thi ở nơi đó việc chấp hành các quy định nội quy nói chung của cơ quan đơn vị kém.

+ Biện pháp tổ chức, quản lý là biện pháp nhằm tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý mọi mặt đời sống xã hội, khắc phục những sơ hở, yếu kém trong quản lý, nhất là quản lý nhà nước về an ninh, trật tự; xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có phẩm chất chính trị vững vàng, có lối sống trong sáng, có trình độ chuyên môn nghiệp vụ giỏi đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm trong tình hình mới.

+ Biện pháp luật là biện pháp hướng vào việc hoàn thiện hệ thống pháp luật về phòng chống tội phạm và tổ chức thực hiện áp dụng pháp luật trong đấu tranh phòng, chống tội phạm, trong đó có tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ.

1.3. Chủ thể và nguyên tắc phòng ngừa tình hình tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ

1.3.1. Chủ thể phòng ngừa

Phòng ngừa tình hình tội phạm nói chung, tình hình tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ nói riêng là trách nhiệm của toàn xã hội, của mọi cơ quan nhà nước, các tổ chức chính trị, xã hội, tổ chức kinh tế, các đoàn thể quần chúng và mọi người dân, trong đó các cơ quan bảo vệ pháp luật (Cơ quan Công an, Viện Kiểm sát, Tòa án…) giữ vai trò nòng cốt, xung kích.

Như vậy, chủ thể phòng ngừa tình hình tội phạm (trong đó có tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ) hết sức đa dạng, đó là:

* Đảng Cộng sản Việt Nam

Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN. Điều 4 Hiến pháp năm 2013 khẳng định: “Đảng Cộng sản Việt Nam- Đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, lấy chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tàng tư tưởng, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội”.

Với trọng trách như vậy, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn coi phòng ngừa tình hình tội phạm, trong đó có phòng ngừa tình hình tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ là vấn đề quan trọng của các cấp ủy, tổ chức Đảng.

Đảng lãnh đạo hoạt động phòng ngừa tình hình tội phạm bằng đường lối, chính sách, bằng biện pháp kiểm tra, giám sát và công tác tư tưởng, công tác tổ chức cán bộ. Sự lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động phòng ngừa tình hình tội phạm nói chung, tình hình tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ nói riêng là một trong những đảm bảo để hoạt động phòng ngừa tội phạm được triển khai đúng hướng và có hiệu quả. Để phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động phòng ngừa tội phạm, Đảng đã ban hành nhiều nghị quyết, chỉ thị để chỉ đạo, định hướng hoạt động phòng ngừa tội phạm, điển hình là Chỉ thị số 48CT/TW ngày 22/10/2010 của Bộ Chính trị về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tội phạm trong tình hình mới”.

Ngoài ra, vai trò lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tội phạm còn được phát huy thông qua sự gương mẫu của Đảng viên trong phòng phòng ngừa tình hình tội phạm nói chung, tình hình tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ nói riêng.

LIỆN HỆ:

SĐT+ZALO: 0935568275

E:\DỮ LIỆU COP CỦA CHỊ YẾN\LUAN VAN VIEN HAN LAM\VIEN HAN LAM DOT 12\SAU BAO VE/ DANG NGOC TAI

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *