Quản lý nhà nước về đất nông nghiệp từ thực tiễn huyện Phù Mỹ

Quản lý nhà nước về đất nông nghiệp từ thực tiễn huyện Phù Mỹ

Quản lý nhà nước về đất nông nghiệp từ thực tiễn huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định

1. Tính cấp thiết của đề tài

Đất nông nghiệp đóng vai trò rất quan trọng đối với phát triển kinh tế xã hội quốc gia. Trong nông nghiệp, đất không chỉ là địa điểm để sản xuất mà đất còn tham gia trực tiếp vào quá trình sản xuất, là một tư liệu sản xuất đặc biệt quan trọng và không thể thay thế. Ngày nay, sự gia tăng nhanh chóng của quá trình đô thị hóa và sự gia tăng dân số làm do diện tích đất nông nghiệp suy giảm nhanh chóng. Vì vậy, yêu cầu quản lý nhà nước đối với đất nông nghiệp một cách hợp lý, nâng cao hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng trên một đơn vị diện tích là đòi hỏi mang tính cấp thiết. Việc sử dụng đất nông nghiệp không chỉ mang lại lợi ích kinh tế, hiệu quả xã hội mà tạo môi trường bền vững trước mắt và lâu dài. Trên thực tế, công tác quản lý nhà nước đối với đất nông nghiệp có nhiều vấn đề khó khăn và phức tạp, đòi hỏi phải có sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị và sự đồng lòng, quyết tâm của người dân thì hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp mới đạt hiệu quả cao nhất.

Là cấp thứ ba trong bộ máy nhà nước, chính quyền cấp huyện quản lý địa giới hành chính với những nét đặc trưng riêng về điều kiện tự nhiên và xã hội, có vai trò hết sức quan trọng trong quản lý đất đai theo mục đích yêu cầu đặt ra.Tuy nhiên, quản lý nhà nước về đất đai ở cấp huyện những năm gần đây bộc lộ nhiều vấn đề bất cập cần có những nghiên cứu nghiêm túc bằng luận cứ khoa học để có chính sách, biện pháp điều chỉnh phù hợp.

Phù Mỹ là huyện đồng bằng của tỉnh Bình Định. Tổng diện tích tự nhiên của huyện: 55.592,5 ha, trong đó: Đất nông nghiệp: 44.217,5 ha; Đất phi nông nghiệp: 9.497,5 ha; Đất chưa sử dụng: 1.877,5 ha[6]). Trong những năm qua, cùng với các lĩnh vực khác, quản lý nhà nước về đất đai của huyện Phù Mỹ đã góp phần vào phát triển kinh tế xã hội của tỉnh Bình Định nói chung và của huyện Phù Mỹ nói riêng. Việc sử dụng đất nông nghiệp không chỉ mang lại lợi ích kinh tế, hiệu quả xã hội mà tạo môi trường bền vững trước mắt và lâu dài. Thực tiễn cho thấy công tác quản lý nhà nước đối với đất nông nghiệp ở huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định trong thời gian qua rất khó khăn và phức tạp, đòi hỏi phải có sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị và sự đồng lòng, quyết tâm của người dân thì hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp mới đạt hiệu quả cao nhất.

Bên cạnh những kết quả đạt được thì công tác quản lý nhà nước tại huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định cũng gặp nhiều khó khăn như: thực tế sản xuất chưa đúng với quy hoạch sử dụng đất nông nghiệp, công tác bồi thường giải phóng mặt bằng còn chậm, tình trạng tranh chấp đất đai vẫn còn xảy ra, chưa hình thành vùng chuyện canh sản xuất cây trồng chính mang lại tính chất hàng hóa,…Trước tình hình đó, đòi hỏi chính quyền huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định phải có những giải pháp phù hợp để phát huy những mặt đạt được, đồng thời khắc phục những tồn tại, hạn chế, sớm đưa công tác quản lý nhà nước đối với đất nông nghiệp vào khuôn khổ, góp phần tạo điều kiện thuận lợi để người dân sản xuất có hiệu quả, giúp phát triển kinh tế xã hội địa phương.

Do đó, là một cán bộ đang công tác tại huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định, với mong muốn đóng góp một phần nhỏ bé của mình cho công tác quản lý nhà nước về đất nông nghiệp của huyện nhà, học viên mạnh dạn lựa chọn đề tài “Quản lý nhà nước về đất nông nghiệp từ thực tiễn huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định” để nghiên cứu trong phạm vi luận văn thạc sĩ luật học.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

Nghiên cứu, phân tích một số vấn đề lý luận và thực tiễn thực trạng quản lý nhà nước về đất nông nghiệp trên địa bàn huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định từ đó đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp luật và tăng cường quản lý nhà nước về đất nông nghiệp trong thời gian tới.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

– Hệ thống hóa những vấn đề lý luận cơ bản trong quản lý nhà nước về đất nông nghiệp;

– Phân tích, đánh giá tình hình quản lý nhà nước về đất nông nghiệp tại huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định trong giai đoạn 2014-2020;

– Đề xuất một số giải pháp nhằm tăng cường quản lý nhà nước về đất nông nghiệp trên địa bàn huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định trong thời gian tới.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Luận văn tập trung nghiên cứu các quy định của pháp luật hiện hành liên quan đến hoạt động quản lý nhà nước về đất nông nghiệp thực trạng hoạt động thi hành pháp luật quản lý nhà nước về đất nông nghiệp trên địa bàn huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

Phạm vi nội dung: công tác quản lý nhà nước về đất nông nghiệp trên 4 phương diện: lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất; thống kê, kiểm kê và lập bản đồ sử dụng đất; thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm hành chính trong quản lý và sử dụng đất; giải quyết tranh chấp và khiếu nại, tố cáo trong quản lý và sử dụng đất.

Về không gian: địa bàn huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định.

Về thời gian: Từ năm 2014 đến năm 2020

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

5.1. Cơ sở lý luận

Luận văn nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lê Nin; tư tưởng Hồ Chí Minh; những đuờng lối, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về quản lý nhà nước bằng pháp luật nói chung và các quan điểm, chủ trương trong quản lý nhà nước về đất nông nghiệp nói riêng.

5.2. Phương pháp nghiên cứu

Phương pháp thu thập thông tin: Đề tài dựa trên nguồn thông tin thứ cấp thu thập được từ những tài liệu nghiên cứu trước đây để xây dựng cơ sở luận cứ và chứng minh giả thuyết các nguồn tài liệu thứ cấp gồm: sách, bài tạp chí, luận án, luận văn, báo cáo đề tài khoa học, bài tham luận hội thảo, văn bản quy phạm pháp luật, bài viết trên internet…

Phương pháp phân tích tổng hợp thống kê, so sánh: trên cơ sở nguồn thông tin đã thu thập được, luận văn sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh để đưa ra các nhận định nhằm giải quyết các nội dung đã được đề cập. Cụ thể: Chương 1 của luận văn sử dụng chủ yếu phương pháp phân tích và tổng hợp để hệ thống hóa và lý giải những vấn đề lý luận cơ bản trong quản lý nhà nước về đất nông nghiệp. Chương 2 sử dụng kết hợp phương pháp phân tích, thống kê, so sánh để đưa ra những đánh giá về thực trạng quản lý nhà nước về đất nông nghiệp tại huyện Phù Mỹ. Chương 3 chủ yếu sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp để đề xuất các quan điểm và giải pháp tăng cường quản lý nhà nước về đất nông nghiệp tại huyện Phù Mỹ thời gian tiếp theo.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

6.1. Ý nghía lý luận

Luận văn góp phần hệ thống hóa những vấn đề lý luận cơ bản quản lý nhà nước về đất nông nghiệp. Đồng thời kết quả nghiên cứu và những kiến nghị của luận văn góp phần cung cấp luận cứ khoa học cho việc tăng cường quản lý nhà nước về đất nông nghiệp ở huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định trong thời gian tới.

6.2. Ý nghĩa thực tiễn

Luận văn góp phần cung cấp thông tin cơ bản về hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp của huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định giai đoạn 2014-2020; góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp và thúc đẩy sự phát triển sản xuất nông nghiệp, nâng cao mức thu nhập của người dân ở huyện Phù Mỹ. Đồng thời, luận văn là tài liệu hữu ích giúp cơ quan chuyên môn trong quản lý và sử dụng đất nông nghiệp có hiệu quả và bền vững. Đây cũng là tài liệu tham khảo cho các nhà nghiên cứu, giảng viên hoặc sinh viên có quan tâm đến vấn để quản lý nhà nước về đất đai nói chung và quản lý nhà nước về đất nông nghiệp nói riêng.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo và Phụ lục, luận văn gồm 3 chương:

Chương 1: Cơ sở lý luận của quản lý nhà nước về đất nông nghiệp.

Chương 2: Thực trạng quản lý nhà nước về đất nông nghiệp ở huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định

Chương 3: Quan điểm và giải pháp tăng cường quản lý nhà nước về đất nông nghiệp tại huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định.

CHƯƠNG 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC

VỀ ĐẤT NÔNG NGHIỆP

1.1. Khái niệm quản lý nhà nước về đất nông nghiệp

1.1.1. Khái niệm đất nông nghiệp

Luật đất đai năm 1993 ghi nhận: “Đất đai là tài nguyên quốc gia vô cùng quý giá, là tư liệu sản xuất đặc biệt, là thành phần quan trọng hàng đầu của môi trường sống, là địa bàn phân bố các khu dân cư, xây dựng các công tình kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh quốc phòng” [41].

Theo Từ điển tiếng Việt (1988), nông nghiệp là ngành sản xuất vật chất cơ bản của xã hội, cung cấp sản phẩm trồng trọt và sản phẩm chăn nuôi [74, tr.740].

Đất nông nghiệp đôi khi còn gọi là đất canh tác hay đất trồng trọt là những vùng đất, khu vực thích hợp cho sản xuất, canh tác nông nghiệp, bao gồm cả trồng trọt và chăn nuôi. Đây là một trong những nguồn lực chính trong nông nghiệp.

Theo Luật Đất đai năm 1993, “Đất nông nghiệp là đất được xác định chủ yếu để sử dụng vào sản xuất nông nghiệp như trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản hoặc nghiên cứu thí nghiệm về nông nghiệp” [41]. Cách hiểu về đất nông nghiệp như trên chỉ theo nghĩa hẹp. Do đó, Luật Đất đai năm 2003, đã không sử dụng khái niệm đất nông nghiệp của Luật ĐĐ năm 1993 nữa mà thay bằng thuật ngữ “nhóm đất nông nghiệp”, theo đó đất đai được phân thành 3 nhóm là: nhóm đất nông nghiệp; nhóm đất phi nông nghiệp và nhóm đất chưa sử dụng. Tiếp đó, Luật Đất đai năm 2013 ra đời đã kế thừa và tiếp nhận cách thức phân loại nhóm đất nông nghiệp theo Luật Đất đai năm 2003, đồng thời đã quy định cụ thể các loại “đất nông nghiệp khác”.

Sự phân loại theo Luật Đất đai năm 2013 là phù hợp. Một mặt, đảm bảo được thống nhất trong quản lý đất đai của Nhà nước ta, giúp cho các cơ quan quản lí đất đai ở địa phương thuận lợi hơn trong việc kiểm tra, theo dõi, giám sát quá trình khai thác, sử dụng đất của hộ gia đình, cá nhân. Mặt khác qua quá trình từ thực tế sử dụng đất nông nghiệp của các hộ gia đình, cá nhân từ xưa đến nay thì họ thường không sử dụng thuần túy một loại đất riêng rẽ như: đất trồng lúa, trồng màu mà đó là sự đan xen của việc kết hợp khai thác và sử dụng của nhiều loại đất khác nhau như: đất trồng lúa, trồng màu, trồng cây ăn quả, đất nuôi trồng thủy sản hoặc kết hợp với trồng rừng sản xuất, đất làm muối… vấn đề tận dụng và kết hợp sử dụng nhiều loại đất như vậy là một nhu cầu tất yếu khách quan của mỗi hộ gia đình, cá nhân nhằm mục đích chính trong suy nghĩ của họ là muốn nâng cao năng lực sản xuất, tận dụng quỹ đất và thời gian để khai thác hiệu quả đất đai, có điều kiện để mở rộng sản xuất và nghiên cứu ứng dụng các biện pháp tiến bộ khoa học kỹ thuật, đầu tư vốn thuận lợi, dễ dàng trong sản xuất… phải nói rằng đây cũng là sự phù hợp với chủ trương mà Đảng và Nhà nước ta đang khuyến khích nông dân sản xuất nông nghiệp theo mô hình nông trang trại, kết hợp giữa nông, lâm, ngư, diêm nghiệp đối với hộ nông dân. Việc phân loại đất nông nghiệp theo quy định pháp luật đất đai hiện hành là một sự phân loại hợp lí, thuận lợi cho việc quản lí, phù hợp với thực tế sử dụng đất của các hộ nông dân và vừa khuyến khích được hộ gia đình, cá nhân để phát triển nông nghiệp theo xu hướng của nền sản xuất hiện nay.

Qua nghiên cứu và từ các vấn đề phân tích trên, ta có thể đưa ra khái niệm về đất nông nghiệp như sau: Đất nông nghiệp là một phần trong tổng diện tích đất tự nhiên của mỗi địa phương, mỗi quốc gia, có đặc tính sử dụng giống nhau bao gồm tổng thể các loại đất, với tư cách là tư liệu sản xuất sử dụng cho mục đích sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp như trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản, khoanh nuôi tái sinh, bảo vệ môi rường sinh thái; nghiên cứu, thực hành, thí nghiệm về nông, lâm,diêm nghiệp.

1.1.2. Đặc điểm đất nông nghiệp

Đất nông nghiệp có những đặc điểm chung của đất như: mỗi thửa đất ứng với vị trí duy nhất trên vỏ trái đất, gắn với địa hình, nền khí hậu,tài nguyên và các công trình nhân tạo chung cho cả vùng hoặc tiểu vùng nhất định; về dài hạn cung đất là cố định trong khi cầu về đất thì không ngừng tăng lên, đi đôi với sự hiện diện nhiều hơn các công trình trên đất làm tăng tính năng của nó nên giá đất có xu hướng tăng; chất đất, bề mặt đất có thể thay đổi dưới tác động của tự nhiên, nhân tạo…

Ngoài ra, đất nông nghiệp còn có những đặc điểm riêng cơ bản sau đây:

Thứ nhất, đất nông nghiệp phải đáp ứng một số điều kiện nhất định về thổ nhưỡng, địa hình, hệ thống nước.

Mỗi loại đất nông nghiệp đòi hỏi các điều kiện khác nhau về thổ nhưỡng, nền khí hậu, các công trình phụ trợ,… đất trồng trọt đòi hỏi các điều kiện về chất đất, nền khí hậu, hệ thống tưới tiêu phù hợp với từng loại cây trồng; đất chăn nuôi gia súc đòi hỏi điều kiện quy mô diện tích đồng cỏ, hồ chứa nước… Đất mặt nước để nuôi trồng thủy sản hay đất làm muối đòi hỏi điều kiện về diện tích, về chất nước…Đặc điểm này của đất nông nghiệp cho thấy, không phải diện tích đất nào cũng có thể cải tạo để trở thành đất sản xuất nông nghiệp. Chính vì thế, các quốc gia đều phải có chính sách bảo vệ diện tích đất nông nghiệp tối thiểu, nhất là diện tích đất sản xuất đảm bảo an ninh lương thực.

Đất nông nghiệp thường chiếm tỷ trọng lớn trong tổng diện tích đất tự nhiên, xã hội càng phát triển số người làm nông nghiệp và đống góp của nông nghiệp vào GDP càng giảm. diện tích đất nông nghiệp có thể giảm nhưng vẫn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng diện tích tự nhiên. Do đất nông nghiệp chiếm tỷ trọng lớn trong tổng diện tích đất tự nhiên , trong khi đất là nguồn tài nguyên hữu hạn, nên việc sử dụng hiệu quả đất nông nghiệp tạo điều kiện chuyển một phần đất nông nghiệp sang sử dụng vào mục đích khác. Một trong những phương thức sử dụng tiết kiệm đất nông nghiệp là thâm canh, tăng vụ, áp dụng công nghệ sinh học sản xuất nông nghiệp có giá trị cao trên một diện tích đất xác định.

Đối với đất nông nghiệp, do sử dụng làm tư liệu sản xuất nên giá trị của đất này phụ thuộc vào các yếu tố thổ nhưỡng độ phì nhiêu, tầng dày của đất mặt, độ dốc, độ PH (độ chua) v.v… Độ phì hay độ màu mỡ là một thuộc tính tự nhiên của đất nông nghiệp và là yếu tố quyết định chất lượng của đất, đó là đặc trưng của đất nông nghiệp, thể hiện khả năng cung cấp dinh dưỡng cho cây trồng trong quá trình sinh trưởng và phát triển.

Thứ hai, đất nông nghiệp là tư liệu sản xuất chủ yếu trong nông nghiệp.

Đất đai giữ vai trò quan trọng trong sản xuất nông nghiệp bởi hiện nay loài người chưa có loại tư liệu sản xuất nào có thể thay thế ruộng đất trên quy mô rộng lớn đối với sinh vật, đất đai không chỉ là môi trường sống mà còn là nguồn cung cấp chất dinh dưỡng cho cây trồng. Tuy nhiên, trong thực tế sử dụng đất của các tổ chức, cá nhân, hộ gia đình, có những loại đất mà khởi nguồn được sử dụng mục đích chính là sản xuất nông nghiệp như: trồng trọt, chăn nuôi gia súc gia cầm, nuôi trồng thủy sản, nhưng do nhu cầu riêng của mỗi cá nhân muốn thay đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp nhằm để nâng cao hiệu quả sử dụng đất hoặc vì mục đích lợi ích khác có giá trị cao hơn so với mục đích sử dụng đất nông nghiệp nên các chủ thể đã tự ý làm thay đổi mục đích sử dụng so với ban đầu và diện tích đất nông nghiệp đó đã trở thành đất phi nông nghiệp. Sự thay đổi mục đích sử dụng đó có thể Nhà nước kiểm soát được và cho phép nếu phù hợp với quy hoạch chung của địa phương, tuy nhiên cũng có trường hợp Nhà nước không kiểm soát được việc cá nhân tự ý chuyển mục đích sử dụng đó, từ đó dẫn đến tình trạng sử dụng đất không đúng mục đích giữa thực tế và trên hồ sơ

1.1.3. Quản lý nhà nước về đất nông nghiệp

Quản lý nhà nước là thuật ngữ chỉ “sự tác động của các chủ thể mang tính quyền lực nhà nước, bằng nhiều biện pháp, tới các đối tượng quản lý nhằm thực hiện những chức năng đối nội và đối ngoại của Nhà nước trên cơ sở các quy luật phát triển xã hội, nhằm mục đích ổn định và phát triển đất nước” [61].

Trong hoạt động quản lý nhà nước về đất đai, Nhà nước bằng quyền lực của bộ máy nhà nước duy trì tác động có mục đích và có định hướng lên đối tượng quản lý đất đai cả về mặt quản lý của các cơ quan quản lý nhà nước về đất đai và cả việc sử dụng đất đai của các chủ thể sử dụng đất. Tại Điều 5 của Luật đất đai năm 2003 khẳng định “Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu” [41a]. Đến Luật đất đai năm 2013 thì lại khẳng định thêm một lần nữa: “Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý. Nhà nước trao quyền sử dụng đất cho người sử dụng đất theo quy định của Luật đất đai năm 2013 [41b].

Như vậy, quản lý nhà nước về đất đai ở Việt Nam có những nét khác biệt so với nhiều nước trên thế giới ở điểm: đất đai thuộc sở hữu toàn dân, có nghĩa là quản lý nhà nước về đất đai phải thể hiện được vai trò làm chủ của người dân thông qua các hoạt động mang tính đại diện của Nhà nước đối với các hoạt động như kiểm tra giám sát việc quản lý, sử dụng đất đai nhằm đem lại hiệu quả lớn nhất cho người dân, cho cộng đồng, cho xã hội. Nhà nước thông qua các cơ quan là chính quyền địa phương các cấp, các bộ ngành ở trung ương và ở địa phương thực hiện quyền đại diện chủ sở hữu toàn dân về đất đai tại địa bàn theo quy định. Do đó, có thể hiểu, quản lý nhà nước về đất đai là một lĩnh vực của quản lý nhà nước, được hiểu là hoạt động của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền trong việc sử dụng các phương pháp, các công cụ quản lý thích hợp nhằm tác động đến hành vi, hoạt động của người sử dụng đất đai nhằm đạt được mục đích sử dụng tiết kiệm, có hiệu quả đất đai trên phạm vi cả nước và trên từng địa phương.

Từ quan điểm chung về quản lý nhà nước về đất đai nêu trên, trong phạm vi luận văn này, quản lý nhà nước về đất nông nghiệp được hiểu là tổng hợp các hoạt động có sự phân cấp và phối hợp của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền đối với đất nông nghiệp và quá trình sử dụng, trao đổi đất nông nghiệp nhằm kiểm soát chặt chẽ quỹ đất nông nghiệp, khuyến khích sử dụng đất nông nghiệp hiệu quả, khuyến khích thị trường đất nông nghiệp phát triển, tạo điều kiện phát triển ngành nông nghiệp hiệu quả, có sức cạnh tranh.

1.2. Đặc điểm quản lý nhà nước về đất nông nghiệp

Quản lý của chính quyền địa phương đối với đất nông nghiệp là quản lý toàn diện theo địa giới hành chính dưới sự hướng dẫn, chỉ đạo của chính quyền cấp trên.

Thứ nhất, quản lý nhà nước về đất nông nghiệp là hoạt động mang tính thường xuyên, liên tục nhằm điều chỉnh các quan hệ quản lý và sử dụng đất nông nghiệp bằng việc ra quyết định quản lý hành chính mang tính cá biệt. Cũng như các hoạt động quản lý nhà nước nói chung, quản lý nhà nước về đất nông nghiệp được thực hiện bởi các cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định của pháp luật. Các cơ quan quản lý nhà nước ở địa phương thay mặt nhà nước thực hiện các hoạt động quản lý nhà nước về đất nông nghiệp tại địa phương đó bằng cách ban hành các quyết định quản lý hành chính. Thông thường các quyết định này được ban hành nhằm giải quyết các vụ việc cá biệt, đây là các quyết định áp dụng pháp luật; nó được thể hiện dưới các hình thức chủ yếu như quyết định giao đất, quyết định cho thuê đất, phê duyệtquy hoạch sử dụng đất; quyết định xử phạt vi phạm hành chính trong pháp luật đất đai. Đây là quyết định mang tính đơn phương và bắt buộc đối với phải thi hành.

Thứ hai,quản lý nhà nước về đất nông nghiệp phải phù hợp với mục tiêu của quản lý nhà nước về đất đai nói chung cũng như thị trường quyền sử dụng đất nông nghiệp. Mục tiêu của quản lý nhà nước về đất đai được xác định cụ thể trong Hiến pháp năm 2013, Luật đất đai năm 2013 và trong các quy định của pháp luật về đất đai, đó là bảo đảm sử dụng đất đai đúng mục đích, hiệu quả, tiết kiệm và bảo vệ môi trường ở mỗi địa phương và trong cả nước. Để đạt được mục tiêu đề ra trong quản lý nhà nước về đất đai, Nhà nước phải sử dụng các phương pháp (các biện pháp và cách thức) và các công cụ thích hợp để tác động vào đối tượng quản lý. Đặc biệt phải kết hợp hài hòa các phương pháp và sử dụng linh hoạt các công cụ để đạt được hiệu quả quản lý cao. Đó là các công cụ pháp luật, công cụ về thuế và lệ phí, công cụ hành chính và các phương pháp như phương pháp giáo dục, thuyết phục, phương pháp kinh tế, phương pháp cưỡng chế khi cần thiết. Ngoài ra, quản lý nhà nước về đất nông nghiệp cũng phải phù hợp với các giao dịch về quyền sử dụng đất nông nghiệp trong những khoảng thời gian và không gian nhất định để đảm bảo ổn định giá cả quyền sử dụng đất nông nghiệp và hạn chế các giao dịch thiếu lành mạnh.

Thứ ba, quản lý nhà nước về đất nông nghiệp là hoạt động gắn liền với quá trình thực hiện các mục tiêu kinh tế – xã hội của đất nước nói chung và mục tiêu kinh tế – xã hội của địa phương nói riêng, góp phần đảm bảo việc sử dụng đất nông nghiệp có hiệu quả, hợp lý, và công bằng. Đất nông nghiệp là tài nguyên vô cùng quý giá, là tài sản, tư liệu sản xuất đặc biệt, vì vậy, đất nông nghiệp cần được sử dụng một cách khoa học, tiết kiệm, nhằm mang lại lợi ích cao nhất cả về mặt vật chất và tinh thần cho mọi người, đặc biệt là những người sản xuất nông nghiệp. Đất nông nghiệp ở mỗi vùng, địa phương khác nhau có đặc tính khác nhau nên việc quản lý, sử dụng đất nông nghiệp muốn đạt hiệu quả phải phù hợp và phát huy thế mạnh của những đặc tính đó. Những đặc tính đáng lưu ý là điều kiện tự nhiên, (khí hậu, thổ nhưỡng, chất đất,…) tập quán canh tác (kinh nghiệm và tập tục địa phương) và lợi thế so sánh trong sản xuất địa phương. Dựa trên ưu thế của địa phương, chính quyền cần tạo điều kiện để các tổ chức sản xuất nông nghiệp có thể phát huy ưu thế trong sử dụng đất đai, nhất là cây trồng phù hợp với điều kiện tự nhiên. Ngoài ra, mỗi vùng, địa phương cũng có đặc điểm, trình độ phát triển kinh tế xã hội khác nhau. Do đó chính quyền địa phương thường căn cứ vào trình độ phát triển của địa phương để có phương sách quản lý đất nông nghiệp một cách hiệu quả. Thông qua hoạt động quản lý nhà nước, cơ quan Nhà nước tiến hành giao đất nông nghiệp ổn định lâu dài cho cá nhân và hộ gia đình, khuyến khích họ khai thác và sử dụng đất theo hướng có hiệu quả cũng như xử lý vi phạm (nếu có).

Thứ tư,quản lý nhà nước về đất nông nghiệp phải bảo đảm nguyên tắc tiết kiệm, hiệu quả, bảo vệ môi trường và không làm tổn hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của người sử dụng đất nông nghiệp cũng như lợi ích chính đáng của người sử dụng đất xung quanh. Sử dụng đất nông nghiệp tiết kiệm, hiệu quả và bảo vệ môi trường vừa là nguyên tắc vừa là mục tiêu của quản lý nhà nước về đất đai nói chung và quản lý nhà nước về đất nông nghiệp nói riêng, bởi lẽ, đất đai là nguồn tài nguyên quí giá có giới hạn về mặt số lượng (diện tích), trong khi đó sức ép về mặt dân số và nhu cầu sử dụng đất ngày càng tăng. Trong quản lý nhà nước về đất đai nói chung và quản lý nhà nước về đất nông nghiệp nói riêng cần chú trọng kết hợp hài hoà giữa lợi ích của nhà nước, lợi ích cộng đồng với lợi ích của người sử dụng đất, bởi vì đất đai không chỉ là tài sản của quốc gia, mà còn là tư liệu sản xuất của người sử dụng đất, nhất là đối với nông dân Việt Nam. Nếu chỉ coi trọng lợi ích của Nhà nước, xem nhẹ lợi ích của người sử dụng đất nông nghiệp thì không động viên được người sử dụng đất phát huy tính tích cực, sáng tạo trong sự phát triển kinh tế của đất nước. Ngược lại, nếu chỉ chú ý đến lợi ích của người sử dụng đất nông nghiệp thì sẽ làm ảnh hưởng đến lợi ích của quốc gia.

1.3. Vai trò quản lý nhà nước về đất nông nghiệp

Thứ nhất, quản lý nhà nước về đất nông nghiệp giúp quản lý và sử dụng đất đúng mục đích góp phần phát triển KT – XH. Thông qua hoạch định chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phân bổ đất đai có cơ sở khoa học nhằm phục vụ cho các mục đích KT – XH của đất đai nói chung và đất nông nghiệp nói riêng. Việc đảm bảo quản lý nhà nước về đất nông nghiệp sẽ giúp cho người sử dụng đất nông nghiệp nắm được quy hoạch, kế hoạch của Nhà nước, từ đó họ có được phương thức, biện pháp phù hợp để khai thác, sử dụng đất nông nghiệp đem lại lợi nhuận cao nhất cho bản thân cũng như góp phần ổn định và phát triển kinh tế – xã hội của địa phương. Đồng thời, thông qua công tác đánh giá, phân hạng đất, lập bản đồ địa chính, bản đồ hành chính các cấp, nhà nước nắm chắc toàn bộ quỹ đất đai cả về số lượng và chất lượng làm căn cứ cho việc đề ra các biện pháp KT – XH có hệ thống, có căn cứ khoa học nhằm sử dụng đất đai hiệu quả và hợp lý.

Thứ hai, quản lý nhà nước về đất nông nghiệp góp phần bảo đảm lợi ích quốc gia, lợi ích địa phương trên phương diện kiểm soát và sử dụng hợp lý quỹ đất nông nghiệp. Ở Việt Nam, sản xuất nông nghiệp đóng vai trò to lớn trong phát triển KT – XH của mỗi địa phương. Ở đa số các tỉnh, huyện, sản xuất nông nghiệp vẫn giữ vị trí trọng yếu trong tạo việc làm, thu nhập cho dân cư, thu ngân sách địa phương, trong thu ngoại tệ từ xuất khẩu, ổn định xã hội. Vì vậy, việc quản lý nhà nước về đất nông nghiệp nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất nông nghiệp là nhiệm vụ quan trọng của chính quyền địa phương. Hơn nữa, đất nông nghiệp thường chiếm diện tích chủ yếu và có vai trò lớn trong sự phát triển KT – XH của địa phương. Nếu quản lý tốt đất nông nghiệp sẽ khai thác được tiềm năng nguồn lực này cho phát triển KT – XH, đảm bảo được an ninh lương thực, đảm bảo được đời sống vật chất của người dân, góp phần thực hiện thắng lợi quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn. Vì vậy, chính quyền địa phương phải quan tâm quản lý đối với đất nông nghiệp, nhất là trong bối cảnh hiện nay, khi kinh tế địa phương đang trong giai đoạn phát triển mạnh các ngành phi nông nghiệp, cần chuyển diện tích lớn đất nông nghiệp sang đất phi nông nghiệp. Theo phân cấp của Luật Đất đai, trách nhiệm thu hồi đất, giải phóng mặt bằng, điều hành ngành nông nghiệp là của chính quyền địa phương. Ngoài đặc điểm chiếm diện tích lớn ở mỗi địa phương, đất nông nghiệp còn có nguồn gốc từ lâu đời gắn với lịch sử địa phương, nên việc giao cho chính quyền địa phương xác định nguồn gốc của đất để làm các thủ tục hành chính liên quan đến đất nông nghiệp sẽ thuận lợi hơn. Mặt khác, đất nông nghiệp phụ thuộc rất lớn vào điều kiện tự nhiên, vị trí địa lý, thổ nhưỡng của mỗi vùng, tức có tính đặc thù cao ở mỗi địa phương, do đó đòi hỏi sự quản lý trực tiếp của mỗi địa phương phù hợp với đặc trưng của mỗi tỉnh để nâng cao hiệu quả sử dụng đất, đáp ứng nhu cầu phát triển KT – XH của mỗi địa phương. Ngoài ra, các chính sách liên quan đến thuế sử dụng đất nông nghiệp, thuế chuyển quyền sử dụng đất, giá cả, tín dụng… trong hệ thống quy định về quản lý nhà nước về đất nông nghiệp mang tính linh hoạt, thông thoáng sẽ có thể khuyến khích người sử dụng đất nông nghiệp tích cực, chủ động trong khai thác và sử dụng đất nông nghiệp.

Thứ ba, việc quản lý nhà nước về đất nông nghiệp góp phần bảo đảm lợi ích của người sử dụng đất. Chính quyền địa phương quản lý đối với đất nông nghiệp với tư cách là cơ quan bảo vệ tài nguyên quốc gia vì đất là tài nguyên khan hiếm, một trong những nguồn lực cơ bản của phát KT – XH. Lợi ích quốc gia, lợi ích địa phương trước hết thể hiện ở phương diện kiểm soát và sử dụng hợp lý tổng quỹ đất của tỉnh. Chính quyền địa phương có khả năng phối hợp với Tổng cục quản lý đất đai tiến hành kiểm kê, kiểm soát, đo đạc bản đồ, phân định địa giới hành chính, phân hạng đất, thăm dò địa chất, điều tra khoáng sản, tài nguyên, lên kế hoạch sử dụng dài hạn quỹ đất. Trên cơ sở dữ liệu quỹ đất của tỉnh, chính quyền địa phương có thể xây dựng quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất nông nghiệp tại địa phương một cách hợp lý. Để đảm bảo lợi ích của người sử dụng đất nông nghiệp ở mỗi địa phương thì cần thiết phải có sự quản lý đối với đất nông nghiệp của chính quyền địa phương. Thông qua việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nông nghiệp, chính quyền địa phương nắm được hiện trạng sử dụng đất và các biến động về đất nông nghiệp trong quá trình sử dụng, mặt khác thừa nhận và bảo hộ quyền lợi hợp pháp của người sử dụng đất nông nghiệp. Ngoài ra, thông qua pháp luật đất đai và hệ thống các chính sách đất đai, chính quyền cấp tỉnh bảo vệ lợi ích chính đáng của người sử dụng đất nông nghiệp trong các vấn đề giao đất, thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư; tài chính đất; chuyển mục đích sử dụng đất…

Thứ tư, quản lý nhà nước về đất nông nghiệp còn giúp đảm bảo cho các quan hệ sử dụng đất nông nghiệp được vận hành theo đúng quy định của Nhà nước. Công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát, nhà nước trong quản lý nhà nước về đất nông nghiệp có nhiệm vụ phát hiện kịp thời các sai sót, các vi phạm trong sử dụng đất của tổ chức, hộ gia đình, cá nhân, Nhà nước đảm bảo cho các quan hệ sử dụng đất đai được vận hành theo đúng quy định của nhà nước.

1.4. Nội dung quản lý nhà nước về đất nông nghiệp

Theo Luật Đất đai năm 2015, công tác quản lý nhà nước về đất đai có 15 nội dung liên quan đế quản lý và sử dụng đất. Tuy nhiên, trong khuôn khổ của một luận văn, phạm vi nghiên cứu thực trạng pháp luật và thực tiễn thi hành pháp luật quản lý nhà nước về đất nông nghiệp ở cấp huyện qua 4 nội dung sau:

1.4.1. Quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất nông nghiệp

Mục đíchquy hoạch sử dụng đất nông nghiệp là để cụ thể hóa chiến lược sử dụng đất nông nghiệp và phát triển không gian theo quy hoạch quốc gia đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt; phân tích việc sử dụng đất nông nghiệp gắn với quy hoạch cây trồng, vật nuôi phù hợp nhằm đạt được năng suất cao nhất, phù hợp với cơ cấu phát triển kinh tế nông nghiệp ở địa phương trên cơ sở phát huy tối đa hiệu quả sử dụng quỹ đất trên địa bàn.

Quy hoạch sử dụng đất nông nghiệp là một nội dung quan trọng trong quản lý nhà nước về đất nông nghiệp của chính quyền địa phương. Đây là công cụ giúp cho chính quyền địa phương định hướng sử dụng đất nông nghiệp đến từng thửa đất, bảo đảm cơ sở pháp lý cho việc giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất nông nghiệp với mục tiêu phát triển KT – XH của địa phương.

Quy hoạch sử dụng đất, trong đó có đất nông nghiệp, thường được Uỷ ban nhân dân tỉnh, Uỷ ban nhân dân huyện xây dựng cho thời gian từ 10 – 20 năm dựa trên quy hoạch sử dụng đất cấp quốc gia, quy hoạch tổng thể và điều kiện phát triển KT – XH của tỉnh, của huyện, hiện trạng tiềm năng sử dụng đất, kết quả thực hiện quy hoạch sử dụng đất của tỉnh ở kỳ trước và nhu cầu, định mức sử dụng đất của địa phương.

Việc xây dựng quy hoạch sử dụng đất nông nghiệp cấp tỉnh, cấp huyện phải đảm bảo được các nội dung cơ bản: định hướng sử dụng đất nông nghiệp 10 năm, xác định diện tích các loại đất nông nghiệp theo nhu cầu sử dụng của tỉnh, của huyện. xác định các khu vực sử dụng đất nông nghiệp; lập bản đồ quy hoạch sử dụng đất nông nghiệp và đưa ra các giải pháp nhằm thực hiện quy hoạch sử dụng đó trên địa bàn.

Trên cơ sở quy hoạch sử dụng đất nông nghiệp được các cấp có thẩm quyền phê duyệt, chính quyền tỉnh, huyện, xã lập kế hoạch sử dụng đất cho các năm sử dụng; phân tích, đánh giá về tính phù hợp và hiệu quả của việc sử dụng đất nông nghiệp trong kỳ trước cũng như đề xuất một số dự kiến phát triển trong kỳ tới đảm bảo đáp dứng nhu cầu trong phát triển đô thị địa phương. Thực tiễn cho thấy, nếu có quy hoạch sử dụng đất nông nghiệp mà không có kế hoạch sử dụng thì quy hoạch đó không được thực hiện và có thể dẫn tới phá vỡ quy hoạch.

Trong quá trình xây dựng quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất nông nghiệp của chính quyền cấp tỉnh, cấp huyện trước khi trình cấp trên phê duyệt, Uỷ ban nhân dân các cấp phải trình Hội đồng nhân dân cùng cấp thông qua quy hoạch, kế hoạch này. Ngoài ra, chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh có nhiệm vụ thành lập hội đồng thẩm định quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất cấp huyện và phê duyệt quy hoạch, kế hoạch sử dụng đó.

1.4.2. Thống kê, kiểm kê đất đai, lập bản đồ hiện trạng sử dụng đất nông nghiệp

Thống kê, kiểm kê đất nông nghiệp là một hoạt động cần thiết của chính quyền địa phương để nắm được số lượng và diễn biến đất nông nghiệp trong quá trình quản lý và sử dụng. hoạt động này nhằm đánh giá hiện trạng sử dụng đất trong so sánh với quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất nông nghiệp đã được phê duyệt để có quyết định phù hợp cũng như để cung cấp dữ liệu hệ thống thông tin đất đai.

Ủy ban nhân dân cấp tỉnh chỉ đạo cấp huyện và xã tổ chức thu thập dữ liệu về diện tích đất nông nghiệp theo mục đích sử dụng và đối tượng sử dụng; dữ liệu về đối tượng sử dụng đất nông nghiệp, dữ liệu về việc chuyển mục đích sử dụng đất nông nghiệp. Sau khi tập hợp đầy đủ dữ liệu, cơ quan quản lý đất đai của tỉnh xử lý các số liệu thu thập được để có các số liệu tổng hợp và lập báo cáo thống kê, kiểm kê. Uỷ ban nhân dân cấp huyện và xã lưu giữ các thông tin về đất nông nghiệp trên địa bàn. Công tác thống kê đất nông nghiệp mang tính định kỳ thường xuyên 1 năm một lần còn kiểm kê mang tính giai đoạn là 5 năm một lần. Trong khi đó, công tác lập bản đồ hiện trạng sử dụng đất nông nghiệp mang tính thời điểm và thường được lập theo đơn vị hành chính.

1.4.3. Kiểm tra, thanh tra việc chấp hành pháp luật đất đai; xử lý vi phạm hành chính trong quản lý, sử dụng đất nông nghiệp

Công tác kiểm tra, giám sát quản lý và sử dụng đất nông nghiệp là hoạt động quan trọng giúp cơ quan nhà nước có thẩm quyền quản lý nhà nước về đất nông nghiệp nắm chắc tình hình diễn biến về sử dụng đất nông nghiệp, phát hiện những vi phạm và giải quyết những vi phạm đó. Với hoạt động này này, nhà nước đảm bảo cho các quan hệ sử dụng đất nông nghiệp được vận hành theo đúng quy định của nhà nước. Với việc kiểm tra, giám sát, nhà nước có nhiệm vụ phát hiện kịp thời các sai sót, ách tắc, các vi phạm trong sử dụng đất của tổ chức, hộ gia đình, cá nhân. Hoạt động kiểm tra, thanh tra việc chấp hành pháp luật đất đai tập trung vào những nội dung chính như:

+ Kiểm tra tình hình thực hiện kế hoạch của các ngành các cấp;

+ Kiểm tra giám sát việc chấp hành thực hiện các văn bản pháp lý, chủ trương chính sách của nhà nước;

+ Kiểm tra kiểm soát việc sử dụng đất của cả nước cũng như của từng hộ gia đình cá nhân;

+ Kiểm tra các công cụ và chính sách quản lý;

+ Kiểm tra việc thực hiện các vai trò, chức năng quản lý của các cơ quan nhà nƣớc trong lĩnh vực quản lý đất đai.

Việc kiểm tra, thanh tra thường đi đôi với xử lý, mức độ xử lý có thể từ hành chính đến hình sự tuỳ theo vi phạm. Công tác kiểm tra, thanh tra đất nông nghiệp cần phải được tiến hành thường xuyên, kịp thời, nhằm đảm bảo cho Luật đất đai được chấp hành nghiêm trong quản lý và sử dụng đất. Đây là nhiệm vụ đặc biệt quan trọng của quản lý nhà nước về đất nông nghiệp của chính quyền các cấp ở địa phương. Công tác kiểm tra muốn có hiệu quả đòi hỏi quản lý phải có kế hoạch tổ chức thực hiện cụ thể, phân công trách nhiệm, cũng như các mục tiêu rõ ràng. Cần tránh tình trạng kiểm tra lấy lệ, hình thức và không có nội dung cụ thể. Các sai phạm, thiếu sót, những vấn đề bất cập trong quản lý cần được phát hiện, phân tích và có thông tin phản hồi nhanh chóng để điều chỉnh.

1.4.4. Giải quyết tranh chấp đất đai, giải quyết khiếu nại, tố cáo trong quản lý và sử dụng đất nông nghiệp

Trong quá trình quản lý nhà nước về đất nông nghiệp, khi xảy ra những tranh chấp, khiếu nại, tố cáo liên quan đến khai thác và sử dụng đất nông nghiệp, cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải giải quyết các tranh chấp, khiếu nại, tố cáo đó. Giải quyết tranh chấp về đất nông nghiệp, giải quyết khiếu nại, tố cáo các vi phạm trong việc quản lý và sử dụng đất nông nghiệp là biện pháp nhằm điều chỉnh các quan hệ đất đai theo đúng pháp luật, bảo vệ quyền lợi hợp pháp của người sử dụng đất nông nghiệp đem lại sự công bằng xã hội, góp phần nâng cao tinh thần đoàn kết trong nhân dân, nâng cao lòng tin của nhân dân đối với các cấp chính quyền và giữ vững được an ninh chính trị trong xã hội.

Các vụ khiếu nại về đất đai nói chung và khiếu nại, tố cáo về đất nông nghiệp nói riêng thường xuất phát từ sự tồn tại có tính chất lịch sử của chính sách đất đai của Nhà nước cũng như chính sách đổi mới cơ chế kinh tế và phát triển nền kinh tế theo cơ chế thị trường. Vì thế, các cơ quan có thẩm quyền cần chú trọng vấn đề này, các khiếu kiện, tranh chấp cần được làm rõ nguyên nhân và giải quyết triệt để, thấu tình đạt lý ngay từ đầu. Đồng thời, việc quản lý nhà nước về giải quyết khiếu nại tố cáo về đất nông nghiệp phải được thực hiện theo đúng thẩm quyền,trình tự thủ thục của pháp luật. chính quyền địa phương phải công khai các quyết định giải quyết tranh chấp về đất nông nghiệp, đảm bảo trật tự ổn định, công bằng trên địa bàn quản lý. Có như vậy mới có thể tạo ra sự ổn định trong đời sống xã hội của địa phương.

Để giải quyết vấn đề một cách triệt để cần phải có các quy định luật pháp rõ ràng, hệ thống thông tin, lưu trữ, các sơ đồ, bản đồ được đo đạc với mức độ chính xác cao, sự phối hợp chặt chẽ của địa phương với các cơ quan tư pháp như Toà án, Viện kiểm sát theo một phương thức quản lý khoa học và thực sự dân chủ.

1.5. Cơ quan quản lý nhà nước về đất nông nghiệp

Theo quy định của Luật Đất đai năm 2013, cơ quan quản lý nhà nước về đất đai được tổ chức thống nhất từ Trung ương đến địa phương gồm: Chính phủ; Bộ Tài nguyên và Môi trường; Cơ quan quản lý nhà nước về đất đai ở tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương: Sở Tài nguyên và Môi trường; Cơ quan quản lý nhà nước về đất đai ở quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh: Phòng Tài Nguyên và Môi trường; Cơ quan quản lý nhà nước về đất đai ở xã, phường, thị trấn [41].

Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội, là cơ quan hành chính cao nhât ờ nước ta, thực hiện việc thống nhất quản lý mọi mặt của đời sống xã hội, trong đó có lĩnh vực quản lý nhà nước về đất nông nghiệp. Bộ Tài nguyên và Môi trường là cơ quan tham mưu cho Chính phủ và chịu trách nhiệm truớc Chính phủ trong việc quản lý Nhà nước về đất đai. Uỷ ban nhân dân các cấp thực hiện quyền đại diện chủ sở hữu về đất đai và quản lý đất đai ở địa phương trong phạm vi lãnh thổ. Sở Tài nguyên và Môi trường, Phòng Tài nguyên và Môi trường giúp Uỷ ban nhân dân tỉnh và Uỷ ban nhân dân huyện cùng cấp trong việc quản lý nhà nước về Tài nguyên và Môi trường, trong đó có quản lý đất đai trên cơ sở phân cấp quản lý về đẩt đai. Cán bộ địa chính cấp xã là người giúp việc cho Uỷ ban nhân dân cấp xã thực hiện quản lý Nhà nước về Tài nguyên và Môi trường trong phạm vi của cấp xã.

Tại cấp huyện, theo quy định tại Điều 4 Nghị định 43/2014/NĐ-CP (được sửa đổi bởi nghị định 01/2017/NĐ-CP ngày 06 tháng 01 năm 2017) quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật đất đai năm 2013 thì Cơ quan quản lý đất đai cấp huyện gồm: Hội đồng nhân dân cấp huyện, Uỷ ban nhân dân huyện và Phòng Tài nguyên và Môi trường.

LIỆN HỆ:

SĐT+ZALO: 0935568275

E:\DỮ LIỆU COP CỦA CHỊ YẾN\LUAN VAN VIEN HAN LAM\VIEN HAN LAM DOT 12\SAU BAO VE/ DANG DINH KHA

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *