Mối quan hệ giữa bất bình đẳng thu nhập và tăng trưởng kinh tế trên địa bàn tỉnh Quảng Nam

Mối quan hệ giữa bất bình đẳng thu nhập và tăng trưởng kinh tế trên địa bàn tỉnh Quảng Nam

Mối quan hệ giữa bất bình đẳng thu nhập và tăng trưởng kinh tế trên địa bàn tỉnh Quảng Nam

  1. Sự cần thiết của việc nghiên cứu đề tài

Một xã hội phát triển toàn diện đòi hỏi không chỉ tăng trưởng kinh tế đơn thuần mà còn cần tới sự phân phối công bằng hơn. Tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội là những vấn đề lớn mà bất cứ xã hội nào cũng đều phải quan tâm đến. Tăng trưởng nhanh và thực hiện phân phối công bằng là những mục tiêu mà nhiều địa phương đều mong muốn đạt được. Giữa tăng trưởng kinh tế và phân phối thu nhập có sự liên quan mật thiết với nhau. Đây là những chủ đề đã và đang được các nhà kinh tế trong và ngoài nước đặc biệt quan tâm.

Theo lý thuyết truyền thống, thực hiện mục tiêu công bằng xã hội, đặc biệt là hướng tới phân phối thu nhập bình đẳng hơn có thế mâu thuẫn với mục tiêu đảm bảo cho nền kinh tế hoạt động hiệu quả hơn và có tăng trưởng nhanh hơn. Theo nhà kinh tế Simon Kuznets (1955), bất bình đẳng trong phân phối thu nhập có xu hướng nới rộng trong những giai đoạn đầu của quá trình phát triển, trở nên ổn định trong một giai đoạn ngắn, và sau đó thu hẹp dần trong những giai đoan sau khi nền kinh tế đã chín muồi. Các nghiên cứu sau đó như Ahluwwalia (1976) và Psacharopoulos và các cộng sự (1995) đã ủng hộ cho giả thuyết Kuznets. Tuy nhiên, các nghiên cứu của Deininger và SQuyre (1996), Chen và Ravallion (1997), Easterly (1999), Dollar, và Kraay (2002) lại cho thấy tăng trưởng không có tác động đến bất bình đẳng.

Sau khi lý thuyết tăng trưởng nội sinh được giới thiệu vào giữa thập niên 1980, các mối quan tâm đã chuyển sang nghiên cứu tác động của phân phối thu nhập đến tăng trưởng kinh tế. Kết luận rút ra từ các nghiên cứu rất khác nhau. Các nghiên cứu như Persson và Tabellini (1994), Clarke (1995), Persson và Tabellini (1994) cho thấy bất bình đẳng thu nhập gây tổn hại cho tăng trưởng kinh tế, trong khi Li và Zou (1998), Frank (2009) lại phát hiện bất bình đẳng thu nhập có tác động dương đến tăng trưởng kinh tế.

Quảng Nam là một tỉnh ven biển thuộc vùng phát triển kinh tế trọng điểm của miền Trung. Vị trí địa lý kinh tế thuận lợi, có nhiều lợi thế trong giao lưu kinh tế và thu hút các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Trong những năm qua, kinh tế trên địa bàn tỉnh Quảng Nam phát triển mạnh mẽ và đạt được nhiều thành công nhất định. Tuy nhiên, đi kèm với quá trình phát triển đó cũng xuất hiện nhiều vấn đề kinh tế xã hội phát sinh, mà một trong những vấn đề đó là bất bình đẳng phân phối thu nhập. Sự gia tăng chênh lệch về thu nhập giữa các nhóm dân cư và giữa các vùng, khoảng cách giàu nghèo có xu hướng tăng lên, gây trở ngại cho sự phát triển bền vững của tỉnh.

Tăng trưởng kinh tế và phân phối thu nhập là những chủ đề được quan tâm nghiên cứu ở Việt Nam. Nhìn chung, các công trình nghiên cứu chủ yếu mới chỉ bàn riêng hoặc về tăng trưởng kinh tế hoặc về phân phối thu nhập. Gần đây đã có một số nghiên cứu mối quan hệ giữa bất bình đẳng thu nhập và tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, các nghiên cứu chủ yếu là nghiên cứu định tính và các nghiên cứu định lượng chủ yếu mới tập trung nghiên cứu tác động của tăng trưởng kinh tế đến bất bình đẳng thu nhập. Việc nghiên cứu tác động của bất bình đẳng thu nhập đến tăng trưởng kinh tế còn ít. Bắt nguồn từ thực tế trên, em quyết định chọn đề tài: “Mối quan hệ giữa bất bình đẳng thu nhập và tăng trưởng kinh tế trên địa bàn tỉnh Quảng Nam”.

2. Mục tiêu nghiên cứu

Mục tiêu tổng quát là nghiên cứu mối quan hệ giữa bất bình đẳng thu nhập và tăng trưởng kinh tế ở tỉnh Quảng Nam.

Mục tiêu cụ thể nghiên cứu cần hướng tới, gồm:

– Hệ thống cơ sở lý thuyết và thực nghiệm về mối quan hệ giữa bất bình đẳng thu nhập và tăng trưởng kinh tế;

– Phân tích thực trạng bất bình đẳng thu nhập và tăng trưởng kinh tế ở Quảng Nam trong thời gian qua;

– Phân tích mối quan hệ giữa bất bình đẳng thu nhập và tăng trưởng kinh tế ở Quảng Nam;

– Đề xuất các quan điểm và giải pháp nhằm tận dụng tác động tích cực và hạn chế tác động tiêu cực của bất bình đẳng thu nhập đến tăng trưởng kinh tế ở Quảng Nam.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu: Mối quan hệ giữa bất bình đẳng thu nhập và tăng trưởng kinh tế ở Quảng Nam.

Phạm vi nghiên cứu: Luận văn chỉ nghiên cứu phân phối thu nhập theo quy mô với trọng tâm là nghiên cứu bất bình đẳng thu nhập giữa các nhóm dân cư với tăng trưởng kinh tế.

Số liệu được thu thập từ Cục thống kê và UBND các huyện, thành phố của tỉnh trong giai đoạn 2012 – 2014.

4. Phương pháp nghiên cứu:

Luận văn sử dụng các phương pháp thống kê, phân tích, tổng hợp số liệu, hồi quy tuyến tính, phương pháp đánh giá.

5. Ý nghĩa khoa học của luận văn

Về mặt lý luận, luận văn cung cấp cho những ai quan tâm đến vấn đề bất bình đẳng thu nhập và tăng trưởng kinh tế một cách có hệ thống lý luận tương đối đầy đủ.

Về mặt thực tế, đây là một trong những số ít nghiên cứu ở Việt Nam lượng hóa được mối quan hệ giữa bất bình đẳng thu nhập và tăng trưởng kinh tế, cung cấp một căn cứ tham khảo cho việc hoạch định các chiến lược phân phối thu nhập, tăng trưởng cũng như nghiên cứu sâu về chủ đề này cho từng tỉnh, thành phố khác.

Luận văn chứng minh tầm quan trọng của các chính sách trong việc giải quyết mối quan hệ giữa bất bình đẳng thu nhập và tăng trưởng kinh tế.

6. Kết cấu của luận văn

Ngoài lời mở đầu, kết luận và danh mục các tài liệu tham khảo, luận văn được kết cấu thành 4 chương:

Chương 1: Cơ sở lý luận về mối quan hệ giữa bất bình đẳng thu nhập và tăng trưởng kinh tế

Chương 2: Thực trạng bất bình đẳng thu nhập và tăng trưởng kinh tế trên địa bàn tỉnh Quảng Nam

Chương 3: Phân tích mối quan hệ giữa bất bình đẳng thu nhập và tăng trưởng kinh tế trên địa bàn tỉnh Quảng Nam

Chương 4: Bàn luận kết quả và hàm ý chính sách

CHƯƠNG 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA MỐI QUAN HỆ BẤT BÌNH ĐẲNG

THU NHẬP VÀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ

    1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ BẤT BÌNH ĐẲNG THU NHẬP
      1. Khái niệm về bất bình đẳng thu nhập

Bất bình đẳng thu nhập đề cập đến hiện tượng thu nhập được phân phối không đều giữa các cá nhân hoặc các hộ gia đình trong nền kinh tế.

      1. Đo lường bất bình đẳng thu nhập

Có rất nhiều thước đo bất bình đẳng thu nhập. Mỗi thước đo đề có những ưu, nhược điểm riêng. Luận văn giới thiệu những thước đo phố biến nhất và sử dụng trong các nghiên cứu thực nghiệm ở các chương sau bao gồm: tỷ lệ giữa thu nhập bình quân của nhóm 20% hộ gia đình giàu nhất với thu nhập bình quân của nhóm 20% hộ gia đình nghèo nhất (Q5/Q1); Đường Lorenz; Hệ số GINI; và tiêu chuẩn 40 của Ngân hàng Thế giới.

      1. Các nhân tố ảnh hưởng đến bất bình đẳng thu nhập

Nhìn chung các nguyên nhân gây ra bất bình đẳng trong phân phối thu nhập có thể xếp vào hai nhóm: bất bình đẳng trong phân phối thu nhập từ tài sản; và bất bình đẳng trong phân phối thu nhập từ lao động.

a. Bất bình đẳng trong phân phối thu nhập từ tài sản

Trong nền kinh tế thị trường, một phần thu nhập của các cá nhân nhận được từ sở hữu các nguồn lực. Tùy theo quy mô và cơ cấu danh mục tài sản nắm giữ, cũng như giá thuê các tài sản đó, thu nhập của các cá nhân từ tài sản có thể khác nhau rất nhiều. Tài sản của các cá nhân được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau, mà chủ yếu là do được thừa kế tài sản hoặc do tiết kiệm trong quá khứ.

Mối quan hệ giữa bất bình đẳng thu nhập và tăng trưởng kinh tế trên địa bàn tỉnh Quảng Nam
Mối quan hệ giữa bất bình đẳng thu nhập và tăng trưởng kinh tế trên địa bàn tỉnh Quảng Nam

b. Bất bình đẳng trong phân phối thu nhập từ lao động

Mỗi người lao động có những đặc điểm rất khác nhau như sức khỏe, năng lực, trình độ, kỹ năng, kinh nghiệm và sở thích. Các công việc cũng khác nhau về tiền lương và các đặc điểm phi tiền tệ. Những khác biệt này có ảnh hưởng đến cung, cầu lao động và thu nhập của các cá nhân.

    1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ
      1. Khái niệm tăng trưởng kinh tế

Tăng trưởng kinh tế được định nghĩa là sự gia tăng mức sản xuất của nền kinh tế theo thời gian. Nhìn chung tăng trưởng kinh tế được tính bằng phần trăm thay đổi của GDP thực tế hay GDP thực tế bình quân đầu người.

      1. Các nhân tố ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế

Tăng trưởng kinh tế chịu tác động của nhiều nhân tố, bao gồm nhân tố kinh tế và nhân tố phi kinh tế.

a. Các nhân tố kinh tế

Các nhân tố kinh tế tác động tăng trưởng kinh tế là những nhân tố tác động trực tiếp đến các yếu tố đầu vào và đầu ra của nền kinh tế, bao gồm vốn, lao động, tiến bộ công nghệ và tài nguyên.

b. Các nhân tố phi kinh tế

Khác với các nhân tố kinh tế, các nhân tố chính trị, xã hội, thể chế hay còn gọi là các nhân tố phi kinh tế, có tác động gián tiếp và rất khó lượng hóa cụ thể mức độ tác động của chúng đến tăng trưởng kinh tế. Có thể kể ra một số nhân tố phi kinh tế tác động đến tăng trưởng như: vai trò của Nhà nước, các yếu tố văn hóa – xã hội, thể chế, cơ cấu dân tộc tôn giáo và sự tham gia của cộng đồng.

    1. TỔNG QUAN CÁC LÝ THUYẾT VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA BẤT BÌNH ĐẲNG THU NHẬP VÀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ

Nhiều nghiên cứu đã nỗ lực đưa ra lời đáp cho câu hỏi lớn: Liệu các quốc gia có phải đối mặt với sự đánh đổi giữa giảm bất bình đẳng thu nhập và cải thiện thành tựu tăng trưởng hay không, liệu bất bình đẳng thu nhập có ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng kinh tế của một quốc gia hay không? Nếu có, thì hình mẫu cụ thể của mối quan hệ là gì và tại sao? Giả thuyết về mối quan hệ giữa bất bình đẳng thu nhập và tăng trưởng kinh tế rất nhiều và đa dạng. Một số nghiên cứu lý thuyết cho thấy bất bình đẳng thu nhập và tăng trưởng có mối quan hệ đánh đổi như chấp nhận bất bình đẳng nền kinh tế sẽ tăng trưởng nhanh hơn. Theo lý thuyết truyền thống, để lấy thu nhập của người giàu chuyển cho người nghèo, Chính phủ phải thực hiện các chính sách tái phân phối thu nhập, ví dụ như thông qua hệ thống thuế thu nhập lũy tiến và các chương trình phúc lợi mà điều này sẽ làm giảm động lực lao động và gây ra tổn thất cho tăng trưởng kinh tế. Trong khi đó nhiều lý thuyết lại cho thấy bất bình đẳng thu nhập có thể làm giảm tăng trưởng kinh tế, bao gồm: Lý thuyết kinh tế chính trị được phát triển bởi các nhà nghiên cứu Alesina và Rodrik (1994), Persson và Tabellini (1994); Lý thuyết thị trường vốn không hoàn hảo được xây dựng bởi các nhà nghiên cứu Galor và Zeira (1993), Aghion và Bolton (1997), Chiou (1998), Grossman và Kim (1996); Lý thuyết những vấn đề về giáo dục và sinh sản được xây dựng bởi Perotti (1996); Lý thuyết so sánh và xã hội của Knell (1998); Todaro (1998).

Tóm lại, tăng trưởng kinh tế và bất bình đẳng thu nhập tác động trực tiếp đến nhau, tăng trưởng cao giúp giảm bất bình đẳng thu nhập, bất bình đẳng thu nhập là điều kiện để có tăng trưởng cao,… Hai nhân tố này tác động tới nhau thông qua các kênh truyền dẫn đầu tư, tiết kiệm, giáo dục, tín dụng, phân phối lại thông qua thuế và trợ cấp. Các kênh truyền dẫn này sẽ quyết định tăng trưởng và bất bình đẳng thu nhập tác động tới nhau như thế nào. Vấn đề đặt ra là Nhà nước ta phải xác định kênh nào hữu ích, kênh nào cho tác động tiêu cực để đưa ra nhưng giải pháp nhằm mục tiêu tăng trưởng kinh tế đi đôi với công bằng xã hội, giảm bất bình đẳng thu nhập.

1.4. XÁC ĐỊNH MÔ HÌNH ƯỚC LƯỢNG

Căn cứ vào lý thuyết và cân nhắc nguồn dữ liệu sẵn có ở tỉnh Quảng Nam, đề tài sử dụng mô hình thực nghiệm sau để ước lượng tác động của bất bình đẳng trong phân phối thu nhập tới tăng trưởng kinh tế ở Quảng Nam:

GROWTH = β0 + β1INEQUALITY + β2X + ei

Trong đó, GROWTH là biến tốc độ tăng trưởng GDP, tuy nhiên dựa vào phân tích phân phối của GDP, nghiên cứu sẽ sử dụng dạng hàm với biến phụ thuộc là lnGDP. INEQUALITY là biến số đo lường bất bình đẳng thu nhập. Luận văn sử dụng 2 biến đo lường bất bình đẳng thu nhập để đại diện cho biến INEQUALITY là GINI và INCGAP. Biến GINI là hệ số GINI được sử dụng để biểu thị bất bình đẳng trong phân phối thu nhập. Ở Việt Nam số liệu GINI không có sẵn cho các tỉnh/thành, tác giả đã tự tính hệ số GINI thông qua bộ số liệu VHLSS. Biến INGAP là biến đo lường khoảng cách thu nhập giữa nhóm giàu nhất và nhóm nghèo nhất. Biến này cũng được tính thông qua bộ số liệu VHLSS. X là các biến ngoại sinh có tác động đến tăng trưởng kinh tế bao gồm tỷ lệ đầu tư trong GDP, lực lượng lao động.

CHƯƠNG 2

THỰC TRẠNG BẤT BÌNH ĐẲNG THU NHẬP VÀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG NAM

2.1. ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN KINH TẾ XÃ HỘI TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG NAM

Quảng Nam là một tỉnh ven biển, thuộc vùng Duyên hải Nam Trung bộ, nằm ở vị trí trung điểm đất nước theo trục Bắc – Nam; phía Bắc giáp thành phố Đà Nẵng, phía Đông giáp biển Đông với trên 125 km bờ biển, phía Tây giáp tỉnh Kon Tum và nước cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào, phía Nam giáp tỉnh Quảng Ngãi.

Quảng Nam nằm ở một vị trí chiến lược trong khu vực duyên hải miền Trung, gắn liền với một chuỗi các điểm đến về du lịch trong khu vực. Phía cuối của khu vực duyên hải này, Quảng Nam cũng có cơ hội để xây dựng cơ sở hạ tầng qui mô làm đầu mối giao thông của khu vực như cảng biển Kỳ Hà, sân bay quốc tế Chu Lai, khu kinh tế mở Chu Lai. Với đầy đủ các nguồn tài nguyên về rừng, biển, mặt nước, lại nằm trong hành lang Đông – Tây, Quảng Nam có rất nhiều tiềm năng phát triển kinh tế.

2.2. THỰC TRẠNG BẤT BÌNH ĐẲNG THU NHẬP TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG NAM

a. Thực trạng bất bình đẳng chung

Theo số liệu tính toán từ niên giám thống kê cho thấy thu nhập bình quân đầu người có xu hướng gia tăng trong khi chênh lệch giữa nhóm có thu nhập giàu nhất và nhóm nghèo nhất ngày càng dãn ra. Cụ thể chênh lệch giữa nhóm 5 (nhóm giàu nhất) so với nhóm 1 (nhóm nghèo nhất) là 5.3 lần năm 2004, tăng lên 6 lần năm 2010, rồi 6.5 lần năm 2012 và cuối cùng là 8.3 lần năm 2014.

b. Bất bình đẳng thu nhập phân theo khu vực thành thị và nông thôn

Thu nhập bình quân đầu người ở thành thị và nông thôn đều có xu hướng tăng trong giai đoạn 2004 – 2014. Năm 2004 thu nhập bình quân 1 người 1 tháng ở khu vực thành thị đạt 518 nghìn đồng gấp 1.39 lần so với khu vực nông thôn đạt 372 nghìn đồng, con số này đến năm 2010 tăng lên 1.51 lần cao nhất trong giai đoạn này, tuy nhiên đến năm 2014 thì mức chênh lệch này giảm xuống còn 1.35 lần.

c. Bất bình đẳng theo hệ số GINI

Đối với tỉnh Quảng Nam, hệ số GINI dựa trên thu nhập bình quân đầu người trong giai đoạn 2004 – 2014 tuy có sự thay đổi nhưng không quá cao. Cụ thể năm 2004 là 0,302, năm 2010 là 0,328, đến năm 2014 tăng lên 0,386. Điều này cho thấy mô hình tăng trưởng kinh tế tương đối công bằng trên địa bàn tỉnh Quảng Nam trong giai đoạn này.

Theo tiêu chuẩn “40%” thì Quảng Nam có phân bố thu nhập trong dân cư ở mức tương đối bình đẳng, khi tỷ trọng thu nhập của 40% dân số có thu nhập thấp nhất trong tổng thu nhập là 20.02% năm 2004, tỷ lệ này là 15.67% năm 2014, đã phản ánh phân phối thu nhập trong dân cư luôn giữ được ở mức tương đối bình đẳng.

d. Bất bình đẳng theo tiếp cận một số dịch vụ cơ bản

Quảng Nam không chỉ đặt mục tiêu phát triển kinh tế mà còn quan tâm cải thiện đời sống của người dân. Tuy nhiên, đến thời điểm hiện tại hệ thống này vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu sử dụng dịch vụ của người dân kể cả về số lượng và chất lượng. Đặc biệt là vẫn còn khá cách biệt trong tiếp cận, sử dụng các loại hình dịch vụ an sinh xã hội sẵn có giữa các nhóm dân cư, đặc biệt là nhóm nghèo có thu nhập thấp và dân cư khu vực nông thôn, vùng sâu, vùng xa.

e. Nguyên nhân bất bình đẳng thu nhập ở tỉnh Quảng Nam

Luận văn đã chỉ ra các nguyên nhân dẫn tới gia tăng bất bình đẳng thu nhập ở tỉnh Quảng Nam bao gồm: Sự phát triển không đều giữa các vùng do điều kiện địa lý, phương thức sản xuất, văn hóa, phong tục tập quán, lối sống khác nhau; Quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa nhanh chóng; Các cơ hội và việc làm phi nông nghiệp là nhân tố góp phần gia tăng bất bình đẳng

2.3. THỰC TRẠNG TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG NAM

a. Xu hướng tăng trưởng kinh tế

Với những thay đổi và chính sách phù hợp đã đưa nền kinh tế trên địa bàn tỉnh Quảng Nam tăng trưởng cao từ 10.15% năm 2004 lên 13.25% năm 2007, cao hơn nhiều so với cả nước (cả nước đạt 8.3% năm 2004 và năm 2007 là 8.46%) . Do tác động của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu giai đoạn 2007 – 2009 đã làm cho GDP giảm xuống còn 11.04% năm 2009, đến năm 2010 nhờ những thay đổi tích cực nên tốc độ tăng trưởng đã tăng trở lại, lên 13% năm 2010, qua đó tốc độ tăng trưởng GDP bình quân giai đoạn 2004 – 2010 đạt hơn 12%. Đến năm 2011, tốc độ tăng trưởng kinh tế giảm còn 12.58% và tiếp tục giảm xuống còn 10.92% năm 2012, đến năm 2013 dù vẫn còn chịu ảnh hưởng của suy thoái kinh tế và lạm phát nhưng tốc độ tăng trưởng vẫn đạt 11.06%.

b. Chất lượng tăng trưởng kinh tế

Chất lượng tăng trưởng kinh tế được đánh giá thông qua một số chỉ tiêu như hiệu quả lao động (năng suất lao động), năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP), hiệu quả sự dụng vốn (ICOR). Tốc độ tăng năng suất lao động có xu hướng chậm lại từ 10.8% giai đoạn 2004 – 2007, xuống 8.99% năm 2008 và 8.57% năm 2009. Tuy nhiên, đến năm 2014 với những chính sách quy hoạch và phát triển nhân lực cho tỉnh nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đã làm cho năng suất lao động tăng nhẹ trở lại (năm 2014 đạt 9.79%). Trong giai đoạn 2004 – 2009, hệ số ICOR có xu hướng gia tăng theo các năm và có xu hướng giảm từ sau năm 2009. Nếu năm 2006, hệ số này là 3.47 thì còn số này đã tăng lên 4.03 vào năm 2009. Đặc biệt giai đoạn 2010 – 2012, hệ số ICOR từ mức 4 trở lại, năm 2014 là 2.79. Giai đoạn từ 2005 – 2009, tăng trưởng kinh tế giai đoạn này phụ thuộc vào việc tăng vốn hơn là lao động và các yếu tố công nghệ. Nhưng từ giai đoạn 2010 – 2014 thì ta có thể thấy có sự dịch chuyển của về việc các yếu tố công nghệ đóng góp chủ yếu cho việc tăng trưởng kinh tế so với sự đóng góp của yếu tố lao động và vốn.

2.4. ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ THỰC TRẠNG MỐI QUAN HỆ GIỮA BẤT BÌNH ĐẲNG THU NHẬP VÀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG NAM

Những kết quả đạt được:

– Tăng trưởng kinh tế nhanh và ổn định đã tạo điều kiện thuận lợi cho tiến trình thực hiện mục tiêu xóa đói giảm nghèo ở Quảng Nam.

– Quảng Nam đã thực hiện ưu tiên cho mục tiêu tăng trưởng kinh tế và bắt đầu chú ý đến mục tiêu công bằng trong phân phối thu nhập.

– Tăng trưởng đã chú ý gắn kết với các mục tiêu về phát triển con người.

Những hạn chế:

– Phân phối thu nhập không được thực hiện một cách đồng đều gắn với tăng trưởng. Tăng trưởng đã tạo điều kiện thuận lợi cho nhóm người giàu, dẫn đến sự bất bình đẳng về thu nhập.

– Mô hình tăng trưởng kinh tế và cơ chế phân bổ nguồn lực có ảnh hưởng tiêu cực đến việc đảm bảo công bằng thu nhập.

– Quá trình công nghiệp hóa và đô thị hóa đã dẫn đến tăng trưởng nóng và đã làm phát sinh nhiều vấn đề liên quan đến bất bình đẳng thu nhập.

– Quá trình chuyển đổi cơ chế từ kế hoạch hóa tập trung sang cơ chế thị trường làm gia tăng bất bình đẳng thu nhập.

– Có tác động của cơ chế xin cho, bao cấp, môi trường kinh doanh không bình đẳng và thông tin không minh bạch đến bất bình đẳng thu nhập.

– Chưa thể kết hợp tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội trong từng chính sách.

CHƯƠNG 3

PHÂN TÍCH MỐI QUAN HỆ GIỮA BẤT BÌNH ĐẲNG THU NHẬP VÀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ

3.1. XÁC ĐỊNH PHƯƠNG PHÁP ƯỚC LƯỢNG

Để khắc phục vấn đề thiếu biến hay không quan sát được một số biến độc lập trong mô hình, luận văn sử dụng phương pháp hồi quy với số liệu mảng theo thành phố/thị xã/huyện nhằm đo lường tác động của bất bình đẳng thu nhập tới tăng trưởng. Điều quan trọng với luận văn là phải chọn phương pháp ước lượng phù hợp, đó là phương pháp ước lượng bình phương bé nhất (OLS).

Luận văn sử dụng một số kiểm định để tìm kiếm các khuyết tật (nếu có) của mô hình bao gồm: Kiểm định Breusch-Godfrey Serial Correlation LM Test; Kiểm định giá trị VIF; Kiểm định White Heteroskedasticity Test; Yếu tố ngẫu nhiên tuân theo phân phối chuẩn.

3.2. SỐ LIỆU

Số liệu từ Tổng Cục thống kê, Cục Thống kê tỉnh Quảng Nam và Niên giám thống kê trên địa bàn tỉnh Quảng Nam

Trong nghiên cứu này tác giả sử dụng số liệu thống kê chủ yếu sau: GDP, đầu tư, lao động của tỉnh.

– Số liệu điều tra mức sống hộ gia đình (VHLSS)

Đây là cuộc điều tra nhằm thu nhập các thông tin làm căn cứ đánh giá mức sống, đánh giá tình trạng nghèo đói và phân hóa giàu nghèo, để phục vụ công tác hoạch định các chính sách, kế hoạch và các chương trình mục tiêu quốc gia.

3.3. THỐNG KÊ VÀ PHÂN PHỐI XÁC SUẤT CỦA CÁC BIẾN TRONG MÔ HÌNH

Thống kê cơ bản về Gini (sau khi nhân 100) là 32.93, giá trị nhỏ nhất là 30.16 và giá trị lớn nhất là 39.95. Phân bố xác suất của biến GINI và INCGAP cho thấy có dạng phân bố gần phân bố chuẩn. Phân bố xác suất của biến GDP, INVEST, LFS lệch trái. Như vậy biến GDP, INVEST, LFS không có phân bố chuẩn. Khắc phục vấn đề này, ta xét logarit cơ số tự nhiên của biến GDP, INVEST và LFS. So sánh phân bố xác suất của lnGDP, lnINVEST, lnLFS với đồ thị hàm mật độ xác suất ta thấy lnGDP, lnINVEST, lnLFS phân bố chuẩn.

3.4. MỐI QUAN HỆ GIỮA BIẾN PHỤ THUỘC VÀ MỘT SỐ BIẾN GIẢI THÍCH

3.5. KẾT QUẢ ƯỚC LƯỢNG HỒI QUY

3.5.1 Tác động của bất bình đẳng thu nhập (đo lường bằng hệ số GINI) đến tăng trưởng kinh tế

Mô hình 1:

Bảng 3.3. Tóm tắt kết quả tác động của bất bình đẳng thu nhập (đo lường bằng hệ số GINI) đến tăng trưởng kinh tế

Biến giải thíchOLS
Lao động – lnlfs1.158948

(0.082788)*

Bất bình đẳng thu nhập – GINI0.108954

(0.03099)*

Biên tương tác giữa GINI và đầu tư – GINI_INVEST0.01371

(0.003075)*

R20.589307
Prob<F0.0000
VIFNhỏ hơn 5
Durbin-Watson0.25277
N186

Ghi chú: trong () là độ lệch chuẩn, * là mức ý nghĩa 5%

Từ bảng kết quả hồi quy ta thấy mô hình 1 có hệ số xác định là R2 = 58.93% chứng tỏ các biến lnlfs, gini, gini_invest giải thích được 58.93% sự biến đổi của biến phụ thuộc lngdp.

Các kiểm định cũng cho thấy mô hình 1 là phù hợp và không tồn tại các khuyết tật như đa cộng tuyến, phương sai không đồng nhất. Tuy nhiên, mô hình 1 vẫn tồn tại hiện tượng tự tương quan bậc 1, bậc 2 và đã được khắc phục.

Vậy mô hình hồi quy phù hợp là:

Lngdp = -9,250956 + 1,158948lnlfs + 0,108954gini + 0,01371gini_invest (Mô hình 1)

Từ kết quả hồi quy mô hình 1 ta thấy tồn tại mối quan hệ tích cực giữa bất bình đẳng thu nhập (đo lường bằng hệ số GINI) và tăng trưởng kinh tế. Cụ thể, với các yếu tố khác không đổi với mức ý nghĩa 5%, cứ tăng 1% trong hệ số bất bình đẳng Gini thì tăng trưởng kinh tế tăng lên gần 1.12% . Điều này cho thấy được rằng bất bình đẳng trong phân phối thu nhập có tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế trong trường hợp số liệu của tỉnh Quảng Nam. Như đã trình bày ở bảng 4.1 thì mức trung bình của hệ số Gini là 32.93% (<37%), có thể nói đây là một con số khá phù hợp và an toàn. Tuy nhiên 1.12% vẫn còn là còn là khá thấp hay nói khác đi là sự tác động tích cực của bất bình đẳng phân phối thu nhập được đo bằng hệ số Gini đến tăng trưởng kinh tếcòn chưa thực sự mạnh mẽ. Do đó, cần có các chính sách hợp lý để phát huy tác động tích cực này. Bảng 4.2 cho thấy, lao động cũng là một trong những nguồn lực quan trọng của quá trình sản xuất, với các yếu tố khác không đổi với mức ý nghĩa 5%, cứ tăng 1% yếu tố lao động thì tăng trưởng kinh tế tăng lên 1.16%. Kết quả ước lượng cho thấy điều này là phù hợp với lý thuyết kinh tế, lực lượng lao động tăng sẽ dẫn đến tăng GDP.

3.5.2. Tác động của bất bình đẳng thu nhập (đo lường bằng khoảng cách nhóm giàu nhất/nhóm nghèo nhất) đến tăng trưởng kinh tế

Mô hình 2:

Bảng 3.4. Tóm tắt kết quả tác động của bất bình đẳng thu nhập (đo lường bảng khoảng cách nhóm giàu nhất/nhóm nghèo nhất) đến tăng trưởng kinh tế

Biến giải thíchOLS
Đầu tư – lninvest0.395684

(0.109395)*

Lao động – lnlfs1.204227

(0.083453)*

Bất bình đẳng thu nhập – INCGAP0.314098

(0.08024)*

R20.586535
Prob<F0.0000
VIFNhỏ hơn 5
Durbin-Watson0.228712
N186

Ghi chú: trong () là độ lệch chuẩn, * là mức ý nghĩa 5%

Từ bảng kết quả hồi quy ta thấy mô hình 2 có hệ số xác định làR2 = 58.65% chứng tỏ các biến lninvest, lnlfs, incgap giải thích được 58.65% sự biến đổi của biến phụ thuộc lngdp.

Các kiểm định cũng cho thấy mô hình 2 là phù hợp và không tồn tại các khuyết tật như đa cộng tuyến, phương sai không đồng nhất. Tuy nhiên, mô hình 2 vẫn tồn tại hiện tượng tự tương quan bậc 1, bậc 2 và đã được khắc phục.

Vậy mô hình hồi quy phù hợp là:

Lngdp = -9.357744 + 0.395684lninvest + 1.204227lnlfs + 0.314098incgap (Mô hình 2)

Từ kết quả hồi quy mô hình 2 ta thấy, với các yếu tố khác không đổi với mức ý nghĩa 5%, cứ tăng 1% trong khoảng cách chênh lệch giữa nhóm giàu nhất và nghèo nhất thì tăng trưởng kinh tế tăng lên gần 1.37%. Điều này cho thấy được rằng bất bình đẳng trong phân phối thu nhập đo lường bằng chỉ số INCGAP có tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế trong trường hợp số liệu của tỉnh Quảng Nam. Hơn nữa, sự tác động này mạnh mẽ hơn nhiều so với sự tác động của hệ số Gini đến tăng trưởng kinh tế, nhóm giàu càng chênh lệch nhóm nghèo chứng tỏ thu nhập của họ rất cao, có thể đây là lý do đóng góp cho tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, nếu quá chênh lệch thì sẽ có những vấn đề xã hội tiêu cực phát sinh như sự phân biệt đối xử vì vậy, điều cần thiết là duy trì hoặc tăng tác động tiêu cực của sự chênh lệch giàu nghèo đến tăng trưởng kinh tế nhưng phải ở một mức độ phù hợp. Bảng 4.3 cho thấy, đầu tư tác động tích cực đến tăng trưởng, với các yếu tố khác không đổi với mức ý nghĩa 5%, cứ tăng 1% đầu tư thì tăng trưởng kinh tế tăng gần 0.4%

4.3.3. Tác động của tăng trưởng kinh tế đến bất bình đẳng thu nhập

Mô hình 3:

Bảng 3.5. Tóm tắt kết quả tác động của tăng trưởng kinh tế đến bất bình đẳng thu nhập

Biến giải thíchOLS
Tăng trưởng – lngdp0.016661

(0.004675)*

Đầu tư – lninvest0.040923

(0.006757)*

Lao động – lnlfs-0.017654

(0.007909)*

R20.314453
Prob<F0.0000
VIFNhỏ hơn 5
Durbin-Watson1.149458
N186

chú: trong () là độ lệch chuẩn, * là mức ý nghĩa 5%

Từ bảng kết quả hồi quy ta thấy mô hình 3 có hệ số xác định là R2 = 31.45% chứng tỏ các biến lngdp, lninvest, lnlfs giải thích được 31.45% sự biến đổi của biến phụ thuộc lngini.

Các kiểm định cũng cho thấy mô hình 3 là phù hợp và không tồn tại các khuyết tật như đa cộng tuyến. Tuy nhiên, mô hình 3 vẫn tồn tại hiện tượng phương sai không đồng nhất và tự tương quan bậc 1, bậc 2 và đã được khắc phục.

Vậy mô hình hồi quy phù hợp là:

Lngini = -1.205176 + 0.016661lngdp + 0.040923lninvest – 0.017654lnlfs (Mô hình 3)

Từ kết quả hồi quy mô hình 3 ta thấy, với các yếu tố khác không đổi với mức ý nghĩa 5%, cứ tăng 1% trong tăng trưởng kinh tế thì hệ số bất bình đẳng GINItăng lên gần 0.02%. Điều này cho thấy được rằng tăng trưởng kinh tế có tác động tiêu cực đến bất bình đẳng thu nhập đo lường bằng hệ số GINI trong trường hợp số liệu của tỉnh Quảng Nam. Tuy nhiên, đây là con số có thể chấp nhận được, để đạt được con số này thì tỉnh đã quan tâm và tập trung giải quyết các yêu cầu bức thuyết phục vụ sản xuất và đời sống nhân dân, nhất là đồng bào dân tộc thiểu số và vùng núi cao. Công tác giáo dục – đào tạo ở miền núi có nhiều tiến bộ, nhất là đầu tư cơ sở vật chất, kiên cố hóa trường lớp và nhà công vụ giáo viên. Ngoài ra thì cũng tồn tại mối quan hệ tích cực giữa lực lượng lao động và bất bình đẳng thu nhập. Cụ thể, với các yếu tố khác không đổi với mức ý nghĩa 5%, cứ tăng 1% lực lượng lao động thì bất bình đẳng thu nhập giảm 0.017%. Điều này cho thấy việc đào tạo nghề nâng cao tay nghề và giải quyết việc làm cho người lao động đã có được những tác động tích cực góp phần tăng thêm thu nhập cho người lao động. Với việc xác định đào tạo nghề và giải quyết việc làm có vai trò quan trọng trong công tác xóa đói giảm nghèo, nâng cao đời sống cho người dân thì lãnh đạo tỉnh Quảng Nam cũng đã có những chính sách phù hợp như: “Hỗ trợ phụ nữ học nghề, tạo việc làm giai đoạn 2011 – 2015”; “100% người nghèo trong độ tuổi lao động được đào tạo nghề, tập huấn và định hướng nghề nghiệp”; “Hỗ trợ lãi suất cho hộ cận nghèo vay vốn để phát triển sản xuất”.

CHƯƠNG 4

BÀN LUẬN KẾT QUẢ VÀ HÀM Ý CHÍNH SÁCH

4.1. BÀN LUẬN KẾT QUẢ

– Cần nhìn nhận toàn diện và có tầm nhìn dài hơn khi xem xét vấn đề bất bình đẳng thu nhập, phải đặt bất bình đẳng thu nhập trong mối quan hệ với tăng trưởng kinh tế.

– Cần đảm bảo cho kinh tế tăng trưởng nhanh một cách bền vững đi đôi với thực hiện công bằng trong phân phối.

– Phát triển kinh tế gắn kết hợp lý với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng giai đoạn phát triển và trong suốt quá trình phát triển.

– Bảo đảm công bằng về quyền lợi và nghĩa vụ của công dân trong chế độ phân phối thu nhập, cơ hội phát triển và điều kiện thực hiện cơ hội.

– Tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện công bằng trong phân phối thu nhập ngay từ bước đầu phát triển.

– Không thể hướng tới mục tiêu giảm bất bình đẳng bằng mọi giá, đặc biệt không thể cào bằng thu nhập, mà cần chấp nhận bất bình đẳng thu nhập trong một phạm vi được coi là an toàn và có lợi ích cho tăng trưởng kinh tế nhanh một cách bền vững trong dài hạn.

– Phát triển kinh tế và thực hiện công bằng xã hội phải phù hợp với bối cảnh toàn cầu hóa và quá trình hội nhập vào nền kinh tế thế giới.

4.2. CÁC HÀM Ý CHÍNH SÁCH

4.2.1. Xây dựng và thực hiện mô hình tăng trưởng công bằng vì người nghèo

Mô hình này phải đảm bảo thu nhập của người nghèo tăng nhanh hơn so với thu nhập trung bình của xã hội và góp phần giảm nhanh tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn quy định. Trong mô hình này cần phát huy vai trò của khu vực tư nhân trong đầu tư tăng trưởng phải vừa đảm bảo duy trì tốc độ tăng trưởng cao, ổn định, vừa phải đạt được trên diện rộng có lợi cho người nghèo.

Phát triển khu vực tư nhân vẫn là một giải pháp quan trọng để tăng trưởng và giảm nghèo bền vững, tăng thu nhập do khu vực phi chính quy rất cao và thu nhập từ hoạt động nông nghiệp vẫn cao ở Quảng Nam. Nếu như kinh tế khu vực tư nhân phát triển cả về chiều rộng và chiều sâu thì có thể tăng thu nhập cho các cá nhân.

4.2.2. Đảm bảo người dân được chia sẻ thành quả của sự phát triển bằng cách quan tâm tới ba lĩnh vực trọng yếu: giáo dục, y tế và an sinh xã hội

Đối với y tế, hệ thống y tế với chi phí vừa phải sẽ giúp nhiều gia đình tránh được bẫy nghèo khi gia đình có chi phí y tế quá cao và mất thu nhập khi có người ốm. Đặc biệt, tỉnh Quảng Nam là tỉnh mà người nghèo có tỷ lệ ốm đau cũng tương đối cao do khí hậu bất thường cũng như điều kiện vật chất còn kém. Phải ưu tiên cao nhất cho việc cung cấp đầy đủ y, bác sĩ, các thiết bị y tế và nguồn tài chính cho trung tâm cấp cơ sở. Cần cải cách chế độ bảo hiểm cho cả những người nghèo ở nông thôn lẫn thành thị. Nghiên cứu hoàn thiện cơ chế hoạt động của bệnh viện công lập theo hướng không vì mục tiêu lợi nhuận.

Cần hết sức chú ý đến những nhóm người dễ bị tổn thương. Nhóm người dễ bị tổn thương là: nông dân bị mất đất canh tác, bị thiên tai dịch bệnh, những người bị rủi ro cá nhân, người khuyết tật, đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu vùng xa, người nghèo và cận nghèo. Chính sách xã hội phải hướng tới nhóm người ngày, trong đó người nghèo, trẻ em, phụ nữ, người già, người tàn tật là những người cần được quan tâm nhiều nhất và chắc chắn họ phải được hưởng chế độ an sinh xã hội.

4.2.3. Quảng Nam cần xác định rõ mục tiêu ưu tiên nhằm tận dụng tốt lợi thế của tỉnh để phát huy và thu hút nguồn lực cho tăng trưởng bền vững, trước hết là tăng trưởng cần thúc đẩy giảm nghèo và tăng thu nhập bền vững

Đẩy nhanh phê duyệt chiến lược phát triển tỉnh đến năm 2020, xây dựng các dự án cụ thể về phát triển cụm du lịch dựa trên Hội An và Mỹ Sơn – Cù Lao Chàm theo hướng sinh thái và bền vững. Đưa ngành du lịch trở thành hạt nhân thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp. Đối với công nghiệp, cần đẩy nhanh phát triển cụm công nghiệp ô tô mà ô tô Thaco Trường Hải làm hạt nhân, tạo dựng các ngành công nghiệp hỗ trợ phục vụ ngành này gắn với khu kinh tế Dung Quất. Đối với nông nghiệp, cần cơ giới hóa và công nghiệp hóa nông thôn do quy mô đất nông nghiệp vẫn cao, tuy nhiên cần thực hiện nhanh chính sách dồn điền đổi thửa, cánh đồng mẫu lớn để đưa cơ giới hóa vào sản xuất nông nghiệp. Đưa công nghệ vào sản xuất nông nghiệp, xuất khẩu thủy sản mà không nhất thiết chỉ giới hạn trong phát triển ngành công nghiệp chế tạo.

4.2.4. Cần xác định rõ mục tiêu liên kết, hợp tác vùng để thúc đẩy tăng trưởng và phân phối thu nhập

Nghiên cứu xem xét việc hình thành cụm du lịch miền Trung, lấy du lịch Hội An làm hạt nhân. Việc liên kết phát triển du lịch vùng là giải pháp quan trọng để giúp ngành du lịch có khả năng phát triển và cạnh tranh bền vững, nhất là trong bối cảnh hội nhập phát triển ngày càng sâu rộng như hiện nay, theo đó, phát triển du lịch sẽ kéo theo phát triển các ngành nghề phi nông nghiệp, thúc đẩy chuyển dịch cơ kinh tế gắn với chuyển dịch cơ cấu lao động và chuyển dịch cơ cấu thu nhập theo hoạt động kinh tế.

4.2.5. Quảng Nam cần tiếp tục nâng cao năng lực quản lý và tổ chức thực hiện chính sách

Việc phát triển kinh tế đòi hỏi có sự năng động và nhận thức khác trước: các giải pháp cần yêu cầu sự kết hợp nhiều hơn, thực hiện đồng thời, hợp tác nhiều hơn và phối hợp giữa các cơ quan nhiều hơn. Do đó, cần quyết tâm và nâng cao nhận thức của các cấp chính quyền và cán bộ.

Tăng cường năng lực cán bộ cần được thực hiện ở từng lĩnh vực và cụ thể hóa theo cách giao việc đi đôi với trách nhiệm thực hiện. Cần tổ chức các lớp tập huấn cán bộ để cung cấp những kiến thức mới, có năng lực tư vấn cho khu vực tư nhân và doanh nghiệp.

Tiếp tục thực hiện cải cách thủ tục hành chính nhằm giảm gánh nặng về thời gian và chi phí liên quan đến đầu tư và kinh doanh.

KẾT LUẬN

Với những nội dung trên, đề tài “Mối quan hệ giữa bất bình đẳng thu nhập và tăng trưởng kinh tế trên địa bàn tỉnh Quảng Nam” đã thực hiện được những mục tiêu nghiên cứu đề ra. Đề tài đã tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về mối quan hệ của bất bình đẳng thu nhập ở các khía cạnh khác nhau và tăng trưởng kinh tế trên địa bàn tỉnh Quảng Nam; lượng hóa mối quan hệ giữa bất bình đẳng thu nhập và tăng trưởng kinh tế trên địa bàn tỉnh Quảng Nam giai đoạn 2004 – 2014. Những kết luận mà đề tài rút ra bao gồm:

        1. Thông qua phân tích đánh giá thực trạng bất bình đẳng thu nhập và tăng trưởng kinh tế, đề tài đã chỉ rõ: Quảng Nam đã đạt những thành tựu về tăng trưởng cũng như nâng cao thu nhập bình quân đầu người nhưng kéo theo đó là sự gia tăng bất bình đẳng thu nhập. Sự phân hóa giàu nghèo ngày càng tăng dưới sự tăng trưởng kinh tế. Lợi ích của tăng trưởng cũng không được phân bố đồng đều,nhóm giàu được tạo điều kiện thuận lợi hơn nhờ tăng trưởng, vì thế họ càng giàu thêm; nhóm nghèo tuy thu nhập có tăng nhưng tốc độ tăng lại không bằng, phần lớn thu nhập là thuộc về nhóm tiền lương, tiền công, phi nông nghiệp chứ lao động các ngành nông lâm, thủy sản thu nhập còn rất thấp. Chính vì lẽ đó mà bất bình đẳng vẫn dãn ra.
        2. Đề tài đã lượng hóa được mối quan hệgiữa bất bình đẳng thu nhập và tăng trưởng kinh tế. Kết quả phân tích định lượng cho thấy bất bình đẳng có ảnh hưởng ngưỡng đến tăng trưởng kinh tế ở tỉnh Quảng Nam: chấp nhận bất bình đẳng cao sẽ có được tăng trưởng kinh tế cao hơn.
        3. Đề tài đề xuất một số quan điểm để gắn kết giữa tăng trưởng và công bằng trong phân phối thu nhập. Các quan điểm bao gồm: duy trì tăng trưởng bền vững trong dài hạn; phát triển kinh tế phải đi đôi với công bằng xã hôi; không thể hướng tới mục tiêu giảm bất bình đẳng bằng mọi giá đặc biệt không được cào bằng thu nhập mà phải chấp nhận bất bình đẳng ở mức vừa phải như một quy luật khách quan và tất yếu.
        4. Trên cơ sở phân tích thực trạng và quan điểm đề tài cũng đưa ra một số giải pháp nhằm tận dụng tác động tích cực của bất bình đẳng cũng như hạn chế tác động tiêu cực của chúng như: Xây dựng mô hình tăng trưởng công bằng vì người nghèo; điều chỉnh cơ cấu đầu tư xã hội nhằm hướng tới các đối tượng yếu thế; đảm bảo người dân dược chia sẻ thành quả sự phát triển dựa trên sự quan tâm đến ba lĩnh vực trọng yếu bao gồm: giáo dục, y tế và an sinh xã hội.
        5. Bên cạnh những kết quả và điểm mới đề tài cũng có những hạn chế đòi hỏi cần phải có các nghiên cứu tiếp theo; do nguồn số liệu huyện, thành phố của tỉnh không đầy đủ nên việc kiểm định và ước lượng còn bị giới hạn. Cùng với đó là do hạn chế về mặt kiến thức cũng như kinh nghiệm nên việc đưa ra các quan điểm, giải pháp cũng chưa đầy đủ và không tránh khỏi chủ quan. Chính vì vậy, em rất mong muốn sự quan tâm và đóng góp ý kiến từ thầy cô và tất cả những người có quan tâm đến đề tài.

LIỆN HỆ:

SĐT+ZALO: 0935568275

E:\DỮ LIỆU COP CỦA CHỊ YẾN\DAI HOC DA NANG\KINH TE PHAT TRIEN\NGUYEN TAN VAN\SAU BAO VE

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *