luận văn hoàn thiện công tác quản trị rủi ro tín dụng tại Chi nhánh NHTMCP Sài Gòn Công Thương Đà Nẵng

Thực trạng hoạt động cung ứng dịch vụ khách hàng tại Công ty

luận văn hoàn thiện công tác quản trị rủi ro tín dụng tại

  1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu: luận văn hoàn thiện công tác quản trị rủi ro tín dụng tại

Hiện nay tại Việt Nam hệ thống Ngân hàng thương mại cổ phần và các tổ chức tín dụng đang ngày một phát triển mở rộng về cả quy mô số lượng và chất lượng. Các NHTM cung cấp khá nhiều dịch vụ Ngân hàng cho nền kinh tế, trong đó hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực tín dụng Ngân hàng chiếm tỷ trọng đến khoảng 70-80% thu nhập của Ngân hàng. Tuy nhiên hoạt động tín dụng cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro, mang lại nhiều bất ổn và tác động mạnh đến hiệu quả kinh doanh của Ngân hàng. Khi hoạt động tín dụng xảy ra rủi ro sẽ tạo nên hiệu ứng dây chuyền dẫn đến tổn hại uy tín, vị thế của Ngân hàng, gây hậu quả lớn cho nền kinh tế ảnh hưởng đến cả hệ thống Ngân hàng. Do vậy, đánh giá và hoàn thiện hoạt động quản trị rủi ro tín dụng là vấn đề mang tính chất sống còn trong hệ thống của Ngân hàng TMCP Sài Gòn Công Thương (Saigonbank) nói chung và Chi nhánh NHTMCP Sài Gòn Công Thương Đà Nẵng (Saigonbank Đà Nẵng) nói riêng.: luận văn hoàn thiện công tác quản trị rủi ro tín dụng tại

Xuất phát từ những thực trạng trên, tôi đã quyết định chọn đề tài: “Hoàn thiện công tác quản trị rủi ro tín dụng tại Chi nhánh NHTMCP Sài Gòn Công Thương Đà Nẵng” làm cơ sở nghiên cứu cho luận văn tốt nghiệp của mình. Hy vọng rằng đề tài góp phần vào việc hoàn thiện công tác quản trị rủi ro tín dụng tại Chi nhánh NHTMCP Sài Gòn Công Thương Đà Nẵng thời gian đến.: luận văn hoàn thiện công tác quản trị rủi ro tín dụng tại

  1. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
  • Góp phần hệ thống hóa lý luận cơ bản về quản trị rủi ro tín dụng của Ngân hàng Thương mại.
  • Dựa trên nền tảng lý luận cơ bản về Quản trị rủi ro tín dụng ngân hàng để nghiên cứu, phân tích đánh giá về thực trạng công tác quản trị rủi ro tín dụng tại CN Ngân hàng TMCP Sài Gòn Công Thương Đà Nẵng.
  • Trên cơ sở đó tác giải nghiên cứu đề xuất giải pháp nhằm hoàn thiện công tác quản trị rủi ro tín dụng tại CN Ngân hàng TMCP Sài Gòn Công Thương Đà Nẵng.: luận văn hoàn thiện công tác quản trị rủi ro tín dụng tại
  1. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
  • Đối tượng nghiên cứu : Lý luận và thực tiễn công về tác quản trị rủi ro tín dụng tại CN Ngân hàng TMCP Sài Gòn Công Thương Đà Nẵng.
  • Phạm vi nghiên cứu : Số liệu và thực trạng trong 03 năm từ 2011 đến hết 2013 tại CN Ngân hàng TMCP Sài Gòn Công Thương Đà Nẵng.
  1. Phương pháp nghiên cứu: luận văn hoàn thiện công tác quản trị rủi ro tín dụng tại

Trong quá trình nghiên cứu luận văn tác giả sử dụng kết hợp các phương pháp sau:

  • Phương pháp thống kê mô tả, phương pháp tổng hợp, phương pháp so sánh, để phân tích về thực trạng quản trị rủi ro tín dụng tại CN Ngân hàng TMCP Sài Gòn Công Thương Đà Nẵng nhằm làm rõ vấn đề nghiên cứu.
  • Và phương pháp tham khảo ý kiến chuyên gia.
  1. Bố cục của luận văn: luận văn hoàn thiện công tác quản trị rủi ro tín dụng tại

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận văn được bố cục làm 03 chương:

Chương 1: Lý luận cơ bản về quản trị rủi ro tín dụng của Ngân hàng thương mại.

Chương 2: Thực trạng công tác quản trị rủi ro tín dụng tại CN Ngân hàng TMCP Sài Gòn Công Thương Đà Nẵng.

Chương 3: Giải pháp hoàn thiện công tác quản trị rủi ro tín dụng tại CN Ngân hàng TMCP Sài Gòn Công Thương Đà Nẵng.

  1. Tổng quan tài liệu nghiên cứu: luận văn hoàn thiện công tác quản trị rủi ro tín dụng tại


CHƯƠNG 1

LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ QUẢN TRỊ RỦI RO TÍN DỤNG
CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

1.1.1. Tín dụng Ngân hàng thương mại: luận văn hoàn thiện công tác quản trị rủi ro tín dụng tại

1.1.1.1. Khái niệm Ngân hàng thương mại: luận văn hoàn thiện công tác quản trị rủi ro tín dụng tại

Ngân hàng Thương mại là loại hình Ngân hàng được thực hiện tất cả các loại hình Ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác theo quy định của luật các Tổ chức tín dụng nhằm mục tiêu lợi nhuận (Nguồn: Luật các Tổ chức tín dụng số 47/2010/QH12 được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghiã Việt Nam, khóa XII kỳ họp thứ 7 thông qua ngày 16/6/2010).

Theo quy định của Luật các tổ chức tín dụng số 47/2010/QH12 thì Ngân hàng Thương mại được phép hoạt động và thực hiện các hoạt động kinh doanh theo quy định của Luật này và các quy định khác của Pháp luật có liên quan được Ngân hàng nhà nước cấp phép. Được kinh doanh cung ứng thường xuyên một hoặc một số các nghiệp vụ sau đây:

  • Nhận tiền gửi:
  • Cấp tín dụng: cho vay, bao thanh toán, bảo lãnh Ngân hàng,…
  • Cung cấp dịch vụ thanh toán qua tài khoản: thanh toán sec, lệnh chi, ủy nhiệm chi, nhờ thu, thẻ Ngân hàng, …

(Nguồn: Luật các Tổ chức tín dụng số 47/2010/QH12 được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghiã Việt Nam, khóa XII kỳ họp thứ 7 thông qua ngày 16/6/2010)

Bản chất Ngân hàng Thương mại là một tổ chức kinh tế mang tính chất kinh doanh. Có thể nói Ngân hàng Thương mại là một Tổ chức kinh doanh tiền tệ và thực hiện các dịch vụ Ngân hàng quan trọng nhất trong các Ngân hàng trung gian. Nhờ hệ thống định chế này mà các nguồn tiền vốn nhàn rỗi sẽ được huy động, tạo lập nguồn vốn Tín dụng lớn để có thể cho vay phát triển kinh tế.

1.1.1.2. Khái niệm tín dụng Ngân hàng thương mại.: luận văn hoàn thiện công tác quản trị rủi ro tín dụng tại

Tín dụng Ngân hàng thương mại là giao dịch tài sản giữa Ngân hàng (TCTD) với bên đi vay (là các tổ chức kinh tế, cá nhân trong nền kinh tế) trong đó Ngân hàng (TCTD) chuyển giao tài sản cho bên đi vay sử dụng trong một thời gian nhất định theo thoả thuận, và bên đi vay có trách nhiệm hoàn trả vô điều kiện cả vốn gốc và lãi cho Ngân hàng (TCTD) khi đến hạn thanh toán (Nguồn: Quản trị rủi ro trong kinh doanh Ngân hàng-tác giả Nguyễn Văn Tiến (1999), Nhà xuất bản thống kê, Hà Nội ).

Vậy có thể nói tín dụng Ngân hàng đó là quan hệ tín dụng phát sinh giữa các Ngân hàng, các tổ chức tín dụng với các đối tác kinh tế – tài chính của toàn xã hội, bao gồm doanh nghiệp, cá nhân, tổ chức xã hội, cơ quan nhà nước.

1.1.1.3. Phân loại tín dụng Ngân hàng thương mại.: luận văn hoàn thiện công tác quản trị rủi ro tín dụng tại

Một số căn cứ cơ bản để phân loại tín dụng Ngân hàng thương mại như sau;

v    Căn cứ vào mục đích: Dựa vào căn cứ này cho vay được chia ra làm các loại sau:: luận văn hoàn thiện công tác quản trị rủi ro tín dụng tại

  • Cho vay bất động sản: là loại cho vay liên quan đến việc mua sắm và xây dựng bất động sản nhà ở, đất đai, bất động sản trong lĩnh vực công nghiệp, thương mại và dịch vụ.
  • Cho vay công nghiệp và thương mại: là loại cho vay ngắn hạn để bổ sung vốn lưu động cho các doanh nghiệp trong lĩnh vực công nghiệp, thương mại và dịch vụ.
  • Cho vay tiêu dùng là loại cho vay để đáp ứng các nhu cầu tiêu dùng như mua sắm các vật dụng đắt tiền, ngày nay Ngân hàng còn thực hiện các khoản cho vay để trang trải các chi phí thông thường của đời sống thông qua phát hành thẻ tín dụng.
  • Thuê mua và các loại khác.

v     Căn cứ vào thời hạn tín dụng: được chia làm ba loại.

  • Tín dụng ngắn hạn: Loại tín dụng này có thời hạn dưới 12 tháng và được sử dụng để bù đắp thiếu hụt vốn lưu động của các doanh nghiệp và nhu cầu chi tiêu ngắn hạn của cá nhân. Đối với Ngân hàng thương mại tín dụng Ngân hàng chiếm tỉ trọng cao nhất.
  • Tín dụng trung hạn: Theo quy định hiện nay của Ngân hàng nhà nước Việt Nam, tín dụng trung hạn có thời hạn từ 1 năm đến 3 năm, còn đối với các Ngân hàng thương mại trên thế giới loại tín dụng có thời hạn đến 7 năm. Tín dụng trung hạn chủ yếu được đầu tư để mua sắm tài sản cố định, cải tiến hoặc đổi mới thiết bị công nghệ, mở rộng sản xuất kinh doanh, xây dựng các dự án mới có quy mô nhỏ và thời gian thu hồi vốn nhanh.
  • Tín dụng dài hạn: Theo quy định ở Việt Nam loại tín dụng có thời hạn trên 3 năm, còn trên thế giới loại tín dụng này có thời hạn trên 7 năm. Tín dụng dài hạn là loại tín dụng cung cấp để đáp ứng nhu cầu dài hạn như xây dựng nhà ở, các thiết bị, phương tiện vận tải có quy mô lớn, xây dựng các cơ sở hạ tầng, cơ quan, xí nghiệp mới…

Nghiệp vụ truyền thống của các Ngân hàng thương mại là cho vay ngắn hạn, nhưng từ những năm 70 trở lại đây các Ngân hàng thương mại đã chuyển sang kinh doanh tổng hợp và một trong những nội dung đổi mới đó là nâng cao tỉ trọng cho vay trung và dài .

v    Căn cứ vào tài sản đảm bảo: được chia làm hai loại.

Cho vay không bảo đảm bằng tài sản: là loại cho vay không cần tài sản thế chấp, cầm cố hoặc sự bảo lãnh của người thứ ba, mà việc cho vay chỉ dựa

  • vào uy tín của bản thân khách hàng. Đối với những khách hàng tốt, trung thực trong kinh doanh, có khả năng tài chính mạnh, quản trị tài chính hiệu quả thì Ngân hàng có thể cấp tín dụng dựa vào uy tín của bản thân khách hàng mà không cần một nguồn thu nợ thứ hai bổ sung.
  • Cho vay có bảo đảm bằng tài sản: là loại cho vay được Ngân hàng cung ứng phải có tài sản thế chấp hoặc cầm cố hoặc có sự bảo lãnh của người thứ ba. Đối với khách hàng không có uy tín cao với Ngân hàng, khi vay vốn đòi hỏi phải có bảo đảm. Sự bảo đảm này là căn cứ pháp lý để Ngân hàng có một nguồn thu thứ hai, bổ sung nguồn thu nợ thứ nhất thiếu chắc chắn. Đồng thời tài sản thế chấp này bảo đảm khách hàng sử dụng vốn đúng mục đích cam kết.

v    Căn cứ vào hình thái giá trị của tín dụng: được chia làm hai loại.

  • Tín dụng bằng tiền: là loại cho vay mà hình thái giá trị của tín dụng được cung cấp bằng tiền. Đây là loại tín dụng chủ yếu của các Ngân hàng và việc thực hiện bằng các kỷ thuật khác nhau như: Tín dụng ứng trước, thấu chi, tín dụng thời vụ, tín dụng trả góp…
  • Tín dụng bằng tài sản: là hình thức cho vay bằng tài sản rất phổ biến và đa dạng, riêng đối với các Ngân hàng cho vay bằng tài sản được áp dụng phổ biến đó là tài trợ thuê mua. Theo phương thức cho vay này Ngân hàng hoặc các công ty thuê mua( công ty con của Ngân hàng) cung cấp trực tiếp tài sản cho người đi vay được gọi là người đi thuê và theo định kỳ người đi thuê hoàn trả nợ vay bao gồm cả vốn gốc và lãi.

v    Ngoài ra nếu căn cứ vào xuất xứ tín dụng có: Cho vay trực tiếp, cho vay gián tiếp.

1.1.2. Rủi ro tín dụng của Ngân hàng thương mại: luận văn hoàn thiện công tác quản trị rủi ro tín dụng tại

1.1.2.1. Khái niệm rủi ro tín dụng.: luận văn hoàn thiện công tác quản trị rủi ro tín dụng tại

  • Rủi ro tín dụng trong hoạt động Ngân hàng của tổ chức tín dụng, theo quy định tại Điều 2 Quy định về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng ban hành theo Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/4/2005 của Thống đốc NHNN, “Rủi ro tín dụng là khả năng xảy ra tổn thất trong hoạt động Ngân hàng của tổ chức tín dụng do khách hàng không thực hiện hoặc không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình theo cam kết”. (trích nguồn: Ngân hàng Nhà nước).
  • Rủi ro tín dụng, theo khái niệm cơ bản nhất, là khả năng khách hàng nhận khoản vốn vay không thực hiện, thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ đối với NH, khách hàng không trả, không trả đầy đủ, đúng hạn cả gốc và lãi cho NH, gây tổn thất cho NH.
  • Vậy rủi ro tín dụng Ngân hàng là những biến cố không mong đợi xảy ra, gây mất mát thiệt hại tài sản, thu nhập của Ngân hàng trong quá trình hoạt động. Là những thiệt hại kinh tế mà Ngân hàng thương mại phải gánh chịu do khách hàng vay vốn sai hẹn trong thực hiện nghĩa vụ trả nợ vốn gốc và nợ lãi hoặc không hoàn trả được nợ vay của ngân hang do các nguyên nhân chủ quan hoặc khách quan. Rủi ro tín dụng gây tổn thất về tài chính cho NHTM, đó là làm giảm thu nhập ròng và giảm giá trị thị trường của vốn, trong trường hợp nghiêm trọng có thể dẫn đến thua lỗ, hoặc ở mức độ cao hơn có thể dẫn đến phá sản.

1.1.2.2. Đặc điểm rủi ro tín dụng.: luận văn hoàn thiện công tác quản trị rủi ro tín dụng tại

Rủi ro tín dụng mang các đặc điểm cơ bản là: tính tất yếu, tính đa dạng phức tạp và tính gián tiếp.

  • Tính tất yếu: Trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng rủi ro tín dụng luôn tồn tại và gắn liền với hoạt động tín dụng của Ngân hàng thương mại, khi cho vay Ngân hàng phải chấp nhận tiềm ẩn rủi ro, tổn thất mang lại cho Ngân hàng.
  • Tính đa dạng và phức tạp: Trong cơ chế thị trường, sự ra đời và phát triển các loại hình Ngân hàng, các tổ chức tín dụng cùng với tính đa dạng của các hoạt động và hình thức tín dụng đã tạo nên một thị trường tín dụng sôi động. Do vậy, hoạt động tín dụng Ngân hàng hoàn toàn khác với các nghiệp vụ tài trợ và các dạng cấp vốn khác của nền kinh tế. Hoạt động tín dụng là hoạt động đa dạng, là một loại kinh doanh tiền tệ phức tạp. Tính phức tạp của nó chính là đối tượng kinh doanh, tức là tiền tệ, và ở đây tiền tệ đã bị tách rời giữa quyền sở hữu và quyền sử dụng khi cho vay.
  • Tính gián tiếp: Trong qúa trình cho vay, khi nguồn vốn được giải ngân ra khỏi Ngân hàng và được luân chuyển sang khách hàng sử dụng, khi kết thúc hoạt động sử dụng vốn khách hàng hoàn trả lại Ngân hàng, nguồn vốn quay trở về Ngân hàng. Trên thực tế rủi ro chỉ xảy ra trong quá trình sử dụng vốn của khách hàng, khi khách hàng gặp rủi ro trong kinh doanh dẫn đến nguồn vốn bị thất thoát, khi đó rủi ro của khách hàng gián tiếp ảnh hưởng đến Ngân hàng (Nguồn: Quản trị rủi ro trong kinh doanh Ngân hàng-tác giả Nguyễn Văn Tiến (1999), Nhà xuất bản thống kê, Hà Nội).

1.1.2.3. Phân loại rủi ro tín dụng

Có nhiều cách để phân loại rủi ro tín dụng khác nhau, nhưng phổ biến nhất là các cách phân loại theo tiêu chí hình thức biểu hiện,  tiêu chí nguyên nhân phát sinh rủi ro và tiêu chí phạm vi rủi ro.

  • Phân loại rủi ro tín dụng theo hình thức biểu hiện: có hai loại.
  • Rủi ro sai hẹn: là rủi ro khi người vay vốn không hoàn trả đủ gốc và lãi tiền vay đúng hẹn trong hợp đồng tín dụng.
  • Rủi ro mất vốn: là rủi ro khi người vay vốn Ngân hàng không hoàn trả gốc tiền vay một cách đầy đủ.
    • Phân loại rủi ro tín dụng theo nguyên nhân phát sinh rủi ro: gồm có.
  • Rủi ro giao dịch: là loại rủi ro do liên quan đến từng khoản tín dụng mỗi khi Ngân hàng ra quyết định cấp một khoản tín dụng mới cho khách hàng. Rủi ro giao dịch bao gồm:
  • Rủi ro lựa chọn (xét duyệt): là rủi ro liên quan đến quá trình đánh giá và phân tích tín dụng, đánh giá phương án vay vốn để quyết định tài trợ của Ngân hàng.
  • Rủi ro đảm bảo: là rủi ro phát sinh từ các tiêu chuẩn đảm bảo như các điều khoản trong hợp đồng cho vay, các loại tài sản đảm bảo, các chủ thể đảm bảo, cách thức đảm bảo và mức cho vay trên giá trị tài sản đảm bảo.
  • Rủi ro kiểm soát (nghiệp vụ): là rủi ro liên quan đến hoạt động quản lý khoản vay và hoạt động cho vay, bao gồm cả việc sử dụng hệ thống xếp hạn tín dụng và kỹ thuật xử lý các khoản cho vay có vấn đề.
  • Rủi ro danh mục: là rủi ro có liên quan đến việc kết hợp nhiều khoản tín dụng trong danh mục tín dụng của Ngân hàng, mà nguyên nhân phát sinh là do hạn chế trong trong quản lý danh mục cho vay. Loại rủi ro này được bao gồm:
  • Rủi ro nội tại: là rủi ro xuất phát từ các yếu tố đặc thù riêng có mang tính riêng biệt bên trong mỗi chủ thể đi vay hoặc lĩnh vực ngành kinh tế.
  • Rủi ro tập trung: là trường hợp Ngân hàng tập trung vốn cho vay quá nhiều với một khách hàng, một lĩnh vực, một ngành hoặc một khu vực địa lý …, nên khi có rủi ro xảy ra thì mức độ thiệt hại lớn vượt ngoài năng xử lý của Ngân hàng
    • Phân loại theo phạm vi: có các loại.
  • Rủi ro tín dụng do yếu tố bên ngoài: là rủi ro do các nguyên nhân khách quan gây ra như thiên tai, dịch bệnh, chiến tranh, hỏa hoạn, người vay bị chết, mất tích,… dẫn đến thất thoát vốn vay mặc dù Ngân hàng cho vay và người đi vay đã thực hiện đầy đủ các qui định về quản lý và sử dụng khoản vay.
  • Rủi ro tín dụng do các yếu tố bên trong: là rủi ro thuộc về lỗi của Ngân hàng hoặc bên đi vay vì vô tình hoặc cố ý gây ra dẫn đến thất thoát vốn vay. Đối với rủi ro bên trong nếu có những biện pháp hợp lý có thể khắc phục hoặc hạn chế được loại rủi ro này.

1.1.2.4. Hậu quả rủi ro tín dụng.

Tín dụng là hoạt động chủ yếu, hoạt động quan trọng nhất của Ngân hàng thương mại. Đi liền với nó là rủi ro trong hoạt động tín dụng, đây là yếu tố khách quan, là không thể tránh khỏi. Rủi ro tín dụng có thể đề phòng, hạn chế, chứ không thể loại trừ. Do vậy, rủi ro dự kiến luôn được xác định trước trong chiến lược kinh doanh. Có rất nhiều lý do khiến nhà quản trị Ngân hàng cần phải quan tâm đến vấn đề rủi ro trong hoạt động tín dụng. Sở dĩ như vậy là do rủi ro tín dụng nếu không được dự kiến đo lường để dự phòng trước sẽ gây ra nhiều ảnh hưởng và hậu quả bất lợi. Cụ thể:

  • Ảnh hưởng đối với Ngân hàng:
  • RRTD làm suy giảm uy tín của Ngân hàng: rủi ro tín dụng cao khiến cho uy tín trong nước và uy tín quốc tế của Ngân hàng bị giảm sút. Điều này cũng gây tâm lý hoang mang, dao động cho cán bộ Ngân hàng nói chung và cán bộ tín dụng nói riêng.
  • RRTD làm cho khả năng thanh toán của Ngân hàng giảm sút: Nếu một khoản cho vay nào đó bị thất thoát, không thu hồi được thì Ngân hàng phải sử dụng các nguồn vốn của mình để trả cho người gửi tiền. Trường hợp không đủ nguồn vốn để trả lại cho người gửi tiền, Ngân hàng sẽ rơi vào tình trạng mất khả năng thanh toán, thậm chí phá sản. Vì hoạt động Ngân hàng có tính xã hội hoá cao nên dù chỉ một Ngân hàng có sự thất thoát trong hoạt động tín dụng không được ứng cứu kịp thời của Ngân hàng trung ương thì có thể gây ra “phản ứng dây chuyền”, đe doạ đến cả hệ thống Ngân hàng.
  • RRTD làm giảm lợi nhuận của Ngân hàng: Rủi ro tín dụng tăng lên làm chi phí của Ngân hàng tăng cao ngoài dự kiến, thu nhập giảm sút. Việc tích luỹ để đầu tư hiện đại hoá công nghệ và đầu tư đào tạo lại cán bộ, nâng cao trình độ gặp nhiều khó khăn về kinh phí. Ngân hàng bị mất vốn, phải khoanh nợ, giãn nợ, thậm chí là xoá nợ; ngoài một phần ngân sách Nhà nước cấp bù thì phần chủ yếu do Ngân hàng phải trích lập phòng ngừa rủi ro nên thu nhập bị giảm.
  • RRTD làm tăng nguy cơ phá sản của Ngân hàng: Có thể nói, rủi ro tín dụng là rất nguy hiểm nếu vượt ra ngoài dự kiến. hậu quả của nó có thể ảnh hưởng đến toàn bộ hoạt động của Ngân hàng, dẫn đến nguy cơ phá sản Ngân hàng.
    • Ảnh hưởng đối với nền kinh tế – xã hội.
  • Hoạt động ngân  hàng  liên quan đến hoạt động của các doanh nghiệp và các cá nhân. Ngân hàng gặp khó khăn sẽ ảnh hưởng đến nguồn vốn phục vụ cho hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp, cá nhân bị thiếu vốn sẽ gặp khó khăn để sản xuất kinh doanh dẫn đến đời sống công nhân gặp khó khăn. Sự khủng hoảng từ hệ thống Ngân hàng ảnh hưởng rất lớn đến toàn bộ nền kinh tế. Nó làm cho nền kinh tế bị suy thoái, giá cả tăng, sức mua giảm, thất nghiệp tăng, xã hội mất ổn định.
  • Mặt khác, mối liên hệ về tiền tệ, đầu tư giữa các nước phát triển rất nhanh nên tác động do khủng hoảng rủi ro tín dụng tại một nước cũng ảnh hưởng trực tiếp đến nền kinh tế các nước có liên quan. Ngày nay nền kinh tế mỗi quốc gia đều phụ thuộc vào nền kinh tế khu vực và thế giới, do đó hệ thống Ngân hàng của một quốc gia gặp khó khăn cũng ảnh hưởng đến nền kinh tế thế giới.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *