luận văn nâng cao năng lực quản trị rủi ro tín dụng doanh nghiệp tại ngân hàng

luận văn nâng cao năng lực quản trị rủi ro tín dụng doanh nghiệp tại ngân hàng

  1. 1. Lý do chọn đề tài.luận văn nâng cao năng lực quản trị rủi ro tín dụng doanh nghiệp tại ngân hàng

Quá trình toàn cầu hóa làm tăng thêm mức độ phụ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế trên thế giới. Trong lĩnh vực tài chính ngân hàng cũng không ngoại lệ. Khủng hoảng tín dụng đã có ảnh hưởng không nhỏ đến nền kinh tế. Từ năm 2007, nền kinh tế thế giới bắt đầu rung chuyển với một loạt khủng hoảng tài chính, đỉnh điểm là sự phá sản của Leman Brother vào tháng 09 năm 2008. Tiếp theo sau đó là sự “tan chảy” của hệ thống ngân hàng, khi các ngân hàng mất niềm tin và không dám cho ai vay ngoại trừ những người vay đáng tin cậy nhất. Khi sự sợ hãi gia tăng, các chính phủ buộc phải thực hiện một cuộc giải cứu khổng lồ, bơm vốn cho các ngân hàng và công ty bảo hiểm, đồng thời gia tăng sự đảm bảo cho người gởi tiền. Song hành với các gói cứu trợ, Chính phủ các nước buộc phải thực hiện cải cách, xây dựng hệ thống quản lý tài chính và cơ chế phòng ngừa rủi ro tải chính quốc tế, công khai minh bạch trong hoạt động ngân hàng để tránh những nguy cơ biến động mạnh của thị trường tài chính, hoạt động tuân theo qui luật thị trường.luận văn nâng cao năng lực quản trị rủi ro tín dụng doanh nghiệp tại ngân hàng

Hoạt động tín dụng đã và đang là hoạt động kinh doanh chính đem lại lợi nhuận cho các ngân hàng thương mại tại Việt Nam. Tuy nhiên, cùng với việc đem lại thu nhập đáng kể cho ngân hàng thì lĩnh vực tín dụng cũng là lĩnh vực có rủi ro cao nhất. Hậu quả của rủi ro tín dụng đối với ngân hàng thường gây ra tổn thất lớn như: làm tăng thêm chi phí của ngân hàng, thu nhập lãi bị chậm hoặc mất đi cùng với sự thất thoát vốn vay, làm xấu đi tình hình tài chính và cuối cùng làm tổn hại đến uy tín và vị thế của ngân hàng

Rủi ro tín dụng luôn song hành với hoạt động tín dụng, không thể loại bỏ hoàn toàn rủi ro tín dụng mà chỉ có thể áp dụng các biện pháp để phòng ngừa hoặc giảm thiểu thiệt hại tối đa khi rủi ro xảy ra. Đứng trên quan điểm quản lý toàn bộ hoạt động ngân hàng nói chung và hoạt động tín dụng nói riêng, một tỷ lệ tổn thất dự kiến đối với hoạt động tín dụng phải luôn được xác định trong chiến lược hoạt động chung. Khi ngân hàng kinh doanh với một mức tổn thất thấp hơn hoặc bằng mức tỷ lệ tổn thất dự kiến thì đó là sự thành công trong lĩnh vực quản trị rủi ro. Ngân hàng bằng nhiều biện pháp tác động đến hoạt động tín dụng để hạn chế tối đâ rủi ro tín dụng nhằm góp phần đạt tới mục tiêu hoạt động tín dụng an toàn, hiệu quả trong tăng trưởng

Ngân hàng TMCP Quốc tế Việt Nam (VIB) là một trong những ngân hàng nằm trong top 10 ngân hàng TMCP lớn nhất Việt Nam. Trong quá trình hoạt động, VIB luôn đặt yếu tố an toàn trong hoạt động lên hàng đầu để đảm bảo sự phát triển bền vững cho ngân hàng. Theo đó năm 2011 là năm VIB bắt tay vào xây dựng hệ thống quản trị rủi ro hướng theo chuẩn mực quốc tế để đảm bảo cho VIB có một hệ thống đồng bộ bao gồm cả quản trị rủi ro hoạt động, quản trị rủi ro thị trường và quản trị rủi ro tín dụng. Trong đó, quản trị rủi ro tín dụng, được ban lãnh đạo xác định là lĩnh vực cần chú trọng đối với VIB trong năm 2011. Trong giai đoạn 2 của chương trình chuyển đổi được xác định từ tháng 07/2011 – 12/2012, một trong 05 định hướng cơ bản của Hội đồng quản trị và Ban điều hành xác định là: quản trị rủi ro. Giữ được chất lượng tín dụng tốt, kiểm soát được nợ xấu và ngăn chặn được các rủi ro hoạt động do các hành vi gian lận, lừa đảo, vi phạm đạo đức nghề nghiệp … VIB sẽ trở nên an toàn hơn để đảm bảo cho sự phát triển bền vững của VIB trong những năm tiếp theo …

Bắt đầu từ cuối năm 2007, VIB đã chia hoạt động tín dụng ra làm 2 khối kinh doanh gồm Khối khách hàng cá nhân (chiếm 40% tổng dư nợ toàn hàng) và Khối Khách hàng doanh nghiệp (chiếm 60% tổng dư nợ toàn hàng), cả 2 khối này vừa hoạt động kinh doanh độc lập vừa hỗ trợ nhau nhằm hoàn thành mục tiêu kinh doanh của ngân hàng. Trong bối cảnh trên, là một cán bộ làm công tác Giám sát tín dụng khu vực Miền Trung & Tây Nguyên tôi đã quyết định chọn đề tài “Nâng cao năng lực quản trị rủi ro tín dụng doanh nghiệp tại ngân hàng TMCP Quốc tế Việt Nam” làm đề tài nghiên cứu luận văn nâng cao năng lực quản trị rủi ro tín dụng doanh nghiệp tại ngân hàng

  1. Mục đích nghiên cứu.luận văn nâng cao năng lực quản trị rủi ro tín dụng doanh nghiệp tại ngân hàng

         – Làm sáng tỏ một số vấn đề cơ bản về cơ sở lý luận trong Quản trị rủi ro tín dụng tại các Ngân hàng thương mại. Học tập, vận dụng kinh nghiệm quản trị rủi ro tín dụng quốc tế

         – Nhận dạng, phân tích các nguyên nhân gây ra rủi ro tín dụng doanh nghiệp và đánh giá thực trạng hoạt động quản trị rủi ro tín dụng doanh nghiệp hiện nay tại VIB

         – Trên cơ sở những nguyên nhân đó, kết hợp với việc vận dụng kinh nghiệm quản trị rủi ro tín dụng quốc tế nhằm đề xuất được một số biện pháp khắc phục, hạn chế và phòng ngừa rủi ro trong hoạt động tín dụng doanh nghiệp tại VIB

  1. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.luận văn nâng cao năng lực quản trị rủi ro tín dụng doanh nghiệp tại ngân hàng

         – Đối tượng nghiên cứu: Nhận dạng, phân tích các nguyên nhân gây ra rủi ro tín dụng doanh nghiệp và đề ra các biện pháp nhằm khắc phục, hạn chế và phòng ngừa rủi ro

         – Phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu giữa lý luận và thực tế nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng doanh nghiệp, thực trạng quản lý rủi ro tín dụng doanh nghiệp trong thời gian qua tại VIB, từ đó đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản trị rủi ro tín dụng doanh nghiệp

  1. Phương pháp nghiên cứu

         Sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu khoa học kết hợp với các phương pháp thống kê, so sánh, phân tích … đi từ cơ sở lý thuyết đến thực tiễn nhằm giải quyết và làm sáng tỏ mục tiêu nghiên cứu của luận văn. Đồng thời tiếp thu ý kiến phản biện của nhiều chuyên gia, cán bộ quản lý, điều hành có liên quan để hoàn thiện giải pháp

  1. Kết cấu của luận văn.luận văn nâng cao năng lực quản trị rủi ro tín dụng doanh nghiệp tại ngân hàng

Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn được chia làm 3 chương cụ thể:

  • Chương 1: Cơ sở lý luận về Doanh nghiệp, Rủi ro tín dụng và Quản trị rủi ro tín dụng trong hoạt động của ngân hàng thương mại
  • Chương 2: Thực trạng về tín dụng doanh nghiệp và Quản trị rủi ro tín dụng doanh nghiệp tại Ngân hàng TMCP Quốc tế Việt Nam
  • Chương 3: Những Biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản trị rủi ro tín dụng doanh nghiệp tại Ngân hàng TMCP Quốc tế Việt Nam


CHƯƠNG 1:RỦI RO TÍN DỤNG VÀ QUẢN TRỊ RỦI RO TÍN DỤNG TRONG HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

1.1 Hoạt động tín dụng của Ngân hàng Thương mại

1.1.1 Khái niệm về ngân hàng thương mại

         Luật các tổ chức tín dụng do Quốc hội khoá X thông qua vào ngày 12 tháng 12 năm 2007, định nghĩa:

         “Ngân hàng thương mại là một loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động khác có liên quan”. Luật này còn định nghĩa: “Tổ chức tín dụng là loại hình doanh nghiệp được thành lập theo quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật để hoạt động kinh doanh tiền tệ, làm dịch vụ ngân hàng với nội dung nhận tiền gửi và sử dụng tiền gửi để cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán”.

         Luật tổ chức tín dụng không có định nghĩa hoạt động của ngân hàng vì khái niệm này đã được định nghĩa trong Luật Ngân hàng Nhà nước, cũng do Quốc hội khoá X thông qua cùng ngày. Luật Ngân hàng Nhà Nước định nghĩa: “Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi và sử dụng số tiền này để cấp tín dụng, cung ứng dịch vụ thanh toán”.

1.1.2 Khái niệm tín dụng và bản chất của tín dụng

         Tín dụng là một giao dịch về tài sản (tiền hoặc hàng hóa) giữa bên cho vay (ngân hàng và các định chế tài chính khác) và bên đi vay (cá nhân, doanh nghiệp và các chủ thể khác), trong đó bên cho vay chuyển giao tài sản cho bên đi vay sử dụng trong một thời gian nhất định theo thỏa thuận, bên đi vay có trách nhiệm hoàn trả vô điều kiện vốn gốc và lãi cho bên cho vay khi đến hạn thanh toán

Tín dụng tồn tại trong nhiều phương thức sản xuất khác nhau, nhưng ở bất kỳ phương thức nào tín dụng cũng biểu hiện ra bên ngoài như là sự vay mượn tạm thời một vật hoặc một số vốn tiền tệ, nhờ vậy mà người ta có thế sử dụng được giá trị của hàng hóa trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua trao đổi.

Đi sâu tìm hiểu có thể thấy rõ bản chất tín dụng chính là sự vận động của giá trị vốn tín dụng, lần lượt trải qua 3 giai đoạn:

– Giai đoạn cho vay: Ở giai đoạn này, vốn tiền tệ hoặc giá trị vật tư hàng hóa được chuyển từ người cho vay sang người đi vay. Như vậy khi cho vay, giá trị vốn tín dụng được chuyển sang người đi vay, đây là một đặc điểm cơ bản khác với việc mua bán hàng hóa thông thường.

– Giai đoạn sử dụng vốn vay: Người vay được quyền sử dụng giá trị vốn tín dụng để thỏa mãn mục đích nhất định. Tuy nhiên người đi vay không có quyền sở hữu về giá trị đó, mà chỉ sử dụng tạm thời trong một thời gian nhất định.

– Giai đoạn hoàn trả: Đây là một giai đoạn kết thúc một vòng tuần hoàn tín dụng. Sau khi vốn tín dụng đã hoàn thành một chu kỳ sản xuất để trở về hình thái tiền tệ, thì người đi vay hoàn trả lại cho người cho vay đầy đủ giá trị ban đầu và một phần phụ thêm (lãi).

Như vậy, có thể khẳng định rằng, nét đặc trưng của sự vận động trong quan hệ tín dụng là lòng tin, tính hoàn trả, tính thời hạn.

1.1.3 Các phương thức cấp tín dụng

         – Chiết khấu thương phiếu: là việc NHTM sẽ đứng ra trả tiền trước cho KH. Số tiền ngân hàng ứng trước phụ thuộc vào giá trị chứng từ, lãi suất chiết khấu, thời hạn chiết khấu và lãi suất chiết khấu. Thực chất là ngân hàng bỏ tiền ra mua thương phiếu theo một giá mà bao giờ cũng  nhỏ hơn giá trị của thương phiếu (cho vay gián tiếp)

         – Cho vay: là việc NH đưa tiền cho KH với cam kết KH phải hoàn trả cả gốc và lãi trong khoảng thời gian đã xác định. Cho vay gồm các hình thức chủ yếu như: thấu chi, cho vay trực tiếp (từng lần, theo hạn mức tín dụng), cho vay gián tiếp

         – Bảo lãnh (tái bảo lãnh): là cam kết bằng văn bản của NHTM với bên có quyền (bên nhận bảo lãnh) về việc NHTM thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho KH (bên được bảo lãnh) khi KH không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ đã cam kết với bên nhận bảo lãnh. KH phải nhận nợ và hoàn trả cho NHTM số tiền đã được NHTM trả thay

         – Cho thuê tài chính: là hoạt động tín dụng trung và dài hạn thông qua việc cho thuê máy móc, thiết bị, phương tiện vận chuyển và các động sản khác trên cơ sở hợp đồng cho thuê giữa bên cho thuê với bên thuê. Bên cho thuê cam kết mua máy móc, thiết bị, phương tiện vận chuyển và các động sản khác theo yêu cầu của bên thuê và nắm giữ quyền sở hữu đối với các tài sản cho thuê. Bên thuê sử dụng tài sản thuê và thanh toán tiền thuê trong suốt thời hạn thuê đã được hai bên thỏa thuận. Khi kết thúc thời hạn thuê, bên thuê được quyền lựa chọn mua lại tài sản thuê hoặc tiếp tục thuê theo các điều kiện đã thoả thuận trong hợp đồng cho thuê tài chính. Tổng số tiền thuê một loại tài sản quy định tại hợp đồng cho thuê tài chính, ít nhất phải tương đương với giá trị của tài sản đó tại thời điểm ký hợp đồng

1.2 Rủi ro tín dụng trong hoạt động của NHTM

1.2.1 Những vấn đề cơ bản về rủi ro tín dụng

         Rủi ro tín dụng là khả năng xảy ra những tổn thất mà ngân hàng phải chịu do khách hàng vay không trả đúng hạn, không trả, hoặc không trả đầy đủ vốn và lãi. Khi thực hiện một hoạt động cho vay cụ thể, ngân hàng không dự kiến là khoản vay đó sẽ bị tổn thất. Tuy nhiên khoản vay đó luôn hàm chứa rủi ro. Một số ý kiến cho rằng, trên quan điểm quản lý toàn bộ ngân hàng, tỷ lệ tổn thất dự kiến đối với hoạt động tín dụng luôn được xác định trước trong chiến lược hoạt động chung. Do vậy, khi tổn thất dưới mức tỷ lệ tổn thất dự kiến, ngân hàng coi đó là một thành công trong quản lý

         Để chủ động phòng ngừa rủi ro tín dụng có hiệu quả, nhận biết các đặc điểm của rủi ro tín dụng rất cần thiết và hữu ích. Rủi ro tín dụng có các đặc điểm cơ bản sau:

  • Rủi ro tín dụng mang tính gián tiếp: Trong quan hệ tín dụng, ngân hàng chuyển giao quyền sử dụng vốn cho khách hàng. Rủi ro tín dụng xảy ra khi khách hàng gặp những tổn thất và thất bại trong quá trình sử dụng vốn; Hay nói cách khác những rủi ro trong hoạt động kinh doanh của khách hàng là nguyên nhân chủ yếu gây nên rủi ro tín dụng của ngân hàng
  • Rủi ro tín dụng có tính đa dạng và phức tạp: đặc điểm này biểu hiện ở sự đa dạng, phức tạp của nguyên nhân, hình thức, hậu quả của rủi ro tín dụng do đặc điểm của lĩnh vực tài chính kinh doanh tiền tệ . Do đó khi phòng ngừa và xử lý rủi ro tín dụng phải chú ý đến mọi dấu hiệu rủi ro, xuất phát từ nguyên nhân, bản chất và hậu quả của rủi ro tín dụng đem lại để có biện pháp phòng ngừa phù hợp
  • Rủi ro tín dụng có tính tất yếu tức luôn tồn tại và gắn liền với hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại: tình trạng thông tin bất cân xứng đã làm cho ngân hàng không thể nắm bắt được các dấu hiệu rủi ro một cách toàn diện và đầy đủ, điều này làm cho bất cứ khoản vay nào cũng tiềm ẩn rủi ro đối với ngân hàng. Kinh doanh ngân hàng là kinh doanh rủi ro ở mức phù hợp và đạt được lợi nhuận tương ứng

         Rủi ro tín dụng có thể phát sinh do nguyên nhân chủ quan như quá trình phân tích và thẩm định tín dụng không kỹ lưỡng dẫn đến sai lầm trong quyết định cho vay. Mặc khác, cũng có thể quyết định cho vay đúng đắn nhưng thiếu kiểm tra kiểm soát sau khi cho vay dẫn đến việc khách hàng sử dụng vốn vay không đúng mục đích nhưng ngân hàng vẫn không phát hiện để ngăn chặn kịp thời. Rủi ro tín dụng thường được phân làm 2 loại chính:

  • Rủi ro giao dịch là rủi ro liên quan đến từng khoản tín dụng mỗi khi ngân hàng ra quyết định cấp tín dụng mới cho khách hàng. Đây có thể xem là rủi ro cá biệt của từng khoản tín dụng, nó phát sinh do sai sót ở khâu đánh giá, thẩm định và xét duyệt cho vay, hoặc phát sinh do thiếu chặt chẽ ở khâu theo dõi kiểm soát quá trình sử dụng vốn vay, hoặc phát sinh do sơ hở ở khâu bảo đảm và những cam kết ràng buộc trong hợp đồng tín dụng
  • Rủi ro danh mục là loại hình rủi ro tín dụng phát sinh trong quản lý danh mục cho vay của ngân hàng. Rủi ro danh mục là loại rủi ro vừa mang tính chủ quan lại vừa chịu tác động của các nhân tố khách quan. Rủi ro danh mục bao gồm rủi ro nội tại và rủi ro tập trung. Trong đó, rủi ro nội tại xuất phát từ các yếu tố, đặc điểm riêng bên trong của mỗi chủ thể đi vay hoặc ngành, lĩnh vực kinh tế. Nó xuất phát từ đặc điểm hoạt động hoặc đặc điểm sử dụng vốn của khách hàng va Còn rủi ro tập trung là trường hợp ngân hàng tập trung cho vay quá nhiều đối với một số KH, cho vay quá nhiều KH hoạt động trong cùng một ngành, lĩnh vực kinh tế hoặc trong cùng một vùng địa lý nhất định, …

Một số dấu hiệu thường thấy từ phía khách hàng có thể dẫn tới rủi ro tín dụng cần được kiểm tra:

  • Từ báo cáo tài chính.

         –  Ngân hàng không nhận được cáo báo cáo tài chính từ người vay một cách kịp thời

         –  Tiền mặt của khách hàng giảm

         –  Khả năng thanh khoản/vốn lưu động giảm

         –  Những thay đổi nhanh chóng của tài sản cố định

         –  Xuất hiện những khoản nợ mà công ty vay hoặc cho vay cán bộ hoặc cổ đông của công ty

         –  Doanh số bán hàng giảm hoặc gia tăng một cách nhanh chóng

         –  Mức độ chênh lệch lớn giữa tổng doanh thu và doanh thu ròng

         –  Doanh thu tăng nhưng lợi nhuận giảm

         –  Xuất hiện các khoản lỗ từ hoạt động kinh doanh

  • Từ hoạt động kinh doanh.

         –  Thay đổi về phạm vi kinh doanh

         –  Mất những dây chuyền sản xuất chính, quyền phân phối sản phẩm hoặc nguồn cung cấp.

         –  Mất một hay nhiều khách hàng có năng lực tài chính tốt hoặc nhà cung ứng chính

         –  Sự thay đổi đáng kể về giá trị của đơn đặt hàng hoặc hợp đồng mà có thể làm mất năng lực sản xuất hiện hành

  • Những dấu hiệu liên quan đến giao dịch ngân hàng.

         –  Số dư tài khoản tại ngân hàng giảm

         – Xuất hiện khoản nợ quá hạn

         – Đặt niềm tin nhiều vào các khoản nợ ngắn hạn

         – Xin gia hạn nhiều lần hoặc đảo nợ nhiều lần

         – Xuất hiện các khoản vay có nhiều nguồn trả nợ (như theo đề nghị vay vốn) nhưng không dễ dàng nhận thấy chúng.

         – Công tác kế hoạch hoá tài chính cho các nhu cầu về tài sản cố định hoặc về vốn lưu động thể hiện sự đơn giản và kém cỏi

  • Những dấu hiệu liên quan đến quản trị doanh nghiệp.

         – Báo cáo và quản lý tài chính kém cỏi

         – Các chức năng điều hành và phân công xử lý công việc thể hiện một sự chắp vá.

         – Mong muốn hoặc khăng khăng đòi “đánh bạc” với kinh doanh có những rủi ro quá mức

         – Đặt giá bán hàng hoá và dịch vụ một cách không thực tế

         – Những thay đổi trong quản lý, quyền sở hữu hoặc những nhân vật chủ chốt

         – Chậm trễ trong việc phản ứng lại với sự đi xuống của thị trường hoặc các điều kiện kinh tế

1.2.2 Nguyên nhân và thiệt hại của rủi ro tín dụng

1.2.2.1 Nguyên nhân gây ra rủi ro tín dụng

         Bất cứ hoạt động kinh doanh nào trong nền kinh tế thị trường đều gặp rủi ro. Đặc biệt hoạt động kinh doanh của ngân hàng lại là một lĩnh vực kinh doanh nhạy cảm càng không tránh được những rủi ro. Hơn thế nữa, rủi ro luôn tiềm ẩn lớn gây ra những tổn thất xảy ra ngoài ý muốn và ảnh hưởng xấu đến hoạt động kinh doanh của Ngân hàng

         Nhóm nguyên nhân khách quan: Nguyên nhân khách quan gây tác động và ảnh hưởng trên bình diện rộng và thường gồm các yếu tố sau

  • Do sự biến động của môi trường kinh tế (nội địa, toàn cầu)
  • Những bất cập trong cơ chế, chính sách của nhà nước
  • Hành lang pháp lý cho hoạt động ngân hàng chưa hoàn thiện
  • Những nguyên nhân bất khả kháng (thiên tai, dịch bệnh)

         Nhóm nguyên nhân thuộc về bên vay vốn:

  • Tình hình SXKD thiếu ổn định, vững chắc
  • Tình hình tài chính không tốt
  • Công tác quản lý kinh doanh còn hạn chế
  • Thái độ thiếu thiện chí và bất hợp tác của Bên vay vốn
  • Hiện tượng cố ý, cố tình lừa đảo
  • Bên vay vốn sử dụng vốn sai mục đích, không có thiện chí trong việc trả nợ

         Nhóm nguyên nhân thuộc về ngân hàng cho vay

  • Chính sách tín dụng chưa hợp lý
  • Chưa nêu cao tính tự chủ và tự chịu trách nhiệm trong hoạt động tín dụng
  • Chưa xác định đúng qui mô và tốc độ tăng trưởng của tín dụng
  • Chưa có chính sách khách hàng hợp lý
  • Chưa linh hoạt trong lãi suất và ưu đãi lãi suất
  • Chưa đơn giản hóa qui trình thủ tục cấp tín dụng
  • Quá cứng nhắc trong việc xác định và kiểm soát hạn mức tín dụng
  • Quy trình cho vay nhiều kẻ hở bị khách hàng lợi dụng
  • Trình độ chuyên môn nghiệp của cán bộ tín dụng còn hạn chế
  • Đạo đức kinh doanh chưa tốt

1.2.2.2 Thiệt hại do rủi ro tín dụng

         * Đối với ngân hàng:

         Do vốn chủ sở hữu của ngân hàng chỉ chiếm một phần nhỏ trong tổng tài sản nên chỉ cần một tỷ lệ nhỏ của danh mục cho vay có vấn đề là đã ảnh hưởng lớn đến ngân hàng. Dưới đây là một số tác động xấu mà ngân hàng có thể gặp phải khi rủi ro trong hoạt động cho vay xảy ra:

  • Thứ nhất, rủi ro trong hoạt động cho vay làm giảm thu nhập của ngân hàng. Khi có một khoản nợ bị coi là quá hạn, thu nhập của ngân hàng bị giảm sút ngay; một phần vì không thu được lãi hoặc nợ gốc như cam kết, trong khi vẫn phải trả lãi cho nguồn huy động, một phần do các chi phí quản lý, giám sát phát sinh. Mặt khác, nếu các khoản nợ quá hạn chuyển thành khó thu hoặc không thu được, thì việc xử lý tài sản đảm bảo luôn gặp rất nhiều khó khăn về pháp lý và định giá nên trường hợp ngân hàng có thể thu hồi được nợ khi phát mại tài sản là rất khó xảy ra.
  • Thứ hai, rủi ro trong hoạt động cho vay làm giảm khả năng thanh toán của ngân hàng. Tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ cao không những làm giảm thu nhập của ngân hàng mà còn làm giảm nguồn vốn, đồng thời làm giảm khả năng thanh toán của ngân hàng. Khi đó, ngân hàng sẽ phải đi vay trên thị trường liên ngân hàng với lãi suất cao, bởi huy động từ tiền gửi dân cư thường mất rất nhiều thời gian. Nếu tình trạng này kéo dài với việc hàng loạt người gửi tiền rút tiền, ngân hàng sẽ buộc phải đóng cửa và tuyên bố phá sản.
  • Thứ ba, rủi ro trong hoạt động cho vay giảm uy tín và năng lực cạnh tranh của ngân hàng. Khi ngân hàng mất khả năng thanh toán, phải đi vay từ nhiều nguồn khác nhau, uy tín của ngân hàng trên thị trường tài chính sẽ bị giảm đi nghiêm trọng. Hơn nữa tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ cao cũng là một chỉ tiêu quan trọng để đánh giá không tốt về tình hình hoạt động của ngân hàng. Điều này sẽ ảnh hưởng lớn đến tâm lý đối tác của ngân hàng, dẫn đến việc huy động vốn trở nên khó khăn hơn và gặp nhiều trở ngại trong việc cạnh tranh với các ngân hàng khác

         * Đối với nền kinh tế – xã hội

         Bắt nguồn từ bản chất và chức năng của ngân hàng là một tổ chức trung gian tài chính chuyên huy động vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế để cho các tổ chức và cá nhân có nhu cầu vay lại. Do đó, thực chất quyền sở hữu những khoản vay là quyền sở hữu của người đã gởi tiền vào ngân hàng. Bởi vậy, khi rủi ro tín dụng xảy ra thì không những ngân hàng chịu thiệt hại mà quyền lợi của những người gởi tiền cũng bị ảnh hưởng. Tổn thất cùa các ngân hàng làm gia tăng quan ngại về tài chính công như khả năng xảy ra đổ xô rút tiền ngân hàng “bank runs”

         Bên cạnh đó, ngày nay hoạt động của ngân hàng mang tính xã hội hóa cao nên một khi rủi ro tín dụng xảy ra đối với ngân hàng thì nó sẽ ảnh hưởng rất lớn đến nền kinh tế – xã hội. Nếu có sự thất thoát trong hoạt động tín dụng, dù chỉ ở một ngân hàng mà không được ứng cứu kịp thời thì có thể gây phản ứng dây chuyền đe dọa đến tính an toàn và ổn định của cả hệ thống ngân hàng. Từ đó sẽ gây ra những bất ổn về kinh tế – xã hội

         Rõ ràng, rủi ro tín dụng, có thể gây ra những thiệt hại to lớn, không lường trước được đối với nền kinh tế – xã hội của một quốc gia

1.3 Quản trị rủi ro tín dụng.luận văn nâng cao năng lực quản trị rủi ro tín dụng doanh nghiệp tại ngân hàng

1.3.1 Khái niệm quản trị rủi ro tín dụng.luận văn nâng cao năng lực quản trị rủi ro tín dụng doanh nghiệp tại ngân hàng

         Quản trị rủi ro chính là trung tâm của hoạt động quản trị điều hành của mỗi NHTM. Hiểu một cách đơn giản thì quản trị rủi ro chính là quá trình các NHTM áp dụng các nguyên lý, các phương pháp và kinh nghiệm quản trị ngân hàng vào hoạt động kinh doanh của ngân hàng mình để giám sát, phòng ngừa, hạn chế và giảm thiểu rủi ro trong hoạt động tín dụng, đầu tư và các hoạt động kinh doanh khác để ngăn chặn tổn thất thiệt hại cho ngân hàng, đồng thời không ngừng nâng cao sức mạnh và uy tín của ngân hàng trên thị trường. Quản trị rủi ro là bộ phận quan trọng trong chiến lược kinh doanh của mỗi NHTM, đồng thời với mỗi loại rủi ro cụ thể lại áp dụng các phương pháp quản trị riêng

         Quản trị rủi ro tín dụng là quá trình xây dựng và thực thi các chiến lược, các chính sách quản lý và kinh doanh tín dụng nhằm đạt được mục tiêu an toàn, phát triển bền vững. Đồng thời phải tăng cường các biện pháp phòng ngừa, hạn chế và giảm thấp nợ quá hạn, nợ xấu trong kinh doanh tín dụng, từ đó tăng doanh thu, giảm chi phí và nâng cao chất lượng và hiệu quả  hoạt động kinh doanh cả trong ngắn hạn và dài hạn của NHTM

1.3.2 Năng lực quản trị rủi ro tín dụng.luận văn nâng cao năng lực quản trị rủi ro tín dụng doanh nghiệp tại ngân hàng

         Năng lực quản trị rủi ro tín dụng là khả năng kiểm soát nợ quá hạn và nợ xấu của Ngân hàng ở một tỷ lệ có thể chấp nhận được thông qua việc ban hành các chính sách tín dụng hợp lý và xây dựng một mô hình quản trị rủi ro tín dụng hiệu quả phù hợp với môi trường hoạt động để hạn chế những rủi ro tín dụng mang tính chủ quan, xuất phát từ năng lực nội tại của ngân hàng và những rủi ro tín dụng khác có thế kiểm soát được

         Các yếu tố có ảnh hưởng tác động đến năng lực quản trị rủi ro tín dụng bao gồm: Hoạch định và xây dựng chiến lược và chính sách quản trị rủi ro tín dụng; Tái cơ cấu bộ máy tổ chức;  và Các công cụ đo lường rủi ro tín dụng

         – Hoạch định chiến lược tín dụng, xây dựng các quy trình, chính sách tín dụng: Chiến lược tín dụng là hoạch định phát triển trong một thời gian xác định của ngân hàng (thông thường từ 05-10 năm). Chiến lược hoạt động tín dụng phản ánh thái độ sẵn sàng chấp nhận với rủi ro, khoảng rủi ro chấp thuận. Thông qua chiến lược tín dụng, các chính sách quy trình tín dụng được đặt ra nhằm đảm bảo hoạt động tín dụng đạt được những kết quả khả quan như chiến lược đã đề ra

         – Tái cơ cấu bộ máy tổ chức quản trị rủi ro: Hiện nay các NHTM đều xây dựng bộ máy tổ chức quản trị rủi ro theo hướng bộ phận chuyên trách quản lý, tách bạch bộ máy quản trị rủi ro độc lập với kinh doanh; tiến tới thực hiện quản trị rủi ro theo ngành dọc, giảm dần mức độ ủy quyền phân cấp theo hàng ngang.

         – Đo lường rủi ro tín dụng: Việc đề ra và xem xét lại hạn mức rủi ro, giúp ban điều hành xác định được rủi ro cần được ưu tiên theo dõi và kiểm soát. Hiện nay trên thực tế có 3 phương pháp định lượng cơ bản sau

  • Phương pháp thống kê: Bản chất của phương pháp này là dựa trên việc tính toán xác suất xảy ra thiệt hại đối với những nghiệp vụ được nghiên cứu.
  • Phương pháp kinh nghiệm: Phương pháp này được hình thành trên kinh nghiệm của các chuyên gia. Và để chính xác hơn các nhà quản trị Ngân hàng có thể kết hợp phương pháp thống kê và phương pháp kinh nghiệm với nhau.
  • Phương pháp tính toán – phân tích: Phương pháp này dựa trên việc xây dựng đường cong xác suất thiệt hại và đánh giá rủi ro Ngân hàng dựa trên động thái biên thiên của đồ thị toán ứng dụng bằng phương pháp ngoại suy.

1.3.3 Chiến lược quản trị rủi ro tín dụng

         Trong các NHTM, HĐQT và Ban Tổng Giám đốc chịu trách nhiệm đảm bảo hoạt động tín dụng cũng như việc quản trị rủi ro tín dụng của tổ chức một cách đúng đắn. Để làm được  việc này, họ phải có tầm nhìn dài hạn nhằm xây dựng Chiến lược quản tri rủi ro phù hợp với kế hoạch kinh doanh do họ đề ra. Các chiến lược phải phản ánh, bao quát được sự tương tác giữa mức độ chịu đựng rủi ro của ngân hàng so với mức độ kỳ vọng phải đạt được trong trường hợp xảy ra các loại rủi ro tín dụng khác nhau. Ngoài ra, các chiến lược này phải được Ban điều hành xem xét lại hàng năm, phải lập được kế hoạch tổng thể của việc kinh doanh tín dụng trên cơ sở bản chất, phạm vi, sự phức tạp và tính rủi ro của công việc kinh doanh tín dụng

         Các chiến lược được triển khai thành các chính sách để đo lường, giám sát và kiểm soát các rủi ro tín dụng. Những chính sách và thủ tục này  phải bao hàm các rủi ro tín dụng trong tất cả các hoạt động của ngân hàng, đối với từng khoản tín dụng và toàn bộ danh mục tín dụng. Các chính sách và thủ tục được triển khai và thực hiện một cách đúng đắn cho phép ngân hàng có khả năng:

  • Duy trì các tiêu chuẩn cấp phát tín dụng đúng đắn
  • Giám sát và kiểm soát rủi ro tín dụng
  • Đánh giá các cơ hội kinh doanh mới một cách đúng đắn
  • Nhận dạng và quản trị các vấn đề tín dụng

         Các chính sách này phản ánh và tác động trực tiếp đến hoạt động tác nghiệp hàng ngày của các bộ phận trong ngân hàng, áp đặt các hoạt động phải tuân theo các chính sách, quy chế đã được phê duyệt bởi HĐQT và Ban Tổng Giám đốc, nhằm đưa tất cả các hoạt động ngân hàng nằm trong hành lang an toàn

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *