Kiểm sát điều tra vụ án vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ

Kiểm sát điều tra vụ án vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ

Kiểm sát điều tra vụ án vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn Quân khu 5

1. Tính cấp thiết của đề tài

Tham gia giao thông là một hoạt động không thể thiếu được trong đời sống hàng ngày của xã hội. Theo tình hình chung của cả nước, hàng năm số vụ tai nạn giao thông đường bộ và tội phạm vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ trên địa bàn Quân khu 5 diễn biến phức tạp, khó lường về số vụ tai nạn, số người chết, bị thương lẫn tính chất, hậu quả thiệt hại. Nhận thức sâu sắc về những hậu quả tác hại do tai nạn giao thông và tội phạm này gây ra, các cấp uỷ Đảng và chính quyền trên địa bàn Quân khu 5 rất quan tâm đến công tác đảm bảo trật tự an toàn giao thông. Các cơ quan bảo vệ pháp luật của Quân đội trên địa bàn Quân khu 5 đã tổ chức nhiều hoạt động phòng ngừa, điều tra, xử lý đối với tội phạm vi phạm quy định về TGGTĐB một cách nghiêm túc. Hàng năm số vụ phạm tội vi phạm quy định về TGGTĐB bị khởi tố điều tra, truy tố, xét xử chiếm tỉ lệ tương đối cao. Có những kết quả này là do Viện kiểm sát quân sự Quân khu 5 đã có nhiều cố gắng trong việc nâng cao chất lượng công tác kiểm sát điều tra các vụ án hình sự, trong đó có các vụ án vi phạm quy định về TGGTĐB. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, công tác này vẫn còn những hạn chế, thiếu sót nhất định. Tổ chức bộ máy, trình độ chuyên môn, kiến thức pháp luật, ý thức trách nhiệm của một số cán bộ trực tiếp tiến hành hoạt động điều tra, kiểm sát điều tra tội phạm ở lĩnh vực này chưa ngang tầm đối với yêu cầu nhiệm vụ được giao… Thực trạng đó là một trong những nguyên nhân quan trọng làm ảnh hưởng đến chất lượng và hiệu quả phòng ngừa, điều tra và xử lý truy tố đối với tội phạm vi phạm quy định về TGGTĐB trên địa bàn Quân khu 5.

Về mặt lý luận, mặc dù có nhiều công trình nghiên cứu về kiểm sát điều tra vụ án hình sự, thậm chí về kiểm sát điều tra các vụ án vi phạm quy định về TGGTĐB, nhưng đến nay chưa có đề tài hay công trình nghiên cứu nào đi sâu nghiên cứu về kiểm sát điều tra vụ án vi phạm quy định về TGGTĐB trên địa bàn Quân khu 5 do VKSQS Quân khu tiến hành.

Về luật thực định, sau khi BLTTHS năm 2015 được ban hành và có hiệu lực thi hành, các quy định của Bộ luật này về kiểm sát điều tra vụ án hình sự, trong đó có vụ án vi phạm quy định về TGGTĐB đã được sửa đổi, bổ sung cần phải nghiên cứu làm rõ để nhận thức và áp dụng thống nhất trong thực tiễn. Vì vậy, việc nghiên cứu hoạt động KSĐT vụ án vi phạm quy định về TGGTĐB trên địa bàn Quân khu 5 là rất cần thiết, nhằm góp phần nâng cao chất lượng kiểm sát điều tra xử lý đối với loại án này đúng tội, đúng người và đúng pháp luật, không làm oan người vô tội; hạn chế đến mức thấp nhất tình trạng bỏ lọt tội phạm và người phạm tội để không ngừng nâng cao hiệu quả phòng chống loại tội phạm này trên địa bàn.

Vì các lẽ trên, tác giả chọn đề tài: “Kiểm sát điều tra vụ án vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn Quân khu 5” làm luận văn thạc sĩ luật học.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1 Mục đích nghiên cứu

Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và đánh giá thực tiễn kiểm sát điều tra tội phạm vi phạm quy định về TGGTĐB trên địa bàn Quân khu 5 của các cơ quan Điều tra hình sự Quân khu, rút ra những ưu điểm, hạn chế trong hoạt động KSĐT đối với loại án này của Viện kiểm sát quân sự Quân khu 5, luận văn hướng tới mục đích đưa ra những giải pháp, kiến nghị góp phần nâng cao chất lượng công tác KSĐT các vụ án vi phạm quy định về TGGTĐB trên địa bàn Quân khu 5.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

– Phân tích những vấn đề lý luận cơ bản về hoạt động KSĐT vụ án vi phạm quy định về TGGTĐB.

– Làm rõ quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về hoạt động KSĐT nói chung, KSĐT vụ án vi phạm quy định về TGGTĐB nói riêng.

– Đánh giá thực trạng hoạt động KSĐT của VKSQS Quân khu 5 đối với các vụ án vi phạm quy định về TGGTĐB.

– Đề xuất các giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả công tác KSĐT vụ án vi phạm quy định về TGGTĐB trong thời gian tới.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1 Đối tượng nghiên cứu

Những vấn đề lý luận, quy định của BLTTHS và thực tiễn áp dụng các quy định về KSĐT vụ án vi phạm quy định về TGGTĐB của VKSQS trên địa bàn Quân khu 5 ở cả hai cấp.

4.2 Phạm vi nghiên cứu

Luận văn nghiên cứu những vấn đề về KSĐT đối với vụ án vi phạm quy định về TGGTĐB theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn Quân khu 5, thời gian 05 năm (từ năm 2012 đến năm 2016).

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

5.1. Cơ sở lý luận

Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, đồng thời quán triệt các quan điểm của Đảng và Nhà nước về công tác KSĐT; khoa học hình sự Việt Nam.

5.1. Phương pháp nghiên cứu

Phương pháp nghiên cứu được sử dụng: phương pháp phân tích tổng hợp, phương pháp so sánh đối chiếu, phương pháp thống kê biểu mẫu, phương pháp kết hợp giữa lý luận và thực tiễn … để giải quyết các nội dung khoa học trong đề tài luận văn.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn

6.1. Ý nghĩa lý luận

Kết quả của luận văn có thể góp phần bổ sung lý luận của khoa học Luật tố tụng hình sự về KSĐT của Viện kiểm sát trong quá trình giải quyết vụ án vi phạm quy định về TGGTĐB. Ngoài ra, luận văn còn là tài liệu tham khảo có giá trị trong giảng dạy, nghiên cứu khoa học tại các trường Công an nhân dân, trường Đại học Luật, Học viện tư pháp, trường Kiểm sát…

6.2. Ý nghĩa thực tiễn

Những giải pháp mà luận văn đưa ra có tác dụng nâng cao chất lượng công tác KSĐT vụ án hình sự của VKSQS Quân khu 5 ở cả hai cấp nói chung, nâng cao chất lượng hoạt động KSĐT các vụ án về tội vi phạm quy định về TGGTĐB trên địa bàn VKSQS Quân khu 5 nói riêng.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, danh mục các chữ viết tắt, danh mục các bảng, phụ lục, luận văn gồm 3 chương.

Chương 1: Những vấn đề lý luận về kiểm sát điều tra vụ án vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam.

Chương 2: Tình hình có liên quan và thực trạng điều tra vụ án vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ của Viện kiểm sát quân sự Quân khu 5.

Chương 3: yêu cầu và giải pháp tăng cường kiểm sát điều tra vụ án vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ.

Kiểm sát điều tra vụ án vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn Quân khu 5
Kiểm sát điều tra vụ án vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn Quân khu 5

CHƯƠNG 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KIỂM SÁT ĐIỀU TRA VỤ ÁN VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ THAM GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM

1.1. Khái niệm kiểm sát điều tra vụ án vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ

1.1.1. Khái niệm kiểm sát điều tra

Ở nước ta, kiểm sát hoạt động tư pháp là chức năng của Viện kiểm sát nhằm kiểm sát tính hợp pháp các hành vi, các quyết định của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hoạt động tư pháp, chức năng này được thực hiện ngày từ lúc tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm và trong suốt quá trình giải quyết vụ án hình sự. Trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự, công tác kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tư pháp được thực hiện thông qua nghiệp vụ kiểm sát điều tra, chủ yếu là giám sát, kiểm tra tính hợp pháp trong hành vi của các chủ thể bị kiểm sát trong quá trình điều tra vụ án, bảo đảm vụ án được điều tra theo đúng luật định.

Như chúng ta đã biết, KSV là người trực tiếp thực thi các chức năng của VKS. Khi khởi tố, điều tra vụ án CQĐT, cụ thể ở đây là ĐTV phải chịu sự kiểm tra, kiểm sát chặt chẽ của KSV. Trong quá trình kiểm sát, KSV có các quyền hạn được quy định tại Điều 42 BLTTHS nhằm đảm bảo cho pháp luật được thực hiện một cách nghiêm minh, đúng đắn.

Trên cơ sở đó, tác giả đưa ra khái niệm kiểm sát điều tra như sau:

Kiểm sát điều tra là chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp trong lĩnh vực điều tra tội phạm của Viện kiểm sát do Kiểm sát viên tiến hành nhằm đảm bảo việc khởi tố, điều tra của Cơ quan điều tra đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

1.1.2. Khái niệm vụ án vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ

Tội vi phạm quy định về TGGTĐB được quy định tại Điều 260 BLHS năm 2015, Chương XXI – Các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng như sau:

Điều 260. Tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ

1. Người nào tham gia giao thông đường bộ mà vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ gây thiệt hại cho người khác thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

a) Làm chết người;

b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 01 người mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên;

c) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 61% đến 121%;

d) Gây thiệt hại về tài sản từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm:

a) Không có giấy phép lái xe theo quy định;

b) Trong tình trạng có sử dụng rượu, bia mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn vượt quá mức quy định, có sử dụng chất ma túy hoặc chất kích thích mạnh khác;

c) Bỏ chạy để trốn tránh trách nhiệm hoặc cố ý không cứu giúp người bị nạn;

d) Không chấp hành hiệu lệnh của người điều khiển hoặc hướng dẫn giao thông;

đ) Làm chết 02 người;

e) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 122% đến 200%:

g) Gây thiệt hại về tài sản từ 500.000.000 đồng đến dưới 1.500.000.000 đồng.

3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:

a) Làm chết 03 người trở lên;

b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 03 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này 201% trở lên;

c) Gây thiệt hại về tài sản 1.500.000.000 đồng trở lên.

4. Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ trong trường hợp có khả năng thực tế dẫn đến hậu quả quy định tại một trong các điểm a, b và c khoản 3 Điều này nếu không được ngăn chặn kịp thời, thì bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 01 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm.

5. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm. [23, tr.284].

Quán triệt tư tưởng chỉ đạo cụ thể hoá các hành vi phạm tội, cá thể hoá TNHS và hình phạt, tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ quy định tại Điều 260 BLHS năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017) so với Điều 202 BLHS năm 1999 đã được sửa đổi theo hướng đầy đủ hơn về chủ thể, nhằm đảm bảo điều chỉnh bao quát hơn đối với người tham gia giao thông trên đường bộ, kể cả người đi bộ trên đường. Đồng thời quy định cụ thể hóa mức độ thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, tài sản để xác định tình tiết định khung tăng nặng về hình phạt đối với loại tội phạm này.

Kiểm sát điều tra vụ án vi phạm quy định về TGGTĐB là một trong những hoạt động kiểm sát các hoạt động điều tra một vụ án cụ thể, đó là vụ án vi phạm quy định về TGGTĐB được quy định tại Điều 260 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Vụ án vi phạm quy định về TGGTĐB là vụ án hình sự có dấu hiệu của tội vi phạm quy định về TGGTĐB xảy ra trên thực tế và đã được cơ quan có thẩm quyền ra quyết định khởi tố vụ án hình sự về tội vi phạm quy định về TGGTĐB quy định tại Điều 260 BLHS hiện hành.

1.1.3. Khái niệm, đặc điểm kiểm sát điều tra vụ án vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ

– Kiểm sát điều tra là một trong những chức năng của Viện kiểm sát được quy định trong BLTTHS năm 2015 và Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014. Căn cứ vào những văn bản pháp luật trên thì Viện kiểm sát khi kiểm sát điều tra vụ án hình sự có chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tư pháp, trong đó có hoạt động điều tra các vụ án vi phạm quy định về TGGTĐB.

Từ vấn đề trên có thể rút ra khái niệm: Kiểm sát điều tra của Viện kiểm sát trong điều tra các vụ án vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ là Viện kiểm sát sử dụng quyền năng theo luật định để kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong quá trình Cơ quan điều tra thực hiện các hoạt động điều tra các vụ án vi phạm quy định về TGGTĐB nhằm đảm bảo cho hoạt động điều tra được đúng theo quy định của pháp luật, không bỏ lọt tội phạm và người phạm tội.

Hoạt động kiểm sát điều tra các vụ án vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ mang đầy đủ đặc điểm của hoạt động KSĐT các vụ án hình sự. Tuy nhiên, do tính chất của tội phạm vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ nên hoạt động này có các đặc điểm sau:

Thứ nhất: KSĐT các vụ án vi phạm quy định về TGGTĐB luôn gắn với quan điểm, đường lối chỉ đạo của Đảng về phòng chống tội phạm vi phạm quy định về TGGTĐB.

Hoạt động kiểm sát điều tra vụ án hình sự phải căn cứ vào các quy định của pháp luật, phải quán triệt đường lối, chủ trương và chính sách của Đảng. Căn cứ vào các văn kiện Đại hội Đảng; Nghị quyết của Quốc hội; Nghị định của Chính phủ; các văn bản chỉ đạo công tác phòng chống vi phạm trật tự an toàn giao thông đường bộ hàng năm của Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Như vậy, trước hết khi kiểm sát điều tra vụ án vi phạm quy định về TGGTĐB, VKS phải luôn bám sát nội dung chỉ đạo của cấp ủy địa phương, nhưng vẫn đảm bảo độc lập trong quyết định xử lý.

Mặt khác, những người có thẩm quyền KSĐT vụ án vi phạm quy định về TGGTĐB phải luôn tuân thủ nghiêm ngặt quy định của pháp luật, hỗ trợ và tạo điều kiện cho CQĐT hoàn thành nhiệm vụ.

Hiến pháp năm 2013, Bộ luật TTHS năm 2015 quy định chức năng KSĐT của Viện kiểm sát nhân dân. Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014 và Quyết định số 03/QĐ-VKSTC ngày 29/12/2017 của Viện trưởng VKSND tối cao ban hành Quy chế công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát việc khởi tố, điều tra và truy tố, quy định cụ thể nội dung của hoạt động KSĐT các vụ án hình sự. Đó là hoạt động pháp lý, được pháp luật Nhà nước ta quy định đối với Viện kiểm sát nhân dân để truy cứu trách nhiệm hình sự người thực hiện hành vi phạm tội vi phạm quy định về TGGTĐB. Thông qua các hoạt động pháp lý này, VKS thực hiện chức năng, nhiệm vụ đảm bảo việc xử lý đúng người, đúng tội, chống làm oan người vô tội, bỏ lọt tội phạm đồng thời giám sát các hoạt động của CQĐT khi tiến hành các biện pháp điều tra theo đúng luật định.

Thứ hai: KSV khi thực hiện chức năng KSĐT vụ án hình sự nói chung, vụ án vi phạm quy định về TGGTĐB nói riêng, phải luôn bám sát các hoạt đông điều tra, chủ động đề ra yêu cầu điều tra để làm rõ các nội dung trong vụ án. Thông qua hoạt động kiểm sát, KSV phát hiện hành vi vi phạm pháp luật thì đề nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xử lý theo quy định của pháp luật.

Bộ luật TTHS quy định VKSND có chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật của CQĐT trong điều tra vụ án hình sự nói chung, vụ án vi phạm quy định về TGGTĐB nói riêng. Để thực hiện tốt chức năng này, VKS phải thường xuyên trao đổi, phối hợp, chủ động bám nắm các hoạt động của CQĐT về nội dung, phương pháp điều tra, tiến độ điều tra vụ án. Muốn giải quyết vụ án vi phạm quy định về TGGTĐB theo quy định của pháp luật hình sự, VKS phải đặt ra nội dung yêu cầu điều tra đối với từng vụ án cụ thể và CQĐT phải có trách nhiệm thực hiện đầy đủ các yêu cầu điều tra đó. Đồng thời, VKS phải đôn đốc, kiểm sát việc thực hiện các yêu cầu điều tra của CQĐT.

Thứ ba: Chủ thể hoạt động KSĐT vụ án vi phạm quy định về TGGTĐB phải có kiến thức về pháp luật, trình độ chuyên môn nghiệp vụ kiểm sát, các kiến thức liên quan đến trật tự an toàn giao thông đường bộ, thường xuyên tích lũy kinh nghiệm và kỹ năng tác nghiệp.

Các quy định của pháp luật liên quan đến các tội vi phạm quy định về TGGTĐB rất nhiều và phức tạp, lại thường xuyên thay đổi, đòi hỏi KSV phải cập nhật liên tục, bởi vụ án này liên quan đến nhiều lĩnh vực xã hội, như: Kiến thức, ý thức chấp hành pháp luật về Giao thông đường bộ và các quy định có liên quan, sự buông lỏng trong quản lý, kiểm tra của các cơ quan có thẩm quyền… từ thực tế này cho thấy KSV cần tích lũy các kiến thức xã hội cũng như kiến thức khoa học có liên quan đến xâm phạm trật tự an toàn giao thông để đáp ứng yêu cầu công việc.

Để thực hiện các tác nghiệp cụ thể, giải quyết vụ án vi phạm quy định về TGGTĐB theo quy định của Bộ luật TTHS và các văn bản dưới luật có liên quan, KSV phải trực tiếp đối mặt với bị can khi hỏi cung, lấy lời khai, tống đạt các lệnh, quyết định, dựng lại hiện trường, thực nghiệm điều tra.

1.2. Phạm vi, nội dung, hình thức kiểm sát điều tra vụ án vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ của Viện kiểm sát quân sự Quân khu 5

1.2.1. Phạm vi kiểm sát điều tra vụ án vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ của Viện kiểm sát quân sự Quân khu 5

Phạm vi KSĐT vụ án hình sự nói chung, phạm vi KSĐT vụ án vi phạm quy định về TGGTĐB nói riêng được xác định theo quy định tại Điều 1 Quy chế kiểm sát điều tra như sau: “Công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát việc khởi tố, điều tra và truy tố bắt đầu từ khi tiếp nhận nguồn tin về tội phạm đến khi kết thúc giai đoạn truy tố, Viện kiểm sát ra quyết định truy tố hoặc quyết định đình chỉ vụ án theo quy định của pháp luật” [27, tr. 01]. BLTTHS năm 2015 quy định nhiệm vụ, quyền hạn của VKS trong KSĐT vụ án hình sự được quy định tại Điều 166, Chương X: những quy định chung về điều tra vụ án hình sự, thuộc phần thứ hai: khởi tố, điều tra vụ án hình sự, và đã quy định hoạt động truy tố của VKS thành giai đoạn riêng (phần thứ 3, BLTTHS năm 2015).

Từ các quy định trên cho thấy, hoạt động KSĐT vụ án hình sự nói chung, vụ án vi phạm quy định về TGGTĐB nói riêng, được bắt đầu từ khi tiếp nhận nguồn tin về tội phạm đến khi kết thúc giai đoạn điều tra vụ án, CQĐT ra bản kết luận điều tra đề nghị truy tố hoặc ra bản kết luận điều tra và quyết định đình chỉ điều tra (Điều 232 BLTTHS).

Về phạm vi đối tượng của hoạt động KSĐT bao gồm:

+ Người bị hại hoặc người thực hiện hành vi phạm tội là: quân nhân, Công nhân viên chức quốc phòng, lao động hợp đồng không xác định thời hạn.

+ Cả người thực hiện hành vi phạm tội và người bị hại đều là: Quân nhân, Công nhân viên chức quốc phòng, lao động hợp đồng không xác định thời hạn.

+ Quân nhân, Công nhân viên chức quốc phòng, lao động hợp đồng không xác định thời hạn của Quân khu 5 thực hiện hành vi phạm tội ở địa bàn khác ngoài Quân khu 5.

+ Quân nhân, Công nhân viên chức quốc phòng, lao động hợp đồng không xác định thời hạn của Quân khu khác thực hiện hành vi phạm tội ở địa bàn Quân khu 5 (do sự thống giữa các cơ quan tố tụng sẽ giao cho cơ quan Điều tra nào tiến hành điều tra thì Viện kiểm sát đó sẽ tiến hành kiểm sát điều tra).

1.2.2. Nội dung kiểm sát điều tra vụ án vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ của Viện kiểm sát quân sự Quân khu 5

Nội dung của KSĐT được quy định rất cụ thể trong BLTTHS, trong Luật tổ chức VKS nhân dân, trong Quy chế KSĐT và các văn bản hướng dẫn liên quan.

Điều 166 BLTTHS năm 2015, quy định:

Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát khi kiểm sát điều tra vụ án hình sự

1. Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc khởi tố, điều tra và lập hồ sơ vụ án của Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra.

2. Kiểm sát hoạt động tố tụng hình sự của người tham gia tố tụng; yêu cầu, kiến nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xử lý nghiêm minh người tham gia tố tụng vi phạm pháp luật.

3. Giải quyết tranh chấp về thẩm quyền điều tra.

4. Yêu cầu Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra cung cấp tài liệu liên quan để kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc khởi tố, điều tra khi cần thiết.

5. Khi phát hiện việc điều tra không đầy đủ, vi phạm pháp luật thì Viện kiểm sát yêu cầu Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra thực hiện các hoạt động:

a) Tiến hành hoạt động điều tra đúng pháp luật;

b) Kiểm tra việc điều tra và thông báo kết quả cho Viện kiểm sát;

c) Cung cấp tài liệu liên quan đến hành vi, quyết định tố tụng có vi phạm pháp luật trong việc điều tra.

6. Kiến nghị, yêu cầu Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra khắc phục vi phạm trong việc khởi tố, điều tra.

7. Yêu cầu Thủ trưởng Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra thay đổi Điều tra viên, Cán bộ điều tra, xử lý nghiêm minh Điều tra viên, Cán bộ điều tra vi phạm pháp luật trong hoạt động tố tụng.

8. Kiến nghị cơ quan, tổ chức hữu quan áp dụng các biện pháp phòng ngừa tội phạm và vi phạm pháp luật.

9. Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác trong việc kiểm sát điều tra vụ án hình sự theo quy định của Bộ luật này [20, tr.158].

Khi tiến hành các hoạt động điều tra, CQĐT, các cơ quan khác được giao một số hoạt động điều tra được sử dụng các biện pháp do BLTTHS quy định để thu thập chứng cứ chứng minh tội phạm, người phạm tội và những nội dung khác liên quan đến vụ án hình sự nói chung, vụ án vi phạm quy định về TGGTĐ nói riêng, làm cơ sở cho việc truy tố của VKS, xét xử của Tòa án. Qua điều tra, làm rõ được nguyên nhân, điều kiện phạm tội, từ đó, các cơ quan tư pháp an hành kiến nghị các các cơ quan, tổ chức hữu quan có biện pháp phòng ngừa vi phạm, tội phạm, góp phần hạn chế thấp nhất các vụ tai nạn giao thông và giữ gìn trật tự an toàn công cộng trong xã hội.

Đối với VKSQS Quân khu 5, Kiểm sát hoạt động điều tra là một nhiệm vụ quan trọng trong quá trình thực hiện chức năng của mình, nhằm bảo đảm:

– Thứ nhất, không để người nào bị khởi tố, bắt, tạm giữ, tạm giam, bị xâm phạm tính mạng, sức khỏe, tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm một cách trái pháp luật;

– Thứ hai, mọi hành vi phạm tội phải được phát hiện, khởi tố, điều tra và xử lý nghiêm minh, kịp thời, không để lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội;

– Thứ ba, hoạt động điều tra phải khách quan, toàn diện, chính xác, đúng pháp luật; những vi phạm pháp luật trong quá trình điều tra phải được phát hiện và khắc phục kịp thời và xử lý nghiêm minh;

Nghiên cứu nội dung quy định tại Điều 166 BLTTHS thấy rằng VKSQS kiểm sát chặt chẽ, toàn bộ các hoạt động điều tra của CQĐT trong Quân đội. Phương thức thực hiện chức năng kiểm sát các hoạt động điều tra của CQĐT được thể hiện ở một số nội dung hoạt động cụ thể như sau:

1.2.2.1. Kiểm sát việc khởi tố và không khởi tố vụ án hình sự

Trong tố tụng hình sự, quyết định khởi tố vụ án hình sự hoặc không khởi tố vụ án hình sự là cơ sở phát sinh mối quan hệ pháp luật tố tụng hình sự giữa CQĐT và các cơ quan được giao tiến hành một số hoạt động điều tra trong quân đội với VKSQS, được phản ánh thông qua việc VKS thực hiện chức năng kiểm sát việc khởi tố vụ án hình sự của VKSQS, đây là cơ quan có trách nhiệm bảo đảm cho các quyết định khởi tố hoặc quyết định không khởi tố vụ án hình sự của cơ quan có thẩm quyền phải có căn cứ pháp lý, đồng thời tránh bỏ lọt tội phạm.

Theo quy định tại Điều 147 BLTTHS thì sau khi thực hiện các bước tiến hành kiểm tra, xác minh tố giác, tin báo về tội phạm hoặc kiến nghị khởi tố, CQĐT phải ra quyết định khởi tố vụ án hình sự nếu phát hiện có dấu hiệu của tội phạm hình sự để tiến hành điều tra vụ án theo quy định. Hoặc qua kiểm tra xác minh xác định có một trong các căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự theo Điều 157 BLTTHS thì CQĐT phải ra quyết định không khởi tố vụ án hình sự.

Khi ban hành một trong các quyết định này, CQĐT trong quân đội phải gửi cho VKSQS để tiến hành kiểm sát việc khởi tố. Nếu thấy quyết định của CQĐT không có căn cứ hoặc vi phạm thủ tục tố tụng thì VKSQS ra quyết định hủy bỏ quyết định khởi tố hoặc không khởi tố đó. Sau khi nhận được Quyết định khởi tố hoặc không khởi tố vụ án hình sự, trong vòng 03 ngày thì VKS phải ra thông báo bằng văn bản trả lời cho CQĐT biết việc khởi tố hoặc không khởi tố đó là có căn cứ hay không có căn cứ (Thông tư liên tịch số 05/2005/TTLT ngày 07/9/2005 của VKSNDTC – BCA – BQP về quan hệ phối hợp giữa CQĐT và VKS trong việc thực hiện một số quy định của BLTTHS gọi tắt là Thông tư liên tịch 05/2005/TTLT).

Tại khoản 2 Điều 154 BLTTHS quy định, trong thời hạn 24 giờ, kể từ khi ra Quyết định khởi tố vụ án hình sự, CQĐT và một số cơ quan được giao thẩm quyền điều tra phải gửi Quyết định đến VKSQS kèm theo các tài liệu liên quan đến vụ án. Quy định này nhằm đảm bảo cho VKSQS thực hiện chức năng kiểm sát việc khởi tố được chặt chẽ, đầy đủ, kịp thời, nhằm đảm bảo việc khởi tố của CQĐT theo đúng pháp luật quy định.

Hoạt động khởi tố vụ án hình sự của CQĐT là tiền đề pháp lý để tiến hành các hoạt động tố tụng tiếp theo đó là điều tra, truy tố, xét xử đối với người thực hiện hành vi vi phạm pháp luật hình sự. Vì vậy, khi VKS thực hiện tốt chức năng kiểm sát hoạt động khởi tố có ý nghĩa rất quan trọng, bảo đảm cho mọi tội phạm được phát hiện phải bị khởi tố đúng theo luật định.

1.2.2.2. Kiểm sát việc áp dụng, thay thế, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn

BLTTHS nước ta quy định các biện pháp ngăn chặn gồm có: giữ người trong trường hợp khẩn cấp, bắt người phạm tội quả tang, bắt người đang bị truy nã, bắt bị can, bị cáo để tạm giam, tạm giữ, tạm giam, bảo lĩnh, đặt tiền để bảo đảm, cấm đi khỏi nơi cư trú. Trong đó, biện pháp ngăn chặn bắt, tạm giam là biện pháp nghiêm khắc nhất, bởi nó hạn chế trực tiếp một số quyền của công dân. VKS có trách nhiệm kiểm sát tính có căn cứ, hợp pháp trong việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn. Nghị quyết số 08/NQ-TW ngày 02/01/2001 của Bộ Chính trị Ban chấp hành Trung ương đã xác định: “ở đâu có việc bắt giam, giữ trái pháp luật thì Viện kiểm sát ở đó phải chịu trách nhiệm”. Theo đó, VKS càng phải nâng cao tinh thần trách nhiệm trong thực hiện chức năng của mình là phải kiểm sát chặt chẽ việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn của CQĐT.

Kiểm sát điều tra vụ án vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn Quân khu 5
Kiểm sát điều tra vụ án vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn Quân khu 5

BLTTHS cũng đã quy định vai trò quyết định của VKS trong việc áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn trong giai đoạn điều tra nên việc bắt, giam, giữ, gia hạn tạm giữ, tạm giam, gia hạn tạm giam bị can, bảo lĩnh, đặt tiền để bảo đảm của CQĐT trong quân đội áp dụng đều phải được VKSQS xem xét, phê chuẩn một cách chặt chẽ đối với từng trường hợp, bảo đảm việc áp dụng biện pháp ngăn chặn có căn cứ pháp luật, đồng thời phục vụ tốt công tác điều tra, khám phá các vụ án hình sự, phòng ngừa tội phạm xảy ra.

Trách nhiệm và quyền hạn của VKS trong kiểm sát việc áp dụng biện pháp ngăn chặn được quy định rõ ràng, mang tính quyết định đó là: Đối với những biện pháp ngăn chặn do Viện kiểm sát phê chuẩn trong giai đoạn điều tra thì việc hủy bỏ hoặc thay thế bằng biện pháp ngăn chặn khác phải do Viện kiểm sát quyết định; trong thời hạn 10 ngày trước khi hết thời hạn áp dụng biện pháp ngăn chặn, trừ biện pháp tạm giữ do Viện kiểm sát phê chuẩn, cơ quan đã đề nghị áp dụng biện pháp ngặn chặn này phải thông báo cho Viện kiểm sát để quyết định hủy bỏ hoặc thay thế biện pháp ngăn chặn khác.

Tóm lại, VKSQS phải thực hiện tốt chức năng kiểm sát điều tra vụ án hình sự ngay từ khi khởi tố vụ án, khởi tố bị can, đến khi CQĐT có đề nghị xét phê chuẩn áp dụng biện pháp ngăn chặn, tạo cơ sở cho hoạt động kiểm sát việc áp dụng biện pháp ngăn chặn được kịp thời, chính xác và đúng pháp luật.

1.2.2.3. Kiểm sát cơ quan, người có thẩm quyền thực hiện các hoạt động điều tra

* Kiểm sát việc khám nghiệm hiện trường

Khám nghiệm hiện trường là “Xem xét nơi xảy ra, nơi phát hiện tội phạm nhằm phát hiện dấu vết của tội phạm, vật chứng và làm sáng tỏ các tình tiết có ý nghĩa đối với vụ án” [24, tr.413].

Hoạt động khám nghiệm hiện trường do CQĐT trong quân đội thực hiện có vai trò rất quan trọng trong giải quyết vụ án hình sự, nhất là vụ án vi phạm quy định về TGGTĐB, nên pháp luật tố tụng hình sự quy định bắt buộc phải có sự tham gia của Kiểm sát viên VKSQS đối với hoạt động này. Bởi lẽ, đây là nơi xảy ra vụ việc mang tính hình sự nên sẽ là nơi tập trung nhiều nhất các dấu vết có giá trị chứng minh tội phạm. Thực tế việc giải quyết nguồn tin về tội phạm, có những hiện trường ngay từ đầu đã xác định được hành vi tội phạm đã xảy ra, nhưng cũng có trường hợp phải kết hợp với việc thu thập các tài liệu chứng cứ khác, phân tích đánh giá tổng hợp các nguồn chứng cứ đó mới có đủ cơ sở để xác định có hành vi phạm tội hay không, làm căn cứ để quyết định khởi tố hay không khởi tố vụ án hình sự. Vì vậy, khám nghiệm hiện trường là biện pháp có thể tiến hành trước khi khởi tố vụ án.

VKSQS thực hiện chức năng kiểm sát hoạt động khám nghiệm hiện trường nhằm bảo đảm hoạt động khám nghiệm được tiến hành khách quan, toàn diện và đúng pháp luật, qua đó còn có thể nắm được rõ các tình tiết liên quan đến vụ án ngay từ ban đầu khi tội phạm xảy ra để làm cơ sở cho hoạt động kiểm sát tiếp theo như kiểm sát khởi tố vụ án, kiểm sát khởi tố bị can v.v…

Công tác khám nghiệm hiện trường được quy định tại Điều 201 BLTTHS, có ý nghĩa quan trọng. Đối với nhiều vụ án, hoạt động này còn mang tính quyết định trong việc xác định có tội phạm xảy ra hay không. Do đó, VKSQS thực hiện kiểm sát hoạt động khám nghiệm hiện trường nhằm góp phần nâng cao chất lượng hoạt động điều tra, nhằm thu thập, xây dựng nguồn chứng cứ vững chắc cho hoạt động điều tra, xử lý tội phạm.

Đối với vụ án Vi phạm quy định về TGGTĐB, hoạt động khám nghiệm hiện trường được tiến hành một cách khách quan, đầy đủ, đúng quy định góp phần rất quan trọng trong việc đánh giá chứng cứ một cách chặt chẽ, xác định lỗi, từ đó góp phần vào việc xử lý vụ án được khánh quan toàn diện, đầy đủ; tránh làm oan, sai. Bên cạnh đó, việc khám nghiệm các phương tiện có liên quan trong vụ án giao thông có ý nghĩa rất quan trọng trong việc đánh giá chứng cứ của vụ án. Việc kiểm sát chặt chẽ hoạt động này tạo điều kiện, tiền đề tiên quyết trong việc đánh giá lỗi phạm, từ đó xác định được người nào gây ra tai nạn nếu đủ yếu tố thì khởi tố vụ án, khởi tố bị can.

Khi kiểm sát việc khám nghiệm hiện trường, KSV cần chú ý kiểm sát việc bảo vệ tính nguyên vẹn của hiện trường, xem xét các dấu vết, thu giữ được vật chứng gì, phương pháp thu giữ dấu vết, vật chứng có phù hợp và đúng quy định của pháp luật hay không. Chủ động nghiên cứu, trao đổi yêu cầu Điều tra viên thực hiện các vấn đề cần thiết để đảm bảo hoạt động khán nghiệm đạt hiệu quả cao. Kết thúc công tác khám nghiệm, KSV cần đánh giá, thống nhất với ĐTV về việc có khám nghiệm bổ sung, khám nghiệm lại hay không, đồng thời trao đổi với ĐTV đánh giá cần giám định dấu vết gì để làm rõ vụ tai nạn giao thông, kiểm sát chặt chẽ việc niem phong, bàn giao các đồ vật thu giữ ở hiện trường, yêu cầu ĐTV và những người tham gia khám nghiệm giữ bí mật kết quả khám nghiệm và làm báo cáo kết quả khám nghiệm trình lãnh đạo VKSQS cho ý kiến chỉ đạo giải quyết.

* Kiểm sát việc khám nghiệm tử thi.

Theo quy định tại Điều 202 BLTTHS, hoạt động khám nghiệm tử thi là của CQĐT, dưới sự chủ trì của Điều tra viên và do Giám định viên pháp y tiến hành khám nghiệm khi phát hiện có người chết, nhằm tìm ra nguyên nhân chết của nạn nhân.

Trong trường hợp gười chết đã được chôn cất nhưng có căn cứ cho rằng cái chết của họ không bình thường, có dấu hiệu của tội phạm cần phải khám nghiệm tử thi để làm rõ vụ việc thì phải khai quật tử thi để tiến hành khám nghiệm. Khi tiến hành các hoạt động này, CQĐT trong quân đội đều phải thông báo trước cho VKSQS cùng cấp biết để cử KSV tham gia kiểm sát đúng quy định trong BLTTHS. Trong quá trình kiểm sát việc khám nghiệm tử thi, khai quật tử thi, KSV nếu thấy có nội dung gì cần làm bổ sung, cần chú ý thì có quyền đề ra yêu cầu điều tra để bảo đảm cho kết quả khám nghiệm phục vụ tốt cho quá trình làm rõ vụ việc. KSV phải chú ý kiểm sát việc tuân thủ theo các trình tự, thủ tục mà BLTTHS quy định, đảm bảo công tác khám nghiệm, khai quật tử thi được chặt chẽ, khách quan. Qua đó phát hiện và ghi nhận các dấu vết có giá trị làm sáng tỏ nguyên nhân chết của nạn nhân, có sự tổng hợp đánh giá các dấu vết trên tử thi có phù hợp với các tình tiết khác trong vụ tai nạn giao thông hay không, làm sáng tỏ nguyên nhân chết của nạn nhân, nhằm giải quyết vụ án đúng pháp luật quy định.

* Kiểm sát việc khởi tố bị can.

Khởi tố bị can là quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng khi có đủ căn cứ để xác định một người đã thực hiện hành vi phạm tội để tiến hành các hoạt động điều tra đối với họ [24, tr.428].

Theo quy định tại Điều 179 BLTTHS, khi có đủ căn cứ để xác định một người đã thực hiện hành vi phạm tội thì CQĐT ra quyết định khởi tố bị can. Quyết định khởi tố bị can có hiệu lực ngay khi ban hành, và trong thời hạn 24 giờ từ lúc ban hành, CQĐT phải chuyển quyết định khởi tố bị can và các tài liệu chứng cứ sang VKS cùng cấp để xét phê chuẩn. Trong thời hạn 3 ngày, kể từ ngày nhận được quyết định khởi tố bị can, VKSQS phải nghiên cứu hồ sơ, đánh giá chứng cứ đã thu thập được để xác định có đủ căn cứ xác định đối tượng chính là người thực hiện hành vi phạm tội hay không, hành vi của đối tượng có cấu thành tội phạm hay không… Nếu quyết định khởi tố bị can của CQĐT có căn cứ và hợp pháp thì VKSQS ra quyết định phê chuẩn quyết định khởi tố bị can của CQĐT, nếu xét thấy chưa đủ căn cứ thì VKSQS yêu cầu CQĐT phải thu thập bổ sung chứng cứ để xét phê chuẩn. Quyết định phê chuẩn của VKS đồng nghĩa với việc thừa nhận quyết định khởi tố bị can của CQĐT tiếp tục có hiệu lực pháp luật. Nếu quyết định khởi tố bị can của CQĐT không có căn cứ thì VKS ra quyết định hủy bỏ quyết định khởi tố bị can. Trong trường hợp này, quyết định khởi tố bị can của CQĐT đương nhiên mất hiệu lực. Như vậy, pháp luật quy định chặt chẽ thủ tục, thẩm quyền của việc xét phê chuẩn đối với hoạt động khởi tố bị can, nhằm hạn chế tình trạng khởi tố bị can một cách thiếu căn cứ, oan sai, tránh làm oan người vô tội và ngăn ngừa việc bỏ lọt tội phạm.

Khi tiến hành điều tra, nếu có căn cứ xác định hành vi của bị can không phạm vào tội đã bị khởi tố hoặc còn hành vi phạm tội khác thì CQĐT ra quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố bị can và gửi ngay đến VKSQS cùng cấp để phê chuẩn theo quy định tại Điều 180 BLTTHS.

Tóm lại, kiểm sát việc khởi tố bị can là hoạt động rất quan trọng của VKSQS và cuối cùng của hoạt động đó là ra quyết định phê chuẩn quyết định khởi tố bị can của CQĐT. Để phê chuẩn quyết định này, VKSQS phải tiến hành nhiều hoạt động nghiệp vụ như kiểm tra tính có căn cứ giữa hành vi phạm tội với quy định của điều luật, xác định nhân thân người phạm tội, đánh giá tổng hợp logic các chứng cứ chứng minh tội phạm…nhằm làm cho việc khởi tố đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

* Kiểm sát hoạt động hỏi cung bị can.

Hỏi cung bị can là một biện pháp điều tra do ĐTV hoặc KSV tiến hành bằng cách đặt ra câu hỏi để bị can trả lời và ghi nhận lại trong biên bản hỏi cung nhằm phát hiện, thu thập chứng cứ và các tình tiết có liên quan, có ý nghĩa để giải quyết vụ án. Việc hỏi cung bị can nhằm yêu cầu bị can khai báo về diễn biến, nội dung hành vi phạm tội của mình, nguyên nhân, điều kiện phạm tội và những tình tiết khác để phục vụ cho công tác điều tra, truy tố, xét xử. Để hoạt động hỏi cung bị can đáp ứng yêu cầu khách quan, toàn diện và đúng pháp luật thì VKSQS phải kiểm sát hoạt động hỏi cung của CQĐT, kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc hỏi cung bị can được quy định trong BLTTHS.

Khi kiểm sát việc hỏi cung bị can, “Kiểm sát viên phải kiểm sát chặt chẽ việc hỏi cung bị can ngay từ lần hỏi cung đầu tiên, bảo đảm tính có căn cứ, hợp pháp, đúng trình tự, thủ tục của hoạt động hỏi cung theo quy định tại Điều 183 Bộ luật Tố tụng hình sự. Kiểm sát viên có thể trực tiếp tham gia hỏi cung bị can cùng Điều tra viên, Cán bộ Điều tra hoặc kiểm sát biên bản hỏi cung. Trước khi kết thúc giai đoạn Điều tra, Kiểm sát viên phối hợp với Điều tra viên, Cán bộ Điều tra tổng hợp, đánh giá kết quả hỏi cung; tiến hành phúc cung khi thấy cần thiết … Kiểm sát viên chú ý cách đặt câu hỏi của Điều tra viên, Cán bộ Điều tra, bảo đảm không để xảy ra việc bức cung, mớm cung, dụ cung; chú ý câu trả lời của bị can để phát hiện tình tiết mới, những điểm chưa rõ và yêu cầu Điều tra viên, Cán bộ Điều tra hỏi làm rõ. Nếu thấy việc hỏi cung chưa đạt yêu cầu, Kiểm sát viên trực tiếp hỏi để làm rõ. Khi tham gia hỏi cung bị can cùng Điều tra viên, Cán bộ Điều tra, Kiểm sát viên ký vào biên bản hỏi cung”.

Kiểm sát viên kiểm sát hoạt động hỏi cung bị can, kiểm sát việc lập biên bản hỏi cung bị can của ĐTV phải chặt chẽ, bảo đảm thực hiện đúng trình tự, thủ tục quy định tại các Điều 183, 184 của BLTTHS.

* Kiểm sát hoạt động lấy lời khai.

Kiểm sát việc lấy lời khai nhân chứng, người bị hại, nguyên đơn dân sự…. nhằm mục đích là thu thập đầy đủ và khách quan các chứng cứ cần chứng minh trong vụ án và đảm bảo những tài liệu thu thập đó có ý nghĩa cho việc giải quyết mọi vấn đề có liên quan. Kiểm sát chặt chẽ quá trình lấy lời khai góp phần củng cố niềm tin, tạo cơ sở vững chắc cho việc truy tố sau này.

* Kiểm sát kết quả Trưng cầu giám định.

Trưng cầu giám định là việc cơ quan tiến hành tố tụng ra quyết định trưng cầu những người có kiến thức chuyên môn của các lĩnh vực khoa học kỹ thuật; văn hóa, nghệ thuật… theo quy định của pháp luật để nghiên cứu kết luận các những vấn đề cần làm rõ trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử vụ án.

Khi kiểm sát điều tra vụ án Vi phạm quy định về TGGTĐB, việc trưng cầu giám định pháp y về tử thi xác định nguyên nhân chết đối với nạn nhân để xác định mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm luật giao thông đường bộ của người vi phạm với hậu quả của vụ tai nạn giao thông, hoặc trưng cầu giám định tỷ lệ phần trăm thương tật hoặc mức độ tổn hại sức khoẻ đối với người bị hại, trưng cầu định giá tài sản bị thiệt hại để làm rõ hậu quả vụ tai nạn giao thông, hoặc trưng cầu giám định đường vân lốp xe cũng như trưng cầu vết phanh để lại trên mặt đường nhằm xác định vận tốc của xe hoặc trưng cầu giám định xác định điểm va chạm, vùng va chạm giữa hai xe trên đường … đây là những trường hợp trưng cầu phổ biến nhất. Kết quả giám định là cơ sở pháp lý cho việc tiến hành khởi tố, điều tra vụ án. Trong một số trường hợp, việc trưng cầu giám định tỷ lệ phần trăm thương tật là cơ sở pháp lý bắt buộc phải xác định rõ trước khi khởi tố vụ án hình sự. Song, việc xác định tỷ lệ phần trăm thương tật của nạn nhân không phải lúc nào cũng xác định được ngay. Trong thực tiễn nhiều vụ tai nạn giao thông gây thương tích nhưng nạn nhân từ chối giám định và viết đơn xin hoà giải vì nạn nhân đã được người gây tai nạn bồi thường thoả đáng. Thực trạng này cũng gây khó khăn cho công tác điều tra, xử lý đôi khi không thể tiến hành được. Trong quá trình điều tra vụ án Vi phạm quy định về TGGTĐB, công tác giám định có ý nghĩa quan trọng. Nó đảm bảo cơ sở khoa học và yêu cầu pháp lý khi kết luận điều tra.

Quá trình kiểm sát phải căn cứ vào các văn bản quy phạm pháp luật như: Thông tư liên tịch số 09/2013/TTLT-BCA-BQP-BTP-VKSNDTC-TANDTC ngày 28/8/2013 hướng dẫn áp dụng một số quy định tại chương XIX của BLHS (năm 1999) về các tội xâm phạm trật tự, an toàn giao thông. Thông tư số 20/2014/TT-BYT ngày 12/6/2014 của Bộ y tế quy định tỉ lệ tổn thương cơ thể sử dụng trong giám định pháp y, giám định pháp y tâm thần, để kiểm tra tỷ lệ thương tích cũng như thiệt hại về tài sản đó có đúng với quy định hay không để từ đó kiểm sát chặt chẽ, đúng căn cứ khởi vụ án thông qua tỷ lệ phần trăm thương tích cũng như giá trị tài sản bị thiệt hại….

* Kiểm sát việc lập hồ sơ vụ án của CQĐT.

Ngoài việc lập hồ sơ kiểm sát, KSV phải kiểm sát việc lập hồ sơ vụ án của CQĐT để đảm bảo hồ sơ có đầy đủ các tài liệu, chứng cứ được thu thập một cách đầy đủ, khách quan, đúng trình tự, thủ tục pháp luật quy định, phục vụ cho việc nghiên cứu hồ sơ, truy tố, xét xử.

Quá trình kiểm sát, KSV chủ động trao đổi, yêu cầu ĐTV lập hồ sơ vụ án theo đúng quy định tại mục 20 của Thông tư liên tịch số 05/2005/TTLT – VKS – BCA – BQP ngày 07/9/2005 của VKSND tối cao, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng về quan hệ phối hợp giữa CQĐT và VKS trong việc thực hiện một số quy định của BLTTHS. Khi phát hiện tài liệu bị mất, tẩy xóa, không đúng tình trạng khi thu thập … KSV phải yêu cầu CQĐT khắc phục và làm rõ nguyên nhân dẫn đến vi phạm, trách nhiệm của người có liên quan. Xem xét tính chất, mức độ vi phạm để đề xuất biện pháp xử lý phù hợp với quy định pháp luật.

Ngoài ra, trong quá trình KSĐT, VKSQS còn phải thực hiện chức năng giám sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động điều tra khác được quy định cụ thể trong BLTTHS như: kiểm sát việc lấy lời khai của người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án; kiểm sát việc đối chất (Điều 189); kiểm sát việc nhận dạng (Điều 190); nhận biết giọng nói (Điều 191); kiểm sát việc khám xét người (Điều 194); kiểm sát việc khám chỗ ở, nơi làm việc, địa điểm, phương tiện (Điều 195); kiểm sát việc thu giữ phương tiện, dữ liệu điện tử (Điều 196); kiểm sát việc thực nghiệm điều tra (Điều 204) …. KSV thực hiện công tác kiểm sát các hoạt động điều tra trên phù hợp với yêu cầu của từng vụ án vi phạm quy định về TGGTĐB cụ thể, chặt chẽ là góp quần quan trọng cho việc điều tra, truy tố, xét xử vụ án được chính xác, đúng pháp luật, tránh bỏ lọt tội phạm, oan người vô tội.

* Kiểm sát việc chấp hành pháp luật của những người tham gia tố tụng.

Những người tham gia tố tụng trong vụ án vi phạm quy định về TGGTĐB bao gồm: Người tố giác, báo tin về tội phạm, kiến nghị khởi tố; người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố; Người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp; người bị bắt; người bị tạm giữ; bị can; bị cáo; bị hại; nguyên đơn dân sự; bị đơn dân sự; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án; người làm chứng; người chứng kiến; người giám định; người định giá tài sản;người phiên dịch, người dịch thuật; người bào chữa; người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự; người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tố giác, bị kiến nghị khởi tố.

Quá trình kiểm sát điều tra vụ án, KSV phải chủ động trao đổi, yêu cầu ĐTV giải thích (phải ghi rõ vào biên bản, đưa vào hồ sơ vụ án) và bảo đảm thực hiện quyền và nghĩa vụ của họ được quy định từ Điều 56 đến Điều 70 BLTTHS. Bởi lẽ, để vụ án đảm bảo tính khách quan, tính pháp lý thì khi tham gia tố tụng, hoạt động của những người tham gia tố tụng phải đúng quy định pháp luật. Đồng thời, KSV cũng có quyền và trách nhiệm yêu cầu, kiến nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xử lý nghiêm minh người tham gia tố tụng có hành vi vi phạm pháp luật.

LIỆN HỆ:

SĐT+ZALO: 0935568275

E:\DỮ LIỆU COP CỦA CHỊ YẾN\LUAN VAN VIEN HAN LAM\VIEN HAN LAM DOT 8\LUAT HINH SU\DANG THANH BINH\SAU BAO VE

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *