Thực hành quyền công tố trong vụ án cướp tài sản theo pháp luật

Thực hành quyền công tố trong vụ án cướp tài sản theo pháp luật Thực hành quyền công tố trong vụ án cướp tài sản theo pháp luật

Thực hành quyền công tố trong vụ án cướp tài sản theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn  tỉnh Quảng Bình

1. Tính cấp thiết của đề tài

Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế trở thành xu hướng phát triển tất yếu của tất cả các nền kinh tế các nước trên thế giới, nước ta không nằm ngoài xu thế tất yếu đó. Để phù hợp với xu thế nói trên, nhà nước ta dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, đã và đang tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện trên mọi lĩnh vực. Điều này được thể hiện bằng việc sự nghiệp Công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được giữ vững và đẩy mạnh. Cũng từ đó, đời sống của người dân được cải thiện, vị thế của nhà nước ta trên trường quốc tế và trong khu vực ngày càng nâng cao. Bên cạnh những thành tựu to lớn đó, trong công cuộc đổi mới phát triển đất nước thì cũng xuất hiện nhiều mặt trái của kinh tế thị trường mang lại, đó là: xung đột xã hội, suy thoái khủng hoảng, ô nhiễm môi trường … mà hơn hết là tình hình tội phạm gia tăng, trong đó đáng chú ý là tội cướp tài sản.

Xuất phát từ tình hình tội phạm chung của cả nước, trên địa bàn tỉnh Quảng Bình tình hình tội phạm cũng diễn biến ngày càng phức tạp. Tội cướp tài sản xảy ra trên địa bàn tỉnh có xu hướng gia tăng và có diễn biến khó lường, có nhiều vụ xảy ra với tính chất nghiêm trọng và ngày càng trẻ hóa về độ tuổi thực hiện tội phạm. Trước tình hình thực tế đó, các cơ quan bảo vệ pháp luật trên địa bàn tỉnh nói chung và VKSND tỉnh Quảng Bình nói riêng đã thực hiện nhiều biện pháp phối hợp để kịp thời phát hiện, xử lý nghiêm minh, đúng người, đúng tội góp phần giữ vững an ninh, chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn tỉnh. Tuy nhiên, hoạt động thực hành quyền công tố trong vụ án cướp tài sản của VKSND tỉnh Quảng Bình trong những năm qua còn có nhiều hạn chế, như có trường hợp tội phạm xảy ra nhưng không phát hiện để khởi tố, đề nghị khởi tố, đề ra yêu cầu điều tra không kịp thời, chưa thực hiện đúng chủ trương “tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, gắn công tố với hoạt động điều tra”, vẫn còn tình trạng Tòa án trả lại hồ sơ để điều tra bổ sung nhiều lần trong một vụ án …

Theo quy định của pháp luật, cụ thể là: tại Điều 107 Hiến pháp năm 2013, Điều 2 Luật Tổ chức VKSND năm 2014 và các Điều 159, 161, 165, 236, 266 của BLTTHS năm 2015 thì một trong những chức năng, nhiệm vụ chủ yếu của VKSND là thực hành quyền công tố. Thực hành quyền công tố là hoạt động quan trọng trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung và tội phạm cướp tài sản nói riêng, nhằm truy tố những người phạm tội ra trước HĐXX để xét xử. Vì vậy, hoạt động thực hành quyền công tố không gì khác ngoài mục đích cuối cùng là cần phải đảm bảo không bỏ lọt tội phạm và người phạm tội, đồng thời không làm oan người vô tội. Tuy vậy, trong thời gian qua có nhiều quan điểm về khái niệm thực hành quyền công tố, về tổ chức thực hành quyền công tố. Sự phân định chức năng kiểm sát và chức năng thực hành quyền công tố chưa thực sự rõ ràng, cụ thể. Chất lượng thực hành quyền công tố chưa tương xứng với chức năng, nhiệm vụ của VKS.

Từ thực tiễn nêu trên, để góp phần vào việc đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung, tội phạm cướp tài sản nói riêng trên địa bàn tỉnh Quảng Bình, nghiên cứu đề tài “Thực hành quyền công tố trong vụ án cướp tài sản theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Bình” là thực sự cần thiết và phù hợp.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

Nghiên cứu những vấn đề lý luận về hoạt động thực hành quyền công tố trong vụ án cướp tài sản để hiểu rỏ và làm sáng tỏ hơn về bản chất của thực hành quyền công tố trong vụ án hình sự nói chung, cũng như trong vụ án cướp tài sản nói riêng. Trên cơ sở nghiên cứu những quy định của pháp luật về thực hành quyền công tố trong vụ án cướp tài sản và phản ánh, đánh giá trung thực, khách quan, cụ thể tình hình tội phạm cướp tài sản xảy ra tại địa phương. Từ đó, đánh giá những kết quả đạt được, nêu ra những hạn chế, nguyên nhân của những hạn chế, đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động thực hành quyền công tố trong vụ án cướp tài sản từ thực tiễn tỉnh Quảng Bình.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Nghiên cứu vấn đề lý luận cơ bản về thực hành quyền công tố trong vụ án cướp tài sản.

Nghiên cứu thực trạng thực hành quyền công tố trong vụ án cướp tài sản trên địa bàn tỉnh Quảng Bình.

Đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác thực hành quyền công tố trong vụ án cướp tài sản từ thực tiễn tỉnh Quảng Bình.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản về thực hành quyền công tố, thực trạng quy định pháp luật về thực hành quyền công tố theo BLTTHS năm 2015 và áp dụng những quy định về thực hành quyền công tố trong thực tiễn giải quyết trong vụ án cướp tài sản.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

Luận văn nghiên cứu các vấn đề lý luận về thực hành quyền công tố trong các giai đoạn khởi tố vụ án hình sự, giai đoạn điều tra, giai đoạn truy tố, giai đoạn xét xử trong vụ án cướp tài sản (quy định tại Điều 133 BLHS năm 1999 và Điều 168 BLHS năm 2015) theo quy định của BLTTHS năm 2015 và thực tiễn về thực hành quyền công tố trong các giai đoạn khởi tố vụ án hình sự, giai đoạn điều tra, giai đoạn truy tố, giai đoạn xét xử trong vụ án cướp tài sản trên địa bàn tỉnh Quảng Bình trong thời gian 05 năm (từ năm 2013 đến năm 2017). Tuy nhiên, trong giới hạn cho phép, luận văn chỉ nghiên cứu thực hành quyền công tố trong vụ án cướp tài sản đến giai đoạn xét xử sơ thẩm; không nghiên cứu thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử phúc thẩm.

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

5.1. Cơ sở lý luận

Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận là quan điểm của Chủ nghĩa Mác – Lênin kết hợp với tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật, quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước về đấu tranh phòng, chống tội phạm.

5.2. Phương pháp nghiên cứu

Người viết đã vận dụng phương pháp nghiên cứu duy vật biện chứng; phương pháp tổng hợp so sánh; phân tích thực tiển, thống kê thực tiễn, phương pháp xã hội học kết hợp tư duy logic để hoàn thiện đề tài.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn

6.1. Ý nghĩa lý luận

Kết quả nghiên cứu đề tài “Thực hành quyền công tố trong vụ án cướp tài sản theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Bình” góp phần làm sáng tỏ thêm những vấn đề lý luận cơ bản về thực hành quyền công tố nói chung cũng như thực hành quyền công tố trong vụ án cướp tài sản nói riêng.

6.2. Ý nghĩa thực tiễn

Trên cơ sở khảo sát thực tế đề tài đã đánh giá, phân tích thực trạng của công tác thực hành quyền công tố trong vụ án cướp tài sản từ thực tiễn tỉnh Quảng Bình, luận văn tìm ra các giải pháp nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố trong các vụ án hình sự nói chung và trong vụ án cướp tài sản nói riêng. Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc học tập và nghiên cứu liên quan đến hoạt động thực hành quyền công tố cũng như đối với các nhà hoạch định chính sách pháp luật và đặc biệt là cán bộ VKSND tỉnh Quảng Bình trong công tác thực tiễn.

7. Kết cấu luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 03 chương:

Chương 1. Những vấn đề lý luận về thực hành quyền công tố trong vụ án cướp tài sản.

Chương 2. Quy định của pháp luật về thực hành quyền công tố trong vụ án cướp tài sản và thực tiễn thực hiện trên địa bàn tỉnh Quảng Bình.

Chương 3. Giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động thực hành quyền công tố trong vụ án cướp tài sản từ thực tiễn tỉnh Quảng Bình.

CHƯƠNG 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HÀNH

QUYỀN CÔNG TỐ TRONG VỤ ÁN CƯỚP TÀI SẢN

    1. 1.1. Khái niệm, bản chất, chủ thể, phạm vi thực hành quyền công tố trong vụ án cướp tài sản

1.1.1. Khái niệm thực hành quyền công tố

Trong pháp luật tố tụng hình sự ở nước ta, Quyền công tố và thực hành quyền công tố là hai khái niệm điển hình khi đề cập đến chức năng của VKS. Việc xác định khái niệm quyền công tố và thực hành quyền công tố có ý nghĩa về mặt lý luận lẫn thực tiễn đều rất quan trọng. Giải quyết tốt vấn đề này giúp cho việc xác định chính xác vai trò, vị trí, chức năng của VKS trong giai đoạn hiện nay; từ đó giúp những nhà hoạch định có những quyết định đúng đắn về tổ chức của VKS. Hơn nữa, giải quyết những vấn đề trên còn giúp cho việc xác định chính xác vai trò, vị trí cũng như trách nhiệm của VKS trong công cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm hiện nay.

Nghiên cứu về lý luận về quyền công tố, trong thời gian qua đã có nhiều đề tài nghiên cứu, nhưng có nhiều quan điểm khác nhau về quyền công tố. Tuy nhiên theo tác giả các quan điểm đưa ra đều không đúng với bản chất về quyền công tố. Có quan điểm thì cho rằng quyền công tố không phải là chức năng độc lập mà là hình thức để thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật. Có quan điểm cho rằng quyền công tố là quyền của Nhà nước giao cho các cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, thi hành án hình sự người phạm tội. Có quan điểm thì đưa ra phạm vi hoạt động của quyền công tố quá rộng, không phù hợp với thực tiễn là phải coi trọng quyền quyết định và tự định đoạt của công dân trong lĩnh vực dân sự, kinh tế, lao động.

Trong thời gian gần đây, các công trình nghiên cứu về quyền công tố, quy định tại BLTTHS năm 2003 và đặc biệt là BLTTHS năm 2015 đã tiếp cận gần hơn, rõ ràng và chính xác với quan niệm chung về quyền công tố. Theo đó, tác giả đồng ý với quan điểm của Tiến sĩ Lê Hữu Thể: Quyền công tố là quyền nhân danh Nhà nước thực hiện việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội. Quyền công tố được thực hiện bởi một cơ quan nhất định (ở nước ta là Viện kiểm sát), có trách nhiệm đảm bảo việc thu thập đầy đủ tài liệu, chứng cứ để xác định tội phạm và người phạm tội trên cơ sở đó quyết định việc truy tố bị can ra trước Tòa án để xét xử bằng bản cáo trạng và thực hiện việc buộc tội tại phiên tòa. Vì vậy quyền công tố chỉ có trong lĩnh vực tố tụng hình sự với đối tượng tội phạm và người phạm tội [31, tr.40].

Thực hành quyền công tố trong vụ án cướp tài sản theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn  tỉnh Quảng Bình
Thực hành quyền công tố trong vụ án cướp tài sản theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn  tỉnh Quảng Bình

Nghiên cứu về lý luận về thực hành quyền công tố chúng ta thấy rằng, mãi cho đến khi Hiến pháp năm 1980 ra đời thì mới xuất hiện thuật ngữ “thực hành quyền công tố” trong văn bản pháp lý của Nhà nước. Như vậy có thể nói, Hiến pháp năm 1980 là văn bản pháp lý đầu tiên của Nhà nước ta đưa thuật ngữ “thực hành quyền công tố” khi đề cập đến chức năng của VKS quy định tại Điều 138 của Hiến pháp năm 1981. Thuật ngữ này cũng được nhắc đến ở Điều 1 và Điều 3 Luật Tổ chức VKSND năm 1981. Như vậy, trong hoạt động của VKSND, bên cạnh khái niệm “kiểm sát việc tuân theo pháp luật” đã xuất hiện khái niệm “thực hành quyền công tố”. Quy định này cũng được tiếp tục nhắc lại trong Hiến pháp năm 1992 và Luật Tổ chức VKSND năm 2002. Thực hành quyền công tố là một trong những chức năng, nhiệm vụ quan trọng của VKS được Đảng và Nhà nước giao cho. Thực hành quyền công tố là hoạt động quan trọng trong công cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm. Chức năng, nhiệm vụ này của VKS được quy định rỏ ràng và cụ thể hơn ở Hiến pháp năm 2013 và Luật Tổ chức VKSND năm 2014. Trên cơ sở quy định của Hiến pháp, Luật tổ chức VKSND thì các văn bản pháp luật liên quan cũng có quy định về chức năng thực hành quyền công tố của VKS.

Theo từ điển tiếng Việt thì “thực hành” có nghĩa là “làm để áp dụng lý thuyết vào thực tiễn”, “thực hành” đồng nghĩa với “thực hiện”[35]. VKS khi thực hiện quyền công tố thì phải sử dụng tất cả những quyền năng tố tụng nhằm bảo đảm phát hiện kịp thời, xử lý nghiêm minh mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội.

Trên cơ sở đó, tác giả đồng ý với quan điểm: “Thực hành quyền công tố là việc sử dụng tổng hợp các quyền năng pháp lý thuộc nội dung quyền công tố để thực hiện việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội trong các giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử”. Nội dung quyền công tố là sự buộc tội của Nhà nước đối với người đã thực hiện hành vi phạm tội [37].

1.1.2. Bản chất thực hành quyền công tố

Ngoài chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp của VKSND là để kiểm sát tính hợp pháp của các hành vi, quyết định của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hoạt động tư pháp, được thực hiện ngay từ khi tiếp nhận và giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong suốt quá trình giải quyết vụ án hình sự; trong việc giải quyết vụ án hành chính, vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh thương mại, lao động; việc thi hành án, việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp; các hoạt động tư pháp khác theo quy định của pháp luật (khoản 1 Điều 4 Luật Tổ chức VKSND năm 2014). Thì VKSND còn có chức năng thực hành quyền công tố, về bản chất thực hành quyền công tố là hoạt động của VKS trong tố tụng hình sự để thực hiện việc buộc tội của Nhà nước đối với người phạm tội, được thực hiện ngay từ khi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong suốt quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử (khoản 1 Điều 3 Luật Tổ chức VKSND năm 2014).

Trong hệ thống các cơ quan của Nhà nước ta, không có cơ quan nào có thể thay thế VKS thực hiện chức năng thực hành quyền công tố bởi vì những lý do sau đây: VKS là cơ quan duy nhất về mặt pháp lý có quyền phát động quyền công tố; VKS có quyền áp dụng, thay đổi hay hủy bỏ biện pháp ngăn chặn; Trong quá trình điều tra vụ án hình sự, VKS phải đảm bảo đầy đủ các căn cứ đúng theo quy định của pháp luật để truy tố bị can; Khi có đủ các chứng cứ chứng minh hành vi phạm tội và xét thấy cần thiết phải xử lý người phạm tội trước pháp luật, VKS quyết định truy tố bị can ra trước Tòa án. Tại phiên tòa, VKS có trách nhiệm bảo đảm việc truy tố, buộc tội bị cáo là có căn cứ, đúng pháp luật. Bản án kết tội của HĐXX chính là việc chấp nhận lời buộc tội của VKS đối với người phạm tội.

VKS thực hiện chức năng thực hành quyền công tố từ: trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự (bao gồm việc: giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố và khởi tố vụ án); trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự; trong giai đoạn truy tố tội phạm; cho đến trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự.

Quy định quyền năng chung của VKS khi thực hành quyền công tố, tại khoản 3 Điều 3 Luật Tổ chức VKSND năm 2014 có ghi cụ thể như sau:

Yêu cầu khởi tố, hủy bỏ quyết định khởi tố hoặc không khởi tố vụ án trái pháp luật, phê chuẩn, không phê chuẩn quyết định khởi tố bị can của CQĐT, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra; trực tiếp khởi tố vụ án, khởi tố bị can trong những trường hợp do BLTTHS quy định;

Quyết định, phê chuẩn việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ các biện pháp hạn chế quyền con người, quyền công dân trong việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong việc khởi tố, điều tra, truy tố theo quy định của BLTTHS;

Hủy bỏ các quyết định tố tụng trái pháp luật khác trong việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong việc khởi tố, điều tra của CQĐT, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra;

Khi cần thiết đề ra yêu cầu điều tra và yêu cầu CQĐT, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra thực hiện;

Yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan cung cấp tài liệu để làm rõ tội phạm, người phạm tội;

Trực tiếp giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố; tiến hành một số hoạt động điều tra để làm rõ căn cứ quyết định buộc tội đối với người phạm tội;

Quyết định áp dụng thủ tục rút gọn trong giai đoạn điều tra, truy tố;

Quyết định truy tố, buộc tội bị cáo tại phiên tòa;

Kháng nghị bản án, quyết định của Tòa án trong trường hợp VKS phát hiện oan, sai, bỏ lọt tội phạm, người phạm tội;

Thực hiện quyền hạn khác trong việc buộc tội đối với người phạm tội theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.

1.1.3. Chủ thể thực hành quyền công tố

Văn bản pháp lý đầu tiên quy định về tổ chức và hoạt động của Cơ quan Công tố của Nhà nước ta có thể nói, đó là Sắc lệnh số 33c ngày 13/9/1945 của Chính phủ, ban hành về việc thành lập Tòa án Quân sự, đây là cơ sở pháp lý đầu tiên của Nhà nước dân chủ nhân dân đánh dấu sự ra đời của hệ thống Tòa án (đồng thời cũng là tiền thân của VKSND trong bộ máy nhà nước ta).

Quy định chức năng công tố, tại Điều V Sắc lệnh 33c quy định rõ “Đứng buộc tội là một Uỷ viên quân sự hay một Ủy viên của Ban Trinh sát”. Đây là, lần đầu tiên chức năng công tố nhà nước được quy định bằng một văn bản pháp lý do người đứng đầu Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ban hành. Tòa án Quân sự là Tòa án đầu tiên có sự hiện diện của tổ chức Công tố và quyền công tố. Nội dung của quyền công tố theo quy định của Sắc lệnh này là đưa một người phạm tội ra xét xử tại Tòa án và thực hiện việc buộc tội trước Tòa án.

Song song với việc thiết lập hệ thống Tòa án quân sự và Tòa án binh để xét xử những tội phạm phản cách mạng, những vi phạm trật tự quân đội, vi phạm kỷ luật của nhà binh, thì cần thiết phải thành lập một hệ thống Tòa án thường để xét xử các tội phạm và vi phạm pháp luật nhằm bảo vệ Nhà nước và bảo vệ nhân dân. Chính vì vậy, ngày 24/01/1946, Chủ tịch Chính phủ lâm thời đã ban hành Sắc lệnh số 13 về việc tổ chức các Tòa án và các ngạch TP (trong đó có cả TP buộc tội).

Cơ cấu tổ chức bộ máy, Tòa án thường gồm có: Tòa sơ cấp, Tòa đệ nhị cấp, Tòa thượng thẩm. Cơ quan công tố được tổ chức trong Tòa án đệ nhị cấp và Tòa thượng thẩm, tạo thành một đoàn thể độc lập với các TP xét xử.

Có thể nói sự ra đời của hệ thống cơ quan VKSND là được đánh dấu bằng việc ban hành Hiến pháp năm 1959 và Luật Tổ chức VKSND năm 1960. Trên cơ sở đó, các cơ quan công tố được chuyển thành hệ thống các cơ quan nhà nước mới, đó là VKSND. Sự thay thế của VKSND cho Viện công tố là xuất phát từ yêu cầu khách quan của việc chuyển giai đoạn cách mạng ở nước ta, giai đoạn vừa tiến hành cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, vừa tiếp tục cuộc cách mạng dân chủ nhân dân ở miền Nam. Điều đó, được thể hiện rõ trong Tờ trình về Luật Tổ chức VKSND năm 1960: “Nhu cầu của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa đòi hỏi pháp luật phải được chấp hành một cách nghiêm chỉnh và thống nhất, đòi hỏi sự nhất trí về mục đích và hành động trong nhân dân, giữa nhân dân và Nhà nước, cũng như giữa các ngành hoạt động nhà nước với nhau. Nếu không đạt được sự thống nhất trong việc chấp hành pháp luật thì sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội sẽ gặp nhiều khó khăn. Vì lẽ trên phải tổ chức ra Viện kiểm sát nhân dân để kiểm sát việc tuân theo pháp luật nhằm giữ vững pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo đảm cho pháp luật được chấp hành một cách nghiêm chỉnh và thống nhất”.

Sự ra đời của VKSND ở nước ta là kết quả của sự vận dụng tư tưởng của V.I.Lênin về tổ chức và hoạt động của VKS được trình bày trong tác phẩm “Bàn về chế độ trực thuộc song trùng và pháp chế” vào hoàn cảnh, điều kiện cụ thể của nước ta lúc bấy giờ.

Cũng chính từ những yêu cầu khách quan của giai đoạn cách mạng mới và quán triệt tư tưởng của Lênin về VKS, Hiến pháp năm 1959 của Nhà nước ta đã quy định các nguyên tắc cơ bản về tổ chức và hoạt động của VKSND. Theo Điều 105 Hiến pháp năm 1959: VKSND có chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các cơ quan thuộc Hội đồng Chính phủ, cơ quan Nhà nước địa phương, các nhân viên cơ quan Nhà nước và công dân.

Hiến pháp đã qua nhiều lần sửa đổi, bổ sung nhưng nội dung thực hành quyền công tố vẫn được giữ nguyên, Hiến pháp năm 2013 tiếp tục khẳng định chức năng, nhiệm vụ của VKS: VKSND thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp… VKSND có nhiệm vụ bảo vệ pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất [22].

Do đó, căn cứ vào các quy định của pháp luật hiện hành, ở nước ta, VKS là cơ quan duy nhất được giao thực hành quyền công tố.

1.1.4. Phạm vi thực hành quyền công tố

Trong thực tiễn, phạm vi thực hành quyền công tố là vấn đề gây nhiều tranh cãi. Tuy nhiên, theo quy định của BLTTHS năm 2015 thì phạm vi thực hành quyền công tố được bắt đầu từ khi VKS nhận được tin báo, tố giác về tội phạm và kết thúc khi bản án có hiệu lực pháp luật, không bị kháng nghị hoặc vụ án bị đình chỉ theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự.

Theo đó, VKSND thực hành quyền công tố ở các giai đoạn và lĩnh vực sau:

Thực hành quyền công tố trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự (bao gồm: việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố và khởi tố vụ án).

Thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự.

Thực hành quyền công tố trong giai đoạn truy tố tội phạm.

Thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự.

Khi thực hành quyền công tố là việc VKSND sử dụng tất cả các quyền năng tố tụng nhằm bảo đảm phát hiện kịp thời, xử lý nghiêm minh mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm và người phạm tội, không hàm oan người vô tội.

Theo đó, nội dung mà VKSND thực hành quyền công tố bao gồm các hoạt động, giai đoạn, lĩnh vực mà phạm vi thực thực hành quyền công tố điều chỉnh, đó là: Những hoạt động thực hành quyền công tố trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự, từ việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố đến khởi tố vụ án; những hoạt động thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự; những hoạt động thực hành quyền công tố trong giai đoạn truy tố tội phạm và những hoạt động thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự.

    1. 1.2. Khái quát về vụ án cướp tài sản và đặc điểm thực hành quyền công tố trong vụ án cướp tài sản
    2. 1.2.1. Khái quát về vụ án cướp tài sản

1.2.1.1. Khái niệm về vụ án cướp tài sản

– Khái niệm vụ án hình sự.

Pháp luật hiện hành không có quy định khái niệm thế nào là vụ án hình sự, tuy nhiên có một số nhà nghiên cứu đã đưa ra khái niệm vụ án hình sự như sau:

Theo cuốn Từ điển luật học của Viện khoa học pháp lý thuộc Bộ tư pháp, có đưa ra khái niệm về vụ án như sau:

Một vụ việc có dấu hiệu trái pháp luật mang tính hình sự hoặc tranh chấp giữa các chủ thể pháp luật được đưa tòa án hoặc cơ quan trọng tài giải quyết.

Vụ việc thuộc thẩm quyền xét xử của tòa án; tranh chấp thuộc quyền giải quyết của cơ quan tư pháp hoặc trọng tài. Theo Luật tổ chức tòa án nhân dân, tòa án xét xử những vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân và gia đình, lao động, kinh doanh, thương mại, hành chính và giải quyết những việc khác theo quy định của pháp luật.” [40].

Khái niêm này chỉ mới đưa ra khái niệm vụ án nói chung, chưa tách bạch thế nào là một vụ án hình sự và thế nào là một vụ án dân sự.

Thực hành quyền công tố trong vụ án cướp tài sản theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn  tỉnh Quảng Bình
Thực hành quyền công tố trong vụ án cướp tài sản theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn  tỉnh Quảng Bình

Theo cuốn Thuật ngữ pháp lý phổ thông của Luật gia Nguyễn Ngọc Diệp, có đưa ra khái niệm về vụ án hình sự như sau:

“Vụ án hình sự là vụ án được cơ quan tiến hành tố tụng thụ lý, giải quyết theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội.” [9].

Ở khái niệm này, tác giã đã trả lời thế nào là một vụ án hình sự, tuy nhiên nội dung khái niệm còn chung chung, chưa rỏ ràng và chưa lột tả hết bản chất, nội dung của vụ án hình sự.

Theo cuốn Từ điển luật học của nhà xuất bản từ điển bách khoa thì đưa khái niệm vụ án hình sự là:

Vụ việc phạm pháp có dấu hiệu là tội phạm đã được quy định trong Bộ luật hình sự đã được cơ quan điều tra ra lệnh khởi tố về hình sự để tiến hành điều tra, truy tố, xét xử theo các trình tự, thủ tục đã được quy định ở Bộ luật hình sự tố tụng.

Người vi phạm pháp luật đã bị khởi tố về hình sự để tiến hành điều tra, truy tố, xét xử theo các quy định của Bộ luật hình sự tố tụng tức đã can án hình sự sẽ bị áp dụng một số biện pháp do luật quy định như phải khai cung, phải có mặt tại nơi và vào thời gian do các cơ quan tiến hành tố tụng – cơ quan điều tra, viện kiểm sát, tòa án quy định, có trường hợp bị áp dụng các biện pháp cưỡng chế như tạm giam, khám nhà … Có thể bị phạt tù, bị cấm hành nghề nếu qua xét xử tòa án đã đủ chứng cứ chứng minh là phạm tội và đã ra quyết định bằng một bản án hình sự. [39].

Khái niệm này thì mặc định khởi tố vụ án là công việc của CQĐT, tuy nhiên trên thực tế thì VKS và HĐXX cũng có thể ra quyết định khởi tố vụ án khi phát hiện có dấu hiệu phạm tội mà CQĐT chưa khởi tố.

Theo quy định của BLTTHS năm 2015, chủ thể có thẩm quyền khởi tố vụ án khá rộng, gồm CQĐT, VKS, Tòa án thông qua HĐXX và một số cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, như: Bộ đội biên phòng, Hải quan, Kiểm lâm, Cảnh sát biển, Kiểm ngư … Với ý nghĩa đấu tranh phòng, chống và kịp thời phát hiện tội phạm, việc BLTTHS năm 2015 quy định như vậy là nhằm tránh bỏ sót tội phạm. Khi CQĐT, VKS tiến hành hoạt động điều tra, truy tố không phát hiện được tội phạm, thì đến giai đoạn xét xử tại Tòa án, thông qua việc xét hỏi, tranh tụng tại phiên tòa, HĐXX phát hiện được “tội phạm” hoặc “người phạm tội mới” sẽ có thẩm quyền khởi tố vụ án.

Từ những nhận định, đánh giá trên, tác giả đưa ra khái niệm vụ án hình sự là:

Vụ án hình sự là vụ án phát sinh khi phát hiện có dấu hiệu tội phạm và CQĐT, các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, VKS, Tòa án (thông qua HĐXX) khởi tố vụ án và áp dụng các biện pháp được quy định trong BLTTHS để xác định tội phạm và xử lý người phạm tội.

– Khái niệm vụ án cướp tài sản.

Qua nghiên cứu về thẩm quyền điều tra trong Luật tổ chức CQĐT hình sự, nội dung của tội cướp tài sản trong BLHS và từ khái niệm về vụ án hình sự nêu trên, tác giả đưa ra khái niệm vụ án cướp tài sản như sau:

Vụ án cướp tài sản là vụ án hình sự phát sinh khi phát hiện có dấu hiệu tội phạm cướp tài sản và CQĐT, VKS, Tòa án (thông qua HĐXX) khởi tố vụ án hình sự về tội cướp tài sản và áp dụng các biện pháp được quy định trong BLTTHS để xác định tội phạm và xử lý người phạm tội.

1.2.1.2. Khái quát về tội cướp tài sản

Tội cướp tài sản là tội phạm xâm phạm quyền sở hữu tài sản và quyền bất khả xâm phạm về thân thể người khác. Tội phạm cướp tài sản được quy định tại Điều 133 BLHS năm 1999 và Điều 168 BLHS năm 2015.

Cướp tài sản là hành vi của một người hoặc một nhóm người dùng vũ lực; đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc; hoặc có hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được nhằm chiếm đoạt tài sản của người đó. Để nâng cao chất lượng hoạt động thực hành quyền công tố trong vụ án cướp tài sản, trước hết phải nắm vững các dấu hiệu pháp lý đặc trưng. Việc nắm vững các dấu hiệu pháp lý đặc trưng của tội phạm này là căn cứ để nghiên cứu đường lối, giải pháp, biện pháp đấu tranh phòng, chống phù hợp. Đồng thời giúp cho cơ quan và người có thẩm quyền có thể xác định hành vi đã xảy ra có cấu thành tội phạm hay không. Giống như tất cả các tội phạm được quy định trong BLHS, tội phạm cướp tài sản có 04 yếu tố cấu thành tội phạm:

– Khách thể của tội phạm.

Tội cướp tài sản xâm hại đến quyền sở hữu tài sản và quyền bất khả xâm phạm về thân thể, quyền được bảo hộ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của cá nhân được Hiến pháp 2013 ghi nhận (tại Điều 20). Khách thể của tội cướp tài sản là khách thể đặc biệt liên quan đến con người được luật hình sự bảo vệ nhưng không phải là con người nói chung mà cụ thể, đó là quyền sở hữu tài sản và tính mạng, sức khỏe của người cụ thể, những quyền này của công dân được Hiến pháp ghi nhận và được luật hình sự bảo vệ. Như vậy đối tượng tác động của tội cướp tài sản là tài sản và con người. Tài sản ở đây được hiểu với tư cách là đối tượng tác động của tội cướp tài sản chỉ là những vật, tiền, giấy tờ có giá trị, nhưng không bao gồm quyền tài sản.

– Mặt khách quan của tội phạm.

Mặt khách quan của tội cướp tài sản là những biểu hiện ra bên ngoài của tội phạm. Đó là hành vi dùng vũ lực ( là dùng sức mạnh vật chất (có vũ khí hoặc công cụ, phương tiện khác) để chủ động tấn công vào một người cụ thể); đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc (là đe dọa dùng ngay tức thì sức mạnh vật chất, nếu người bị tấn công không chịu khuất phục); hoặc có hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được ( là hành vi làm cho người bị tấn công tuy biết sự việc đang xảy ra những không có cách nào chống cụ được) nhằm chiếm đoạt tài sản của người đó.

Ngoài ra, để xác định hành vi cướp tài sản có đủ các yếu tố mặt khách quan thì việc quy định yếu tố về quan hệ sở hữu giữa người bị tấn công và tài sản bị chiếm đoạt, đó phải là tài sản của người bị tấn công hoặc là tài sản đó phải do người này có trách nhiệm quản lý, trông coi.

Xuất phát từ đặc điểm của tội cướp tài sản là tội phạm có cấu thành hình thức và được coi hoàn thành từ thời điểm người phạm tội đã thực hiện một trong các hành vi đã nêu trên, không kể người phạm tội có chiếm đoạt được tài sản hay không. Còn việc xác định các dấu hiệu: thời gian, địa điểm, hoàn cảnh, phương tiện, công cụ, thủ đoạn trong mặt khách quan không phải là dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành của tội cướp tài sản. Việc xác định những dấu hiệu này trong mặt khách quan của tội phạm chỉ có ý nghĩa trong việc đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm của tội phạm, là tình tiết định khung, góp phần giúp cho cơ quan tiến hành tố tụng quyết định hình phạt đối với người phạm tội.

– Chủ thể của tội phạm.

Chủ thể của tội cướp tài sản là con người cụ thể, người này phải có năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi luật định. Tuổi chịu trách nhiệm hình sự được quy định tại Điều 12 BLHS năm 2015 thấy rằng tuổi chịu trách nhiệm hình sự của tội cướp tài sản là người từ đủ 14 tuổi trở lên.

– Mặt chủ quan của tội phạm.

Tội phạm cướp tài sản được thực hiện do lỗi cố ý, trực tiếp, người thực hiện hành vi tội phạm ý thức được tính chất nguy hiểm hành vi mà mình thực hiện, thấy được hậu quả hành vi mình thực hiện đó là tài sản của người khác bị chiếm đoạt và mong muồn chiếm đoạt tài sản đó.

Mục đích chiếm đoạt tài sản của người khác là yếu tố bắt buộc của cấu thành tội phạm cướp tài sản. Nếu thực hiện một trong các hành vi nêu trên nhưng không nhằm mục đích chiếm đoạt tài sản thì không phạm tội cướp tài sản.

Nghiên cứu các dấu hiệu cấu thành tội phạm của tội cướp tài sản có ý nghĩa về mặt lý luận lẫn thực tiễn. Qua đó, giúp hoạt động thực hành quyền công tố đối với loại tội phạm này chính xác, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Tội cướp tài sản có những đặc điểm như sau:

Đặc điểm phía người phạm tội: Để đánh giá đặc điểm phía người phạm tội cần đề cập đến hành vi phạm tội.

Người phạm tội phải có hành vi dùng dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được uy hiếp đến tính mạng, sức khỏe của người khác làm cho người này bị thương hay bị tê liệt ý chí kháng cự, như: đâm, chém, đấm, đá, … giơ súng dọa bắn, rút dao dọa đâm, chém … cho ngửi hoặc uống thuốc mê …

Hành vi của người phạm tội từ đủ 14 tuổi trở lên, được thực hiện do cố ý có nghĩa là người phạm tội nhận thức được hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội thấy trước hậu quả của hành vi đó là tài sản của người khác bị chiếm đoạt và mong muốn chiếm đoạt tài sản đó.

Tội cướp tài sản là tội cấu thành hình thức, tức là tội phạm được hoàn thành từ thời điểm người phạm tội thực hiện các hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được (với mục đích nhằm chiếm đoạt tài sản), không kể người phạm tội có chiếm đoạt được tài sản hay không.

Đặc điểm về phía người bị hại: Người bị tấn công là người đang quản lý, trông coi tài sản. Xét mối quan hệ sở hữu, thì tài sản đó có thể là tài sản của người bị tấn công hoặc của người khác nhưng người bị tấn công phải đang là người trực tiếp hoặc gián tiếp quản lý, trong coi tài sản đó.

Hoạt động thực hành quyền công tố trong vụ án cướp tài sản về nội dung cũng giống như hoạt động thực hành quyền công tố trong vụ án đối với các tội phạm khác được quy định trong BLHS nói chung. Các nội dung hoạt động thực hành quyền công tố trong vụ án của tội cướp tài sản cũng được quy định cụ thể trong BLTTHS. Tuy nhiên, do tính chất của vụ án về loại tội phạm này và như đã phân tích ở trên, thực hành quyền công tố trong vụ án cướp tài sản có nhiều điểm khác với thực hành quyền công tố trong vụ án ở tội phạm nói chung.

Trên cơ sở đó, ta có thể đưa ra khái niệm thực hành quyền công tố trong vụ án cướp tài sản như sau:

Thực hành quyền công tố trong vụ án cướp tài sản là việc Viện kiểm sát sử dụng tổng hợp các quyền năng pháp lý để thực hiện việc buộc tội của Nhà nước, truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm quyền sở hữu tài sản và quyền được tôn trọng và bảo vệ tính mạng, sức khỏe của người khác, được thực hiện từ khi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố, rồi khởi tố vụ án hình sự và trong suốt quá trình điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự, nhằm đảm bảo mọi hành vi phạm tội, người phạm tội cướp tài sản phải được phát hiện, khởi tố, điều tra, truy tố kịp thời, nghiêm minh, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

    1. 1.2.2. Các đặc điểm thực hành quyền công tố trong vụ án cướp tài sản

Đối với hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật của VKSND thì được thực hiện trong nhiều lĩnh vực như: trong lĩnh vực tố tụng hình sự, hành chính, dân sự … còn hoạt động thực hành quyền công tố trong vụ án cướp tài sản chỉ tồn tại trong lĩnh vực tố tụng hình sự.

– Đặc điểm chủ thể của thực hành quyền công tố trong vụ án cướp tài sản: VKS là cơ quan tiến hành tố tụng duy nhất được Nhà nước giao cho chức năng thực hành quyền công tố. Cho nên, VKS là cơ quan duy nhất có chức năng thực hành quyền công tố trong vụ án cướp tài sản.

– Đặc điểm thực hành quyền công tố trong vụ án cướp tài sản là phải theo một trình tự, thủ tục cụ thể do pháp luật quy định. Thông qua các chức năng của VKS trong việc thực hành quyền công tố đối với tội phạm hình sự có thể thấy được đặc điểm thực hành quyền công tố theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định gồm:

Thực hiện việc khởi tố vụ án hình sự: Thực hành quyền công tố ở giai đoạn này trong vụ án cướp tài sản là bao gồm từ việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố rồi đến khởi tố vụ án hay không khởi tố vụ án cướp tài sản. Đây là hoạt động đầu tiên để quyết định có hay không việc ra quyết định khởi tố vụ án hình sự về tội cướp tài sản và thực hiện bước tiếp theo là giai đoạn điều tra vụ án hình sự.

Thực hiện việc điều tra vụ án hình sự: Đây là giai đoạn quan trọng, thực hành quyền công tố ở giai đoạn này là đảm bảo cho việc thực hiện các bước nhằm thu thấp toàn bộ nội dung vụ án, từ các tài liệu, chứng cứ, vật chứng… và khởi tố bị can. Hoạt động điều tra đối với vụ án cướp tài sản đúng pháp luật là điều kiện tiên quyết và là tiền đề đảm bảo cho việc thực hiện tốt hai chức năng công tố tương ứng trong hai giai đoạn tiếp theo đó là truy tố bị can trước Tòa án và buộc tội bị cáo tại phiên tòa.

Thực hiện việc truy tố: Chức năng truy tố do VKS thực hiện, sau khi kết thúc giai đoạn điều tra vụ án cướp tài sản, VKS phải quyết định có đưa vụ án ra tòa hay không. Trong quá trình ra quyết định truy tố vụ án cướp tài sản, VKS phải đánh giá chứng cứ để xem xét về khả năng người phạm tội có thể bị kết tội về tội này tại tòa hay không. Thực hiện tốt việc truy tố không những là điều kiện quan trọng nhằm loại trừ các vi phạm pháp luật có thể xảy ra trong quá trình VKS chuyển hồ sơ sang Tòa án để xét xử mà còn là cơ sở đảm bảo cho việc buộc tội của mình không làm oan người vô tội mà phải truy tố đúng hành vi, đúng người, đúng pháp luật đối với tội phạm thực hiện hành vi cướp tài sản trong giai đoạn tiếp theo.

Truy tố đối với hành vi phạm tội cướp tài sản được thực hiện bằng việc sau khi nhận hồ sơ vụ án và bản kết luận điều tra của CQĐT, VKS phải nghiên cứu hồ sơ vụ án và ra quyết định đúng trong từng trường hợp tương ứng, như truy tố bị can trước Tòa án bằng bản cáo trạng, trả lại hồ sơ để điều tra bổ sung, đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án. Sau khi quyết định truy tố bị can, VKS phải đảm bảo việc tuân thủ nghiêm chỉnh và đầy đủ các quy định của BLTTHS về giao bản cáo trạng cho bị can, cho người bào chữa…; gửi hồ sơ và quyết định truy tố đến Tòa án trong thời hạn quy định; đảm bảo cho nội dung của bản cáo trạng phù hợp với quy định của pháp luật.

Thực hiện việc buộc tội: Buộc tội là một trong những chức năng cơ bản và quan trọng trong tố tụng hình sự. Thực hiện việc buộc tội đối với người có hành vi phạm tội cướp tài sản là nhằm phát hiện người đã thực hiện hành vi phạm tội, tội phạm đã thực hiện, những tình tiết thể hiện tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, chứng minh lỗi của những người đã thực hiện tội phạm, nguyên nhân, động cơ, mục đích cũng như những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của người thực hiện hành vi cướp tài sản.

Thực hiện tốt việc buộc tội không những là điều kiện quan trọng nhằm loại trừ các vi phạm pháp luật có thể xảy ra trong quá trình xét xử tội cướp tài sản của HĐXX, mà còn là cơ sở đảm bảo cho Tòa án xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật để tuyên một bản án (quyết định) có hiệu lực pháp luật thật sự công bằng, có căn cứ. Việc buộc tội được thực hiện bằng việc sau khi đọc bản cáo trạng, VKS (mà cụ thể hoạt động của KSV) tham gia vào việc làm rõ các tình tiết vụ án tại phiên tòa, hỏi những người tham gia tố tụng, nghiên cứu các vật chứng, tranh luận, quyết định rút truy tố hoặc định tội danh nhẹ hơn … Quá trình này nhằm góp phần làm cho quá trình xét xử của Tòa án được tiến hành theo đúng trình tự do luật định, đảm bảo sự bình đẳng trong quá trình tranh tụng. Thực hiện việc buộc tội nhằm đạt được mục đích là sau khi đại diện Nhà nước buộc tội bị cáo đã xét xử tại phiên tòa, hoạt động của VKS phải góp phần làm cho bản án (quyết định) có hiệu lực pháp luật đối với tội này của Tòa án thực sự công bằng, có căn cứ.

– Đặc điểm riêng của thực hành quyền công tố trong vụ án cướp tài sản.

Để thực hiện tốt hoạt động thực hành quyền công tố trong vụ án cướp tài sản bên cạnh nắm vững những nội dung cơ bản của công tác thực hành quyền công tố còn phải xác định được những đặc điểm riêng biệt của hoạt động này.

Trong giai đoạn giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố: Cũng như các tội xâm phạm sở hữu nói chung, tội cướp tài sản thì hoạt động giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm thường diễn ra rất nhanh, thông qua tố giác của người bị hại hoặc tin báo của quần chúng nhân dân chứng kiến sự việc phản ánh đến CQĐT, VKS. Cho nên, thời hạn giải quyết tố giác, tin báo thường là nhanh hơn so với các tội khác (như nhóm tội xâm phạm đến sức khỏe của con người) vì tội cướp tài sản cấu thành hình thức.

Hoạt động đánh giá chứng cứ: Đối với tội cướp tài sản mà hành vi thể hiện là đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc thì trong thực tế rất khó xác định là có “tức khắc” hay không; hoặc xác định hành vi dùng vũ lực có trước hay sau hành vi giật tài sản trong trường hợp hai hành vi này diển ra gần như đồng thời … Do đó, việc xác các hành vi này rất khó, dể nhầm lẫn sang tội cưỡng đoạt tài sản hay cướp giật tài sản.

Trong thực tế ở những tình huống cụ thể, tội cướp tài sản có diễn biến hành vi gần giống với cưỡng đoạt tài sản hay cướp giật tài sản. Vì vậy, trong thực tiển để tránh trường hợp định tội danh sai, khi thực hành quyền công tố, VKS nên chủ động phối hợp với các cơ quan tiến hành tố tụng khác để tiến hành tháo gỡ những khó khăn trong quá trình giải quyết vụ án, định tội danh, phân tích, đánh giá chứng cứ.

    1. 1.3. Nội dung thực hành quyền công tố trong vụ án cướp tài sản

1.3.1. Thực hành quyền công tố trong giai đoạn khởi tố vụ án

Trong giai đoạn này, nội dung thực hành quyền công tố gồm có: Thực hành quyền công tố trong việc giải quyết tố giác tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố; thực hành quyền công tố trong việc khởi tố vụ án.

Hoạt động thực hành quyền công tố trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự bắt đầu từ việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố đối với tội cướp tài sản với mục đích nhằm xác định dấu hiệu tội phạm của hành vi cướp tài sản để xem xét việc khởi tố hoặc không khởi tố vụ án hình sự cướp tài sản.

Với ý nghĩa là việc sử dụng tổng hợp những quyền năng pháp lý nhằm mục đích xác định dấu hiệu tội phạm, đối tượng của hoạt động thực hành quyền công tố là tội phạm và người phạm tội. Ở giai đoạn khởi tố vụ án hình sự, hoạt động thực hành quyền công tố đối với tội cướp tài sản nhằm xác định:

– Có hay không có hành vi cướp tài sản ( hành vi nguy hiểm) đã xảy ra trên thực tế;

– Vụ việc cướp tài sản được thực hiện do người có đủ năng lực hành vi để chịu trách nhiệm hình sự hay không;

– Việc cướp tài sản đó có được quy định là tội phạm trong BLHS hiện hành hay không.

Quá trình hoạt động thực hành quyền công tố ở giai đoạn khởi tố vụ án hình sự trong vụ án cướp tài sản bắt đầu từ khi tiếp nhận tố giác, tin báo tội phạm hoặc kiến nghị khởi tố và kết thúc là khi xác định có hay không có dấu hiệu tội phạm cướp tài sản để ra một trong hai quyết định là khởi tố hoặc không khởi tố vụ án hình sự về tội cướp tài sản.

LIỆN HỆ:

SĐT+ZALO: 0935568275

E:\DỮ LIỆU COP CỦA CHỊ YẾN\LUAN VAN VIEN HAN LAM\VIEN HAN LAM DOT 8\LUAT HINH SU\NGUYEN TIEN TAI\SAU BAO VE

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *