Hợp đồng tín dụng cho cá nhân vay phục vụ hoạt động kinh doanh

Hợp đồng tín dụng cho cá nhân vay phục vụ hoạt động kinh doanh

Hợp đồng tín dụng cho cá nhân vay phục vụ hoạt động kinh doanh theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam-Chi nhánh Quảng Nam

1. Tính cấp thiết của đề tài

Hợp đồng tín dụng ngân hàng là một chế định phức tạp trong khoa học pháp lý, nó vừa hội đủ những điểm chung nhất của một hợp đồng nói chung vừa mang những đặc thù riêng biệt trong lĩnh vực hoạt động kinh doanh tiền tệ; vừa có thể là một hợp đồng kinh doanh thương mại vừa có thể là hợp đồng dân sự thuần túy và chịu sự điều chỉnh các quy định pháp luật rải rác trong các lĩnh vực kinh tế, dân sự, tài chính, ngân hàng.

Trong khoa học pháp lý, hợp đồng tín dụng ngân hàng không được các nhà nghiên cứu quan tâm đúng mức. Trong các tài liệu kinh tế, tài chính… tín dụng ngân hàng được nghiên cứu dưới khía cạnh kinh tế, bao gồm: hiệu quả các nghiệp vụ cho vay, các phương thức cho vay và các biện pháp bảo đảm tiền vay nhằm hạn chế rủi ro tín dụng….

Đến thời điểm hiện nay, trong hệ thống pháp luật Việt Nam có nhiều văn bản quy phạm thuộc quy định về Hợp đồng tín dụng tại các TCTD như: Chế định Hợp đồng trong BLDS 2015, Luật các TCTD năm 2010 có các quy định về xét duyệt cấp tín dụng, kiểm tra sử dụng tiền vay, Quy chế cho vay của TCTD với khách hàng…Thông tư 39/2016/TT-NHNN ngày 30/12/2016 của NHNN quy định về hoạt động cho vay của các TCTD… Tuy nhiên trong các quy định này có một số nội dung chưa phù hợp hoặc việc áp dụng trên thực tế còn gặp vướng mắc và không thống nhất, gây lúng túng cho các bên tham gia giao dịch cũng như đối với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền khi giải quyết tranh chấp.

Từ thực tế công việc, tôi mong muốn tìm hiểu về thực trạng áp dụng pháp luật về HĐTDCNKD tại BIDV hiện nay diễn ra như thế nào? Liệu pháp luật về HĐTDCNKD hiện tại có đủ khả năng dự liệu được các trường hợp về giao kết và thực hiện HĐTDCNKD hay chưa cũng như những khó khăn, vướng mắc gặp phải trong quá trình các bên thực hiện trên thực tế. Vì lẽ đó tôi chọn đề tài nghiên cứu: “Hợp đồng tín dụng cho cá nhân vay phục vụ hoạt động kinh doanh theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam-Chi nhánh Quảng Nam” làm đề tài luận văn thạc sĩ.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

Hệ thống hóa và làm rõ một số vấn đề lý luận về HĐTD nói chung và pháp luật về HĐTDCNKD nói riêng như khái niệm, đặc điểm, bản chất pháp lý, nội dung của pháp luật về HĐTDCNKD…

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Phân tích và đánh giá thực trạng pháp luật về HĐTDCNKD tại BIDV Quảng Nam, từ đó phát hiện những bất cập, tồn tại về mặt pháp lý trong thực tiễn áp dụng HĐTDCNKD. Trên cơ sở những bất cập, đưa ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về HĐTDCNKD để áp dụng chung, trong đó có BIDV.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu: Các quy định pháp luật, các quan điểm khoa học, các tư liệu thực tế về thực hiện các quy định của pháp luật đối với HĐTD cá nhân vay phục vụ hoạt động kinh doanh.

4.2. Phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu trên địa bàn tỉnh Quảng Nam trong khoảng thời gian từ 2015 đến 2017

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu

5.1. Phương pháp luận: Luận văn dựa trên phương pháp luận biện chứng của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật. Nghiên cứu đi từ lý luận đến thực tiễn, dùng thực tiễn kiểm chứng lý luận.

5.2. Phương pháp nghiên cứu: Các phương pháp nghiên cứu khoa học chuyên ngành như phương pháp lịch sử, phân tích, so sánh, chứng minh, tổng hợp và phương pháp thống kê cũng được sử dụng để hoàn thành luận văn.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

6.1. Ý nghĩa lý luận: Luận văn đã nêu ra một số giải pháp, kiến nghị nhằm đóng góp một phần nhỏ vào lợi ích chung của Ngân hàng, đảm bảo hạn chế tối đa các rủi ro trong hoạt động của Ngân hàng, đặc biệt là hạn chế các rủi ro tranh chấp về mặt pháp lý của Hợp đồng tín dụng giữa Ngân hàng và khách hàng cá nhân vay vốn phục vụ hoạt động kinh doanh.

6.2. Ý nghĩa thực tiễn: Nghiên cứu pháp luật về Hợp đồng tín dụng cho cá nhân vay phục vụ hoạt động kinh doanh chỉ ra được những bất cập và giải pháp hoàn thiện trong việc thực hiện gắn liền với thực tế tỉnh Quảng Nam, có thể dùng làm tài liệu tập huấn, hướng dẫn kỹ năng, nghiệp vụ trong Ngân hàng và cũng có thể để tham khảo trong việc xây dựng chính sách pháp luật liên quan.

7. Cơ cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, luận văn gồm 2 chương:

Chương 1: Một số vấn đề lý luận về hợp đồng tín dụng và pháp luật về HĐTD cho cá nhân vay phục vụ hoạt động kinh doanh

Chương 2: Thực hiện pháp luật về Hợp đồng tín dụng cho cá nhân vay phục vụ kinh doanh tại Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam- Chi nhánh Quảng Nam- Một số bất cập và giải pháp

CHƯƠNG 1

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG VÀ PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG CHO CÁ NHÂN VAY PHỤC VỤ HOẠT ĐỘNG KINH DOANH

1.1. Khái niệm, đặc điểm của hợp đồng tín dụng

1.1.1. Khái niệm hợp đồng tín dụng

Thuật ngữ Tín dụng” xuất phát từ gốc Latinh là “Creditum” là sự tin tưởng, tín nhiệm. Điều này nghĩa là người vay phải trả nợ đầy đủ và đúng hạn. Hay nói cách khác để quan hệ tín dụng được thiết lập và tồn tại thì đòi hỏi phải tạo lập được niềm tin, đây là cơ sở rất quan trọng để quan hệ tín dụng được hình thành. Do đó, người cho vay đòi hỏi người đi vay phải có sự cam kết hoàn trả cả vốn và lãi. Trên thực tế sự cam kết này thực chất là HĐTD. Đây là cơ sở pháp lý xác định trách nhiệm của hai chủ thể trong quan hệ tín dụng.

“HĐTD là thỏa thuận bằng văn bản giữa TCTD với khách hàng, theo đó TCTD thỏa thuận ứng trước một số tiền cho khách hàng sử dụng trong một thời hạn nhất định với điều kiện có hoàn trả cả gốc và lãi dựa trên sự tin nhiệm”

Trên thực tế một HĐTD còn rất nhiều vấn đề phức tạp mà đòi hỏi mỗi chủ thể tham gia vào giao dịch phải hết sức thận trọng, tỉ mỉ trước khi thống nhất ý chí để đi đến ký kết hợp đồng đúng luật cả về nội dung và hình thức.

Theo quy định của pháp luật, HĐTD phải lập thành văn bản thì mới có giá trị pháp lý. Sở dĩ pháp luật quy định như thế là có lý do mà một trong những lý do chính đó là:

– HĐTD khi được ký kết bằng văn bản nó sẽ là bằng chứng cụ thể ghi nhận sự thỏa thuận giữa các bên. Buộtc các bên tôn trọng nó một cách nghiêm túc dựa trên những quyền và nghĩa vụ đã quy định. Và nó cũng là cơ sở để giải quyết các tranh chấp phát sinh từ HĐTD.

– Việc ký kết HĐTD bằng văn bản cũng có nghĩa là bên cho vay và bên vay đã công bố công khai, chính thức về mối quan hệ pháp lý. Từ đó bên thứ ba biết rỏ về việc lập khế ước đó mà có cách xử sự hợp lý, an toàn nhất trong giao dịch với họ. Đặc biệt là cơ sở để các cơ quan quản lý nhà nước kiểm soát việc đảm bảo an toàn ngân hàng, các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền thực hiện công vụ tốt hơn, Ví dụ như việc thu thuế, lệ phí, kiểm tra, thanh tra tài chính, kiểm soát các hoạt động kinh doanh thương mại trong xã hội được triệt để hơn.

Tuy nhiên, hình thái vật chất của văn bản HĐTD như thế nào mới được xem là hợp pháp vẫn còn là vấn đề bỏ ngõ trong pháp luật hiện hành của Việt Nam. Và dù HĐTD là văn bản viết tay hay văn bản điện tử thì HĐTD vẫn phải lập theo mẫu nhằm hạn chế sai sót về kỹ thuật và việc ghi nhận các điều khoản chủ yếu của hợp đồng.

1.1.2. Đặc điểm Hợp đồng tín dụng

Với khái niệm đã trình bày ở trên, có thể thấy ngoài những dấu hiệu chung của mọi loại hợp đồng, hợp đồng tín dụng còn có một số đặc điểm đặc trưng sau đây để phân biệt với các chủng loại hợp đồng khác trong giao lưu dân sự và thương mại:

1.1.2.1. Đặc điểm về chủ thể: Tham gia quan hệ này gồm hai chủ thể: là bên cho vay (tổ chức tín dụng có đủ điều kiện luật định) và bên vay là tổ chức, cá nhân thỏa mãn những điều kiện vay vốn do pháp luật quy định. Điểm đặc trưng về chủ thể là bên vay là cá nhân vay có đăng ký kinh doanh và mục đích sử dụng phục vụ chi phí hoạt động kinh doanh. Cá nhân vay ở đây là một người hoặc một nhóm người liên kết với nhau nhưng không có tư cách pháp nhân.

1.1.2.2. Đặc điểm về đối tượng: Đối tượng của hợp đồng tín dụng bao giờ cũng là tiền, một số tiền xác định và phải được các bên thỏa thuận, ghi rõ trong văn bản hợp đồng.

Hợp đồng tín dụng vốn chứa đựng nguy cơ rủi ro rất lớn cho quyền lợi của bên cho vay. Nếu thời hạn cho vay càng dài thì nguy cơ rủi ro và bất trắc càng lớn. Tính rủi ro của hợp đồng tín dụng còn được thể hiện ở chỗ rủi ro của hợp đồng tín dụng có tính dây chuyền. Nếu khoản cho vay không thu hồi được vốn, tổ chức tín dụng sẽ có nguy cơ mất khả năng chi trả cho người gửi tiền, đe dọa đến sự sống còn của tổ chức tín dụng, tác động dây chuyền đến toàn bộ nền kinh tế.

1.1.2.3. Đặc điểm về hình thức Hợp đồng: Hình thức của hợp đồng tín dụng luôn bằng văn bản. Hợp đồng tín dụng ngân hàng đa phần là hợp đồng theo mẫu.

Ngoài ra HĐTD còn có một số đặc điểm đặc trưng sau:

Về cơ chế thực hiện quyền và nghĩa vụ: chỉ khi nào bên cho vay chứng minh được rằng họ đã chuyển giao tiền vay theo đúng hợp đồng tín dụng cho bên vay thì khi đó họ với có quyền yêu cầu bên vay phải thực hiện các nghĩa vụ đối với mình.

Đối với bên cho vay hợp đồng tín dụng luôn nhằm mục đích lợi nhuận. Việc thu hồi lợi nhuận không chỉ xuất phát từ lợi ích của tổ chức tín dụng mà còn xuất phát từ lợi ích của người gửi tiền và lợi ích của toàn xã hội.

Như vậy, hợp đồng tín dụng là hình thức pháp lý của quan hệ cho vay giữa tổ chức tín dụng và khách hàng vay. Xuất phát từ tính chất và tầm quan trọng của nó đối với nền kinh tế nên hợp đồng tín dụng ngân hàng có những nét đặc thù riêng. Vì vậy, trong quá trình giao kết và thực hiện hợp đồng các bên phải thoả mãn tất cả các điều kiện đặt ra với hợp đồng tín dụng ngân hàng nhằm đảm bảo tính hiệu lực của hợp đồng cũng như hạn chế các rủi ro có thể xảy ra cho các bên trong quan hệ hợp đồng.

1.1.3. Sự khác biệt của HĐTD ngân hàng về thủ tục, trình tự ký kết hợp đồng

Quá trình thiết lập quan hệ HĐTD ngân hàng diễn ra qua các bước sau: Khi có nhu cầu vay vốn, khách hàng phải gửi cho tổ chức tín dụng các tài liệu thông tin cá nhân, các tài liệu chứng minh đủ điều kiện vay vốn theo quy định và các tài liệu khác do tổ chức tín dụng hướng dẫn. Trên cơ sở hồ sơ, HĐTD sẽ được giao kết qua các bước sau: Bước 1: Thẩm định; Bước 2: Ký kết hợp đồng tín dụng

Như vậy, so với nhiều loại hợp đồng dân sự khác, quá trình giao kết hợp đồng tín dụng ngân hàng trải qua hiều giai đoạn. Các giai đoạn này mang tính bắt buộc thể hiện ở các quy trình của pháp luật về quyền và nghĩa vụ của các bên và được cụ thể hóa bằng quy định về quy trình nghiệp vụ của từng tổ chức tín dụng.

1.2. Khái niệm, đặc diểm và cấu trúc pháp luật điều chỉnh quan hệ HĐTD cho cá nhân vay phục vụ hoạt động kinh doanh

1.2.1. Khái niệm, đặc điểm và các phương thức vay vốn

Hợp đồng tín dụng cho cá nhân vay phục vụ hoạt động kinh doanh mang bản chất của hợp đồng tín dụng nói chung. Tuy nhiên, điểm đặc trưng của loại hợp đồng này là bên vay là cá nhân có nhu cầu vay vốn để phục vụ cho hoạt động kinh doanh. Vì vậy, có thể xác định loại hợp đồng này như sau:

Hợp đồng tín dụng cá nhân vay phục vụ hoạt động kinh doanh là sự thỏa thuận bằng văn bản giữa tổ chức tín dụng (bên cho vay) với khách hàng là cá nhân (bên vay) nhằm xác lập quyền và nghĩa vụ nhất định giữa các bên theo quy định của pháp luật, theo đó, bên cho vay chuyển giao một khoản tiền cho bên vay sử dụng vào mục đích kinh doanh trong một thời hạn nhất định theo thoả thuận với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi”

Về chủ thể, một bên tham gia hợp đồng bao giờ cũng là tổ chức tín dụng có đủ điều kiện luật định, với tư cách là bên cho vay. Còn chủ thể vay (bên vay) là cá nhân có hoạt động kinh doanh thỏa mãn những điều kiện vay vốn do pháp luật quy định.

Về đặc điểm thì mang đặc điểm của HĐTD nói chung

Về phương thức cho vay, TCTD thỏa thuận với khách hàng việc áp dụng các phương thức cho vay như sau: Cho vay từng lần, Cho vay hợp vốn, Cho vay theo hạn mức, Cho vay theo hạn mức cho vay dự phòng, Cho vay theo hạn mức thấu chi trên tài khoản thanh toán, Cho vay quay vòng, Cho vay tuần hoàn, Các phương thức cho vay khác được kết hợp các phương thức cho vay

Tóm lại, pháp luật về hợp đồng cho cá nhân vay phục vụ hoạt động kinh doanh là tổng hợp các quy phạm pháp luật quy định tư cách pháp lý, điều kiện chủ thể ký kết hợp đồng, thời hạn, phương thức cho vay và quyền, nghĩa vụ của các bên.

Hợp đồng tín dụng cho cá nhân vay phục vụ hoạt động kinh doanh theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam-Chi nhánh Quảng Nam
Hợp đồng tín dụng cho cá nhân vay phục vụ hoạt động kinh doanh theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam-Chi nhánh Quảng Nam

1.2.2. Cấu trúc pháp luật điều chỉnh quan hệ HĐTD cho cá nhân vay phục vụ hoạt động kinh doanh

1.2.2.1. Chế định “Hợp đồng” trong Bộ luật dân sự 2015 và Luật các tổ chức tín dụng

Bộ luật Dân sự (BLDS) năm 2015 đã được Quốc hội khóa XIII, kỳ họp thứ 10 thông qua ngày 24/11/2015 và có hiệu lực từ ngày 1/7/2016. Trong BLDS 2015 có nhiều điểm mới tiến bộ hơn so với BLDS 2005, đặc biệt là những điểm mới liên quan đến hợp đồng.

Ngoài ra, một số quy định của Luật các tổ chức tín dụng có liên quan đến HĐTD như: Quy định về lãi suất, phí trong hoạt động kinh doanh của tổ chức tín dụng; Quy định về xét duyệt cấp tín dụng, kiểm tra sử dụng tiền vay; Quy định về chấm dứt cấp tín dụng, xử lý nợ, miễn, giảm lãi suất; Quy định về lưu giữ hồ sơ tín dụng; Quy định về những trường hợp không được cấp tín dụng; Quy định về hạn chế cấp tín dụng.

1.2.2.2. Văn bản quy phạm pháp luật do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ban hành: Ngày 30 tháng 12 năm 2016, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã ban hành Thông tư 39/2016/TT-NHNN quy định về hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài đối với khách hàng. Có hiệu lực thi hành từ ngày 15/03/2017. Thông tư tạo lập khuôn khổ pháp lý mới về cho vay của Tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài khách hàng và đặc biệt là các quy định liên quan đến các điều khoản trong HĐTD.

Kết luận Chương 1

HĐTD cho cá nhân vay phục vụ hoạt động kinh doanh mang đặc điểm chung của HĐTD cho cá nhân vay nhưng được phân biệt với các quan hệ hợp đồng cá nhân vay khác ở chổ bên vay là chủ thể kinh doanh với tư cách là cá nhân. Việc nhận diện này cho phép xác định cơ quan giải quyết tranh chấp HĐTD ký kết giữa bên cho vay và bên vay là chủ thể kinh doanh trong hệ thống tòa án là tòa kinh doanh, thương mại.

Pháp luật điều chỉnh quan hệ hợp đồng tín dụng giữa bên cho vay và bên vay là cá nhân kinh doanh là Bộ luật dân sự, Luật các TCTD và các văn bản quy phạm pháp luật do NHNN ban hành, trong đó Bộ luật dân sự đóng vai trò nền tảng, còn các văn bản pháp luật khác là pháp luật chuyên ngành.

CHƯƠNG 2

THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG CHO CÁ NHÂN VAY PHỤC VỤ HOẠT ĐỘNG KINH DOANH TẠI BIDV-CHI NHÁNH QUẢNG NAM-MỘT SỐ BẤT CẬP VÀ GIẢI PHÁP

2.1. Bối cảnh thực hiện pháp luật về Hợp đồng tín dụng cho cá nhân vay phục vụ hoạt động kinh doanh tại BIDV- Chi nhánh Quảng Nam

2.1.1. Các yếu tố tác động tới thực hiện pháp luật về Hợp đồng tín dụng cho cá nhân vay phục vụ hoạt động kinh doanh

2.1.1.1. Khả năng huy động nguồn vốn cho Tổ chức tín dụng

Báo cáo số: 508/CTK-TH của Cục thống kê tỉnh Quảng Nam, ngày 20 tháng 12 năm 2017 về tình hình kinh tế xã hội tỉnh Quảng Nam tháng 12 và năm 2017 cung cấp các số liệu như sau:

Về tăng trưởng kinh tế, tổng sản phẩm trên địa bàn tỉnh (GRDP) năm 2017 ước tính đạt 63.003 tỷ đồng, tăng 5,09% so với năm 2016. Thu cân đối ngân sách nhà nước trên địa bàn ước đạt trên 28.540 tỷ đồng, tăng 11% so với năm 2016.

Trong lĩnh vực ngân hàng, huy động vốn tăng trưởng ổn định qua các tháng, năm 2017 tổng huy động đạt 44.005 tỷ đồng, tăng 25% so với đầu năm. Tổng dư nợ cho vay trên địa bàn đạt 50.956 tỷ đồng, tăng 18,5% so với đầu năm.

Về thị trường bán lẻ trên địa bàn tỉnh có quy mô tương đối nhỏ. Tính chung cả năm 2017 tổng doanh thu bán lẻ ước đạt 29,4 nghìn tỷ đồng, tăng 10,7% so năm 2016.

Lĩnh vực an sinh xã hội được duy trì thường xuyên và đảm bảo, an ninh – quốc phòng được tăng cường. Dân số trung bình năm 2017 khoảng 1.494 nghìn người, dân số khu vực thành thị có 362,1 nghìn người chiếm 24,2%. Thu nhập bình quân đầu người đạt hơn 2,7 triệu đồng/người/tháng.

2.1.1.2. Nhu cầu vay vốn của cá nhân kinh doanh tại Quảng Nam. Theo số liệu thống kê của Ngân hàng Nhà nước tỉnh Quảng Nam, nhu cầu khách hàng cá nhân vay vốn kinh doanh trên địa bàn tỉnh Quảng Nam có sự tăng trưởng rỏ rệt, năm 2016 tăng 33,5% so với năm 2015 và năm 2017 tăng 34,9% so với năm 2016. Trong đó BIDV chiếm 6,27% thị phần của toàn tỉnh năm 2017 trong tổng dư nợ bán lẻ trên địa bàn.

2.1.1.3. Khả năng tiếp cận pháp luật của người vay về HĐTD

Hiện nay đa số khách hàng vay vốn kể cả tổ chức và cá nhân đều rất ít quan tâm đến HĐTD, cụ thể là nội dung của HĐTD. Nếu có thì đa phần cũng chỉ chú trọng đến số tiền vay được bao nhiêu? lãi suất vay bao nhiêu? Hầu hết các Tổ chức tín dụng trên địa bàn cũng như BIDV đều soạn thảo HĐTD theo bộ mẫu hợp đồng của từng TCTD. Nhân viên quản lý khách hàng của TCTD hướng dẫn khách hàng vay các thủ tục, hồ sơ cần thiết, sau khi thống nhất các thỏa thuận thì soạn thảo toàn bộ hồ sơ vay vốn (kể cả đề nghị vay) thay khách hàng, khách hàng chỉ việc ký hồ sơ và cùng hoàn thiện các thủ tục công chứng, đăng ký giao dịch đảm bảo…

Bên vay hoàn toàn có thể thoả thuận với ngân hàng thay đổi bất kỳ nội dung nào. Tuy nhiên, trên thực tế thì bên vay thường phải chấp nhận những điều khoản thiên về ràng buộc chặt chẽ đối với bên vay và có lợi hơn cho ngân hàng.

Trong quan hệ tín dụng, trước khi giải ngân, thì thế mạnh hoàn toàn thuộc về TCTD và TCTD là người quyết định có hay không cho vay. Dấu ấn vẫn đang hiện hữu quá trình chuẩn bị giao kết hợp đồng, đó là những cụm từ “cấp tín dụng”“xét duyệt cấp tín dụng” hay là “yêu cầu khách hàng cung cấp tài liệu chứng minh” tính khả thi của phương án vay vốn và khả năng trả nợ. Tuy nhiên, ngay sau khi thực hiện hợp đồng, tức là sau khi TCTD giải ngân, thì xu thế lại hoàn toàn đảo ngược. Khi ấy, bên vay là người nắm vai trò chủ động trong việc trả nợ. Mặc dù TCTD có khá nhiều quyền chi phối theo quy định của pháp luật về hợp đồng tín dụng, nhưng vẫn trở thành bên thụ động và thực tế hiện nay nếu xảy ra rủi ro khách hàng mất khả năng trả nợ hoặc không trả nợ… thì việc xử lý một khoản vay để thu hồi nợ mất rất nhiều thời gian, vật chất…mà chưa chắc gì TCTD đã thu hồi được đủ gốc chứ chưa nói đến tiền lãi. Vì vậy, hiện nay các TCTD, đặc biệt BIDV rất là thận trọng trong việc lựa chọn khách hàng, một số khách hàng có tài sản đảm bảo, có kinh doanh …đủ điều kiện vay vốn nhưng “thái độ” không tốt thì vẫn bị từ chối cho vay.

2.2. Thực hiện pháp luật về Hợp đồng tín dụng cho cá nhân vay phục vụ hoạt động kinh doanh

2.2.1. Trình tự, thủ tục, nguyên tắc giao kết HĐTD

Tiếp thị-Tư vấn và hoàn thiện hồ sơ tín dụng-Tiếp nhận và kiểm tra hồ sơ-Đánh giá, phân tích khách hàng, khoản cấp tín dụng-Đánh giá về tài sản bảo đảm khoản cấp tín dụng -Cán bộ QLKH lập đề xuất tín dụng trình cấp thẩm quyền phê duyệt đề xuất tín dụng-Chấp thuận/từ chối cấp tín dụng.

Khách hàng vay đáp ứng các điều kiện vay vốn theo quy định tại Quy chế cho vay hiện hành của BIDV.

Về phương thức cấp tín dụng: Theo món, Theo hạn mức,Theo hạn mức tín dụng dự phòng, Theo hạn mức thấu chi

Về phương thức giải ngân: Giải ngân một hoặc nhiều lần; Giải ngân bằng tiền mặt hoặc chuyển khoản vào tài khoản của khách hàng tại BIDV/của người thụ hưởng theo quy định BIDV và của pháp luật.

Về bảo đảm tiền vay: Thực hiện theo các quy định hiện hành của BIDV về giao dịch bảo đảm trong cho vay và tại mọi thời điểm 100% dư nợ vay phải có tài sản bảo đảm. Chi nhánh thỏa thuận với khách hàng về việc khách hàng thực hiện mua bảo hiểm đối với tài sản bảo đảm.

Về kiểm tra giám sát khách hàng, khoản vay: Chi nhánh thực hiện kiểm tra giám sát khoản vay, khách hàng vay, mục đích sử dụng vốn vay trước và trong quá trình duyệt vay, giải ngân nhằm đảm bảo phù hợp với hồ sơ và thực tế.

2.2.2. Chủ thể, quyền và nghĩa vụ của các chủ thể tham gia hợp đồng tín dụng

2.2.2.1. Chủ thể của hợp đồng tín dụng

Bên cho vay là tổ chức tín dụng cụ thể là BIDV Quảng Nam

Bên vay là cá nhân có hoạt động kinh doanh thỏa mãn những điều kiện vay vốn do pháp luật quy định. KH phải có đầy đủ năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự; KH phải đáp ứng được yêu cầu về tuổi theo điều kiện của sản phẩm

Ngoài các chứng từ nhân thân của người vay vốn, khách hàng phải có các giấy tờ chứng minh hoạt động sản xuất kinh doanh của khách hàng là được phép, hợp pháp như:

– Giấy đăng ký kinh doanh; Giấy chứng nhận hành nghề.

– Hóa đơn nộp thuế môn bài/thuế khoán

– Xác nhận của Ban quản lý chợ/Trung tâm thương mại (nếu có) đối với cá nhân, hộ kinh doanh không phải đăng ký kinh doanh

– Các giấy tờ này phải còn thời hạn hiệu lực.

2.2.2.2. Quyền và nghĩa vụ của các chủ thể tham gia HĐTD

Quyền và nghĩa vụ của Bên vay; Quyền và nghĩa vụ của Ngân hàng; Các quyền và nghĩa vụ khác theo quy định tại HĐTD

Việc xem xét năng lực chủ thể của các bên trong hợp đồng tín dụng ngân hàng mà đặc biệt là năng lực pháp luật và thẩm quyền của đại diện khi ký kết hợp đồng là cần thiết.

2.2.3. Tình hình cho cá nhân vay phục vụ kinh doanh tại Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam- Chi nhánh Quảng Nam

Trong 3 năm qua, Chi nhánh chú trọng phát triển mạnh hoạt động tín dụng bán lẻ nên tín dụng bán lẻ tăng trưởng bình quân cao, tăng trưởng bình quân 3 năm đạt 111%. Dư nợ bán lẻ đến 31/10/2017 đạt 1.344,64 tỷ đồng chiếm 30,5% tổng dư nợ tại Chi nhánh (4.408 tỷ đồng).

Trong tổng dư nợ cho vay bán lẻ, cho vay tư nhân cá thể phục vụ hoạt động sản xuất kinh doanh chiếm tỷ trọng lớn và tăng trưởng bình quân 3 năm đạt cao 118%. Tính đến 31/10/2017 dư nợ cho vay sản xuất kinh doanh cá nhân đạt 868 tỷ đồng chiếm 64.556% tổng dư nợ bán lẻ và chiếm 19.69% tổng dư nợ tại BIDV Quảng Nam. Tỷ trọng dư nợ cho vay SXKD tư nhân, cá thể trên tổng dư nợ bán lẻ cũng như dư nợ tăng dần từ năm 2016( năm 2016: 56.17%, tháng 10/2017: 64,55%).

Về số lượng khách hàng vay vốn tại Chi nhánh: Tổng số khách hàng đang có quan hệ tín dụng tại BIDV Quảng Nam: 3.648 KH. Trong đó: Khách hàng là TCKT: 186 KH; Khách hàng bán lẻ: 3.462 KH. Trong đó: Khách hàng cá nhân vay phục vụ nhu cầu đời sống: 2.635 KH; Khách hàng cá nhân vay kinh doanh: 827 KH

Trong tổng số khách hàng cá nhân vay vốn là 3.462 KH, thì KH cá nhân vay kinh doanh chỉ chiểm 24% nhưng dư nợ chiếm 64.55% tổng dư nợ bán lẻ tại BIDV Quảng Nam.

Hợp đồng tín dụng cho cá nhân vay phục vụ hoạt động kinh doanh theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam-Chi nhánh Quảng Nam
Hợp đồng tín dụng cho cá nhân vay phục vụ hoạt động kinh doanh theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam-Chi nhánh Quảng Nam

2.2.4. Bộ mẫu Hợp đồng đang áp dụng

Bộ mẫu của hợp đồng về nguyên tắc không có giá trị pháp luật. Tuy nhiên, các nội dung trong bộ mẫu được ban hành trên cơ sở quy định của pháp luật nên khi các bên thực hiện cam kết theo mẫu thì có giá trị pháp lý ràng buộc về quyền và nghĩa vụ các bên và sẽ là căn cứ để giải quyết tranh chấp.

Hiện nay đối với khách hàng cá nhân vay kinh doanh thì BIDV Quảng Nam chủ yếu áp dụng 02 phương thức cho vay là vay theo món và vay theo hạn mức

2.2.4.1. Mẫu Hợp đồng tín dụng hạn mức: Cho vay theo hạn mức là phương thức cho vay theo đó BIDV xác định và thỏa thuận với khách hàng một mức dư nợ cho vay tối đa được duy trì trong một khoảng thời gian nhất định. Trong hạn mức cho vay, BIDV thực hiện cho vay từng lần. Đính kèm theo Hợp đồng là phụ lục về Điều khoản và điều kiện cấp tín dụng gồm các nội dung. Đi liền với Hợp đồng tín dụng hạn mức là các Hợp đồng tín dụng cụ thể, là một bộ phận không thể tách rời Hợp đồng tín dụng hạn mức, tại đó nêu cụ thể các nội dụng của khoản vay từng lần như: số tiền vay, mục đích giải ngân, thời hạn vay, ngày vay, ngày đến hạn, lãi suất, phí…

2.2.4.2. Mẫu Hợp đồng tín dụng theo món: Là phương thức cho vay mà theo đó mỗi lần cho vay, BIDV và khách hàng thực hiện thủ tục cho vay và ký kết thỏa thuận cho vay. Đính kèm theo Hợp đồng là phụ lục về Điều khoản và điều kiện cấp tín dụng.

2.2.5. Nội dung của hợp đồng tín dụng: bao gồm Hạn mức tín dụng/số tiền vay; Mục đích vay; Thời hạn vay; Lãi suất, phí, phạt vi phạm; Rút vốn vay ; Lịch trả nợ gốc/lãi; Biện pháp bảo đảm; Tính thống nhất với Điều khoản và điều kiện; Luật áp dụng, giải quyết tranh chấp;Hiệu lực Hợp đồng; Điều khoản và điều kiện

2.3. Những bất cập trong thực tiễn áp dụng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về hợp đồng tín dụng cho cá nhân vay phục vụ hoạt động kinh doanh

2.3.1. Một số bất cập trong thực tiễn áp dụng pháp luật về hợp đồng tín dụng cho cá nhân vay phục vụ hoạt động kinh doanh

Về mục đích vay vốn: Đối với khách hàng cá nhân việc kiểm tra mục đích sử dụng vốn vay và kiểm soát năng lực tài chính, dòng tiền của khách hàng này rất khó khăn. Về mặt pháp luật chỉ quy định khách hàng có đăng ký kinh doanh, kiểm tra thực tế có kinh doanh, quy mô, khi giải ngân người vay cung cấp đủ chứng từ chứng minh mục đích sử dụng vốn vay phù hợp …còn lại TCTD không thể kiểm soát được hiệu quả, dòng tiền của khách hàng. Hồ sơ, chứng từ giải ngân đối với khách hàng này hết sức đơn giản, sơ sài, không yêu cầu phải có xuất hóa đơn… nên rủi ro về mặt thanh toán cũng rất cao.

Về quy định tính lãi: Thông tư 39/2016-TT NHNN ngày 30/12/2016 tại Điều 13 quy định số ngày trong năm làm cơ sở tính lãi là 365 ngày, lãi được tính từ ngày sau ngày giải ngân và đến hết ngày trả nợ. Nhưng hiện tại vẫn tính lãi trên cơ sở 1 năm 360 ngày, lãi tính từ ngày giải ngân đến hết ngày trước ngày trả nợ. Việc này các TCTD phải đề nghị nhà thầu chỉnh sửa lại phần mềm quản lý (tốn chi phí) trong khi chưa có quy định thay đổi về số ngày cơ sở tính lãi của tính lãi cho việc huy động vốn, tính phí bảo lãnh của dịch vụ bảo lãnh… Điều này gây thiệt hại không ít cho các TCTD.

Về lãi suất vay, phí: Quy định về lãi suất cho vay ngắn hạn bằng đồng Việt Nam không vượt quá mức lãi suất cho vay tối đa do Thống đốc NHNN Việt Nam quyết định trong từng thời kỳ nhằm đáp ứng một số nhu cầu vốn cho các đối tượng ưu tiên. Điều khoản trên không đề cập thêm về quyền lợi của tổ chức tín dụng sẽ được hưởng khi phải cho vay trong giới hạn trần lãi suất thường là thấp hơn thị trường, gây thiệt hại cho tổ chức tín dụng. Thực tế hiện nay lãi suất áp dụng cho các đối tượng ưu tiên trên tối đa là 6,0%/năm, trong khi đó thì lãi suất huy động vốn của các TCTD cho kỳ hạn 12 tháng thấp nhất đã là 7%/năm. Trong điều kiện này, tổ chức tín dụng có thể chủ động giảm thiểu cho vay trong những lĩnh vực này, tức sẽ đi ngược với chủ trương và mong muốn của NHNN.

Về lãi suất đối với tiền lãi trả chậm: Quy định trường hợp khách hàng không trả đúng hạn tiền lãi theo quy định thì phải trả lãi chậm trả theo mức lãi suất do tổ chức tín dụng và khách hàng thỏa thuận nhưng không vượt quá 10%/năm tính trên số dư lãi chậm trả. Thực tế, với nhiều khoản vay thì lãi chậm trả không vượt quá 10%/năm tính trên số dư lãi chậm trả là quá thấp, thấp hơn cả lãi suất cho vay thông thường trong một số khoản vay, và điều này sẽ khuyến khích người vay trì hoãn trả nợ và lãi đúng hạn. Đồng thời, việc quy định thứ tự ưu tiên thanh toán khi xử lý khoản vay quá hạn là trả nợ gốc trước sau đó mới trả nợ lãi và các loại phí phát sinh sẽ khiến cho một số khách hàng chây ỳ trong việc trả nợ, khi phải xử lý khoản nợ thì sẽ tiến hành thu gốc, còn lãi sẽ ỷ lại trông chờ các TCTD miễn giảm lãi, phí để cải thiện chất lượng tín dụng, lúc đó người vay sẽ được hưởng lợi.

Về xử lý tài sản đảm bảo: Trường hợp TCTD tự xử lý tài sản đảm bảo thì hiện rất thiếu các quy định cần thiết nhằm hỗ trợ và thúc đẩy bên nhận bảo đảm thực thi quyền thu giữ tài sản bảo đảm để xử lý; Hoạt động xử lý tài sản bảo đảm chưa nhận được sự hỗ trợ cần thiết và đầy đủ từ các quy định của pháp luật khác có liên quan (pháp luật về tố tụng, hành chính, định giá tài sản bảo đảm, bán đấu giá tài sản…); Cơ chế, thủ tục xử lý tài sản bảo đảm còn rườm rà, phức tạp và phụ thuộc quá nhiều vào ý chí của bên bảo đảm…

Trường hợp xử lý tài sản đảm bảo thông qua con đường tố tụng thì quy trình tố tụng kéo dài, tòa án từ chối thụ lý vụ án do bên bảo đảm vắng mặt khỏi nơi cư trú, cố tình bỏ trốn, cố tính giấu địa chỉ… Một số vụ việc Tòa án không thừa nhận giá trị chứng cứ, không thừa nhận giá trị pháp lý của các hợp đồng, thỏa thuận, tài liệu đã được công chứng, chứng thực; Tuyên hủy các hợp đồng thế chấp đã được công chứng, chứng thực hợp pháp, tài sản thế chấp đã được cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu, quyền sử dụng vì lý do bên thế chấp chưa thanh toán đầy đủ cho bên bán tài sản hoặc chủ tài sản đảm bảo là hộ gia đình.

Các khó khăn này không chỉ xảy ra cho khách hàng khi thực hiện thế chấp tài sản để vay vốn tổ chức tín dụng mà còn gây khó khăn cho chính các tổ chức tín dụng ngay trong quá trình thẩm định và phê duyệt các khoản vay có bảo đảm. Và rủi ro nhiều nhất trong xử lý TSĐB cũng như sự vụ khó giải quyết nhất vẫn là các trường hợp đảm bảo bằng tài sản của bên thứ ba.

Điều này làm cho tỉ lệ nợ quá hạn của các tổ chức tín dụng ngày càng cao. Gây ảnh hưởng nghiêm trọng tới công tác xử lý nợ của TCTD như thời gian xử lý tài sản đảm bảo của TCTD bị kéo dài, Tài sản bị hư hỏng, giảm sút giá trị, gây thiệt hại cho TCTD, các giao dịch hợp pháp bị vô hiệu hóa bởi những giao dịch không hợp pháp.

Về mẫu biểu Hợp đồng soạn sẵn: các TCTD đã thực hiện niêm yết tại Sở Công thương, trước khi ký thì KH vay đã thống nhất các nội dung… tuy nhiên thực tế không mấy khách hàng đọc kỹ các điều khoản và điều kiện của Hợp đồng mà vẫn ký cho xong việc. Hầu hết khách hàng không ý thức được rằng mình đang tham gia giao kết một hợp đồng với ngân hàng để sử dụng dịch vụ của họ. Chính vì thế người vay – một cách chủ quan – đã đặt bút ký, đồng ý với các điều khoản quy định của ngân hàng đưa ra. Và đương nhiên các điều kiện, điều khoản bao giờ cũng bảo vệ tối đa lợi ích của các TCTD.

Tuy nhiên, thực thi quy định về đăng ký hợp đồng mẫu, các tổ chức cho vay sẽ chịu rất nhiều ảnh hưởng tiêu cực. Bởi việc đăng ký hợp đồng mẫu là điều kiện bắt buộc, hợp đồng chỉ được áp dụng khi việc đăng ký được hoàn thành. Như vậy, ngân hàng sẽ phải chờ đợi một thời gian khá lâu (20 ngày làm việc) mới có thể nhận được quyết định chấp thuận hay không chấp thuận mẫu hợp đồng từ cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Các tổ chức cho vay sẽ gánh chịu rủi ro lớn trước những trục trặc pháp lý từ nghĩa vụ đăng ký mẫu hợp đồng. Chỉ cần mẫu hợp đồng giao dịch, điều kiện giao dịch chung chưa đăng ký, ngân hàng sẽ lĩnh hậu quả vì giao dịch có thể bị tuyên vô hiệu. Một khi các giao dịch vô hiệu, phần thiệt luôn thuộc về phía đơn vị cho vay vì khó mà thu hồi về phần lãi, phí. Trong khi, lãi và phí lại là mục đích tồn tại hoạt động trong kinh doanh của các tổ chức tín dụng. Việc vay vốn cá nhân được thể hiện ở rất nhiều các loại sản phẩm tín dụng khác nhau. Trong đó, mỗi loại sản phẩm tín dụng này có một đặc thù riêng. Vì vậy, việc đăng ký Điều kiện giao dịch chung đối với loại địch vụ này là không phù hợp.

Về các điều khoản trong hợp đồng: khách hàng vay là cá nhân thường không chú ý, thậm chí không đọc hoặc đọc không kỹ các điều kiện ràng buột. Chủ yếu chỉ quan tâm và xem qua số tiền vay bao nhiêu, lãi suất. Nên khi phát sinh các vấn đề tranh chấp hợp đồng hoặc xử lý khoản vay thì không hợp tác, chống đối, chây ỳ…gây khó khăn rất nhiều cho các TCTD trong việc xử lý khoản vay.

2.3.2. Một số kiến nghị về hoàn thiện pháp luật về hợp đồng tín dụng cho cá nhân vay phục vụ hoạt động kinh doanh

a) Đối với việc kiểm soát mục đích sử dụng vốn:

Cần có quy định cụ thể, chặt chẽ về thủ tục, trình tự và hồ sơ giải ngân đối với đối tượng cá nhân vay vốn phục vụ kinh doanh.

Có chính sách hạn chế việc sử dụng tiền mặt, phát triển ngân hàng điện tử thanh toán qua chuyển khoản, yêu cầu cá nhân mua hàng cũng phải xuất và quản lý hóa đơn rỏ ràng.

Giám sát chặt chẽ việc cho vay, sử dụng vốn của các cá nhân vay vốn phục vụ hoạt động kinh doanh. Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn vay, bảo đảm trả nợ đầy đủ, đúng hạn; kiên quyết không sử dụng vốn vay cho các mục đích khác và đặc biệt là đầu tư vào bất động sản, lấy vốn ngắn hạn đầu tư trung dài hạn hoặc những mục đích không rõ ràng.

Khi giải ngân phải giám sát dòng tiền đi của khách hàng, thanh toán cho ai? thanh toán cho cái gì? Trước và sau khi thanh toán thì có nhập hàng như nội dung thanh toán không?

Thường xuyên kiểm tra tình hình kinh doanh của khách hàng, đối chiếu công nợ phải thu phải trả, lượng hàng tồn kho để kiểm soát khách hàng có mất cân đối về thanh khoản không? Khi kiểm tra phải lập biên bản kiểm tra.

b) Đối với quy định tính lãi, phí:

NHNN vừa ban hành Thông tư số 14/2017/TT-NHNN quy định về phương pháp tính lãi trong hoạt động nhận tiền gửi, cấp tín dụng giữa TCTD với khách hàng. Thông tư chính thức có hiệu lực từ 1/1/2018, trong đó quy định cụ thể về phương pháp tính lãi phát sinh trong hoạt động nhận tiền gửi, cấp tín dụng giữa TCTD với khách hàng. Cụ thể, lãi suất tính lãi sẽ được quy đổi theo lãi suất năm, một năm là 365 ngày. Điều này cũng phù hợp với quy định về ngày tính lãi của BLDS 2015.

Trên thực tế, hoạt động thu, trả lãi từ hoạt động cấp tín dụng và nhận tiền gửi tại các TCTD đang thực hiện không thống nhất, có TCTD thực hiện tính, thu/trả lãi trên số ngày thực tế theo lịch (365 ngày hoặc 366 ngày), nhưng khi quy đổi lãi năm thỏa thuận trên hợp đồng về lãi suất ngày thì tính trên số ngày quy ước là 360 ngày dẫn đến tình trạng vướng mắc khó giải quyết thậm chí dẫn đến khiếu nại kéo dài giữa khách hàng và TCTD về việc áp dụng số ngày trong một năm để tính, thu/trả lãi. Đó chính là lý do NHNN ban hành Thông tư 14 để thống nhất cách tính lãi. Nhưng phải có lộ trình để các TCTD có thời gian để điều chỉnh phần mềm quản lý về cách tính lãi chứ không thể thực hiện tính thủ công từng khoản vay cho từng khách hàng. Vì đa số các phần mềm tính lãi khoản vay của các TCTD đều do các nhà thầu nước ngoài viết, nên cần phải có thời gian để đề nghị điều chỉnh phù hợp.

Khi ban hành quy định cần có sự đồng nhất trong tất cả các lĩnh vực, ví dụ như đối với tính lãi huy động vốn, cơ sở tính phí đối với bảo lãnh, LC, phái sinh…

c) Đối với quy định về lãi suất ưu đãi cho đối tượng ưu tiên: Trên cơ sở chỉ đạo của Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước sẽ ban hành Chỉ thị số 01 triển khai nhiệm vụ hoạt động ngành ngân hàng năm 2018 trong đó giảm lãi suất cho vay là một nội dung trọng tâm của 2018, đặc biệt là các lĩnh vực ưu tiên. Tuy nhiên để đạt được mục tiêu mà không ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của các TCTD thì Ngân hàng Nhà nước cũng xem xét giảm cả lãi suất cho vay trên thị trường mở (OMO) để hỗ trợ các tổ chức tín dụng có điều kiện để giảm lãi suất cho vay.

d) Đối với quy định về tính lãi đối với phần lãi trả chậm: Có thể thấy, hợp đồng vay tài sản nói chung, hợp đồng tín dụng nói riêng là một loại giao dịch dân sự. Do đó, việc điều chỉnh quan hệ này phải bảo đảm các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự, quy định về điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự và các nguyên tắc về giới hạn thực hiện quyền dân sự được quy định trong BLDS. Quy định về lãi suất trong hợp đồng vay tài sản là một trong những điển hình của việc cụ thể hóa nguyên tắc giới hạn thực hiện quyền dân sự, theo đó các bên trong hợp đồng vay có thỏa thuận về lãi suất nhưng không được vượt quá mức lãi suất giới hạn luật định. Cho nên việc quy định không vượt quá 10%/năm tính trên số dư lãi chậm trả là không phù hợp mà nên để TCTD và khách hàng thỏa thuận trong Hợp đồng, có thể bằng lãi suất vay trong một khoảng thời gian và sau đó nếu khách hàng không thanh toán sẽ áp dụng lãi suất phạt như đối với nợ gốc quá hạn nhưng không quá 150% lãi suất trong hạn.

e) Đối với các quy định về xử lý tài sản đảm bảo:

Xử lý được tài sản bảo đảm giúp TCTD xử lý được nợ xấu, giảm tỷ lệ nợ xấu về mức an toàn theo chuẩn quốc tế và quy định của ngân hàng Nhà nước. Còn đối với người đi vay, tài sản bảo đảm được xử lý tốt không những giúp cho người đi vay cải thiện tình hình nợ vay với TCTD, dứt điểm cởi bỏ gánh nặng nợ xấu đeo đẳng, sớm có cơ hội phục hồi hoặc tạo ra cơ hội kinh doanh mới mà còn có thể thu hồi được một phần giá trị tài sản bảo đảm sau khi đã được xử lý tốt. Vì vậy để việc xử lý tài sản đảm bảo nợ vay một cách triệt để thì:

Tòa án Nhân dân Tối cao cần có hướng dẫn thi hành trong toàn ngành về các vướng mắc trong quá trình các TCTD thực hiện quyền xử lý tài sản bảo đảm

Nghị định về giao dịch bảo đảm phải được điều chỉnh theo hướng tiếp cận và xử lý một cách tối đa các vấn đề về tài sản bảo đảm. Theo đó, bên nhận thế chấp đã đăng ký giao dịch bảo đảm theo quy định của pháp luật thì có quyền tuyệt đối, trực tiếp và ngay tức khắc đối với tài sản bảo đảm.

Việc xử lý hiệu quả tài sản đảm bảo đòi hỏi phải có hệ thống pháp luật được xây dựng một cách đồng bộ, minh bạch, phù hợp, tôn trọng quyền chủ nợ hợp pháp của bên cho vay và tạo lập được khuôn khổ pháp lý cho các bên liên quan. Cần thiết lập một cơ chế để các quyền về tài sản đảm bảo không chỉ tồn tại trên giấy mà phải được thực thi trên thực tế, được các bên tôn trọng và nếu không tôn trọng thì cái giá phải trả sẽ đắt hơn rất nhiều, buộc họ phải cân nhắc. Cụ thể đó là các biện pháp chế tài thực thi công bằng, rỏ ràng…

f) Đối với quy định mẫu biểu Hợp đồng soạn sẵn: Trong lĩnh vực ngân hàng thì việc vay vốn cá nhân được thể hiện ở rất nhiều các loại sản phẩm tín dụng khác nhau. Do đó, mỗi loại sản phẩm tín dụng này có một đặc thù riêng. Vì vậy, việc đăng ký Điều kiện giao dịch chung đối với loại địch vụ này là không phù hợp. Vì vậy đề nghị không nên đưa cho vay cá nhân vào Danh mục hàng hóa dịch vụ thiết yếu phải đăng ký hợp đồng theo mẫu, điều kiện giao dịch chung.

Kết luận Chương 2

Việc ký kết, thực hiện HĐTD cho cá nhân vay vốn phục vụ hoạt động kinh doanh theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn BIDV-Chi nhánh Quảng Nam phát sinh một số bất cập cả về quy định của pháp luật và cả trong thực thi pháp luật. Điều đó đòi hỏi cần có nghiên cứu, đánh giá để tìm giải pháp khắc phục.

Một số quy định của pháp luật có liên quan đến HĐTD cho cá nhân vay vốn phục vụ hoạt động kinh doanh còn thiếu đồng bộ hoặc chưa cụ thể để dễ hiểu, dễ thực hiện, đặc biệt là đối với bên vay. Do đó, cần tiến hành nghiên cứu, đánh giá tổng thể kết hợp với đối chứng ở các địa phương trong phạm vi cả nước để có giải pháp khắc phục.

  1. KẾT LUẬN

1. Hợp đồng tín dụng ngân hàng nói chung hay HDTDCNKD nói riêng là một chế định phức tạp trong khoa học pháp lý, nó vừa hội đủ những điểm chung nhất của một hợp đồng nói chung vừa mang những đặc thù riêng biệt trong lĩnh vực hoạt động kinh doanh tiền tệ; vừa có thể là một hợp đồng kinh tế vừa có thể là hợp đồng dân sự và chịu sự điều chỉnh các quy định pháp luật rải rác trong các lĩnh vực kinh tế dân sự, tài chính ngân hàng.

2. Hợp đồng tín dụng cá nhân vay phục vụ hoạt động kinh doanh là một dạng của hợp đồng kinh doanh thương mại. Tuy nhiên, để kiểm soát hành vi sử dụng vốn của bên vay trong quá trình sử dụng vốn vay là rất phức tạp, tổ chức tín dụng nếu không có biện pháp kiểm tra có hiệu quả thì mục đích vay vốn ghi trên hợp đồng chỉ là hình thức, việc sử dụng vốn vay sai mục đích có thể gây ra rủi ro cho tổ chức tín dụng trong kinh doanh. Trong quá trình công tác tại BIDV, tôi đã thu được những kiến thức thực tế bổ ích về hoạt động của ngân hàng, trong đó tôi đặc biệt quan tâm tìm hiểu về vấn đề pháp lý cũng như thực tiễn ký kết và thực hiện HĐTDCNKD hiện đang áp dụng tại Ngân hàng cũng như tham gia, chỉnh sửa và bổ sung các mẫu biểu tín dụng để đảm bảo phù hợp với quy định của Ngân hàng, đồng thời tuân thủ các quy định của NHNN có liên quan.

Luận văn này đưa ra một số giải pháp, kiến nghị nhằm đóng góp một phần nhỏ vào lợi ích chung của ngành Ngân hàng, đảm bảo hạn chế tối đa các rủi ro trong hoạt động của Ngân hàng, đặc biệt là hạn chế các rủi ro tranh chấp về mặt pháp lý của HĐTD giữa Ngân hàng và khách hàng cá nhân vay vốn phục vụ hoạt động kinh doanh. Vì vậy, trên đây chỉ là những tìm hiểu có tính chất khái quát nhằm mục đích hoàn thiện những kiến thức về pháp luật trong lĩnh vực hoạt động ngân hàng, cụ thể là pháp luật về HĐTDCNKD, qua đó bổ sung thêm kiến thức cho thực tiễn công việc của bản thân.

3. Vấn đề cấp thiết hiện nay là cần có một quy định, một chế độ pháp lý thống nhất cho HĐTDCNKD hay HĐTDCNKD cần phải được quy định rõ trong pháp luật về tín dụng và ngân hàng ở Việt Nam để bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của các chủ thể tham gia hợp đồng, đặc biệt là người đi vay. Đây chính là tiền đề tạo sự ổn định, lành mạnh cho hoạt động của hệ thống ngân hàng, tạo thuận lợi cho cá nhân kinh doanh tiếp cận được với vốn tín dụng ngân hàng, góp phần hạn chế các rủi ro trong hoạt động của các TCTD.

Từ những phân tích, đánh giá trên, bên cạnh những mặt tích cực trong pháp luật điều chỉnh về HĐTDCNKD, thì vẫn còn tồn tại những hạn chế. Vấn đề đặt ra là cần phải hoàn thiện hơn hệ thống pháp luật để đảm bảo an toàn cho hệ thống các tổ chức tín dụng và đảm bảo quyền lợi và lợi ích chính đáng giữa các bên tham gia và nói rộng ra là sự an toàn cho hệ thống tài chính nước nhà.

LIỆN HỆ:

SĐT+ZALO: 0935568275

E:\DỮ LIỆU COP CỦA CHỊ YẾN\LUAN VAN VIEN HAN LAM\VIEN HAN LAM DOT 7\KINH TE\NGUYEN QUOC HIEN

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *