Các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn tỉnh Quảng Trị

Các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn tỉnh Quảng Trị

Các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn tỉnh Quảng Trị: Tình hình, nguyên nhân và giải pháp phòng ngừa

  1. Tính cấp thiết của đề tài

Quảng Trị là một tỉnh ven biển thuộc vùng Bắc Trung Bộ Việt Nam, phía Bắc giáp huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình; phía Nam giáp huyện Phong Điền và A Lưới, tỉnh Thừa Thiên Huế; phía Đông giáp biển Đông, phía Tây giáp tỉnh Savanakhet và Salavan, nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào. Diện tích tự nhiên của tỉnh là 4.747 km2, dân số là 601.672 người. Tỉnh Quảng Trị có 10 đơn vị hành chính gồm: thành phố Đông Hà, thị xã Quảng Trị, huyện Cam Lộ, huyện Đakrông, huyện Hướng Hóa, huyện Gio Linh, huyện Vĩnh Linh, huyện Triệu Phong, huyện Hải Lăng và huyện đảo Cồn Cỏ. Quảng Trị có lợi thế về vị trí địa lý-kinh tế, là đầu mối giao thông, ở vị trí quan trọng-điểm đầu trên tuyến đường huyết mạch chính của hành lang kinh tế Đông-Tây nối với Lào-Thái Lan-Mianma qua cửa khẩu quốc tế Lao Bảo đến các cảng biển miền Trung như Cửa Việt, Chân Mây, Đà Nẵng, Vũng Áng… Với vị trí như vậy đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc giao lưu giữa Việt Nam và thế giới đặc biệt là giao lưu với các nước trong khu vực Đông Nam Á, giao lưu giữa tỉnh Quảng Trị với các địa phương khác trong cả nước, cho phép tỉnh Quảng Trị hội tụ nhiều tiềm năng để phát triển các ngành kinh tế như khai thác cảng biển và vận tải biển, phát triển du lịch, nghỉ dưỡng, phát triển các khu, cụm công nghiệp, khu kinh tế. Tuy nhiên, vị trí này cũng là nơi thu hút các loại tội phạm đến hoạt động, là địa bàn thuận lợi của các loại tệ nạn xã hội. Đặc điểm này có ảnh hưởng nhất định đến THTP nói chung, tình hình các tội XPTD nói riêng trên địa bàn tỉnh Quảng Trị.

Nhằm thực hiện công tác phòng chống tội phạm nói chung, đặc biệt là các tội XPTD nói riêng, những năm vừa qua, cùng với cả nước, chính quyền và nhân dân tỉnh Quảng Trị đã triển khai đồng bộ, có hiệu quả Chương trình quốc gia phòng chống tội phạm (CT138), quyết định 282 của Thủ tướng Chính phủ năm 2011, Nghị quyết 37 của Quốc hội, Chỉ thị 48 CT/TW ngày 22/10/2010 của Bộ chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng chống tội phạm trong tình hình mới. Đồng thời, lồng ghép các mục tiêu về bảo vệ trẻ em (trong đó có mục tiêu về xâm phạm trẻ em) vào Nghị quyết của Hội đồng nhân dân về kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội hàng năm của địa phương. Ngoài ra, tỉnh Quảng Trị còn ban hành nhiều văn bản nhằm thực hiện các quy định của pháp luật hỗ trợ cho trẻ em bị XPTD như ban hành kế hoạch nhằm triển khai thực hiện Thông tư số 23/2010/TT-BLĐTBXH về quy định, quy trình can thiệp, trợ giúp trẻ em bị bạo lực, bị XPTD, Quyết định 1607/QĐ-UBND của Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Trị về việc ban hành kế hoạch trợ giúp pháp lý cho trẻ em trên địa bàn tỉnh Quảng Trị giai đoạn 2011-2015, Kế hoạch số 135/KH-UBND ngày 07 tháng 04 năm 2010 về triển khai thực hiện Chỉ thị số 1408/CT-TTg về tăng cường công tác chăm sóc, bảo vệ trẻ em, thành lập Trung tâm trợ giúp pháp lý nhằm hỗ trợ cho trẻ em bị xâm phạm…

Mặc dù Đảng và chính quyền từ Trung ương đến địa phương đã quan tâm và rất mong muốn, rất cố gắng đấu tranh và phòng ngừa tội phạm nói chung và các tội XPTDTE nói riêng, song tội phạm xảy ra nghiêm trọng, khó kiểm soát. Trước những tác động hết sức sâu sắc, mạnh mẽ của mặt trái nền kinh tế thị trường cũng như những bất cập, thiếu sót trong công tác bảo vệ trẻ em mà trong thời gian gần đây tình trạng XPTDTE tại địa bàn tỉnh Quảng Trị đang là vấn đề đáng báo động. Đáng chú ý là từ năm 2010 đến năm 2014, các vụ án XPTDTE chiếm đa số trong các vụ án XPTD nói chung. Các hành vi XPTD không chỉ xâm hại đến sự phát triển về mặt thể chất và tinh thần của trẻ em mà còn ảnh hưởng đến tương lai của các em cũng như tương lai của một dân tộc, một đất nước, ảnh hưởng xấu đến trật tự và an toàn xã hội, gây tâm lý hoang mang, lo lắng cho một bộ phận dân cư trên địa bàn tỉnh.

Chính vì thế, đấu tranh với tình hình các tội XPTDTE một cách có hiệu quả luôn luôn là yêu cầu của Đảng và là mong đợi của mọi người dân. Yêu cầu thực tế này không chỉ được giải quyết ở mức độ kinh nghiệm chủ nghĩa mà phải được giải quyết căn bản, phải bằng con đường nghiên cứu trên cơ sở của khoa học chuyên ngành, tức là trên cơ sở chỉ dẫn của tội phạm học.

Với cách nhìn nhận như vậy và đặc biệt là, để góp phần thực hiện thiết thực và có hiệu quả mục tiêu của Đảng và chính quyền tỉnh Quảng Trị đã đề ra trong kế hoạch đấu tranh với tình hình tội phạm nói chung và tình hình các tội XPTDTE nói riêng, đề tài “Các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn tỉnh Quảng Trị: Tình hình, nguyên nhân và giải pháp phòng ngừa” đã được lựa chọn để nghiên cứu.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài

3.1. Mục đích nghiên cứu: Phòng ngừa các tội XPTDTE trên địa bàn tỉnh Quảng Trị. Trên cơ sở nghiên cứu tình hình, nguyên nhân và điều kiện của các tội XPTDTE, Luận văn đề ra các giải pháp nhằm góp phần nâng cao hiệu quả công tác phòng ngừa, đấu tranh với loại tội này trên địa bàn tỉnh Quảng Trị.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu: Các nhiệm vụ nghiên cứu sau đây cần phải được thực hiện về mục đích của đề tài luận văn:

Một là, nghiên cứu lý luận và pháp luật. Nhiệm vụ này bao gồm những hoạt động cụ thể như: Tìm, thu thập và nghiên cứu những tài liệu về tội phạm học, về pháp luật hình sự và những tài liệu khác liên quan đến đề tài luận văn làm cơ sở cho việc nhận thức thống nhất, rõ ràng phương pháp luận nghiên cứu và sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể cho phù hợp.

Hai là, nghiên cứu thực tế, bao gồm ba hoạt động sau:

– Tìm, thu thập, xử lý, phân tích, so sánh những số liệu thống kê thường xuyên của một số cơ quan tư pháp, đặc biệt là số liệu thống kê xét xử sơ thẩm hình sự từ năm 2010 đến năm 2014 của Toà án nhân dân tỉnh Quảng Trị về các tội XPTDTE…Tìm, thu thập các bản án xét xử sơ thẩm hình sự về tội XPTDTE trên địa bàn tỉnh Quảng Trị trong khoảng thời gian từ năm 2010 đến năm 2014 và xử lý, phân tích, so sánh theo các tiêu thức Tội phạm học cần thiết.Tìm, thu thập và nghiên cứu các báo cáo tổng kết năm của cơ quan Công an, Viện kiểm sát nhân dân và Toà án nhân dân tỉnh Quảng Trị.

Ba là, nghiên cứu sáng tạo, bao gồm các việc cụ thể sau:

-Làm rõ tình hình các tội XPTDTE trên địa bàn tỉnh Quảng Trị trong 05 năm, từ năm 2010 đến năm 2014.Xác định các yếu thuộc về NN & ĐK của tình hình các tội XPTDTE trên địa bàn tỉnh Quảng Trị.Đánh giá kết quả các biện pháp phòng ngừa tội phạm nói chung và các tội XPTDTE nói riêng đã và đang được áp dụng trên địa bàn nghiên cứu.Thiết lập hệ thống các biện pháp phòng ngừa các tội XPTDTE trong thời gian tới trên địa bàn tỉnh Quảng Trị.

4. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của đề tài đã nêu thể hiện ở việc làm rõ mối quan hệ phụ thuộc giữa tình hình các tội XPTDTE với các hiện tượng, quá trình kinh tế-xã hội khác, tức là làm rõ quy luật của sự phạm tội XPTDTE trên địa bàn tỉnh Quảng Trị.

4.2. Phạm vi nghiên cứu: Xét về mặt nội dung: đề tài của tác giả nghiên cứu trong phạm vi tội phạm học thuộc chuyên ngành tội phạm học và phòng ngừa tội phạm.Về cấp xét xử: Luận văn tập trung nghiên cứu cấp xét xử hình sự sơ thẩm.Về thời gian: đề tài sử dụng chất liệu nghiên cứu trong vòng 05 năm từ năm 2010 đến năm 2014, bao gồm số liệu thống kê xét xử sơ thẩm hình sự của Tòa án về các tội XPTDTE và 88 bản án hình sự sơ thẩm về các tội XPTDTE.Về không gian: đề tài Luận văn được thực hiện trên phạm vi tỉnh Quảng Trị.Về tội danh: đề tài chỉ nghiên cứu các tội XPTDTE theo quy định của Bộ luật hình sự hiện hành, bao gồm tội hiếp dâm trẻ em (điều 112); tội cưỡng dâm trẻ em (điều 114); tội giao cấu với trẻ em (điều 115); tội dâm ô đối với trẻ em (điều 116).

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu

5.1. Phương pháp luận:Chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh cũng như hệ thống các quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam và của Nhà nước ta đã cung cấp những quan điểm, tư tưởng xuất phát điểm để nhận thức và giải quyết vấn đề tội phạm trong xã hội bằng nhiều phương thức khác nhau, trong đó có phương thức phòng ngừa, tức là để phát triển chuyên ngành tội phạm học. Đề tài mà tác giả thực hiện thuộc phạm vi nghiên cứu của tội phạm học, do vậy nó không thể nằm ngoài phương pháp luận trên. Và nó được thể hiện cụ thể ở cách nhìn nhận về những vấn đề cơ bản của đề tài như: tình hình các tội XPTDTE; NN &ĐK của hiện tượng tiêu cực này và vấn đề phòng ngừa tội XPTDTE. Ngoài ra, nó còn thể hiện ở cách thức hay trình tự tiến hành nghiên cứu các vấn đề cơ bản đã nêu.

5.2. Phương pháp nghiên cứu:Luận văn sử dụng phép biện chứng của triết học Mác-xít vừa với tính cách là phương pháp luận, vừa với tính cách của một phương pháp nghiên cứu. Ngoài ra, Luận văn còn áp dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: phương pháp phân tích và tổng hợp; phương pháp quy nạp và diễn dịch; mô tả; so sánh; lịch sử; thống kê; hệ thống; nghiên cứu hồ sơ và các phương pháp chuyên biệt khác của tội phạm học.

6. Ý nghĩa của Luận văn

6.1. Ý nghĩa về mặt khoa học:Luận văn là công trình khoa học đầu tiên nghiên cứu các tội XPTDTE dưới góc độ tội phạm học trên địa bàn tỉnh Quảng Trị. Kết quả nghiên cứu của Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu học tập và nghiên cứu tội phạm học.

6.2. Ý nghĩa về mặt thực tiễn:Kết quả nghiên cứu của luận văn có giá trị như một tài liệu hướng dẫn thực tế cho hoạt động phòng ngừa tội phạm nói chung và phòng ngừa các tội XPTDTE trên địa bàn tỉnh Quảng Trị nói riêng.

7. Kết cấu của Luận văn:Ngoài phần mở đầu, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn có kết cấu ba chương. Cụ thể như sau:

Chương 1: Tình hình các tội XPTDTE trên địa bàn tỉnh Quảng Trị giai đoạn 2010-2014

Chương 2: NN & ĐK của tình hình các tội XPTDTE trên địa bàn tỉnh Quảng Trị

Chương 3: Dự báo tình hình các tội XPTDTE trên địa bàn tỉnh Quảng Trị và hoàn thiện hệ thống các biện pháp phòng ngừa

Chương 1

TÌNH HÌNH CÁC TỘI XÂM PHẠM TÌNH DỤC TRẺ EM TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG TRỊ GIAI ĐOẠN 2010-2014

1.1. Phần hiện của tình hình các tội XPTDTE

1.1.1. Mức độ của tình hình các tội XPTDTE

1.1.1.1. Mức độ tổng quan

Trong thời gian 05 năm, từ năm 2010 đến năm 2014, trên địa bàn tỉnh Quảng Trị có tổng cộng 88 vụ với 103 bị cáo được đưa ra xét xử, trung bình năm là 18 vụ với 20 bị cáo, tỉ lệ các tội XPTDTE ở tỉnh Quảng Trị, đó là 3,27% về số vụ và 3,02% về số bị cáo. Tỉ lệ này là khá cao. Cơ số các tội XPTDTE trên địa bàn tỉnh Quảng Trị giai đoạn 2010-2014trung bình là 03 người/100.000 dân (tính tròn số), nghĩa là trong 100.000 dân sống tại tỉnh Quảng Trị có 03 người phạm các tội XPTD đối với trẻ em trong thời gian một năm.

1.1.1.2.Mức độ hành vi: các tội hiếp dâm trẻ em chiếm tỉ lệ cao nhất với 78,86% trên tổng số vụ và chiếm 77,66% trên tổng số bị cáo. Tiếp theo là tội giao cấu với trẻ em chiếm tỉ lệ 23,86% trên tổng số vụ và chiếm 20,38% trên tổng số bị cáo, các tội cưỡng dâm trẻ em chiếm tỉ lệ hạn chế với 2,27% số vụ và 1,94% tổng số bị cáo. Tội danh dâm ô với trẻ em không được phát hiện, xét xử và không có trong thống kê.

1.1.2. Diễn biến của tình hình các tội XPTDTE

Tình hình các tội XPTDTE trên địa bàn tỉnh Quảng Trị thời gian qua có xu hướng tăng và tăng mạnh. Phương pháp định gốc theo giai đoạn 03 năm cho thấy, mức tăng đến 34,09% về số vụ và 24,07% về số bị cáo.

1.1.3. Cơ cấu của các tội XPTDTE

1.1.3.1. Cơ cấu theo đơn vị hành chính-lãnh thổ

Tỉnh Quảng Trị có 10 đơn vị hành chính cấp huyện, trong đó có 08 huyện, 01 thành phố, 01 thị xã.Xét theo diện tích và số dân của các đơn vị hành chính cấp huyện trong tỉnh Quảng Trịtại huyện Vĩnh Linh cấp độ nguy hiểm của các tội XPTDTE là cao nhất. Tiếp theo lần lượt là thành phố Đông Hà, huyện Triệu Phong, thị xã Quảng Trị, huyện Đakrông. Huyện Cam Lộ có cấp độ nguy hiểm thấp nhất; đặc biệt là huyện đảo Cồn Cỏ, cấp độ nguy hiểm của các tội XPTDTE không diễn ra.

1.1.3.2.Cơ cấu theo phương thức thực hiện tội phạm

Các bước thực hiện tội phạm: các vụ án XPTDTE trên địa bàn tỉnh Quảng Trị từ năm 2010 đến năm 2014 được thực hiện chủ yếu qua hai bước (62,5% số vụ và 61,2% số bị cáo).

Thời gian gây án: Thời gian mà thủ phạm gây án phổ biến nhất là khoảng thời gian từ 06 giờ đến 18 giờ (79%).

Địa điểm gây án: chủ yếu là những nơi hoang vắng, ít người qua lại để thực hiện hành vi phạm tội có 49 vụ (56%).

Đối tượng tác động và hậu quả do tội phạm gây ra: Đối tượng tác động của các tội XPTDTE là trẻ em dưới 16 tuổi. Trong 103 em bị XPTD trong thời gian từ năm 2010 đến năm 2014 cho thấy có 36 trẻ em (chiếm 35%) bị hiếp từ hai lần trở lên, một số em bị hiếp trong suốt một thời gian mới bị phát hiện. Trong số trẻ em bị hiếp thì số có thai là 10 em (chiếm 9,7%).

Đặc điểm về thủ đoạn gây án: chủ yếu làlợi dụng lòng tin để thực hiện hành vi phạm tội là 60 vụ, chiếm tỷ lệ 68%.

Cơ cấu theo hình phạt: số người phạm tội XPTDTE mà Tòa án áp dụng án treo là 10 vụ, chiếm tỉ lệ 11,36%, tù có thời hạn là 78 vụ, chiếm tỷ lệ khoảng 88,64%, trong đó tù dưới 07 năm là 18 vụ, chiếm tỉ lệ 20,46%; tù từ 07 năm đến 15 năm là 43 vụ, chiếm tỷ lệ 48,86%; tù từ 15 năm đến 20 năm là 16 vụ, chiếm tỷ lệ 18,18%, tù trên 20 năm chiếm là 01 vụ, chiếm tỉ lệ 1,14%

1.1.3.3. Cơ cấu theo đặc điểm nhân thân người phạm tội

Đặc điểm về độ tuổi: những người phạm tội chủ yếu ở độ tuổi từ 18 đến dưới 30 tuổi là 48 vụ, chiếm tỉ lệ 46,60%.

Đặc điểm về trình độ học vấn: có 24 đối tượng không biết chữ (chiếm 23%); trình độ tiểu học và trung học cơ sở là 52 đối tượng (chiếm 51%); trình độ phổ thông trung học là 25 đối tượng (chiếm 24%); trình độ đại học là 02 đối tượng (chiếm 02%), sau đại học: 0

Đặc điểm nghề nghiệp: đối tượng phạm không có nghề nghiệp là 20 bị cáo, chiếm tỉ lệ 19%, có nghề nghiệp nhưng không ổn định là 54 bị cáo, chiếm tỉ lệ 53%, nông dân là 21 bị cáo, chiếm tỉ lệ 21%, cán bộ công nhân viên là 04 bị cáo, chiếm tỉ lệ 04%, học sinh, sinh viên là 03 bị cáo, chiếm tỉ lệ 03% .

Đặc điểm tái phạm, tái phạm nguy hiểm: đối tượng chưa có tiền án, tiền sự phạm tội là 87 trường hợp, chiếm tỷ lệ 84%; số đối tượng có tiền án, tiền sự là 16 đối tượng, chiếm tỷ lệ 16%.

Đặc điểm về nơi cư trú: Trong các đối tượng phạm các tội XPTDTE thì số có hộ khẩu thường trú chiếm 84%; tạm trú, lưu trú (từ tỉnh thành khác đến cư ngụ) là 16%

Đặc điểm về hoàn cảnh gia đình: có28 người phạm tội không có cha mẹ (27,2%); 35 người phạm tội có gia đình khuyết thiếu (không có cha hoặc mẹ) (34%); có đầy đủ cha mẹ là 40 người (38,8%)

1.1.3.4. Cơ cấu theo đặc điểm của nạn nhân

Đặc điểm về độ tuổi: trẻ emtừ 13 đến 16 tuổi bị XPTD là 47 em, chiếm tỷ lệ trẻ em bị hại cao 46%

Đặc điểm về trình độ học vấn: trẻ em chưa đi học và không đi học bị xâm hại chiếm tỷ lệ cao (52%).

Đặc điểm về hoàn cảnh gia đình: Trẻ em có gia đình hòa thuận, có đầy đủ cả bố và mẹ và được gia đình quan tâm thì tỷ lệ bị xâm hại ít nhất (07%); trẻ em có gia đình không hòa thuận, trẻ em không được gia đình quan tâm, chăm sóc tỷ lệ bị xâm hại cao nhất (58%); trẻ em lang thang, đi làm thuê bị xâm hại là 35%

1.1.3.5. Đặc điểm liên quan đến mối quan hệ giữa nạn nhân và thủ phạm: giữa thủ phạm và nạn nhân có mối quan hệ quen biết trước khi xảy ra tội phạm chiếm tỷ lệ cao 90%, chỉ có 10% không quen biết, gây khó khăn rất lớn cho công tác đấu tranh, chống tội phạm cũng như việc phát hiện, tố giác tội phạm.

1.1.4. Tính chất của các tội XPTDTE trên địa bàn

Về mức độ và diễn biến:tình hình các tội XPTDTE đang diễn ra theo xu hướng tăng và tăng mạnh.Về cơ cấu: tội phạm thực hiện chủ yếu thông qua hai bước; địa điểm gây án chủ yếu là nơi hoang vắng chiếm tỉ lệ 56% số vụ. Số người không có việc làm hoặc có việc làm nhưng không ổn định phạm các tội XPTDTE chiếm tỉ lệ cao (72%). Những người phạm tội tại địa bàn thường có hoàn cảnh gia đình không có cả cha lẫn mẹ, có cha mẹ nhưng không nhận được sự quan tâm, dạy dỗ chu đáo từ phía gia đình hoặc cha mẹ đã ly hôn chiếm tỉ lệ cao 61,2%.Đối tượng xâm phạm chủ yếu của các hành vi XPTDTE chủ yếu là trẻ em gái dưới 16 tuổi. Tính chất nguy hiểm của các hành vi phạm tội XPTDTE trên địa bàn là đặc biệt nghiêm trọng.

1.2. Phần ẩn của các tội XPTDTE

Trong khoảng thời gian từ năm 2010 đến năm 2014, Công an tỉnh Quảng Trị đã đề nghị truy tố 74 vụ với 89 bị can; đình chỉ điều tra 02 vụ với 02 bị can và tạm đình chỉ 06 vụ với 07 bị can (trong đó có 04 vụ phải tạm đình chỉ vì không phát hiện được bị can). Viện kiểm sát đã truy tố 69 vụ với 82 bị can, đình chỉ 05 vụ, 07 bị can.Bảng thống kê này đã phản ánh số liệu tội phạm ẩn chưa được phát hiện là 04/08 vụ phải tạm đình chỉ điều tra vì không phát hiện được bị can. Điều này đã nói lên công tác đấu tranh phòng, chống các tội XPTDTE ở tỉnh Quảng Trị thời gian qua chưa thực sự hiệu quả.

Các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn tỉnh Quảng Trị: Tình hình, nguyên nhân và giải pháp phòng ngừa
Các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn tỉnh Quảng Trị: Tình hình, nguyên nhân và giải pháp phòng ngừa

Chương 2

NGUYÊN NHÂN VÀ ĐIỀU KIỆN CỦA TÌNH HÌNH

CÁC TỘI XÂM PHẠM TÌNH DỤC TRẺ EM

TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG TRỊ

2.1. Những NN & ĐK thuộc môi trường sống

2.1.1. Những NN & ĐK thuộc môi trường gia đình

Nhiều gia đình chưa nhận thức được trách nhiệm của mình trong công tác bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em, nhiều bậc cha mẹ còn thiếu kiến thức pháp luật cơ bản về quyền trẻ em, đặc biệt là quyền được bảo vệ của trẻ em, dẫn đến tình trạng bố mẹ sao nhãng, bỏ mặc con cái, có em phải bỏ nhà đi lang thang kiếm sống. Một số gia đình có hoàn cảnh kinh tế khó khăn hoặc bố mẹ ly hôn, ly thân, bố mẹ mắc các tệ nạn xã hội, vi phạm pháp luật cũng là một nguyên nhân quan trọng nảy sinh các hành vi bạo lực, xâm hại tình dục đối với trẻ em hiện nay. Các em gái hoặc các em có khiếm khuyết về thể chất, trí tuệ rất dễ trở thànhđối tượng bị xâm hại tình dục. Khi trẻ em bị XPTD, vì nhiều nguyên nhân khác nhau mà gia đình không tố cáo kẻ phạm tội.

2.1.2. Những NN & ĐK thuộc môi trường nhà trường

Sự giáo dục vẫn thiên lệch và chú trọng về giáo dục tri thức mà vẫn chưa có sự quan tâm đúng mực về giáo dục nhân cách, giáo dục lối sống, kỹ năng sống. Sự quan tâm, phối hợp giữa nhà trường của các thầy, cô giáo với gia đình, chính quyền, địa phương trong việc phòng ngừa những lệch lạc, phát hiện sự sơ hở của các em chưa được thường xuyên và thiếu chặt chẽ. Công tác giáo dục giới tính, hướng dẫn cách tự bảo vệ mình chưa được quan tâm đúng mức.

2.1.3. Những NN & ĐK thuộc môi trường xã hội với Nhà nước là chủ thể quản lý

2.1.3.1. Những yếu tố tiêu cực khách quan

Di hại của xã hội cũ trước đây nay còn phát sinh tác hại và tương tác với các yếu tố chủ quan làm phát sinh THTP XPTDTE tại địa bàn. Quảng Trị vẫn là một tỉnh nghèo với nguy cơ tụt hậu về kinh tế. Với vị trí địa lý của mình, hàng năm vào mùa mưa bão, có khoảng 70% số cơn bão đổ ập vào các tỉnh duyên hải miền Trung trong đó có Quảng Trị và để lại hậu quả rất nặng nề cho sự phát triển kinh tế của tỉnh.Những tập tục lạc hậu tại các vùng nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa, tư tưởng trọng nam khinh nữ ăn sâu từ bao đời nên trẻ em gái thường không được quan tâm chăm sóc, không được đến trường mà phải tham gia lao động từ rất sớm dẫn đến các em là những người có nguy cơ cao trở thành nạn nhân của các tội XPTDTE.

2.1.3.2. Những yếu tố tiêu cực chủ quan-sai sót trong việc quản lý xã hội của nhà nước ta

* Trong phạm vi mục đích và mệnh lệnh quản lý

Tuy việc ban hành các mệnh lệnh quản lý của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân tỉnh, các cơ quan chức năng khác trong những năm qua đã được quan tâm hơn, đã ban hành nhiều văn bản nhằm bảo vệ trẻ em nói chung, bảo vệ, hỗ trợ cho trẻ em bị XPTD nói riêng nhưng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của công tác phòng chống xâm hại trẻ em… Do đó, chưa khuyến khích nhân dân tích cực phát giác tội phạm, gây khó khăn cho việc thực thi pháp luật đối với các hành vi XPTDTE xảy ra trên thực tế.

* Trong phạm vi thực hiện mệnh lệnh quản lý

Sự phối hợp giữa các cơ quan trong thực hiện phòng, chống xâm hại trẻ em vẫn còn thiếu chặt chẽ và chưa hiệu quả. Các cơ quan tiến hành tố tụng thiếu về số lượng, chất lượng không đồng đều, thiếu sự phối hợp thường xuyên. Công tác tuyên truyền, giáo dục về phòng, chống xâm hại trẻ em chưa phát huy tác dụng. Hoạt động trợ giúp pháp lý cho trẻ em bị XPTD tại tỉnh Quảng Trị thời gian qua còn gặp nhiều khó khăn. Đội ngũ cán bộ làm công tác bảo vệ, chăm sóc trẻ em nói chung, trẻ em bị xâm hại nói riêng tại tỉnh Quảng Trị còn thiếu về số lượng và yếu về chuyên môn. Ngân sách chi cho các hoạt động phòng, chống XPTDTE chưa tương xứng với nhiệm vụ đặt ra. Công tác quản lý nhà nước của các ngành, chức năng đối với các loại sản phẩm thông tin, truyền thông, văn hóa như truyện, phim ảnh, internet, trò chơi trực tuyến… có nội dung không lành mạnh còn thiếu chặt chẽ, chưa có biện pháp hữu hiệu để ngăn chặn.

* Trong phạm vi kiểm tra, giám sát việc thực hiện mệnh lệnh quản lý

Hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân các cấp chưa thường xuyên, sát thực tế, chỉ thông qua báo cáo nên hiệu quả chưa cao. Công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát về bảo vệ trẻ em bị xâm hại của các cơ quan nhà nước và các cấp chính quyền địa phương tỉnh Quảng Trị chưa thường xuyên, chưa kịp thời phát hiện, đề xuất, kiến nghị với các cấp có thẩm quyền về các giải pháp hữu hiệu nhằm bảo vệ các quyền cơ bản của trẻ em bị xâm hại.

2.2. Những NN & ĐK thuộc chủ thể hành vi phạm tội

2.2.1. Những yếu tố tiêu cực thuộc ý thức cá nhân người phạm tội

Đối tượng phạm các tội XPTDTE thường bị ảnh hưởng của phim, ảnh, sách báo… có nội dung đồi trụy và ảnh hưởng của các loại tệ nạn xã hội như cờ bạc, mại dâm, việc sử dụng các chất kích thích như rượu, bia, ma túy tổng hợp… thường bị kích thích, ảnh hưởng và tiến tới thực hiện các hành vi nhằm thỏa mãn nhu cầu của mình. Trình độ dân trí của nhân dân chưa được nâng cao kể cả văn hóa, giáo dục, nhận thức xã hội. Đặc biệt là ý thức pháp luật còn rất hạn chế. Vì vậy, họ chưa nhận thức được tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội XPTD đối với trẻ em do họ gây ra.

2.2.2. Những sai lệch trong quá trình động cơ hóa hành vi phạm tội

Nguyên nhân để xảy ra các tội XPTDTE trên địa bàn phần lớn là do nhu cầu thỏa mãn dục vọng của kẻ phạm tội. Để thực hiện được nhu cầu đó, chúng tạo ra hay lợi dụng những hoàn cảnh sẵn có để thực hiện hành vi phạm tội như sự cả tin, thiếu hiểu biết, thiếu kinh nghiệm sống của trẻ em, không phán đoán điều gì sẽ xảy ra với bản thân để phòng ngừa, thậm chí trẻ em không phân biệt được những việc làm của người khác đối với mình là tốt hay xấu.

2.2.3. Những yếu tố sai lệch trong quá trình kế hoạch hóa và hiện thực hóa hành vi phạm tội

Trong cơ cấu của tình hình các tội XPTDTE ở tỉnh Quảng Trị từ năm 2010-2014 tồn tại ba phương thức gây án. Ở cả 03 phương thức gây án đều tồn tại những khả năng có thể ngăn chặn được được việc thực hiện tội phạm XPTDTE. Người thực hiện tội phạm: chủ yếu rơi vào thành phần có trình độ văn hóa phổ thông (chủ yếu là từ cấp 3 trở xuống và không biết chữ), người làm nông nghiệp. Vì vậy, họ thường ấu trĩ về mặt pháp luật, nhận thức pháp luật. Nạn nhân của tội phạm: non nớt, thiếu hiểu biết về kinh nghiệm sống, thiếu sự quan tâm, chăm sóc của gia đình. Khi kẻ phạm tội thực hiện tội phạm, nạn nhân không có sự trợ giúp của những người xung quanh.

2.3. Những NN & ĐK từ phía nạn nhân

Một số cử chỉ, lời nói hay hành động của nạn nhân trong những tình huống cụ thể đã góp phần kích thích, thúc đẩy làm phát sinh hành vi phạm tội. Bên cạnh những yếu tố tâm lý, yếu tố sinh học cũng có vai trò thúc đẩy việc phát sinh và thực hiện hành vi phạm tội. Đó là các đặc điểm đặc thù như độ tuổi, giới tính hay sức khỏe. Nạn nhân học cũng xác định nhóm người có những đặc điểm hạn chế về khả năng tự bảo vệ, do đó đã kích thích sự hình thành ý định phạm tội mà điển hình là trẻ em, trẻ em bị khuyết tật hay là mắc các bệnh tâm thần, cũng dễ trở thành nạn nhân của tội phạm XPTDTE.

Các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn tỉnh Quảng Trị: Tình hình, nguyên nhân và giải pháp phòng ngừa
Các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn tỉnh Quảng Trị: Tình hình, nguyên nhân và giải pháp phòng ngừa

Chương 3

DỰ BÁO TÌNH HÌNH CÁC TỘI XÂM PHẠM TÌNH DỤC TRẺ EM TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG TRỊ VÀ HOÀN THIỆN HỆ THỐNG CÁC BIỆN PHÁP PHÒNG NGỪA

3.1. Dự báo tình hình các tội XPTDTE trên địa bàn tỉnh Quảng Trị

Tình hình các tội XPTDTE: vẫn diễn biến phức tạp, phương thức, thủ đoạn ngày càng tinh vi, xảo quyệt, tính chất, mức độ nguy hiểm ngày càng cao, hậu quả tác hại rất lớn.Chủ thể thực hiện tội phạm chủ yếu vẫn là người có độ tuổi từ 18 đến 30 tuổi và tập trung vào số người không nghề nghiệp hoặc nghề nghiệp không ổn định. Thủ đoạn thực hiện tội phạm phổ biến nhất vẫn là lợi dụng lòng tin, sự quen biết và thiếu hiểu biết của trẻ em, lợi dụng sự quản lý lỏng lẻo của gia đình các em để dụ dỗ, khống chế các em nhằm thực hiện hành vi phạm tội.Phương thức gây án: cơ cấu gồm 02 bước vẫn sẽ gia tăng. Về nạn nhân: độ tuổi nạn nhân từ 13 đến 16 tuổi vẫn chiếm tỉ lệ cao, nạn nhân vẫn tập trung chủ yếu vào các em có hoàn cảnh khó khăn, gia đình không hòa thuận, cha mẹ ly hôn, gia đình có các em không được quan tâm, chăm sóc chu đáo. Địa bàn và địa điểm xảy ra tội phạm: chủ yếu vẫn xảy ra ở nơi hoang vắng, ít người qua lại, tại nhà nạn nhân và tại nhà của đối tượng. Một số địa bàn như huyện Vĩnh Linh, thành phố Đông Hà, huyện Hướng Hóa, Đakrông… cũng là địa bàn cần được quan tâm trong công tác đấu tranh phòng chống các tội XPTDTE

3.2. Hoàn thiện hệ thống các biện pháp phòng ngừa các tội XPTDTE trên địa bàn tỉnh Quảng Trị

3.2.1. Các biện pháp ngăn chặn các tội XPTDTE

3.2.1.1. Các biện pháp ngăn chặn tội phạm tiềm năng

Đối với những hoàn cảnh có khả năng phạm tội cao, những người phạm tội tiềm tàng

Gia đình có vai trò quan trọng trong việc quản lý con cái, hướng dẫn, định hướng cho các thành viên tham gia vào các hoạt động vui chơi giải trí lành mạnh, thể dục thể thao, nghiêm cấm các thành viên xem những trang web, đọc sách báo có nội dung khiêu dâm, bạo lực, không lành mạnh. Đồng thời, có sự kết hợp với Nhà nước và toàn xã hội trong việc giúp cho các thành viên được học nghề, đào tạo nghề, có được việc làm ổn định.

Từ phía Nhà nước, tỉnh Quảng Trịtiến hành xây dựng sổ quản lý trẻ em đến từng hộ gia đình để kịp thời quan tâm và có các hình thức ngăn ngừa, trợ giúp nhanh chóng, hạn chế tình trạng trẻ em phải bỏ nhà đi lang thang kiếm sống.

Đối với những nạn nhân tiềm tàng của tội phạm

Các thành viên trong gia đình thông qua các phương tiện thông tin đại chúng như báo, đài… tự trang bị cho mình một lượng kiến thức nhất định về các tội XPTDTE, các quy định của pháp luật về các tội này cũng như tác hại, hậu quả của các loại tội này từ đó họ sẽ nâng cao được hiểu biết cũng như có các biện pháp cụ thể để chủ động ngăn ngừa các tội này xảy ra. Bên cạnh đó, gia đình cũng đã phối hợp chặt chẽ với nhà trường trong việc trong việc giáo dục giới tính cho con.

Từ phía Nhà nước, tỉnh Quảng Trị xây dựng quy ước bảo vệ trẻ em trên nguyên tắc dựa vào cộng đồng. Những điều khoản cơ bản của quy ước được niêm yết tại trụ sở Ủy ban nhân dân xã, trung tâm học tập cộng đồng để nhắc nhở mỗi người phải nêu cao trách nhiệm bảo vệ trẻ em ngay tại chính gia đình mình.Gia đình cũng đã phối hợp với cơ quan công an, các tổ chức đoàn thể và toàn xã hội trong việc tuyên truyền, giáo dục pháp luật, vận động quần chúng nhân dân tích cực tham gia đấu tranh phòng, chống các tội XPTDTE, bài trừ các tệ nạn xã hội, các loại hình văn hóa độc hại, tạo ra môi trường sinh hoạt văn hóa lành mạnh trong khu vực dân cư nơi mình sinh sống.

3.2.1.2. Các biện pháp ngăn chặn tội phạm đang xảy ra

Thứ nhất, ở bước chuẩn bị thì để có thể ngăn chặn được các tội XPTDTE, cần phải phát huy vai trò trách nhiệm của gia đình trong việc phát hiện những biểu hiện, những thay đổi tâm, sinh lý khác thường của con, của người chồng… để khuyên răn, thuyết phục. Ngoài ra, cần phải phát huy tính tích cực của quần chúng, công dân trong việc phát hiện những biểu hiện lạ ở những người chuẩn bị phạm tội.

Thứ hai, ở bước thực hiện hành vi phạm tội. Việc người bị hại tự ngăn chặn, tự bảo vệ bản thân vẫn là yêu cầu hàng đầu nhằm ngăn chặn các loại tội phạm này. Ngoài ra, có thể dựa vào sự phát giác kịp thời của gia đình và những người xung quanh, không để cho tội phạm xảy ra.

Thứ ba, ở bước che giấu tội phạm. Gia đình nạn nhân có vai trò rất to lớn trong việc phát hiện kịp thời việc xâm hại đối với con mình. Đồng thời, giữ lại những bằng chứng để vạch trần kẻ phạm tội, tố cáo và phối hợp với cơ quan công an để tìm ra thủ phạm.

3.2.1.3. Các biện pháp ngăn chặn tái phạm tội

Giai đoạn thứ nhất, nếu điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án kịp thời và đúng pháp luật, sẽ ngăn chặn được hiện tượng tái phạm.

Giai đoạn thứ hai, là giai đoạn giáo dục người phạm tội trong quá trình chấp hành án.

Giai đoạn thứ ba, đó là giai đoạn tái hòa nhập cộng đồng.

3.2.2. Các biện pháp loại trừ các tội XPTDTE

3.2.2.1. Biện pháp về kinh tế

Các cấp chính quyền cần đầu tư phát triển kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân, thu hẹp khoảng cách giàu nghèo, khoảng cách giữa thành thị và nông thôn.Ngoài ra, cần có chính sách giúp đỡ các gia đình phát triển kinh tế, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của các gia đình để trẻ em có cơ hội được chăm sóc, giáo dục, học hành. Bên cạnh đó, các cấp chính quyền cũng cần hỗ trợ các em trong những gia đình khó khăn có vốn buôn bán nhỏ, góp phần ổn định đời sống để cha mẹ có điều kiện chăm sóc con cái

3.2.2.2. Biện pháp về văn hóa, giáo dục

Tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục, phổ biến pháp luật sâu rộng trong các cộng đồng dân cư để phòng, chống các tội XPTDTE. Nâng cao mặt bằng dân trí, phổ cập giáo dục, thực hiện xóa mù chữ, nâng cao trình độ văn hóa cho toàn dân. Đồng thời, nâng cao vai trò, trách nhiệm của các gia đình trong việc dạy dỗ, giáo dục con cái.

3.2.2.3. Biện pháp về xã hội, dân sự

Mỗi địa phương cần tích cực tham gia cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết, xây dựng cuộc sống mới ở khu dân cư”, xây dựng thôn, xóm văn hóa, gia đình văn hóa góp phần trong sạch hóa, lành mạnh hóa môi trường sống cho nhân dân. Phối hợp với Đoàn thanh niên ở địa phương tạo ra những sân chơi lành mạnh, bổ ích cho trẻ em.Phối hợp chặt chẽ giữa gia đình, nhà trường và xã hội trong công tác quản lý trẻ em

3.2.2.4. Biện pháp về pháp luật

Tuyên truyền chính sách pháp luật, nhà nước. Đồng thời, sửa đổi, bổ sung, hoàn chỉnh hệ thống văn bản quy phạm pháp luật và các văn bản hướng dẫn liên quan đến lĩnh vực phòng chống bạo lực, xâm hại trẻ em như quy định chi tiết về các hành vi xâm hại trẻ em; xây dựng các quy trình về bảo vệ trẻ em bị bạo lực, xâm hại, quy trình tiếp nhận, bảo mật thông tin liên quan đến trẻ em bị XPTD. Ngoài ra, cần xây dựng tủ sách pháp luật ở mỗi phường, mỗi xã… để mọi người dân có thể tiếp cận pháp luật một cách nhanh nhất.

3.2.2.5. Biện pháp về tổ chức, quản lý

Tăng cường quản lý nhà nước và quản lý xã hội trên địa bàn dân cư, làm tốt công tác quản lý nhân khẩu.Tăng cường các biện pháp phòng, chống văn hóa phẩm đồi trụy. Phát động phong trào quần chúng đấu tranh chống tội phạm, tố giác tội phạm, trong đó có tội phạm xâm hại trẻ em. Tăng cường tổ chức bộ máy của một số cơ quan nhà nước nhất là các cơ quan tiến hành tố tụng có liên quan đến việc giải quyết vụ án hình sự có tội danh XPTDTE: cơ quan Công an, Viện kiểm sát, Tòa án nhân dân.

KẾT LUẬN

Trẻ em là hạnh phúc của mỗi gia đình, là tương lai của dân tộc. Bảo vệ, chăm sóc trẻ em là một công việc quan trọng, lâu dài và có ý nghĩa chiến lược trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Truyền thống đạo lý của dân tộc ta là luôn dành những tình cảm và sự quan tâm, chăm sóc đặc biệt cho trẻ em và coi đây là sự nghiệp cao quý, trách nhiệm to lớn đối với tương lai của dân tộc và đất nước.

Việt Nam là quốc gia đầu tiên trong khu vực, là quốc gia thứ hai trên thế giới phê chuẩn công ước của Liên Hợp Quốc về quyền trẻ em. Sau khi phê chuẩn Công ước, Việt Nam đã ban hành nhiều văn bản nhằm bảo vệ trẻ em. Tuy nhiên, trước những tác động hết sức sâu sắc, mạnh mẽ của mặt trái nền kinh tế thị trường cũng như những bất cập, thiếu sót trong công tác bảo vệ trẻ em mà trong thời gian gần đây, tình trạng XPTDTE tại Việt Nam nói chung, tại tỉnh Quảng Trị nói riêng đang là vấn đề đáng báo động. Đáng chú ý là các vụ án XPTDTE chiếm đa số trong các vụ án XPTD nói chung.

Thành phần đối tượng phạm tội XPTDTE chủ yếu có độ tuổi từ 18 đến 30 tuổi, có trình độ văn hóa thấp, không có nghề nghiệp hoặc nghề nghiệp không ổn định, nhận thức pháp luật và chuẩn mực đạo đức xã hội kém. Động cơ phạm tội là để thỏa mãn nhu cầu tình dục trái pháp luật của kẻ phạm tội. Thủ đoạn chủ yếu là là lợi dụng sự thiếu hiểu biết của nạn nhân, lợi dụng sự buông lỏng trong quản lý của gia đình của các em để thực hiện hành vi phạm tội. Địa điểm mà đối tượng chọn để thực hiện hành vi phạm tội chủ yếu là nơi khó phát hiện, hoang vắng, ít người qua lại, tại nhà của thủ phạm và tại nhà của nạn nhân. Thời gian gây án từ 06 giờ đến 18 giờ, thủ phạm lợi dụng lúc người lớn đi vắng, trẻ em ở nhà một mình hoặc khi trẻ em đi học, qua lại ở nơi vắng vẻ và lợi dụng thời gian tối trời để thực hiện hành vi phạm tội. Nạn nhân bị xâm hại chủ yếu ở độ tuổi từ 13 đến 16 tuổi, tập trung ở những gia đình có hoàn cảnh khó khăn, gia đình không hòa thuận, trẻ em không được cha mẹ quan tâm, chăm sóc. Trong các vụ án XPTDTE xảy ra trên địa bàn, giữa thủ phạm và nạn nhân có mối quan hệ quen biết trước khi xảy ra tội phạm chiếm tỷ lệ cao (90%).

Nguyên nhân và điều kiện của các tội XPTDTE là do sự sai lệch trong nhân cách, đạo đức của người phạm tội cũng như ảnh hưởng của các yếu tố kinh tế, văn hóa, xã hội làm xuất hiện những lệch chuẩn về mặt đạo đức, sự thiếu hiểu biết về pháp luật, thực hiện hành vi phạm tội nhằm thỏa mãn nhu cầu của mình. Ngoài ra, nguyên nhân làm xuất hiện tội phạm còn do chính bản thân Nhà nước trong quá trình thực hiện chức năng quản lý của mình đã làm xuất hiện những sai sót, yếu kém trong xã hội: Sự phối hợp giữa các cơ quan trong việc phòng, chống XPTDTE vẫn còn thiếu chặt chẽ và chưa hiệu quả; việc tuyên truyền pháp luật chưa được duy trì đều đặn, thường xuyên, liên tục; các thiết chế văn hóa, thông tin, cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ cho hoạt động vui chơi, giải trí cho trẻ em tại địa phương còn nghèo nàn….

Nhận thức được tính nguy hiểm của các hành vi XPTDTE, trong thời gian qua, các cơ quan bảo vệ pháp luật của tỉnh Quảng Trị và các cơ quan, ban, ngành đã tích cực đấu tranh phòng, chống các tội này và đã đạt được một số kết quả nhất định. Tuy nhiên, qua kết quả nghiên cứu vẫn tồn tại một số hạn chế, khuyết điểm trong công tác đấu tranh phòng, chống đối với loại tội này. Do vậy, để nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh ngăn ngừa, loại trừ các tội XPTDTE là một yêu cầu cấp thiết.

Dự báo về tình hình các tội XPTDTE trong thời gian tới tại tỉnh Quảng Trị cho thấy các loại tội phạm này vẫn diễn biến phức tạp với phương thức, thủ đoạn ngày càng tinh vi, xảo quyệt, tính chất, mức độ nguy hiểm ngày càng cao, hậu quả tác hại rất lớn. Đối tượng thực hiện tội phạm chủ yếu vẫn là người có độ tuổi từ 18 đến 30 tuổi và tập trung vào số người không nghề nghiệp và nghề nghiệp không ổn định, có nhiều thời gian nhàn rỗi và trình độc văn hóa thấp, mù chữ. Thủ đoạn gây án phổ biến nhất vẫn là lợi dụng lòng tin, sự quen biết và thiếu hiểu biết của trẻ em, lợi dụng sự quản lý lỏng lẻo của gia đình nạn nhân để dụ dỗ, khống chế các em nhằm thực hiện hành vi phạm tội.Qua đánh giá tình hình và dự báo làm cơ sở để đề xuất một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng, chống các tội XPTDTE trên địa bàn tỉnh Quảng Trị. Để ngăn chặn tội phạm đòi hỏi phải làm tốt công tác ngăn ngừa và loại trừ các tội XPTDTE. Đồng thời, có sự phối hợp giữa các cơ quan chức năng, sự phối hợp của toàn xã hội trong việc ngăn chặn, phát hiện và xử lý tội phạm.

Đấu tranh phòng, chống các tội XPTDTE là một trong những điều kiện cơ bản để bảo vệ quyền trẻ em, đảm bảo cho các em được sống trong một môi trường lành mạnh và an toàn, bảo vệ những giá trị đạo đức tốt đẹp của dân tộc, góp phần vào sự phát triển vững bền của một đất nước.

LIỆN HỆ:

SĐT+ZALO: 0935568275

E:\DỮ LIỆU COP CỦA CHỊ YẾN\LUAN VAN VIEN HAN LAM\LUAT HINH SU DOT 2\TOI PHAM HOC\LE THI THANH HUYEN\New folder

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *