Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam

Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng

Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng

1. Tính cấp thiết của đề tài

Trong xu hướng hội nhập và phát triển kinh tế quốc tế, Đất nước ta đã đạt được nhiều thành quả trên nhiều lĩnh vực về khoa học công nghệ, kinh tế xã hội có bước phát triển nhanh và mạnh, kéo theo sự thay đổi về mọi mặt trong đời sống xã hội, đưa đất nước ta vào nhóm các nước có tốc độ phát triển kinh tế cao. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được, cũng phát sinh nhiều vấn đề xã hội, tình hình tội phạm có diễn biến phức tạp về tính chất và mức độ phạm tội, thủ đoạn ngày càng tinh vi, xảo quyệt. Trong đó, có tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, đây là một trong những tội xâm phạm sở hữu có diễn biến phức tạp, xảy ra thường xuyên và ngày càng gia tăng với nhiều thủ đoạn khác nhau, từ chủ thể thực hiện tội phạm đến các đối tượng bị xâm hại đều rất đa dạng, tài sản bị chiếm đoạt có giá trị lên đến hàng tỷ đồng, diễn ra ở nhiều địa phương khác nhau, đặc biệt là các địa phương có tốc độ phát triển hội nhập càng cao thì tình hình tội phạm càng phức tạp và có xu hướng tăng, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự phát triển kinh tế – xã hội, an ninh trật tự của đất nước.

Thành phố Đà Nẵng là một cửa ngõ quốc tế, là cầu nối giữa hai miền nam bắc, là trung tâm văn hóa, chính trị của khu vực Miền trung Tây Nguyên và là trung tâm kinh tế của khu vực Miền Trung với nhiều năm liền là quán quân năng lực cạnh tranh thu hút đầu tư cả nước. Với sự phát triển kinh tế, kéo theo là tình hình lao động nhập cư tăng đột biến trong thời gian qua, làm cho tình hình an ninh trật tự xã hội bị tác động lớn, tình hình tội phạm nhóm xâm phạm sở hữu nói chung, đặc biệt là tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản nói riêng tại thành phố Đà Nẵng ngày càng gia tăng cả về số vụ và mức độ hành vi cũng như giá trị tài sản.

Trong giai đoạn từ năm 2010 đến năm 2014 Thành phố Đà Nẵng đã khởi tố và đưa ra xét xử hơn 200 bị cáo về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, với xu hướng năm sau cao hơn năm trước, và tính chất mức độ nguy hiểm ngày càng cao, tác động tiêu cực trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội đòi họi cần thiết phải có một nghiên cứu đánh giá nhằm nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng chống tội phạm. Việc nghiên cứu tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản dưới một góc nhìn từ thực tiễn tại một địa phương nhất định không chỉ có ý nghĩa quan trọng về mặt lý luận mà còn có ý nghĩa trong thực tiễn áp dụng của công tác định tội danh và quyết định hình phạt, hiệu quả phòng chống tội phạm và hoàn thiện hơn chế định này trong BLHS Việt Nam. Chính vì vậy, tác giả đã lựa chọn đề tài: “Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng” để viết luận văn tốt nghiệp cao học chuyên ngành hình sự và Luật Tố tụng Hình sự tại Học viện khoa học xã hội thuộc Viện Hàn Lâm khoa học xã hội Việt Nam.

2. Tình hình nghiên cứu

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

* Mục đích nghiên cứu của đề tài:

Trên cơ sở pháp luật Hình sự hiện hành, có nghiên cứu quá trình hình thành và sửa đổi bổ sung qua các thời kỳ, làm rõ các dấu hiệu pháp lý hình sự của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam, nêu và phân tích những vấn đề chung về định tội danh và quyết định hình phạt về mặt lý luận cũng như đánh giá hoạt động định tội danh và quyết định hình phạt của cơ quan tiến hành tố tụng từ thực tiễn xét xử tại TP.Đà Nẵng, từ đó rút ra được những hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế và kiến nghị một số giải pháp khắc phục trong hoạt động định tội danh và quyết định hình phạt để đảm bảo các nguyên tắc cơ bản của luật hình sự cũng như hiệu quả – mục đích của hình phạt trong hoạt động đấu tranh phòng chống tội phạm.

* Nhiệm vụ nghiên cứu:

Một là, nêu và phân tích lịch sử hình thành và phát triển của các quy phạm pháp luật hình sự Việt Nam về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản; Nêu và phân tích rõ khái niệm và các dấu hiệu pháp lý của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam; các dấu hiệu định khung; phân biệt tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản với một số tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt khác.

Hai là, nêu và phân tích những vấn đề lý luận về định tội danh và đánh giá hoạt động định tội danh đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng trong 5 năm qua (từ năm 2010 đến năm 2014), những kiến nghị đề xuất.

Ba là, nêu và phân tích những vấn đề chung về quyết định hình phạt và đánh giá hoạt động quyết định hình phạt đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng trong 5 năm qua (từ năm 2010 đến năm 2014). Bên cạnh đó, tác giả cũng đưa một số hạn chế cũng như nguyên nhân của những hạn chế và các giải pháp khắc phục trong hoạt động quyết định hình phạt đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản tại thành phố Đà Nẵng.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài

* Đối tượng nghiên cứu: quyền sở hữu tài sản được pháp luật bảo vệ và thực tế xử lý các hành vi xâm phạm quyền sở hữu bị coi là tội phạm với tội danh “tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo điều 139 Bộ luật Hình sự 1999 sửa đổi bổ sung năm 2009. Đặc biệt tập trung nghiên cứu hoạt động của cơ quan tiến hành tố tụng trong việc định tội danh và quyết định hình phạt từ thực tiễn 5 năm 2010 – 2014 tại địa bàn TP.Đà Nẵng. Nhằm phát hiện những hạn chế và kiến nghị các biện pháp khắc phục nhằm nâng cao hiệu quả đấu tranh chống tội phạm tại TP. Đà Nẵng.

* Phạm vi nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản dưới góc độ pháp luật hình sự và hoạt động định tội danh cũng như quyết định hình phạt đối với loại tội phạm này trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu

Phương pháp luận: Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật; các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về tăng cường pháp chế trong đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm xâm phạm quyền sở hữu, Quan điểm của Đảng về xây dự nhà nước pháp quyền, Quan điểm của Đảng về cải cách tư pháp theo tinh thần Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002, Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị và Kết luận số 79-KL/TW ngày 28/7/2010 của Bộ Chính trị; những quan điểm trên được cụ thể hóa trong Hiến pháp 2013.

Phương pháp nghiên cứu : Dựa trên cơ sở chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử trong triết học Mác – Lê Nin, phương pháp nghiên cứu của khoa học luật hình sự, cụ thể như: Phương pháp tổng hợp, phương pháp thống kê, phương pháp lịch sử và hệ thống, phương pháp phân tích,… Tác giả đã sử dụng các phương pháp một cách linh hoạt, đan xen lẫn nhau để đạt được kết quả nghiên cứu cao nhất.

6. Ý nghĩa Lý luận & Thực tiễn của đề tài

Về mặt lý luận, Đề tài này nghiên cứu một cách toàn diện, sâu sắc với cái nhìn tổng quan nhất, đặt trong mối quan hệ biện chứng các vấn đề lý luận góp phần tích cực làm phong phú thêm lý luận nhận thức về các dấu hiệu pháp lý của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, làm tài liệu tham khảo và làm nền tảng cho các nghiên cứu sâu hơn trong tương lai.

Về mặt thực tiễn, Đề tài này được nghiên cứu và đánh giá một cách khách quan, toàn diện qua thực tiễn hoạt động định tội danh và quyết định hình phạt của Cơ quan tiến hành tố tụng đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản tại địa bàn thành phố Đà Nẵng. Kết quả nghiên cứu là một sự đánh giá về thực trạng, các vấn đề tích cực cần phát huy và qua nghiên cứu phát hiện những hạn chế, tìm hiểu nguyên nhân và kiến nghị các giải pháp khắc phục nhằm góp phần nâng cao chất lượng của hoạt động tố tụng, đảm bảo các nguyên tắc cơ bản của Luật hình sự, mục đích của hình phạt; nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng chống tội phạm.

7. Bố cục của luận văn

Ngoài Phần mở đầu; Phần kết luận; Danh mục tài liệu tham khảo; Danh mục các chữ viết tắt và Danh mục các bảng biểu, nội dung luận văn gồm 3 Chương:

Chương 1: Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam.

Chương 2: Thực tiễn định tội danh tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản tại Tp. Đà Nẵng từ năm 2010 – 2014.

Chương 3: Thực tiễn quyết định hình phạt đối với tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản tại Tp. Đà Nẵng từ năm 2010 – 2014.

Chương 1

TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM

    1. 1.1. Lịch sử hình thành và phát triển của các quy phạm pháp luật hình sự Việt Nam về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

Chúng ta đều nhận thức lý luận về pháp luật thực định là những vấn đề đi ra từ cuộc sống xã hội, và nó tác động trở lại với cuộc sống nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội theo một trật tự phù hợp với mục đích của nhà nước. Bởi lẽ đó, Pháp luật trong mỗi nhà nước là khác nhau và mỗi giai đoạn phát triển lịch sử cũng khác nhau. Tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản cũng có đầy đủ tính lịch sử của nó, tác giả tạm chia làm 3 giai đoạn như sau :

      1. 1.1.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến trước năm 1985

Sau cách mạng tháng Tám thành công, Nhà nước ta đã ban hành những văn bản pháp luật hình sự quy định việc trừng trị các tội xâm phạm xã hội chủ nghĩa như:

– Sắc lệnh số 26-SL ngày 25.02.1946 về tội phá hoại công sản;

– Sắc lệnh số 223-SL ngày 27.11.1946 về tội biển thủ tiền công.

Do tính lịch sử nên trong giai đoạn này, Nhà nước chỉ ban hành những sắc lệnh để kịp thời điều chỉnh các hành vi xâm hại Công sản, nhưng dù sao, nó cũng là nền tảng để xây dựng nhóm quy phạm pháp luật điều chỉnh hành vi xâm phạm sở hữu, và đến năm 1970, Tình hình đất nước có thay đổi, nhằm đấu tranh một cách có hiệu quả với tội phạm xâm phạm quyền sở hữu, Nhà nước ta đã ban hành 02 Pháp lệnh mới vào ngày 23/10/1970 để thay thế các luật lệ cũ về các tội xâm phạm sở hữu, có sự phân chia thành Công Hữu và Tư hữu với sự đánh giá mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội khác nhau, phải kể đến là sự xem trọng tính nguy hiểm của hành vi xâm phạm tài sản công. Cụ thể :

Pháp lệnh Trừng trị các tội xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa do Lệnh số 149 ngày 23.10.1970 công bố, trong đó tại Điều 10 quy định tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản xã hội chủ nghĩa như sau:

1. “Kẻ nào dùng giấy tờ giả mạo, gian lận trong việc cân, đong, đo, đếm, tính hoặc dùng thủ đoạn gian dối khác chiếm đoạt tài sản xã hội chủ nghĩa thì bị phạt tù từ 6 tháng đến 5 năm.

2. Phạm tội trong những trường hợp sau đây:

a) Có tính chất chuyên nghiệp hoặc tái phạm nguy hiểm;

b) Có tổ chức;

c) Có móc ngoặc;

d) Giả danh hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, xí nghiệp Nhà nước, đơn vị bộ đội, đoàn thể nhân dân, hợp tác xã hoặc dùng thủ đoạn xảo quyệt, nguy hiểm khác;

đ) Chiếm đoạt tài sản với số lượng lớn hoặc tài sản có giá trị đặc biệt;

e) Dùng tài sản chiếm đoạt vào việc kinh doanh, bóc lột, đầu cơ, đút lót hoặc vào những việc phạm tội khác;

Thì bị phạt tù từ 3 năm đến 12 năm.

3. Phạm tội trong trường hợp số tài sản bị xâm phạm rất lớn hoặc có nhiều tình tiết nghiêm trọng, hoặc gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ 10 năm đến 20 năm, tù chung thân hoặc bị xử tử hình” [17].

Pháp lệnh Trừng trị các tội xâm phạm tài sản riêng của công dân nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa do Lệnh số 150-LCT ngày 23/10/1970 công bố, trong đó tại Điều 9 quy định Tội lừa đảo để chiếm đoạt tài sản riêng của công dân như sau:

1. “Kẻ nào dùng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản riêng của công dân thì bị phạt tù từ ba tháng đến ba năm.

2. Phạm tội trong những trường hợp sau đây:

a) Có tính chất chuyên nghiệp hoặc tái phạm nguy hiểm;

b) Có tổ chức;

c) Giả danh hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, xí nghiệp nhà nước, đơn vị bộ đội, đoàn thể nhân dân, hợp tác xã hoặc dùng thủ đoạn xảo quyệt, nguy hiểm khác;

d) Gây hậu quả nghiêm trọng đến đời sống của người bị thiệt hại hoặc gây hậu quả nghiêm trọng khác;

Thì bị phạt tù từ hai năm đến mười năm” [18].

Cả hai tội đều có chung hành vi phạm tội giống nhau đó là hành vi gian dối chiếm đoạt tài sản đang do người khác quản lý. Nhưng đối tượng tác động đều là tài sản, được phân chia thành hai loại tài sản khác nhau đó là tài sản xã hội chủ nghĩa và tài sản của công dân.

Tuy nhiên, tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản xã hội chủ nghĩa, quy định lừa đảo ở một số hành vi gian dối cụ thể của những người giao dịch, mua bán với cơ quan nhà nước hay hợp tác xã đã cố ý dùng mánh khoé gian lận thông thường như cân, đong, đo, đếm, tính sai hoặc cách nào khác để chiếm đoạt tài sản của cô quan Nhà nước hay Hợp tác xã mà mình giao dịch. Còn tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản riêng của công dân chỉ quy định tội phạm một cách chung chung: Kẻ nào dùng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản riêng của công dân… Do vậy, chúng ta có thể nhận thấy sự khác biệt về giới hạn của hành vi khách quan khi xâm phạm quyền sở hữu giữa hai tội.

Về trách nhiệm pháp lý, tội lừa đảo để chiếm đoạt tài sản xã hội chủ nghĩa mức hình phạt cao nhất là tử hình, Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản riêng của công dân mức hình phạt cao nhất là 10 năm tù, điều này cũng có thể do yếu tố lịch sử với tính chất của nền kinh tế lúc này là tập trung bao cấp đối với toàn xã hội, tài sản của Nhà nước cần được bảo vệ đặc biệt vì khi nó bị xâm phạm thì hậu quả tác động đến xã hội là rất cao, do đó tình nguy hiểm của hành vi này có mức độ nghiêm trọng hơn hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản công dân.

Cho dù có sự đánh giá khác nhau về tính nghiêm trọng của đối tượng tác động, nhưng nhìn chung cả hai mđề thể hiện một thái độ nghiêm khắc, một nguyên tắc cơ bản là nhà nước kiên quyết bảo vệ tài sản xã hội chủ nghĩa; Nhà nước bảo hộ tài sản riêng của công dân, chống mọi hành vi xâm phạm. Pháp lệnh cũng thể hiện nguyên tắc xử lý người phạm tội là: Nghiêm trị bọn chuyên nghiệp, tái phạm, phạm tội có tổ chức, lợi dụng chức vụ quyền hạn để phạm tội và xử lý nhẹ hoặc miễn hình phạt cho những người tự thú, thật thà hối cải, tố giác đồng bọn hoặc tự nguyện bồi thường.

Về kỹ thuật lập pháp, giai đoạn này cũng đã hoàn chỉnh cấu thành tội phạm về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản với các khung hình phạt tương ứng với tính chất và mức độ nguy hiểm của tội phạm, khung tăng nặng.

Năm 1976, Hội đồng Chính phủ cách mạng Lâm thời đã ban hành Sắc luật số 03-SL/76 ngày 15/3/1976. Trong đó tại Điều 4 quy định về Tội xâm phạm đến tài sản công cộng như sau:

“Tài sản công cộng bao gồm tài sản của Nhà nước và của Hợp tác xã, của các tổ chức xã hội và của tập thể nhân dân. Tài sản công cộng là thiêng liêng, tuyệt đối không ai được xâm phạm …. trường hợp nghiêm trọng thì bị phạt tù đến 15 năm. Phạm tội trộm cắp, tham ô tài sản, lừa đảo mà số tài sản chiếm đoạt rất lớn, hoặc có nhiều tình tiết nghiêm trọng hoặc gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng, thì bị phạt tù đến 20 năm, tù chung thâm hoặc bị xử tử hình”[21].

Thông tư số 03-BTP/TT tháng 4/1976, cụ thể hoá hành vi lừa đảo trong Sắc luật số 03-SL/76 về hành vi phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản công cộng như sau:

“Lừa đảo là hành vi chiếm đoạt tài sản công cộng đang do người khác quản lý, bằng cách dùng mọi mánh khoé, thủ đoạn gian dối, bịp bợm, làm cho người quản lý tài sản tin nhầm mà giao cho tài sản đó” [33].

Như vậy, đến thời điểm tháng 3/1976 đất nước ta áp dụng tới 3 văn bản khách nhau về xử lý hành vi lừa đảo. Tại miền Bắc vẫn áp dụng hai Pháp lệnh được ban hành ngày 21/10/1970 còn ở miền Nam thì áp dụng Sắc luật số 03-SL/76 là chính.

Trong giai đoạn từ sau cách mạng tháng 8 thành công đến 1985, nhìn chung hệ thống pháp luật điều chỉnh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản chưa hoàn thiện, nó mang tính thời sự giải quyết các vấn đề xã hội hơn là tính khoa học pháp lý, đó cũng là lý do tại sao có nhiều văn bản khác nhau, các vùng miền áp dụng khác nhau. Tuy nhiên, dù sao cũng đã phản ánh thái độ của nhà nước đối với tội phạm, cũng đã có những cấu thành cơ bản trong kỹ thuật lập pháp làm nền tảng cho các giai đoạn sau này.

      1. 1.1.2. Giai đoạn từ năm 1985 đến trước năm 1999

Ngày 09.7.1985, Bộ luật hình sự 1985 được ban hành và có hiệu lực thi hành từ ngày 01.01.1986. Đây là sự pháp điển hoá các quy định về tội phạm và hình phạt từ năm 1945 đến năm 1985.

Bộ luật hình sự 1985 đã kế thừa và phát triển các văn bản pháp luật trước để phù hợp với tình hình phát triển kinh tế của đất nước ta lúc bấy giờ – nền kinh tế hai thành phần (quốc doanh và Hợp tác xã) được quản lý, vận hành theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung thống nhất từ Trung ương đến cơ sở. Bên cạnh thái độ trừng trị thì Bộ luật hình sự 1985 đã thể hiện “tinh thần phòng ngừa và kiên quyết đấu tranh chống tội phạm; thể hiện chính sách của Đảng và Nhà nước ta là xử phạt người phạm tội không chỉ nhằm trừng trị mà còn giáo dục cải tạo họ trở thành người có ích cho xã hội; thể hiện tinh thần nhân đạo xã hội chủ nghĩa và lòng tin vào khả năng cải tạo con người dưới chế độ xã hội chủ nghĩa”.Các quy định về tội xâm phạm sở hữu ở BLHS 1985 được ghi nhận ở hai chương khác nhau: “Chương IV: Các tội xâm phạm sở hữu xã hội chủ nghĩa” và “Chương V: Các tội xâm phạm sở hữu công dân” [3].

Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng
Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng

Điều 134 Bộ luật hình sự 1985, quy định về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản xã hội chủ nghĩa như sau:

1. “Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản xã hội chủ nghĩa thì bị phạt tù từ sáu tháng đến ba năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ ban năm đến mười hai năm.

a) Có tổ chức;

b) Dùng thủ đoạn xảo quyệt nguy hiểm;

c) Chiếm đoạt tài sản có giá trị lớn;

d) Tái phạm nguy hiểm.

3. Phạm tội trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ mười năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân” [3].

Tại Điều 157 Bộ luật hình sự 1985, quy định về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản riêng của công dân:

1. “Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác, thì bị phạt tù từ ba tháng đến ba năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ hai năm đến mười năm:

a) Có tổ chức;

b) Dùng thủ đoạn xảo quyệt, nguy hiểm;

c) Chiếm đoạt tài sản có giá trị lớn;

d) Tái phạm nguy hiểm.

3. Phạm tội trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm” [3].

Giai đoạn này, dù vẫn tồn tại hai tội danh lừa đảo chiếm đoạt tài sản, có sự phân chia đối tượng là tài sản XHCN và tài sản Công dân như giai đoạn trước, nhưng có sự khác biệt, cụ thể : tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản xã hội chủ nghĩa đựơc quy định tại Điều 134 BLHS 1985 đã bỏ hình phạt tử hình. Điều 157 BLHS 1985 tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản của công dân đã tăng mức hình phạt cao nhất từ 10 năm đến 15 năm. Điều này thể hiện cái nhìn về quyền sở hữu được xem trọng gần như nhau.

Từ 1885 là giai đoạn đất nước tập trung phát triển kinh tế với định hướng phát triển “… cơ cấu kinh tế nhiều thành phần với các hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh đa dạng dựa trên chế độ sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân,…”[14]. Vì vậy, công tác đấu tranh phòng chống tội phạm trong giai đoạn này có sự thay đổi để kịp thời điều chỉnh các hành vi nguy hiểm cho xã hội xâm phạm trực tiếp nhóm quyền sở hữu mà trước đó bộ luật Hình Sự 1985 chưa điều chỉnh hoặc ghi nhận, để bảo vệ một cách có hiệu quả những lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng chống tội phạm, Bộ luật Hình sự năm 1985 đã sửa đổi bổ sung nhiều lần, trong đó tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản cũng vậy.

Năm 1990 Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản quy định tại BLHS 1985 đã được sửa đổi lần thứ nhất, bổ sung vào điểm a khoản 2 Điều 134 và Điều 157 tình thiết “hoặc có tính chất chuyên nghiệp”. Vì vậy, điểm a khoản 2 Điều 134 và Điều 157 được quy định “Có tổ chức hoặc có tính chất chuyên nghiệp”.

Năm 1991, sửa đổi bổ sung hình phạt tử hình vào khoản 3 Điều 134: “3. Phạm tội trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng, thì bị phạt tù từ mười năm đến 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình”. Khoản 3 Điều 157 cũng được sửa đổi, bổ sung tăng mức hình phạt tối đa của các khung và bổ sung hình phạt từ chung thân và tử hình. Qua sửa đổi luật chúng ta thấy Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong giai đoạn này có tính chất rất nghiêm trọng và các biện pháp chế tài trước đó là còn quá nhẹ chưa đủ sức răn đe, giáo dục phòng ngừa chung, đồng thời cũng thể hiện rõ sự quyết tâm của nhà nước trong đấu tranh phòng chống tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.

Với nhiều thủ đoạn phạm tội và tính chất mức độ phạm tội khác nhau, diễn biến tội phạm vô cùng phức tạp, đến năm 1993 Tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản lại sửa đổi bổ sung. Khoản 2 Điều 134 – Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản xã hội chủ nghĩa bổ sung thêm tình tiết định khung tăng nặng là: “Lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức” và “gây hậu quả nghiêm trọng”.

Lần sửa đổi cuối cùng là năm 1997, sửa đổi bổ sung Điều 134a, Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức để lừa đảo chiếm đoạt tài sản.

Dù qua nhiều lần sửa đổi bổ sung, BLHS 1985 vẫn duy trì 02 Chương về các tội xâm phạm sở hữu – xã hội chủ nghĩa và công dân, trong khi trên thực tế tồn tại bảy hình thức sở hữu khác nhau: Sở hữu toàn dân; Sở hữu của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị – xã hội; Sở hữu tập thể; Sở hữu tư nhân; Sở hữu của tổ chức xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp; Sở hữu hỗn hợp; Sở hữu chung. Do đó, để phù hợp hơn với chính sách kinh tế – xã hội của Đảng và Nhà nước trong thời ký mới, BLHS 1999 đã ra đời.

      1. 1.1.3. Giai đoạn từ năm 1999 đến nay

Bộ luật hình sự số 15/1999/QH10 (BLHS 1999) đã được thông qua tại kỳ họp thứ VI, Quốc hội Việt Nam Khoá 10, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/7/2000 đã thay thế BLHS 1985.

Chương XIV, BLHS 1999 – “Các tội xâm phạm sở hữu” được xây dựng trên cơ sở nhập chung chương IV và chương V của BLHS 1985, và tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản được quy định tại Điều 139. Theo đó, tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản quy định tại Điều 139 của BLHS 1999 là tội được nhập từ tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản xã hội chủ nghĩa quy định tại Điều 134; tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn lừa đảo chiếm đoạt tài sản xã hội chủ nghĩa quy định tại Điều 134a và tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản của công dân quy định tại Điều 157 BLHS 1985 và được áp dụng cho tất cả các hình thức sở hữu.

Việc nhập 3 điều luật thành 1, xuất phát từ một nhật thức tiến bộ, nhìn nhận ý nghĩa của tài sản không phải nó thuộc sở hữu của ai, mà ở giá trị và giá trị sử dụng của nó, đồng thời thể hiện sự tôn trọng nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật của các thành phần kinh tế. Không những thế, nó còn thuận lợi cho việc áp dụng pháp luật đặc biệt trong việc định tội danh và quyết định hình phạt, góp phần nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng chống tội phạm, bảo vệ quyền sở hữu. Điều 139 BLHS 1999 quy định tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản như sau:

1. “Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác có giá trị từ năm trăm nghìn đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới năm trăm nghìn đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm:

a) Có tổ chức;

b) Có tính chất chuyên nghiệp;

c) Tái phạm nguy hiểm;

d) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức;

đ) Dùng thủ đoạn xảo quyệt;

e) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng;

g) Gây hậu quả nghiêm trọng.

3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm:

a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng;

b) Gây hậu quả rất nghiêm trọng.

4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình:

a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở lên;

b) Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.

5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến một trăm triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản, bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm” [1].

Về tinh thần chung, hình phạt trong Điều 139 BLHS 1999 vẫn nghiêm khắc như quy định của BLHS 1985, mức hình phạt cao nhất vẫn là tử hình. Nhưng khung hình phạt cụ thể có thể giảm mức hình phạt xuống hoặc tăng mức hình phạt lên so với quy định của BLHS 1985.

Ngoài ra, cấu thành cơ bản của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản tại Điều 139 BLHS 1999 quy định giá trị tài sản bị chiếm đoạt làm ranh giới xác định đâu là hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản và đâu là hành vi vi phạm pháp luật khác, và hình phạt bổ sung cũng được quy định ngay trong điều luật.

Không ai có thể phủ nhận BLHS 1999 là công cụ sắc bén của Nhà nước, của nhân dân, đã phát huy vai trò, tác dụng to lớn trong công cuộc bảo vệ những thành quả của cách mạng, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm, góp phần tích cực vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, mỗi nhà nước đều tồn tại trong sự vận động phát triển của xã hội với việc phát sinh và thay đổi các quan hệ xã hội tương ứng. Trước yêu cầu đó, với định hướng xây dựng nhà nước pháp quyền của Đảng ta, đồng thời phải tiến hành cải cách hành chính, tư pháp để hướng đến một nền tư pháp dân chủ, tôn trọng tính tối thượng của pháp luật, bảo vệ tối đa các quyền và lợi ích hợp pháp của nhà nước, của công dân trong điều kiện song song với sự phát triển của nền kinh tế, một số hành vi phạm tội mới cũng phát sinh như tội rửa tiền, tội phạm xuyên quốc gia, tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin, kinh doanh chứng khoán … đặt ra yêu cầu sửa đổi bổ sung một số điều của BLHS 1999 nhằm thể chế hoá những quan điểm, chủ trương mới của Đảng về cải cách tư pháp được thể hiện trong Nghị quyết số 08/NQ-TW ngày 02 tháng 01 năm 2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới và Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02 tháng 6 năm 2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, trong đó đáng chú ý là chủ trương “Hạn chế áp dụng hình phạt tử hình theo hướng chỉ áp dụng đối với một số ít loại tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Quy định là tội phạm đối với những hành vi nguy hiểm cho xã hội mới xuất hiện trong quá trình phát triển kinh tế – xã hội, khoa học, công nghệ và hội nhập quốc tế” [7].

Vì lẽ đó, việc sửa đổi, bổ sung Bộ luật hình sự 1999 là một đòi hỏi khách quan và cấp thiết trong điều kiện phát triển về kinh tế và xã hội lúc bấy giờ của nước ta nhằm góp phần khắc phục những bất cập, hạn chế nói trên, đáp ứng yêu cầu của thực tiễn và bảo đảm hiệu quả của cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm, đồng thời, đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế.

Tại kỳ họp thứ 5, Quốc hội khoá XII ngày 19.6.2009, đã thông qua Luật số 37/2009/QH12 sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự 1999 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01.01.2010. Trong đó, tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản quy định tại Điều 139 có 2 điểu sửa đổi đáng lưu ý. Thứ nhất là nâng giá trị tài sản bị xâm phạm từ 500.000 đồng lên 2.000.000 đồng, như vậy tất cả những hành vi xâp phạm dưới mức 2 triệu đồng đã được phi hình sự hóa. Thứ hai là bỏ hình phạt tử hình như vậy mức hình phạt cao nhất đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo BLHS 1999 sửa đổi bổ sung năm 2009 chỉ ở mức chung thân.

Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng
Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng

Việc bỏ hình phạt tử hình đối với tội này được cân nhắc trên cơ sở tương xứng giữa mức độ hình phạt với hành vi phạm tội trong điều kiện hiện tại, đảm bảo đủ răn đe phòng ngừa chung, tính nhân đạo của Nhà nước và cũng phù hợp với xu hướng chung của các nước trên thế giới là dần thu hẹp và tiến tới xoá bỏ hình phạt tử hình.

Điều 139 BLHS 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009 quy định tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản như sau:

1. “Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác có giá trị từ hai triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới hai triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm:

a) Có tổ chức;

b) Có tính chất chuyên nghiệp;

c) Tái phạm nguy hiểm;

d) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức;

đ) Dùng thủ đoạn xảo quyệt;

e. Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng;

g) Gây hậu quả nghiêm trọng.

3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm:

a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng;

b) Gây hậu quả rất nghiêm trọng.

4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân:

a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở lên;

b) Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.

5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến một trăm triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản, bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm” [4].

    1. 1.2. Khái niệm và các dấu hiệu pháp lý của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam
      1. 1.2.1. Khái niệm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

Theo Từ điển tiếng việt thông dụng năm 1996 thì “lừa” được định nghĩa là “dùng thủ đoạn mưu mẹo hoặc thủ đoạn gian dối làm cho người khác bị lầm mà tưởng thật. Trong đó, lừa bịp – lừa bằng thủ đoạn dối trá; Lừa dối – lừa bằng thủ đoạn nói dối; Lừa đảo – lừa bằng thủ đoạn xảo trá để chiếm đoạt của cải, tài sản; Lừa gạt – lừa để kiếm chác mưu lợi; Lừa lọc – lừa bằng mánh khóe, gian xảo nói chung” [25].

Từ điển Bách khoa toàn thư Việt Nam viết: “Lừa đảo là hành vi gian dối để làm người khác tin nhằm thực hiện những mục đích vụ lợi, trái pháp luật. Động cơ của người thực hiện hành vi lừa đảo là nhằm chiếm đoạt tài sản của người khác hoặc làm cho người khác hiểu sai sự thật mà tin tưởng ủng hộ mình. Để thực hiện thành công việc chiếm đoạt tài sản của người khác thì người có hành vi lừa đảo thường sử dụng những lời nói gian dối như: Thuyết trình, quảng cáo hay, tốt… nhưng tất cả những việc làm đó không đúng với bản chất của vật hoặc sự việc; người lừa đảo còn sử dụng các thủ đoạn và các hành vi gian dối khác như: Giả danh những người có uy tín có trách nhiệm quyền hạn, có địa vị cao trong xã hội hoặc làm giả các loại công văn, giấy tờ, chữ ký của những người có thẩm quyền để làm cho người có tài sản tin tưởng vào họ và giao tài sản” [27].

Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là một trong nhóm tội xâm phạm quyền sở hữu được quy định tại Chương XIV của BLHS 1999 sửa đổi bổ sung năm 2009, từ Điều 133 đến Điều 145 của chương này, có khách thể chung đó là quan hệ sở hữu. Theo khoa học luật hình sự, các tội xâm phạm sở hữu là những hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm hại đến quyền sở hữu tài sản của cơ quan, tổ chức hoặc của công dân.

Vì lý do đó, khái niệm về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản vừa thỏa mãn các yếu tố khái niệm chung của nhóm tội xâm phạm sở hữu, vừa có tính chất lừa đảo và các đặc thù riêng của hành vi lừa đảo trong việc hướng đến mục đích chiếm đoạt tài sản. Ta có thể khẳng định tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là một trong những tội xâm phạm sở hữu, thủ đoạn là dùng hành vi gian dối, đưa ra thông tin sai sự thật để người khác tin và tự nguyện giao tài sản cho nhằm chiếm đoạt tài sản đó ngay khi nhận được nó.

Theo Điều 139 BLHS 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009 quy định tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản như sau:

“1. Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác có giá trị từ hai triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới hai hai triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm:

a) Có tổ chức;

b) Có tính chất chuyên nghiệp;

c) Tái phạm nguy hiểm;

d) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức;

đ) Dùng thủ đoạn xảo quyệt;

e) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng;

g) Gây hậu quả nghiêm trọng.

3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm:

a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng;

b) Gây hậu quả rất nghiêm trọng.

4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân:

a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở lên;

b) Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.

5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến một trăm triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản, bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm” [4].

Từ những nội dung trình bày trên, ta có thể đưa ra khái niệm về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là một trong những tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt, được thực hiện bằng thủ đoạn gian dối.

Về cấu thành tội phạm, nó cũng như các tội phạm khác, phải có đủ 4 yếu tố gồm : Khách thể của tội phạm; Mặt khách quan của tội phạm; Chủ thể của tội phạm; Mặt chủ quan của tội phạm. Đây là các dấu hiệu pháp lý bắt buộc phải có đủ trong cấu thành tội phạm, nếu thiếu một trong các dấu hiệu pháp lý này thì không cấu thành tội phạm.

      1. 1.2.2. Khách thể của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

Như chúng ta đã biết, tất cả các hành vi xâm phạm đến quan hệ xã hội do luật nào bảo vệ thì đó là hành vi vi phạm pháp luật đó, riêng hành vi xâm phạm quan hệ xã hội được Luật Hình sự bảo vệ được xem đó là hành vi phạm tội, hành vi đó đã xâm hại đến khách thể của tội phạm là những quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ.

Từ tội phạm chúng ta sử dụng ở đây là thuật ngữ định danh để mô tả một cấu thành tội phạm nhất định, vì vậy việc sử dụng thuật ngữ biểu thị một hành vi phạm tội được quy định trong bộ luật hình sự là tội phạm không có nghĩa là người thực hiện hành vi đó là tội phạm, nếu không đủ các yếu tố cấu thành tội phạm và không có bản án có hiệu lực pháp luật của Tòa án.

Việc xâm hại có thể gây ra hoặc đe dọa rây ra thiệt hại cho quan hệ xã hội được Luật hình sự bảo vệ, đó là bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ của nhân dân, bảo vệ quyền bình đẳng giữa đồng bào các dân tộc, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức, bảo vệ trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa, chống mọi hành vi phạm tội; đồng thời giáo dục mọi người ý thức tuân theo pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm. Như vậy, việc đấu tranh phòng chống tội phạm là đấu tranh chống lại các hành vi có thể xâm hại đến các mối quan hệ được luật hình sự ghi nhận, bao gồm : “Độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội; quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức; tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự, tự do, tài sản, các quyền cũng như lợi ích hợp pháp của công dân; những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa” [4].

Khách thể của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản cũng tương tự như các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt khác, nhưng tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản không xâm phạm đến quan hệ nhân thân mà chỉ xâm phạm đến quan hệ sở hữu. Đây cũng là một điểm khác với các tội cướp tài sản (Điều 133), tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản (Điều 134), tội cướp giật tài sản (Điều 136) BLHS 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009. Chính có đặc điểm khác biệt này nên trong cấu thành tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, các nhà làm luật không quy định thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ là tình tiết định khung hình phạt. Vì vậy, nếu sau khi đã chiếm đoạt được tài sản, người phạm tội bị đuổi bắt mà có hành vi chống trả để tẩu thoát, gây chết người hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác thì tuỳ từng trường hợp cụ thể mà người phạm tội còn phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội giết người hoặc tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác.

Quan hệ sở hữu là quan hệ xã hội trong đó nó bao gồm quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản được tôn trọng và bảo vệ. Như vậy, tội phạm gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại đến một trong các quyền này đề xâm phạm quyền sở hữu. Nói cách khác, hành vi tác động làm biến đổi tính chất, tình trạng bình thường của những đối tượng vật chất – là một bộ phận của quan hệ sở hữu, là hành vi phạm tội xâm phạm sở hữu. Và theo đó, tài sản là đối tượng tác động của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản phải được thể hiện dưới dạng vật chất cụ thể, có giá trị và giá trị sử dụng, tài sản bao gồm: “Vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản” [2].

Như vậy, đối tượng của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản có thể thuộc bất cứ hình thức sở hữu nào được pháp luật thừa nhận và phải được thể hiện dưới dạng vật chất vì những gì không thuộc về thế giới vật chất sẽ không thể là đối tượng của hành vi chiếm đoạt.

Vấn đề quyền tài sản, là đối tượng tác động của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản khi nó tồn tại dưới dạng vật chất nào đó, được ghi nhận bời các giấy tờ có giá trị (chứng nhận, biên nhận, hóa đơn …) mà người nắm giữ nó sẽ sử dụng được giá trị được ghi nhận trên nó một cách trực tiếp và những giá trị đó là giá trị hữu hình, cũng có quyền tài sản không phải là đối tượng của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản khi không thỏa mãn các yếu tố trên. (di chúc cho tặng, giấy hứa tặng tài sản…)

Các loại quan hệ sở hữu là đối tượng tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản tác động rất rộng, nó bao gồm sở hữu cá nhân, sở hữu tập thể, sở hữu pháp nhân, sở hữu nhà nước … Tuy nhiên, về tính chất mà mức độ thì hành vi xâm phạm sở hữu của Nhà nước là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm i, khoản 3, Điều 48 của BLHS 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009.

LIỆN HỆ:

SĐT+ZALO: 0935568275

E:\DỮ LIỆU COP CỦA CHỊ YẾN\LUAN VAN VIEN HAN LAM\LUAT HINH SU DOT 2\LUAT HINH SU\NGUYEN TIEN HUNG + TRAN VAN TUNG

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *