Các tội phạm XPSH do NCTN thực hiện trên địa bàn tỉnh Quảng Nam

Các tội phạm XPSH do NCTN thực hiện trên địa bàn tỉnh Quảng Nam: tình hình, nguyên nhân và giải pháp phòng ngừa

Các tội phạm XPSH do NCTN thực hiện trên địa bàn tỉnh Quảng Nam: tình hình, nguyên nhân và giải pháp phòng ngừa

1. Tính cấp thiết của đề tài

Trong những năm qua, THTP do NCTN thực hiện ở nước ta có diễn biến hết sức phức tạp, chiều hướng gia tăng. Có nhiều vụ án đặc biệt nghiêm trọng mà đối tượng cầm đầu là NCTN gây ra hậu quả nghiêm trọng về nhiều mặt về kinh tế -xã hội đất nước, cho nhiều gia đình và cá nhân người phạm tội. Đây là vấn nạn gây nhức nhối toàn xã hội được Đảng, Nhà nước và các cơ quan bảo vệ pháp luật rất quan tâm bởi tính chất đặc biệt của chủ thể tội phạm là NCTN. Họ chưa có khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của mình một cách chuẩn xác theo các chuẩn mực của đạo đức, xã hội và pháp luật. Trước thực trạng THTP ngày càng diễn biến phức tạp, ngày 31-7-1998 Thủ tướng Chính phủ đã ký ban hành Nghị quyết 09/CP về tăng cường công tác phòng chống tội phạm trong tình hình mới và Quyết định 138 phê duyệt Chương trình quốc gia phòng chống tội phạm. Chương trình quốc gia phòng chống tội phạm có 4 đề án, trong đó nội dung của đế án 4 là: “Đấu tranh phòng, chống các loại tội phạm xâm hại trẻ em, tội phạm trong lứa tuổi chưa thành niên”. Công tác thực hiện đề án 4 được Ban chỉ đạo triển khai từ Trung ương đến địa phương. Tuy nhiên, THTP do NCTN thực hiện diễn ra khá phức tạp, nhìn chung có xu hướng gia tăng trong phạm vi cả nước. Trong các tội phạm do NCTN thực hiện, nhóm các tội XPSH chiếm tỉ lệ khá cao.

Đối với địa bàn tỉnh Quảng Nam trong thời gian qua, THTP có xu hướng gia tăng với tính chất, mức độ phạm tội ngày càng nghiêm trọng; phương thức tinh vi, thủ đoạn hoạt động ngày càng manh động và liều lĩnh; nhiều đối tượng sẵn sàng tấn công hoặc chống trả lực lượng làm nhiệm vụ; độ tuổi của đối tượng phạm tội ngày càng trẻ hóa nhất là những đối tượng trong lứa tuổi chưa thành niên. Đáng chú ý, tội phạm XPSH do NCTN thực hiện hàng năm có dấu hiệu gia tăng bất thường cả về số vụ và số đối tượng phạm tội; hậu quả thiệt hại gây ra ngày càng lớn cả về tài sản, sức khỏe, tính mạng, danh dự, nhân phẩm và gây ra dư luận xấu, tính chất của các vụ án ngày càng phức tạp, đối tượng tái phạm ngày càng nhiều, chủ yếu là các tội trộm cắp tài sản, cướp tài sản, cướp giật tài sản. Trong khi đó, hoạt động phòng ngừa, ngăn chặn NCTN phạm tội của các cơ quan Nhà nước, các tổ chức chính trị xã hội và lực lượng Công an tỉnh chưa đạt hiêu quả, sự phối hợp giữa các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị xã hội, các ban, ngành, đoàn thể các cấp trên địa bàn tỉnh chưa thật sự đồng bộ; nhận thức một số ban, ngành chưa quan tâm đến công tác phòng ngừa tội phạm do NCTN thực hiện mà cho đây là trách nhiệm của cơ quan Công an các cấp…

Xuất phát từ những vấn đề trên, việc nghiên cứu làm rõ thực trạng NCTN phạm tội về hình sự nói chung và phạm các tội XPSH nói riêng trên địa bàn tỉnh Quảng Nam, nhằm tìm ra nguyên nhân của THTP, từ đó đề xuất những giải pháp phòng ngừa, ngăn chặn có hiệu quả đối với các loại tội phạm này đang là yêu cầu cấp thiết hiện nay. Do đó, tác giả chọn đề tài “Các tội phạm XPSH do NCTN thực hiện trên địa bàn tỉnh Quảng Nam: tình hình, nguyên nhân và giải pháp phòng ngừa” làm đề tài luận văn thạc sĩ luật học.

2. Tình hình nghiên cứu của đề tài

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu: Mục đích nghiên cứu của luận văn này là nhằm phòng ngừa tội phạm XPSH do NCTN thực hiện. Trên cơ sở nghiên cứu thực trạng, nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm XPSH do NCTN thực hiện trên địa bàn tỉnh Quảng Nam, Luận văn phải kiến giải được một hệ thống các biện pháp nhằm góp phần nâng cao hiệu quả công tác phòng ngừa NCTN phạm các tội XPSH trên địa bàn tỉnh Quảng Nam.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu: Để đạt được mục đích, đề tài cần tập trung giải quyết những nhiệm vụ cụ thể đó là: Nghiên cứu về tình hình các tội phạm XPSH do NCTN thực hiện trên địa bàn tỉnh Quảng Nam từ năm 2010 – 2014; nguyên nhân của tình hình các tội XPSH do NCTN thực hiện trên địa bàn tỉnh Quảng Nam; dự báo và xây dựng các giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động phòng ngừa các tội phạm XPSH do NCTN thực hiện trên địa bàn tỉnh Quảng Nam.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Nghiên cứu về THTP XPSH do NCTN thực hiện trên địa bàn tỉnh Quảng Nam và thực trạng công tác phòng ngừa tội phạm này.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

Về mặt nội dung, đề tài luận văn được nghiên cứu dưới góc độ tội phạm học.

Về mặt không gian, luận văn được nghiên cứu trên địa bàn tỉnh Quảng Nam.

Về mặt thời gian, đề tài giới hạn trong 5 năm, từ 2010 đến 2014.

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu

5.1. Phương pháp luận: Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng, lý luận Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, những quan điểm cơ bản của Đảng và Nhà nước ta về giáo dục, bồi dưỡng thế hệ trẻ, về phòng ngừa đấu tranh chống tội phạm, bảo vệ an ninh trật tự.

5.2. Phương pháp nghiên cứu: Tác giả sử dụng các phương pháp thống kê, phân tích, tổng hợp trong quá trình phân tích THTP, đánh giá thực trạng hoạt động phòng ngừa. Đặc biệt, tác giả sử dụng phương pháp điều tra xã hội học, phương pháp chuyên gia để xác định nguyên nhân, điều kiện của tội phạm, đánh giá những thành công, hạn chế của hoạt động phòng ngừa tội phạm và xác định các biện pháp để phòng ngừa tội phạm.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài

6.1. Ý nghĩa lý luận: Góp phần làm phong phú, bổ sung về mặt lý luận đối với hoạt động phòng ngừa tội phạm nói chung và hoạt động phòng ngừa tội phạm do NCTN phạm tội nói riêng, đặc biệt là phòng ngừa tội phạm XPSH đối với NCTN.

6.2. Ý nghĩa thực tiễn: Luận văn sẽ đóng góp vào việc làm rõ tình hình các tội XPSH do NCTN thực hiện trên địa bàn tỉnh Quảng Nam. Kết quả nghiên cứu của đề tài luận văn nhằm có thể tham khảo để xây dựng đường lối, chính sách, quản lý xã hội; nhằm nâng cao hiệu quả phòng ngừa, ngăn chặn và tiến tới đẩy lùi các tội XPSH do NCTN thực hiện của cấp ủy, chính quyền và các ban, ngành đoàn thể xã hội của tỉnh Quảng Nam; đồng thời Luận văn có thể được dùng làm tư liệu tham khảo trong nghiên cứu, giảng dạy và học tập.

7. Cấu trúc của luận văn: Ngoài phần mở đầu, kết luận, luận văn được bố cục thành 3 Chương:

Chương 1: Tình hình các tội phạm XPSH do NCTN thực hiện trên địa bàn tỉnh Quảng Nam giai đoạn 2010 – 2014.

Chương 2: Nguyên nhân và điều kiện của tình hình các tội XPSH do NCTN thực hiện trên địa bàn tỉnh Quảng Nam.

Chương 3: Các biện pháp phòng ngừa các tội phạm XPSH do NCTN từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam.

Chương 1

TÌNH HÌNH CÁC TỘI PHẠM XÂM PHẠM SỞ HỮU

DO NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN THỰC HIỆN

TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG NAM

1.1. Khái niệm tình hình các tội xâm phạm sở hữu do người chưa thành niên thực hiện

1.1.1. Các tội xâm phạm sở hữu theo pháp luật hình sự Việt Nam và trách nhiệm hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội

1.1.1.1. Các tội xâm phạm sở hữu theo pháp luật hình sự Việt Nam

Các tội XPSH có tính chất chiếm đoạt là những hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định tại Chương XIV Bộ luật hình sự 1999, gồm: Tội cướp tài sản; Tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản; Tội cưỡng đoạt tài sản; Tội cướp giật tài sản; Tội công nhiên nhằm chiếm đoạt tài sản; Tội trộm cắp tài sản; Tội lừa đảo nhằm chiếm đoạt tài sản; Tội lạm dụng tín nhiệm nhằm chiếm đoạt tài sản, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý, xâm hại quan hệ sở hữu tài sản của Nhà nước, cơ quan, tổ chức và cá nhân.

Dựa vào quy định của BLHS và thực tiễn áp dụng, các tội XPSH có tính chất chiếm đoạt có hành vi khách quan khác nhau. Đó có thể là hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc có hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được (đối với tội cướp tài sản); hành vi bắt cóc con tin và hành vi đe dọa chủ tài sản (đối với tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản); hành vi đe dọa sẽ dùng vũ lực hoặc hành vi uy hiếp tinh thần người khác (đối với tội cưỡng đoạt tài sản); hành vi chiếm đoạt (đối với các tội cướp giật tài sản, công nhiên chiếm đoạt tài sản, trộm cắp tài sản và lừa đảo chiếm đoạt tài sản). Tuy nhiên, thủ đoạn, cách thức thực hiện hành vi và điều kiện khi thực hiện hành vi là khác nhau và chúng là dấu hiệu phân biệt các tội phạm có cùng hành vi chiếm đoạt với nhau. Cụ thể, đối với tội Cướp giật tài sản, dấu hiệu công khai là thuộc tính của hành vi chiếm đoạt và dấu hiệu nhanh chóng phản ánh thủ đoạn của người phạm tội; đối với tội Công nhiên chiếm đoạt tài sản, đó là dấu hiệu công nhiên (tính công khai của hành vi chiếm đoạt) và hoàn cảnh, điều kiện tự nhiên mà hành vi chiếm đoạt được thực hiện (chủ tài sản không có điều kiện ngăn cản cho dù người phạm tội không hề sử dụng thủ đoạn nào); đối với Trộm cắp tài sản, đó là thủ đoạn lén lút của người phạm tội khi thực hiện hành vi chiếm đoạt; đối với Lừa đảo chiếm đoạt tài sản, đó là thủ đoạn gian dối được thực hiện trước khi hành vi chiếm đoạt được thực hiện.

Về dấu hiệu lỗi, mục đích thuộc mặt chủ quan của tội phạm: Tất cả các tội XPSH có tính chất chiếm đoạt đều được thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp. Tức người phạm tội biết hành vi của mình nguy hiểm cho xã hội nhưng vẫn mong muốn thực hiện.

1.1.1.2. Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về trách nhiệm hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội

a. Nguyên tắc xử lý đối với người chưa thành niên vi phạm pháp luật

Quan điểm xuyên suốt trong đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam là “con người vừa là mục tiêu vừa là động lực phát triển đất nước”, trong đó trẻ em được ví như nguồn hạnh phúc của gia đình, tương lai của dân tộc, là chủ nhân tương lai kế tục sự nghiệp phát triển của đất nước. Cho nên, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước ta trong việc chăm sóc và giáo dục trẻ em là một lĩnh vực, chính sách đặc biệt, đều coi trẻ em – NCTN là đối tượng chăm sóc, bảo vệ và quan tâm đặc biệt, ngay cả khi trẻ em, NCTN là chủ thể vi phạm pháp luật, của tội phạm thì việc bảo vệ các quyền và lợi ích của họ cũng được tôn trọng và đặt lên hàng đầu, lấy mục địch xử lý giáo dục, phòng ngừa là chính.

b. Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về việc xử lý đối với người chưa thành niên phạm tội

Theo quy định của BLHS Việt Nam, NCTN phạm tội chỉ bị áp dụng 1 trong 4 loại hình phạt là: Cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ và hình phạt tù có thời hạn.

Trong 4 loại hình phạt có thể áp dụng đối với NCTN phạm tội thì có tới 3 hình phạt thuộc loại không tước tự do, duy nhất chỉ có hình phạt tù có thời hạn là bị tước tự do.

1.1.2. Nhận thức về người chưa thành niên và tội phạm do người chưa thành niên thực hiện

1.1.2.1. Khái niệm về người chưa thành niên

Điều 119 Bộ luật Lao động quy định: “Người lao động chưa thành niên là người lao động dưới mười tám tuổi”. Điều 20 Bộ luật Dân sự quy định: “NCTN là người chưa đủ mười tám tuổi, người thành niên là người đủ mười tám tuổi trở lên”. Khái niệm NCTN còn được đề cập trong Hiến pháp năm 1992, Bộ luật Hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009), Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003, Luật Phổ cập giáo dục tiểu học năm 1991, Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2013, Pháp lệnh thi hành án phạt tù năm 1993, Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2002 (sửa đổi bổ sung năm 2007, 2008) và một số văn bản quy phạm pháp luật khác. Tất cả các văn bản pháp luật đó đều quy định tuổi của NCTN là dưới 18 tuổi và quy định riêng những chế định pháp luật đối với NCTN trong từng lĩnh vực cụ thể.

NCTN bao gồm cả lứa tuổi trẻ em (dư­ới 16 tuổi) và người từ 16 tuổi đến dư­ới 18 tuổi, họ tuy đã phát triển nhưng chưa hoàn thiện về mọi mặt và cần được sự quan tâm bảo vệ, chăm sóc và giáo dục, được tạo những điều kiện thuận lợi nhất để trở thành người có ích cho xã hội.

Có thể đưa ra khái niệm NCTN như sau: NCTN là người dưới mười tám tuổi, chưa có sự phát triển đầy đủ về tâm sinh lý, chưa có nhiều kinh nghiệm sống và trình độ nhận thức còn hạn chế, thiếu bản lĩnh tự lập, dễ bị kích động, lôi kéo và khả năng kiềm chế bản thân chưa cao.

1.1.2.2. Khái niệm về tội phạm do người chưa thành niên thực hiện

NCTN phạm tội: Là người từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi có hành vi vi phạm vào các qui định trong BLHS và họ phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi của mình theo qui định của pháp luật hình sự nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Như vậy, nếu không nằm trong độ tuổi “từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi” thì hành vi vi phạm các quy định của BLHS của NCTN đó sẽ không cấu thành tội phạm. Yếu tố độ tuổi là rất quan trọng, đóng vai trò quyết định để xem xét một NCTN đã thực hiện các hành vi nguy hiểm cho xã hội trái với quy định của BLHS có phạm tội hay không.

Tội phạm do NCTN thực hiện: Là những hành vi nguy hiểm cho xã hội, có dấu hiệu tội phạm. Nhưng không phải mọi trường hợp NCTN thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội có dấu hiệu tội phạm đều làm phát sinh trách nhiệm hình sự đối với họ, mà tội phạm chỉ xuất hiện khi vấn đề trách nhiệm hình sự đặt ra.

Khái niệm tội phạm do NCTN thực hiện không đồng nhất với khái niệm NCTN phạm tội nhưng hai khái niệm này có mối liên hệ chặt chẽ với nhau. Khái niệm NCTN phạm tội là khái niệm dùng để chỉ một dạng chủ thể đặc biệt thực hiện hành vi phạm tội. Còn khái niệm tội phạm do NCTN thực hiện là khái niệm dùng để chỉ những tội phạm được thực hiện bởi một dạng chủ thể đặc biệt.

Như vậy, tội phạm do NCTN thực hiện là hành vi nguy hiểm cho xã hội được thực hiện bởi người từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi và theo quy định của BLHS người đó phải chịu trách nhiệm hình sự.

1.1.2.3. Đặc điểm tâm lý lứa tuổi của người chưa thành niên

Đặc điểm tâm lý NCTN phát triển theo những giai đoạn phù hợp với độ tuổi của các em. Tuy nhiên, ở lứa tuổi từ 14 đến 15 tuổi và từ 16 đến dưới 18 tuổi là giai đoạn phát triển tâm lý lứa tuổi có ảnh hưởng rất nhiều đến quá trình phạm tội của NCTN.

Việc nắm bắt đặc điểm phát triển tâm lý của NCTN cũng như về một số đặc điểm về tội phạm do NCTN thực hiện đóng vai trò rất quan trọng, giúp cho các cơ quan chức năng có những đối sách phù hợp, những giải pháp kịp thời để nhằm giúp cho NCTN phát triển bình thường, hình thành nên những phẩm chất đạo đức cá nhân tốt, có ý thức tập thể cao, tôn trọng pháp luật, không có các hành vi sai lệch, vi phạm pháp luật. Đây cũng là một trong những biện pháp chiến lược lâu dài trong các biện pháp phòng ngừa tội phạm nói chung và tội phạm do NCTN thực hiện nói riêng.

1.2. Phần hiện của tình hình tội phạm xâm phạm sở hữu do người chưa thành niên thực hiện trên địa bàn tỉnh Quảng Nam

1.2.1. Mức độ(thực trạng) của tình hình các tội phạm xâm phạm sở hữu do người chưa thành niên thực hiện trên địa bàn tỉnh Quảng Nam

Mức độ của THTP là đặc điểm định lượng của THTP, bao gồm tổng thể những hành vi phạm tội đã xảy ra trong thực tế và các chủ thể thực hiện hành vi đó trong một đơn vị thời gian và không gian nhất định.

a. Mức độ tổng quan

Mức độ tổng quan của THTP do NCTN thực hiện giai đoạn từ 2010 – 2014 trên toàn tỉnh Quảng Nam là 206 vụ với 369 bị cáo, tính tròn số, trung bình mỗi năm toàn tỉnh xét xử sơ thẩm 41 vụ 74 bị cáo là NCTN phạm tội các tội XPSH.

b. Mức độ hành vi

Tổng số các tội danh mà NCTN thực hiện là 6 tội danh, trong đó tội có tỷ lệ cao nhất là tội Trộm cắp tài sản với 120 vụ, chiếm tỷ lệ 58,2%, loại tội phạm này xảy ra hầu hết ở các huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh.

Tội phạm do NCTN gây ra chủ yếu là các tội: Trộm cắp tài sản; Cố ý gây thương tích;… Trong số các nhóm tội mà NCTN thực hiện thì nhóm tội XPSH như trộm cắp tài sản, tội cướp tài sản, tội cướp giật tài sản luôn chiếm tỉ lệ cao so với những nhóm tội khác do NCTN thực hiện. Qua khảo sát cho thấy số vụ và số NCTN phạm các tội XPSH ở tỉnh Quảng Nam chiếm tỷ lệ khá cao là 67,54% số vụ và 67,58% số NCTN phạm tội.

Như vậy, qua nghiên cứu NCTN ở tỉnh Quảng Nam có thể thấy NCTN vi phạm bất cứ loại tội phạm nào từ ít nghiêm trọng cho đến tội đặc biệt nghiêm trọng, đặc biệt chiếm tỷ lệ cao đó là nhóm tội XPSH.

1.2.2. Động thái (diễn biến) của tình hình các tội phạm xâm phạm sở hữu do người chưa thành niên thực hiện trên địa bàn tỉnh Quảng Nam

Diễn biến hay còn gọi là động thái của THTP chính là sự vận động tự nhiên của THTP theo thời gian. Mục đích của nghiên cứu diễn biến này là xác định xu hướng tăng hay giảm của THTP XPSH do NCTN thực hiện và làm rõ lý do của sự tăng hay giảm đó. Để làm rõ diễn biến của THTP XPSH do NCTN thực hiện từ năm 2010 đến năm 2014 trên địa bàn tỉnh Quảng Nam, cần phải sử dụng phương pháp so sánh định gốc và so sánh liên kế.

1.2.3. Cơ cấu của tình hình các tội phạm xâm phạm sở hữu do người chưa thành niên thực hiện trên địa bàn tỉnh Quảng Nam

a. Cơ cấu theo phương thức, thủ đoạn thực hiện tội phạm

Trên cơ sở nghiên cứu 90 bản án hình sự sơ thẩm với 135 bị cáo trên địa bàn tỉnh Quảng Nam giai đoạn 2010 -2014 cho thấy tùy theo từng loại tội khác nhau mà đối tượng đã sử dụng các phương thức khác nhau để thực hiện hành vi phạm tội. Qua nghiên cứu 90 bản án cho thấy 62% tội phạm được thực hiện dưới hình thức phạm tội đơn lẻ, 38% là hình thức đồng phạm nhưng hình thức phạm tội ở mức độ đồng phạm giản đơn.

b. Cơ cấu theo hình phạt ở cấp sơ thẩm

Trong thời gian từ năm 2010 – 2014 toàn tỉnh Quảng Nam đã xét xử sơ thẩm 206 vụ, 369 bị cáo phạm các tội XPSH là NCTN với các hình phạt như sau:

Trong 5 năm qua Tòa án cấp sơ thẩm của tỉnh Quảng Nam áp dụng hình phạt tù từ 3 năm trở xuống chiếm tỷ lệ cao nhất (47,4%), tiếp theo đó là hình phạt tù cho hưởng án treo chiếm (22,2%), hình phạt tù từ trên 3 năm đến 7 năm chiếm 13,6%, hình phạt cải tạo không giam giữ chiếm 7,6%, hình phạt tù từ 7 năm trở lên được áp dụng ít nhất (1,35%), còn những hình phạt khác chiếm tỷ lệ không nhiều.

c. Cơ cấu theo đặc điểm nhân thân người phạm tội

c.1. Cơ cấu về giới tính.

c.2. Cơ cấu về độ tuổi

c.3. Cơ cấu về trình độ học vấn

c.4. Cơ cấu theo hoàn cảnh gia đình

c.5. Cơ cấu theo địa bàn hoạt động phạm tội

c.6. Cơ cấu theo thời gian xảy ra tội phạm

c.7. Cơ cấu của tình hình các tội xâm phạm sở hữu do người chưa thành niên thực hiện trên địa bàn tỉnh Quảng Nam theo động cơ, mục đích phạm tội

1.3. Phần ẩn của tình hình tội phạm xâm phạm sở hữu do người chưa thành niên thực hiện trên địa bàn tỉnh Quảng Nam

1.3.1. Tội phạm ẩn khách quan

Đối với các tội XPSH thì loại tội phạm ẩn khách quan chiếm tỷ lệ cao, với các lý do xuất phát từ phía người bị hại, người làm chứng và lý do xuất phát từ chủ thể thực hiện tội phạm với các thủ đoạn tinh vi xảo quyệt.

1.3.2. Tội phạm ẩn chủ quan

Ở giai đoạn khởi tố, điều tra do phần lớn tài sản bị mất có giá trị không lớn nên không tập trung thỏa đáng thời gian và lực lượng để thực hiện điều tra, truy xét. Thậm chí có trường hợp do thái độ của một số cán bộ khi tiếp nhận tin báo về nhóm tội này từ phía người bị hại, thờ ơ, thiếu trách nhiệm, gây phiền hà về thủ tục trình báo…đã làm ảnh hưởng đến tâm lý người bị hại…

1.3.3. Tội phạm ẩn thống kê

Tội phạm ẩn thống kê bao gồm những hành vi phạm tội đã bị xử lý hình sự, tuy nhiên theo biểu mẫu thống kê của ngành tòa án thì về nguyên tắc là thống kê “vụ án và bị cáo theo tội danh nghiêm trọng nhất và hình phạt cao nhất”. Vì vậy, khi làm báo cáo thống kê đối với trường hợp bị cáo phạm nhiều tội mà trong đó có tội phạm nghiêm trọng hơn các tội XPSH như là tội giết người thì trong biểu mẫu thống kê chỉ xuất hiện vụ án với tội danh giết người. Do đó, trong trường hợp này nhóm tội XPSH sẽ bị ẩn.

Các tội phạm XPSH do NCTN thực hiện trên địa bàn tỉnh Quảng Nam: tình hình, nguyên nhân và giải pháp phòng ngừa
Các tội phạm XPSH do NCTN thực hiện trên địa bàn tỉnh Quảng Nam: tình hình, nguyên nhân và giải pháp phòng ngừa

Chương 2

NGUYÊN NHÂN CỦA TÌNH HÌNH CÁC TỘI XÂM PHẠM

SỞ HỮU DO NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN THỰC HIỆN

TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG NAM

2.1. Quan niệm về nguyên nhân và điều kiện của tình hình các tội xâm phạm sở hữu do người chưa thành niên thực hiện

Nguyên nhân của tình trạng tội phạm XPSH do NCTN thực hiện là những yếu tố tác động trực tiếp làm phát sinh ra tình trạng tội phạm đó của một phạm vi nhất định; còn điều kiện của tình trạng tội phạm XPSH do NCTN thực hiện là những hiện tượng xã hội thúc đẩy, tạo điều kiện thuận lợi làm nảy sinh tình trạng tội phạm đó.

2.2. Các nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm xâm phạm sở hữu do người chưa thành niên thực hiện trên địa bàn tỉnh Quảng Nam

2.2.1. Nguyên nhân và điều kiện về kinh tế – xã hội

Nguyên nhân về kinh tế xã hội là những nhân tố thuộc lĩnh vực kinh tế xã hội có thể tác động làm phát sinh tội phạm như tình trạng thất nghiệp, đói nghèo, tác động của mặt trái nền kinh tế thị trường, quá trình đô thị hóa và công nghiệp hóa, quá trình di dân…

2.2.2. Nguyên nhân và điều kiện về văn hóa, giáo dục

Nguyên nhân và điều kiện về văn hóa, giáo dục là những nhân tố hạn chế trong quá trình quản lý, triển khai thực hiện các chính sách, chương trình về văn hóa, giáo dục có thể tác động, ảnh hưởng làm phát sinh tội phạm.

2.2.3. Nguyên nhân và điều kiện về quản lý xã hội

Nguyên nhân và điều kiện về quản lý xã hội chính là những thiếu sót, bất cập trong hoạt động của các cơ quan chức năng có thẩm quyền quản lý trong lĩnh vực nhất định.

2.2.4. Nguyên nhân và điều kiện về pháp luật

Nguyên nhân và điều kiện về pháp luật chính là những thiếu sót, bất cập của pháp luật có thể tác động, ảnh hưởng làm phát sinh tội phạm.

Hệ thống chính sách, pháp luật liên quan đến hoạt động phòng ngừa vi phạm pháp luật của NCTN còn chưa hoàn chỉnh, công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật còn nhiều hạn chế.

Những chủ trương, chính sách pháp luật có liên quan đến hoạt động phòng ngừa thanh, thiếu niên phạm tội tuy đã có song còn tản mạn ở nhiều văn bản, chưa được hệ thống một cách độc lập như một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước. Từ đó dẫn đến thiếu các quyết sách cụ thể, trong thời gian qua, đã có một số quy định pháp luật cụ thể hóa các chủ trương này song còn mang tính đơn lẽ, chỉ giải quyết những vấn đề trước mắt, chưa có tính chiến lược.

2.2.5. Nguyên nhân và điều kiện về môi trường sống

2.2.5.1. Môi trường gia đình

Thứ nhất, gia đình thiếu sự quan tâm, giáo dục con cái.

Thứ hai, thiếu phương pháp giáo dục phù hợp.

Thứ ba, sự thiếu thống nhất về quan điểm giáo dục con cái giữa cha mẹ dẫn đến tình trạng bỏ rơi con cái, làm con cái hư hỏng, để con cái muốn làm gì thì làm, nhất là trong điều kiện kinh tế thị trường hiện nay ở nước ta.

Thứ tư, gia đình không hoàn thiện. Cấu trúc gia đình không hoàn hảo: bố hoặc mẹ bị chết, chết cả bố lẫn mẹ, bố mẹ ly hôn hoặc phải sống cảnh dì ghẻ, con chồng, sống với ông, bà, cô, dì, chú, bác, anh, chị hoặc phải sống một mình, sống lang thang. Thiếu người chăm sóc, giáo dục làm cho các em không định hướng được trong cuộc sống, do thiếu thốn tình cảm thường hay nảy sinh tâm lý tự ti, đôi khi tính tình bất thường, gặp phải điều kiện bất lợi trong cuộc sống sẽ bị người khác lợi dụng, lôi kéo nên dễ dẫn đến phạm tội.

2.2.5.2. Môi trường nhà trường

Trong nhà trường có hai vấn đề cần quan tâm:

Một là: Chương trình học ở nhà trường còn nhiều bất cập ở việc không cân đối thời lượng giữa các môn học làm cho học sinh vừa quá tải nhưng cũng vừa hổng kiến thức.

Hai là: Công tác quản lý, giáo dục các em ở nhà trường chưa chặt chẽ, chưa quan tâm đúng mức.

2.2.5.3. Môi trường xã hội

a. Những thiếu sót trong công tác giáo dục văn hóa – tư tưởng thông qua các phương tiện thông tin đại chúng như sách, báo, phim, ảnh….

b. Do thiếu sót trong công tác đấu tranh chống tội phạm và tệ nạn xã hội

Thời gian qua mặc dù các ngành, các cấp trên địa bàn tỉnh Quảng Nam đã tích cực triển khai các mặt công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm, bài trừ tệ nạn xã hội, nhưng các đối tượng này với phương thức thủ đoạn hoạt động ngày càng tinh vi, xảo quyệt luôn tìm cách dụ dỗ, lôi kéo các đối tượng thanh, thiếu niên đi vào con đường phạm tội.

c. Do những hạn chế, thiếu sót trong công tác quản lý, giáo dục NCTN vi phạm pháp luật ở địa bàn cơ sở.

Công tác quản lý, giáo dục NCTN vi phạm pháp luật ở địa bàn cơ sở còn chưa được các ngành các cấp quan tâm đúng mức. Thực tế cho thấy nhiều địa phương chỉ tập trung vào công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm mà xem nhẹ công tác này. Một số bàn ngành, tổ chức quần chúng còn có nhận thức chưa đầy đủ về vấn đề này, cho rằng trách nhiệm quản lý giáo dục trẻ em phạm tội là của cơ quan Công an

2.2.6. Nguyên nhân và điều kiện thuộc về người phạm tội

– Về mặt khách quan: Do sự phát triển mạnh mẽ tâm, sinh lý của NCTN. Ở độ tuổi này tồn tại đan xen nhiều tính cách: vừa tò mò, vừa thích khám phá, thích thể hiện mình với bè bạn cùng lứa tuổi để gây sự chú ý, trong khi đó kinh nghiệm sống của bản thân còn quá ít, khả năng tự chủ, tự kiềm chế, kiểm soát bản thân kém và dễ bị tác động, kích động bởi các sự việc, tình huống nhất định. Chính những yếu tố đó dễ dẫn đến các hành vi lệch chuẩn, vi phạm các chuẩn mực đạo đức xã hội, thậm chí thực hiện hành vi phạm tội mang tính bộc phát, nhất thời.

– Về mặt chủ quan: Nhận thức pháp luật, đặc biệt là pháp luật hình sự của một bộ phận thanh, thiếu niên còn hạn chế, trong khi ranh giới giữa phạm tội và không phạm tội rất mong manh. Đáng chú ý, mặc dù một số thanh thiếu niên am hiểu pháp luật nhưng tỏ ra coi thường, cố tình vi phạm pháp luật, sẵn sàng sử dụng công cụ, phương tiện có tính nguy hiểm cao để thực hiện hành vi phạm tội, tham gia các băng nhóm tội phạm…

Các tội phạm XPSH do NCTN thực hiện trên địa bàn tỉnh Quảng Nam: tình hình, nguyên nhân và giải pháp phòng ngừa
Các tội phạm XPSH do NCTN thực hiện trên địa bàn tỉnh Quảng Nam: tình hình, nguyên nhân và giải pháp phòng ngừa

Chương 3

CÁC GIẢI PHÁP PHÒNG NGỪA CÁC TỘI

XÂM PHẠM SỞ HỮU DO NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN

THỰC HIỆN TỪ THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG NAM

3.1. Dự báo tình hình các tội xâm phạm sở hữu do người chưa thành niên thực hiện trên địa bàn tỉnh Quảng Nam trong thời gian tới

Tác giả dựa trên cơ sở lý luận của Tội phạm học và cơ sở thực tế về tình trạng tội phạm xâm phạm sở hữu do NCTN thực hiện trên địa bàn tỉnh Quảng Nam để đưa ra dự báo. Xu hướng tội phạm xâm phạm sở hữu do NCTN thực hiện trên địa bàn tỉnh Quảng Nam trong thời gian tới có diễn biến phức tạp và theo chiều hướng gia tăng về tính chất, mức độ và số vụ phạm tội, phương thức, thủ đoạn thể hiện sự đa dạng, tinh vi và táo báo. Tội phạm xâm phạm sở hữu do NCTN thực hiện có mối quan hệ với các tội phạm khác do họ thực hiện.

3.2. Các biện pháp phòng ngừa người chưa thành niên phạm các tội xâm phạm sở hữu trên địa bàn tỉnh Quảng Nam

Từ dự báo xu hướng về tình hình tội phạm XPSH do NCTN thực hiện trong thời gian đến, theo tác giả cần phải tập trung thực hiện các nhóm biện pháp sau:

3.2.1. Các biện pháp về kinh tế – xã hội

Phát triển kinh tế là mục tiêu, động lực phát triển của toàn xã hội, là cơ sở để ổn định chính trị và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân. Phát triển kinh tế tạo cơ sở vật chất cho việc giải quyết các vấn đề xã hội như: giải quyết việc làm, nâng cao đời sống, nâng cao khả năng phát triển văn hóa, giáo dục, nâng cao dân trí nói chung, nhận thức cho NCTN nói riêng… Những yếu tố đó có tác động tích cực làm hạn chế, loại trừ các nguyên nhân THTP.

Tập trung lãnh đạo, chỉ đạo việc phát triển kinh tế bền vững trên địa bàn tỉnh, trong đó phát triển kinh tế, xây dựng cơ sở hạ tầng, chỉnh trang đô thị phải gắn liền với giải quyết việc làm và thực hiện tốt các chính sách an sinh xã hội, làm sao để người dân khi giải tỏa, đền bù, đến nơi ở mới phải có việc làm, thu nhập ổn định. Đẩy mạnh thực hiện chương trình xây dựng nông thôn mới trên địa bàn toàn tỉnh. Thực hiện có hiệu quả công tác xóa đói giảm nghèo, nâng cao chất lượng cuộc sống gia đình và tạo điều kiện để gia đình chăm sóc, giáo dục trẻ em, ổn định cuộc sống.

Việc áp dụng các biện pháp kinh tế để phòng ngừa tội phạm cần phải hạn chế để các hậu quả tiêu cực xã hội xảy ra và loại bỏ các yếu tố tiêu cực của các chính sách, biện pháp kinh tế.

Có chính sách cụ thể để hỗ trợ công tác đào tạo nghề, tạo việc làm cho các em có hoàn cảnh kinh tế gia đình khó khăn, nhất là số đối tượng chưa học xong chương trình phổ thông trung học.

3.2.2. Các biện pháp về văn hóa – giáo dục

a. Các biện pháp văn hóa

Đối với các hoạt động văn hóa lành mạnh, có ý nghĩa xã hội tích cực, cần phải có sự đầu tư xây dựng, mở rộng các khu vui chơi, giải trí, các trung tâm văn hóa, thể thao, các nhà thiếu nhi… để hướng cho lớp trẻ vào lối sống lành mạnh, có văn hóa; cần ưu tiên bố trí quỹ đất, kinh phí cho việc xây dựng, nâng cấp, duy trì hoạt động của các điểm vui chơi giải trí, các công trình, thiết chế văn hóa trong chương trình xây dựng nông thôn mới tạo sân chơi lành mạnh cho NCTN.

Đối với các cơ sở kinh doanh các dịch vụ văn hóa có tính nhạy cảm (thuộc ngành nghề kinh doanh có điều kiện về an ninh trật tự), trước khi cấp giấy phép kinh doanh đối với những cơ sở này cần có sự nghiên cứu đánh giá kỹ lưỡng tác động của nó đối với xã hội nói chung và giới trẻ nói riêng, kiên quyết thu hồi giấy phép kinh doanh đối với những cơ sở kinh doanh không lành mạnh, vi phạm các quy định của pháp luật.

Nâng cao chất lượng hệ thống thông tin, báo chí, internet. Đặt biệt là hệ thống các đại lý internet, thực hiện nghiêm túc quy định các điểm truy cập internet công cộng cách trường học 200m, không được hoạt động trong thời gian từ 23h hôm trước đến 08h hôm sau. Trong đó hạn chế tối đa các game bạo lực, có nội dung không lành mạnh có thể làm sai lệch hành vi của NCTN, đặc biệt là thanh thiếu niên.

b. Các biện pháp giáo dục

Phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu, đặc biệt là thế hệ trẻ do nhà trường đào tạo phải trung thực, năng động và sáng tạo, biết hợp tác và cạnh tranh lành mạnh, có hoài bão, có ý chí vươn lên, tự lập, lập nghiệp và góp phần đưa đất nước ra khỏi tình trạng nghèo nàn, lạc hậu. Trong đó trọng tâm là công tác phổ biến giáo dục pháp luật và coi nó là một bộ phận của công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, là nhiệm vụ của toàn hệ thống chính trị đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng. Gắn giáo dục pháp luật với giáo dục đạo đức, giáo dục văn hóa truyền thống và bồi dưỡng, rèn luyện kỹ năng sống, ý thức tự nguyện, tự giác tìm hiểu, chấp hành pháp luật trong quần chúng nhân dân nói chung và NCTN nói riêng.

3.2.3. Các biện pháp về quản lý xã hội

Tiếp tục phát huy vai trò lãnh đạo, chỉ đạo của Tỉnh ủy và Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Nam. Tăng cường trách nhiệm và nâng cao hơn nữa chất lượng, hiệu quả lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy đảng, chính quyền các huyện, thị xã, thành phố; các xã, phường, thị trấn trên địa bàn tỉnh trong phòng ngừa tội phạm nói chung và tội phạm XPSH do NCTN thực hiện nói riêng. Các cấp ủy đảng, chính quyền từ huyện đến xã cần bám sát thực tiễn địa bàn mình phụ trách để xây dựng nội dung, chương trình hành động với những biện pháp sát thực, hiệu quả, phù hợp, tránh áp dụng một cách máy móc dẫn đến việc lãnh đạo, chỉ đạo chung chung, kém hiệu quả.

Các cơ quan tiến hành tố tụng cần áp dụng đúng đắn, linh hoạt các quy định của Bộ luật Hình sự về chính sách xử lý đối với NCTN phạm tội để một mặt đấu tranh có hiệu quả với THTP; mặt khác tạo điều kiện để NCTN cải tạo, giáo dục họ trở thành công dân có ích cho xã hội, không mặc cảm với sai lầm, tội lỗi do mình gây nên.

Lực lượng cảnh sát nhân dân cần làm tốt công các tuyên truyền giáo dục pháp luật cho người dân với nội dung thống nhất, phù hợp với mọi lứa tuổi, mọi đối tượng phù hợp với trình độ nhận thức của họ.

Viện kiểm sát nhân dân: tăng cường công tác định hướng điều tra, tránh bỏ lọt tội phạm. Với chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp, Viện kiểm sát nhân dân phải kịp thời phát hiện những sơ hở của pháp luật hoặc trong việc thực hiện pháp luật của các cơ quan tư pháp.

Tòa án nhân dân chú trọng việc nâng cao chất lượng xét xử, áp dụng đúng đắn các quy định của pháp luật. Thông qua hoạt động xét xử, tòa án kịp thời phát hiện những sai sót trong công tác quản lý nhà nước, sơ hở của người bị hại, phương thức thủ đoạn mới của tội phạm. Từ đó phối hợp với các cơ quan chức năng trong phòng ngừa tội phạm. Tòa án cần đưa ra một số vụ án xét xử lưu động, thông qua đó sẽ làm tốt công tác tuyên truyền giáo dục pháp luật rộng rãi trong quần chúng nhân dân.

Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên phối hợp với công an cùng cấp có biện pháp cảm hóa, giáo dục, giúp đỡ NCTN lầm lỗi.

3.2.4. Các biện pháp về pháp luật

– Cấp ủy, chính quyền các cấp từ tỉnh đến cơ sở cần ban hành các Nghị quyết, Chỉ thị chuyên đề nhằm tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng và Nhà nước đối với công tác đấu tranh, phòng ngừa tội phạm do NCTN thực hiện trong đó có các tội phạm XPSH do NCTN thực hiện trên địa bàn tỉnh để thống nhất trong lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức triển khai thực hiện.

– Tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật cho các tầng lớp nhân dân, trong đó cần tập trung tuyên truyền pháp luật cho đối tượng thanh, thiếu niên.

Một là, phát huy vai trò của gia đình trong giáo dục pháp luật. Hai là, cần đổi mới mạnh mẽ hơn nữa về giáo dục pháp luật trong nhà trường và ở các cấp học. Ba là, chú trọng và nâng cao ý thức trách nhiệm của các ban, ngành, đoàn thể, các tổ chức chính trị – xã hội, tổ chức quần chúng, đặc biệt là vai trò của Đoàn Thanh niên, Hội Liên hiệp phụ nữ trong việc phổ biến, tuyên truyền, giáo dục pháp luật; cảm hóa, giáo dục thanh, thiếu niên hư, chậm tiến bộ, có nguy cơ vi phạm pháp luật; tổ chức nhiều hoạt động vui chơi, giải trí lành mạnh gắn với việc tổ chức các cuộc thi tìm hiểu pháp luật cho thanh, thiếu niên trên địa bàn toàn tỉnh.

3.2.5. Các biện pháp về môi trường sống

3.2.5.1. Biện pháp từ phía gia đình

3.2.5.2. Biện pháp từ phía nhà trường

3.2.5.3. Biện pháp từ phía xã hội

3.2.6. Các biện pháp tái hòa nhập cộng đồng đối với người chưa thành niên phạm tội

Hướng thiện và tái hòa nhập cộng đồng cho phạm nhân là NCTN là nội dung trọng tâm, xuyên suốt và là mục đích cuối cùng trong công tác giáo dục cải tạo họ, thể hiện chính sách hình sự nhân đạo của Đảng, nhà nước ta đối với người phạm tội nói chung và NCTN phạm các tội XPSH nói riêng, giúp họ trở thành người lương thiện, có ích cho gia đình và xã hội.

Về mục đích hướng thiện, triển khai nhiều hoạt động giáo dục cho phạm nhân thông qua việc giáo dục pháp luật, giáo dục công dân, dạy văn hóa, tổ chức các hoạt động vui chơi giải trí, dạy và truyền nghề cho phạm nhân; tổ chức các cuộc thi gồm các hình thức sân khấu hóa như : diễn kịch, ca hát… qua đó đã khơi gợi lòng hướng thiện, giúp phạm nhân có thêm nghị lực và niềm tin đễ sửa chữa lỗi lầm, phấn đấu học tập, cải tạo tiến bộ.

Về mục đích tái hòa nhập, tổ chức các lớp chuẩn bị tái hòa nhập cộng đồng cho người sắp chấp hành xong hình phạt tù để tư vấn, trang bị cho họ những kiến thức, kỹ năng cần thiết giúp họ thuận lợi hơn khi hòa nhập cộng đồng. Các biện pháp cụ thể bảo đảm tái hòa nhập cộng đồng cho người chấp hành xong án phạt tù bao gồm; thông tin, truyền thông giáo dục về hòa nhập cộng đồng cho người chấp hành xong án phạt tù. Quản lý, giáo dục, giúp đỡ người chấp hành xong án phạt tù… Đẩy mạnh các hoạt động giáo dục hướng thiện, tư vấn, định hướng nghề nghiệp, dạy nghề, giới thiệu việc làm cho phạm nhân và chuẩn bị kế hoạch để triển khai “ Đề án về hòa nhập cộng đồng” khi được Chính phủ phê duyệt, trong đó có việc thành lập website về hòa nhập cộng đồng, thành lập các cơ sở sản xuất để tổ chức việc làm và ổn định cuộc sống cho những người chấp hành xong án phạt tù có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, không nơi cư trú nhất định.

KẾT LUẬN

Vấn đề NCTN phạm tội thì từ trước đến nay đã có một số công trình nghiên cứu, đề cập. Song tiếp cận nó dưới góc độ nghiên cứu đi sâu tìm hiểu tình hình, nguyên nhân và giải pháp phòng ngừa trên địa bàn tỉnh Quảng Nam thì chưa được tác giả nào nghiên cứu. Đây là vấn đề hết sức cấp bách và cần được nghiên cứu một cách nghiêm túc và khoa học nhằm tìm ra giải pháp phòng ngừa các tội XPSH do NCTN thực hiện trong tình hình hiện nay. Đề tài “Các tội phạm XPSH do NCTN thực hiện trên địa bàn tỉnh Quảng Nam: tình hình, nguyên nhân và giải pháp phòng ngừa”, tác giả đã nêu lên và giải quyết xong được những vấn đề lý luận cơ bản là: NCTN phạm tội, đặc điểm tâm lý của NCTN, bước đầu luận văn đã cố gắng làm sáng tỏ thực trạng cũng như nguyên nhân của hiện tượng này. Trên cơ sở đó đề xuất các biện pháp phòng ngừa nhằm nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống loại tội phạm. Từ những kết quả nghiên cứu trên, có thể kết luận một số vấn đề sau:

Thứ nhất, tình hình các tội phạm sở hữu do NCTN thực hiện trên địa bàn tỉnh Quảng Nam giai đoạn 2010 – 2014, tuy có thời điểm giảm nhưng không đáng kể, xu hướng tăng vẫn là chủ đạo. Các yếu tố về điều kiện địa lý, kinh tế xã hội cũng có tác động đến sự gia tăng của loại hình phạm tội này. Tỷ lệ tuy chiếm không lớn trong tổng số tội phạm nói chung, nhưng nếu không có giải pháp phòng ngừa hữu hiệu thì đây sẽ là một nỗi lo rất lớn của đất nước, bởi thế hệ trẻ chính là tương lai của đất nước.

Thứ hai, nghiên cứu nhân thân NCTN phạm tội, nguyên nhân và điều kiện tội phạm do NCTN phạm tội có thể thấy các yếu tố về gia đình, nhà trường, môi trường sống có tác động đến việc nhận thức , động cơ hóa và hiện thực hóa hành vi của lứa tuổi chưa thành niên.

Thứ ba, yếu tố tâm sinh lý cơ bản của NCTN có tác động đến hành vi phạm tội, ở độ tuổi này là thời kỳ chuyển đổi mạnh mẽ về sinh lý và tâm lý nhưng ở mức độ không đồng đều, nên dễ bị tác động tâm lý tiêu cực dẫn đến hành vi lệch chuẩn về mặt đạo đức và vi phạm pháp luật.

Thứ tư, quản lý nhà nước lỏng lẻo, chưa đồng bộ và chặt chẽ đặc biệt trong quản lý các dịch vụ xã hội cũng gián tiếp làm gia tăng nguy cơ phạm tội XPSH của lứa tuổi chưa thành niên.

Đấu tranh phòng, chống các tội XPSH phải được tiến hành đồng bộ các giải pháp, phát huy sức mạnh tổng hợp toàn xã hội. Những giải pháp tác giả đưa ra có tính khả thi về mặt thực tiễn và hoàn thiện về mặt lý luận phục vụ tốt cho công tác này trước mắt cũng như lâu dài trên địa bàn tỉnh Quảng Nam.

Sau cùng, tác giả thấy rằng dù bản thân đã có nhiều cố gắng trong quá trình nghiên cứu và thực hiện đề tài, nhưng kết quả nghiên cứu này chỉ mới ở bước đầu, cho nên không thể tránh khỏi những hạn chế, khuyết điểm. Vì vậy, để luận văn được hoàn thiện hơn, tác giả kính mong nhận được sự đóng góp ý kiến từ các nhà khoa học, cán bộ trực tiếp làm công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm trong thực tiễn, các bạn đồng nghiệp./.

LIỆN HỆ:

SĐT+ZALO: 0935568275

E:\DỮ LIỆU COP CỦA CHỊ YẾN\LUAN VAN VIEN HAN LAM\LUAT HINH SU DOT 2\TOI PHAM HOC\TRAN NHAT CHÍ\SAU BAO VE

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *