Biện pháp quản lý hoạt động tự học của học sinh các trường THPT DTNT tỉnh Gia Lai

Biện pháp quản lý hoạt động tự học của học sinh các trường THPT DTNT tỉnh Gia Lai

Biện pháp quản lý hoạt động tự học của học sinh các trường THPT DTNT tỉnh Gia Lai

1. Lý do chọn đề tài

Hiện nay, nước ta đang bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Để theo kịp với sự phát triển nhanh chóng của khoa học công nghệ và đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế, nền giáo dục nước ta phải đào tạo ra được những con người phát triển toàn diện cả về phẩm chất và năng lực. Nghị quyết 29-NQ/TW ngày 04 tháng 11 năm 2013 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo đã chỉ rõ: “Phát triển giáo dục và đào tạo là nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Chuyển mạnh quá trình giáo dục từ chủ yếu trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học…”.

Thực hiện Nghị quyết của Trung ương Đảng về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, Bộ Giáo dục và Đào tạo đang triển khai đồng bộ các giải pháp đổi mới giáo dục phổ thông theo các mục tiêu phát triển năng lực và phẩm chất HS; thúc đẩy sáng tạo và tự học. Do đó, yêu cầu bồi dưỡng năng lực tự học cho HS đang trở nên cấp thiết, đòi hỏi tất cả các nhà trường phổ thông cần nỗ lực thực hiện.

Các trường THPT DTNT của tỉnh Gia Lai thuộc loại hình trường chuyên biệt với nhiệm vụ tạo nguồn đào tạo cán bộ người dân tộc thiểu số cho tỉnh. Trong những năm qua, việc nâng cao chất lượng học tập của HS luôn được các trường quan tâm. Tuy nhiên, chất lượng và hiệu quả học tập của HS chưa đạt được như mong muốn. Một trong những nguyên nhân chính là do năng lực tự học của đa số HS còn yếu, chưa tin tưởng vào khả năng tự học của bản thân, chưa biết cách tự học… Thực tế trên đây đòi hỏi phải có biện pháp quản lý phù hợp để nâng cao hiệu quả tự học của HS.

Xuất phát từ thực tiễn trên, chúng tôi chọn Biện pháp quản lý hoạt động tự học của học sinh các trường THPT DTNT tỉnh Gia Lai làm đề tài nghiên cứu của luận văn thạc sĩ.

2. Mục đích nghiên cứu

Trên cơ sở nghiên cứu lý luận về quản lý HĐTH và khảo sát đánh giá thực trạng quản lý các HĐTH của HS, luận văn đề xuất các biện pháp quản lý nhằm nâng cao hiệu quả quản lý HĐTH của HS các trường THPT DTNT tỉnh Gia Lai.

3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu

Khách thể nghiên cứu: HĐTH của học sinh các trường THPT DTNT.

Đối tượng nghiên cứu: Quản lý HĐTH của HS các trường THPT DTNT tỉnh Gia Lai.

4. Giả thuyết khoa học

Thực tế hiện nay HĐTH của HS các trường THPT DTNT tỉnh Gia Lai còn nhiều hạn chế, bất cập. Nếu đề xuất được các biện pháp quản lý phù hợp và đưa vào áp dụng trong các nhà trường thì sẽ nâng cao hiệu quả HĐTH của HS.

5. Nhiệm vụ nghiên cứu

– Nghiên cứu cơ sở lý luận về công tác quản lý HĐTH của HS các trường THPT DTNT;

– Khảo sát, phân tích, đánh giá thực trạng HĐTH và quản lý HĐTH của HS các trường THPT DTNT tỉnh Gia Lai;

– Đề xuất các biện pháp quản lý HĐTH của HS các trường THPT DTNT tỉnh Gia Lai trong giai đoạn hiện nay.

6. Phương pháp nghiên cứu

– Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận: phương pháp sưu tầm và nghiên cứu tài liệu; phương pháp tổng kết kinh nghiệm.

– Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn: phương pháp quan sát, phương pháp thực nghiệm, phương pháp điều tra, khảo sát ý kiến của các đối tượng liên quan.

– Các phương pháp hỗ trợ: phương pháp thống kê toán học để phân tích, xử lý các thông tin, số liệu thu được từ phương pháp cụ thể; trưng cầu ý kiến chuyên gia…

7. Phạm vi nghiên cứu

Đề tài nghiên cứu, khảo sát thực trạng HĐTH của HS và công tác quản lý của hiệu trưởng đối với HĐTH trong các trường PTDTNT tỉnh Gia Lai và trường THPT DTNT Đông Gia Lai từ 2012 – 2015; đề xuất các biện pháp quản lý HĐTH của HS các trường này giai đoạn 2015 – 2018.

8. Cấu trúc luận văn

Luận văn gồm 3 phần chính:

Mở đầu

Nội dung (gồm 3 chương):

Chương 1: Cơ sở lý luận về quản lý HĐTH của HS trường THPT DTNT

Chương 2: Thực trạng quản lý HĐTH của HS các trường THPT DTNT tỉnh Gia Lai

Chương 3: Biện pháp quản lý HĐTH của HS các trường THPT DTNT tỉnh Gia Lai

Kết luận và khuyến nghị

Biện pháp quản lý hoạt động tự học của học sinh các trường THPT DTNT tỉnh Gia Lai
Biện pháp quản lý hoạt động tự học của học sinh các trường THPT DTNT tỉnh Gia Lai

CHƯƠNG 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG TỰ HỌC

CỦA HỌC SINH TRƯỜNG THPT DTNT

1.1. KHÁI QUÁT LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ

Trong lịch sử phát triển của giáo dục, tự học và quản lý HĐTH là một vấn đề được nhiều nhà giáo dục trên thế giới quan tâm nghiên cứu. Song trong mỗi giai đoạn lịch sử nhất định, nó được đề cập dưới các góc độ và hình thức khác nhau. Các tác giả đã đã làm rõ vai trò của HĐTH, tự nghiên cứu tìm tòi, khám phá của bản thân người học, đó là cơ sở cho mọi sự thành công trong học tập.

1.1.1. Trên thế giới

Thời cổ đại, Khổng Tử (551 – 479 TCN), nhà giáo dục lỗi lạc của Trung Quốc rất quan tâm đến việc kích thích sự suy nghĩ, sáng tạo của học trò. Cách dạy của ông là gợi mở để học trò tìm ra chân lý nhằm phát huy tính năng động, sáng tạo, khả năng tư duy của người học. Ông nói: “Kẻ nào chẳng phấn phát lên để hiểu thông, thì ta chẳng giúp cho hiểu thông được. Kẻ nào chẳng ráng lên để tỏ ý kiến mình, thì ta chẳng khai phát cho được. Kẻ nào đã biết rõ một góc, nhưng chẳng chịu căn cứ vào đó để biết luôn ba góc kia, thì ta chẳng dạy kẻ ấy nữa” [18].

Socrates (469 – 339 TCN), một triết gia Hy Lạp cổ đại đã đưa ra quan niệm rất nổi tiếng: Giáo dục phải giúp con người tự khẳng định chính mình. Vận dụng quan điểm đó vào dạy học, ông cho rằng cần phải để cho người học tự suy nghĩ, tự tìm tòi, cần giúp người học tự phát hiện thấy sai lầm của mình và tự khắc phục những sai lầm đó.

Thời cận đại, J. A. Komenxky (1592 – 1670), nhà giáo dục lỗi lạc của Slovakia và nhân loại, “Ông tổ của nền giáo dục cận đại”, người đặt nền móng cho sự ra đời của nhà trường hiện nay đã khẳng định “Không có khát vọng học tập thì không thể trở thành tài năng, cần phải làm thức tỉnh và duy trì khát vọng học tập trong học sinh” [33, tr.274]. Năm 1632, ông cho xuất bản tác phẩm Khoa sư phạm vĩ đại, trong đó ông nêu tư tưởng: “Con người học không để mà học, nó phải học để sống và hành động trong cuộc đời”. Ông đề xướng phương pháp dạy phải sinh động, chống lại lối dạy roi đòn, đe nẹt, khuyến khích sự nảy nở tính cách, lương tri, tinh thần hiếu học, suy luận của lớp trẻ.

Trong thế kỷ XVIII – XIX, nhiều nhà giáo dục nổi tiếng như J. J. Rousseau (1712 – 1778), J. H. Petstalogie (1746 – 1827), K. D. Usinxki (1824 – 1871)… đều có chung quan điểm cần hướng cho học sinh nắm bắt kiến thức bằng cách tự tìm tòi và sáng tạo.

Trong giai đoạn hiện đại, các nhà giáo dục học đi sâu nghiên cứu khoa học giáo dục và đã khẳng định vai trò to lớn của tự học. Nhà giáo dục N. A. Rubakin (1862 – 1946) trong tác phẩm “Tự học như thế nào” đã bàn về phương pháp tự học, đề cập nhiều vấn đề về các phương pháp tự học. Từ lập luận “Thế nào là người có học thức”, tác giả đã phân tích rõ mối liên hệ giữa việc “Tự học và đặc tính riêng của từng người”. Và tự học tốt nhất là “đọc sách”, nhưng “phải đọc như thế nào?”, rồi phải “chọn sách” ra sao? Đây là những vấn đề được Rubakin hướng dẫn, phân tích rất tỉ mỉ [22].

Trên cơ sở kế thừa có phê phán các tư tưởng của các nhà giáo dục đi trước, những năm gần đây, ở các nước phương Tây nổi lên cuộc cách mạng tìm phương pháp giáo dục mới dựa trên hướng tiếp cận “lấy người học làm trung tâm” để phát huy năng lực nội sinh của con người. Đại diện cho tư tưởng này có John Dewey (1859 – 1952), nhà giáo dục nổi tiếng người Mỹ. Ông đưa ra quan niệm: “Học sinh là mặt trời, xung quanh có quy tụ mọi phương tiện giáo dục”. Một loạt các phương pháp dạy học theo quan điểm tư tưởng này đã được đưa vào thực nghiệm: “Phương pháp tích cực”; “Phương pháp hợp tác’’; “Phương pháp cá thể hóa”. Nói chung đây là các phương pháp mà người học không chỉ lĩnh hội kiến thức bằng cách nghe thầy giảng bài, mà còn phải bằng hoạt động tự học, tự tìm tòi lĩnh hội tri thức. Người thầy là người đạo diễn, thiết kế, tổ chức giúp cho người học biết cách làm, cách học [12, tr 7].

Theo John Dewey, nhà trường và giáo viên phải tạo ra một môi trường trong đó những hoạt động của trẻ chứa đựng cả những tình huống khó khăn, để từ đó người học tự tìm tòi và xây dựng kiến thức thông qua “kinh nghiệm” và “tư duy”, thông qua “trải nghiệm” của chính bản thân [15].

Trong những năm 30 của thế kỷ XX, nhiều nhà giáo dục Châu Á cũng đã quan tâm tới lĩnh vực tự học. T. Makiguchi, nhà sư phạm nổi tiếng người Nhật Bản đã trình bày những tư tưởng giáo dục mới trong tác phẩm “Giáo dục vì cuộc sống sáng tạo”. Ông cho rằng: “Mục đích của giáo dục là hướng dẫn quá trình học tập và đặt trách nhiệm học tập vào tay mỗi HS. Giáo dục có thể coi là quá trình hướng dẫn HS tự học mà động lực của nó là kích thích người học sáng tạo ra giá trị để đạt đến hạnh phúc của bản thân và của cộng đồng” [36].

Như vậy, vấn đề tự học của HS đã được nghiên cứu từ rất sớm trong lịch sử giáo dục và nó vẫn là vấn đề nóng bỏng cho các nhà nghiên cứu giáo dục hiện tại và tương lai, bởi vì tự học có vai trò quan trọng, quyết định mọi sự thành công trong học tập, là điều kiện đảm bảo hiệu quả, chất lượng của mọi quá trình giáo dục – đào tạo.

1.1.2. Ở Việt Nam

Hoạt động tự học đã được xã hội đặc biệt quan tâm và trở thành truyền thống của dân tộc. Chủ tịch Hồ Chí Minh là một tấm gương sáng về ý chí, quyết tâm trong tự học, tự rèn luyện. Trong tác phẩm “Sửa đổi lề lối làm việc” (1947), Người đã chỉ rõ cách học tập: “Phải lấy tự học làm cốt, cần có thảo luận và chỉ đạo hỗ trợ vào, cần phải biết sắp xếp thời gian và bài học cho khéo và mạch lạc với nhau”. Với Người, học và hoạt động cách mạng phải thực hiện suốt đời. Người luôn căn dặn: “Còn sống thì còn phải học, còn phải hoạt động cách mạng” [21, tr.67].

Hơn 50 năm qua, tư tưởng giáo dục của Hồ Chủ tịch đã trở thành cơ sở lý luận cho việc xác định chiến lược đào tạo con người, chủ trương, đường lối chỉ đạo phát triển nền giáo dục Việt Nam của Đảng ta qua các thời kỳ cách mạng. Nghị quyết Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII đã khẳng định: “Đổi mới phương pháp dạy học, nâng cao khả năng tự học, tự nghiên cứu của người học” [5, tr.6]. Quan điểm này tiếp tục được khẳng định ở các văn kiện Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ IX, X, XI, đặc biệt là Nghị quyết 29-NQ/TW ngày 04 tháng 11 năm 2013 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI “Về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế”.

Quán triệt đường lối của Đảng về giáo dục, từ những năm 60 của thế kỷ XX, trong các trường sư phạm ở miền Bắc nước ta đã có khẩu hiệu “Biến quá trình đào tạo thành quá trình tự đào tạo”. Đã có nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề tự học như: “Quá trình dạy – tự học” của Nguyễn Cảnh Toàn, Vũ Văn Tảo, “Luận bàn và kinh nghiệm về tự học” của Nguyễn Cảnh Toàn, “Tự học – chìa khóa vàng của giáo dục” của Phan Trọng Luận và nhiều công trình nghiên cứu về tự học của các nhà giáo dục như Hà Thế Ngữ, Đặng Vũ Hoạt, Nguyễn Ngọc Bảo, Hà Thị Đức, Thái Duy Tuyên,… Các tác giả đều khẳng định vai trò to lớn của tự học và đề cập đến nhiều khía cạnh của HĐTH như: phương pháp tự học; phương châm cơ bản đảm bảo thắng lợi của tự học; những trở ngại trong việc tự học và kinh nghiệm khắc phục…

Trong những năm gần đây, vấn đề tự học và quản lý HĐTH trong nhà trường cũng đã có khá nhiều luận văn thạc sĩ chuyên ngành Quản lý giáo dục nghiên cứu: Võ Hoàng Khải với “Các biện pháp quản lí nhằm tăng cường hoạt động tự học của sinh viên trường CĐSP Trà Vinh” (2006); Lữ Thị Hải Yến với “Các biện pháp quản lí của Hiệu trưởng đối với hoạt động tự học của sinh viên trường CĐSP Đăk Lăk” (2007); Phạm Quang Bảo với “Các biện pháp quản lý hoạt động tự học của học sinh trường Văn hóa I – Bộ Công an” (2009); Lê Minh Tuấn với “Các biện pháp quản lý hoạt động tự học của sinh viên trường Đại học TDTT Đà Nẵng theo hướng đáp ứng nhu cầu xã hội (2011); Phạm Văn Liên với “Biện pháp quản lý hoạt động tự học của học sinh trung học phổ thông huyện Tư Nghĩa tỉnh Quảng Ngãi ( 2012)

Mỗi tác giả đều có một cách tiếp cận riêng về vấn đề tự học, song đều tập trung xoay quanh những khía cạnh như: tìm hiểu tình hình tự học của học sinh, sinh viên; quản lý HĐTH của HS, sinh viên… Từ những góc độ khác nhau, các tác giả đều khẳng định vai trò, vị trí, tầm quan trọng của tự học, phân tích thực trạng HĐTH của HS, sinh viên và đưa ra các phương pháp, biện pháp để nâng cao hiệu quả của hoạt động tự học. Các tác giả đều khẳng định tự học có vai trò quan trọng trong quá trình đào tạo. Đó là cách thức giúp người học phát huy tính độc lập, chủ động, sáng tạo để chiếm lĩnh tri thức khoa học.

Như vậy, vấn đề tự học, tổ chức HĐTH nhằm phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của người học đã được nhiều nhà khoa học, nhiều nhà nghiên cứu quan tâm ở các khía cạnh khác nhau. Tuy nhiên, vấn đề quản lý HĐTH của HS các trường THPT DTNT trú tỉnh Gia Lai – loại hình trường phổ thông chuyên biệt mà trong đó tất cả HS là người dân tộc thiểu số vẫn là một vấn đề mới mẻ, chưa có công trình nghiên cứu nào đề cập đến.

1.2. CÁC KHÁI NIỆM CHÍNH CỦA ĐỀ TÀI

1.2.1. Quản lý

Bất kỳ một tổ chức nào, cơ cấu phức tạp hay đơn giản, quy mô rộng hay hẹp, theo mục đích gì đều cần có sự quản lý. Như vậy, quản lý là yếu tố không thể thiếu được trong đời sống xã hội, gắn liền với quá trình phát triển, đặc biệt trong xã hội phát triển như hiện nay thì quản lý có vai trò rất lớn.

Do đối tượng quản lý rất đa dạng, phong phú, hoạt động quản lý rất phức tạp tùy thuộc từng lĩnh vực cụ thể, nên định nghĩa về quản lý cũng có những cách khác nhau.

– Theo Từ điển tiếng Việt [26]: “Quản lý là việc tổ chức, điều khiển các hoạt động theo những yêu cầu nhất định”.

– Theo Từ điển Giáo dục học [13]: “Quản lý là hoạt động hay tác động có định hướng có chủ đích của chủ thể quản lý (người quản lý) đến khách thể quản lý (người bị quản lý) trong một tổ chức nhằm làm cho tổ chức vận hành và đạt được mục đích của tổ chức”.

Một số định nghĩa khác về quản lý:

– Quản lý là thiết kế và duy trì một môi trường, mà trong đó các cá nhân làm việc với nhau trong các nhóm có thể hoàn thành các nhiệm vụ và các mục tiêu đã định [27].

– Quản lý là tác động có định hướng, có chủ đích của chủ thể quản lý đến khách thể quản lý trong một tổ chức làm cho tổ chức đó vận hành và đạt được mục đích của tổ chức [19].

– Quản lý là việc bảo đảm sự hoạt động của hệ thống trong điều kiện có sự biến đổi liên tục của hệ thống và môi trường, là chuyển hệ thống tới trạng thái mới thích ứng với hoàn cảnh mới [17].

– Quản lý là sự tác động liên tục có tổ chức, có định hướng của chủ thể quản lý (người quản lý, tổ chức quản lý) lên khách thể quản lý (người bị quản lý và các yếu tố chịu ảnh hưởng tác động của chủ thể quản lý) về các mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội,… bằng một hệ thống các luật lệ, các chính sách, các nguyên tắc, các phương pháp và các biện pháp cụ thể nhằm làm cho tổ chức vận hành đạt mục tiêu quản lý [28, tr. 2].

– Với cách tiếp cận tình huống thì: “Quản lý là thiết kế và duy trì một môi trường, trong đó các cá nhân làm việc với nhau trong các nhóm có thể hoàn thành các nhiệm vụ và các mục tiêu đã định” [14, tr. 29].

– Theo cách tiếp cận hoạt động của tổ chức thì: “Quản lý là tác động có mục đích, có kế hoạch của chủ thể quản lý nhằm thực hiện các mục tiêu dự kiến”. [25].

Từ các định nghĩa trên, có thể nhận thấy thuật ngữ “quản lý” có nhiều cách thể hiện khác nhau, nhưng có chung nội hàm chủ yếu sau:

– Quản lý luôn luôn gắn liền với một tổ chức (hệ thống), trong đó chủ thể quản lý tác động đến khách thể quản lý nhằm đưa tổ chức đạt mục tiêu.

– Đối tượng quản lý có thể là một con người, sự vật cụ thể, một hoạt động… có thể trên quy mô một tổ chức (hệ thống), ngành, quốc gia, khu vực hay toàn cầu.

– Khách thể quản lý (một nhóm người hay một người bị quản lý) tiếp nhận trực tiếp hoặc gián tiếp các tác động của chủ thể quản lý.

– Phải có mục tiêu quản lý và mục tiêu hoạt động của tổ chức mà người quản lý và người bị quản lý hướng tới.

– Phải có phương tiện thực hiện mục tiêu (luật pháp, chính sách; bộ máy tổ chức và nhân sự; cơ sở vật chất; môi trường và thông tin cần thiết,…).

Tóm lại, có thể hiểu khái niệm quản lý như sau: Quản lý là quá trình tác động có kế hoạch, có định hướng của chủ thể quản lý lên khách thể quản lý nhằm đạt được mục tiêu đề ra của tổ chức.

LIỆN HỆ:

SĐT+ZALO: 0935568275

E:\DỮ LIỆU COP CỦA CHỊ YẾN\DAI HOC DA NANG\GIAO DUC HOC\Luận văn Võ Thành Nguyên 

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *