Biện pháp bắt người từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng

Biện pháp bắt người từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng

Biện pháp bắt người từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng

1. Tính cấp thiết của đề tài

Biện pháp bắt người là một trong những biện pháp ngăn chặn trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam. Đây được xem là chế định rất quan trọng của pháp luật tố tụng hình sự, là công cụ cưỡng chế có hiệu quả nhất của nhà nước trong hoạt động phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm. Đồng thời, cũng là phương tiện pháp lý để duy trì trật tự xã hội, bảo vệ trật tự pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân không bị xâm hại bởi các hành vi phạm tội.

Trong hoạt động phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm, biện pháp bắt người được các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng thường xuyên áp dụng nhất. Tuy nhiên, đây là biện pháp ảnh hưởng trực tiếp đến quyền nhân thân của con người được Hiến pháp quy định cho nên đòi hỏi cần phải được tiến hành một cách cẩn trọng, tỷ mỹ và chu đáo, về thẩm quyền, căn cứ, trình tự và thủ tục phải được thực hiện đúng theo quy định của pháp luật. Hơn nữa, đây còn là vấn đề hết sức nhạy cảm và phức tạp trong đời sống chính trị – xã hội, việc áp dụng không chỉ đơn thuần là sự vận dụng pháp luật thông thường mà còn cần phải cân nhắc tới nhiều yếu tố khác có liên quan, ảnh hưởng trực tiếp đến người bị bắt. Việc các chủ thể có thẩm quyền áp dụng đúng quy định pháp luật về biện pháp bắt người sẽ bảo vệ tối đa, có hiệu quả nhất đến quyền và lợi ích hợp pháp của công dân; ngăn chặn kịp thời hành vi phạm tội, ngăn ngừa việc tiếp tục thực hiện tội phạm, hành vi trốn tránh sự trừng trị của pháp luật hoặc hành vi cản trở, gây khó khăn cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự. Ngược lại, việc áp dụng không đúng quy định pháp luật về biện pháp bắt người sẽ gây ra tác hại to lớn đến nhiều mặt, xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, xâm hại thô bạo đến quyền tự do thân thể của cá nhân, tác động xấu đến quan điểm, đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước.

Nhận thức được tầm quan trọng của biện pháp bắt người, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách, pháp luật nhằm củng cố, hoàn thiện hệ thống pháp luật tố tụng hình sự, trong đó có biện pháp bắt người, như Chỉ thị số 53-CT/TW ngày 21/3/2000 của Bộ Chính trị về những nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp năm 2000; Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới; Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020; Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020; đặc biệt Hiến pháp năm 2013 ngày 28/11/2013 được ban hành với việc đề cao quyền con người đã có tác động tích cực đến việc áp dụng biện pháp bắt người. Chính vì vậy, việc áp dụng biện pháp bắt người ngày càng được chấn chỉnh, đi vào chiều sâu và đạt được những kết quả nhất định, góp phần quan trọng trong hoạt động phòng chống tội phạm, thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ của quá trình tố tụng hình sự.

Thành phố Đà Nẵng – một trong năm thành phố trực thuộc Trung ương của cả nước, là trung tâm kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội của khu vực miền Trung và Tây Nguyên. Trong những năm gần đây, cùng với quá trình đô thị hóa, phát triển nhanh của thành phố thì tình hình tội phạm có diễn biến cực kỳ phức tạp, số vụ án và số người phạm tội tăng nhanh với tính chất và mức độ phạm tội ngày càng nghiêm trọng. Trước tình hình đó, để kịp thời phát hiện, ngăn chặn tội phạm, hạn chế đến mức thấp nhất những thiệt hại do tội phạm gây ra thì việc áp dụng biện pháp bắt người luôn được các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng đặc biệt quan tâm, chú trọng và điều này đã phát huy được tính tích cực, hiệu quả cao trong công tác phòng chống tội phạm thời gian qua trên địa bàn thành phố. Tuy nhiên, thực tế thấy rằng việc áp dụng biện pháp bắt người tại thành phố Đà Nẵng vẫn còn một số tồn tại, hạn chế nhất định, vẫn còn tình trạng lạm dụng áp dụng biện pháp bắt người, bắt không đúng quy định của pháp luật, sai về căn cứ, trình tự, thủ tục, ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, vi phạm nguyên tắc pháp chế, làm suy giảm uy tín của cơ quan nhà nước, giảm sút lòng tin của quần chúng nhân dân đối với cơ quan bảo vệ pháp luật tại địa phương.

Những tồn tại, hạn chế nêu trên bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân khác nhau, trong đó phải kể đến việc quy định của pháp luật tố tụng hình sự về biện pháp bắt người chưa thật sự cụ thể, rõ ràng dẫn đến nhận thức, cách hiểu và cách áp dụng giữa các chủ thể có thẩm quyền tiến hành tố tụng không được thống nhất; hiệu quả công tác phối hợp giữa các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong hoạt động bắt người chưa cao; trình độ chuyên môn, nghiệp vụ vẫn còn hạn chế và sự sa sút về đạo đức chính trị, bản lĩnh nghề nghiệp của một số cán bộ tiến hành tố tụng,… Từ những lý do nêu trên, để giải quyết vấn đề lý luận và thực tiễn đang đặt ra, tác giả quyết định chọn đề tài: “Biện pháp bắt người từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng” để nghiên cứu làm đề tài luận văn thạc sĩ luật học của mình.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

Mục đích nghiên cứu của luận văn là góp phần làm rõ thêm những vấn đề lý luận về biện pháp bắt người theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam và thực tiễn thi hành biện pháp bắt người tại thành phố Đà Nẵng để kiến nghị các giải pháp bảo đảm thi hành đúng biện pháp này trong thời gian tới.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Để đạt được mục đích nghiên cứu, luận văn có các nhiệm vụ sau đây:

Thứ nhất, làm rõ thêm những vấn đề lý luận về biện pháp bắt người, như khái niệm, đặc điểm, mục đích và ý nghĩa của biện pháp bắt người; khái quát lịch sử quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về biện pháp bắt người.

Thứ hai, đánh giá đúng thực tiễn thi hành biện pháp bắt người tại thành phố Đà Nẵng, qua đó chỉ ra những ưu điểm, những tồn tại và hạn chế, cũng như nguyên nhân của những tồn tại và hạn chế đó.

Thứ ba, đặt ra yêu cầu bảo đảm thi hành đúng biện pháp bắt người và các giải pháp bảo đảm thi hành đúng biện pháp bắt người tại thành phố Đà Nẵng nói riêng và trong cả nước nói chung.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận về biện pháp bắt người trong tố tụng hình sự, thực tiễn thi hành biện pháp bắt người của các cơ quan có thẩm quyền THTT tại thành phố Đà Nẵng và các giải pháp bảo đảm thi hành đúng biện pháp bắt người.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận về biện pháp bắt người trong pháp luật Tố tụng hình sự Việt Nam từ năm 1945 đến nay và thực tiễn thi hành biện pháp bắt người của Cơ quan có thẩm quyền THTT tại thành phố Đà Nẵng trong thời gian là 5 năm (từ năm 2016 đến năm 2020).

Theo quy định của pháp luật thì biện pháp bắt người do nhiều chủ thể có thẩm quyền áp dụng nhưng trong giới hạn của mình, luận văn chỉ tập trung nghiên cứu và khảo sát số liệu chủ thể của cơ quan Cảnh sát điều tra, Công an thành phố Đà Nẵng.

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

5.1. Cơ sở lý luận

Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; về phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm.

5.2. Phương pháp nghiên cứu

Phương pháp tổng hợp, phân tích lịch sử, bình luận khoa học Tố tụng hình sự được sử dụng để nghiên cứu về những vấn đề lý luận và khái quát lịch sử quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về biện pháp bắt người.

Phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh luật học, thống kê hình sự, phương pháp nghiên cứu vụ án điển hình được sử dụng để đánh giá thực tiễn thi hành biện pháp bắt người tại thành phố Đà Nẵng.

Phương pháp tổng hợp, quy nạp, diễn dịch, phương pháp chuyên gia được sử dụng để nghiên cứu về yêu cầu và giải pháp bảo đảm thi hành đúng quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về biện pháp bắt người

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

6.1. Ý nghĩa lý luận

Luận văn góp phần bổ sung, hoàn thiện thêm hệ thống lý luận khoa học về biện pháp bắt người trong pháp luật Tố tụng hình sự Việt Nam.

6.2. Ý nghĩa thực tiễn

Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể là cơ sở cho những chuyên gia, các nhà lập pháp hình sự nghiên cứu, cân nhắc để sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện một số quy định của pháp luật về biện pháp bắt người, cũng như kịp thời ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành luật được chi tiết, cụ thể hơn, dễ áp dụng trong thực tiễn.

Vấn đề thực tiễn và giải pháp trong luận văn có thể được các cá nhân, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng nghiên cứu và vận dụng vào thực tế của đơn vị mình để nâng cao hiệu quả thi hành biện pháp bắt người trong quá trình giải quyết vụ án hình sự.

Ngoài ra, kết quả của luận văn còn có thể được dùng làm tài liệu tham khảo trong quá trình giảng dạy, học tập, nghiên cứu về chuyên ngành Luật hình sự và tố tụng hình sự .

7. Kết cấu của luận văn

Luận văn được thiết kế gồm 3 chương:

Chương 1: Những vấn đề lý luận và khái quát lịch sử quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về biện pháp bắt người

Chương 2: Quy định của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành về biện pháp bắt người và thực tiễn thi hành tại thành phố Đà Nẵng

Chương 3: Yêu cầu và giải pháp đảm bảo thi hành đúng quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về biện pháp bắt người

CHƯƠNG 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ KHÁI QUÁT LỊCH SỬ

QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM

VỀ BIỆN PHÁP BẮT NGƯỜI

1.1. Những vấn đề lý luận về biện pháp bắt người trong tố tụng hình sự

1.1.1. Khái niệm, đặc điểm, mục đích và ý nghĩa của biện pháp bắt người trong tố tụng hình sự

1.1.1.1. Khái niệm biện pháp bắt người

Trước khi đưa ra khái niệm về biện pháp bắt người, chúng ta cần hiểu rõ về biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự là gì?

Trong TTHS, để giải quyết vụ án kịp thời, chính xác, tạo điều kiện cho hoạt động tố tụng diễn ra nhanh gọn, hiệu quả, BLTTHS quy định hệ thống các biện pháp cưỡng chế. Hệ thống biện pháp cưỡng chế trong TTHS bao gồm nhiều hoạt động cưỡng chế khác nhau, như cưỡng chế để ngăn chặn, cưỡng chế để điều tra, thu thập chứng cứ và cưỡng chế để phục vụ cho hoạt động giải quyết vụ án. Trong các cưỡng chế thì cưỡng chế ngăn chặn là biện pháp cưỡng chế quan trọng, góp phần ngăn chặn, phòng ngừa tội phạm và những hành vi gây khó khăn cho hoạt động tố tụng, bảo vệ quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Các biện pháp cưỡng chế này gọi là các BPNC.

Hiện nay, các BPNC chưa có sự thống nhất về khái niệm trong BLTTHS mà BLTTHS chỉ quy định về căn cứ áp dụng các BPNC:

“1. Để kịp thời ngăn chặn tội phạm hoặc khi có căn cứ chứng tỏ người bị buộc tội sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc sẽ tiếp tục phạm tội hoăc̣ để bảo đảm thi hành án, cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong phạm vi thẩm quyền của mình có thể áp dụng biện pháp giữ người trong trường hợp khẩn cấp, bắt, tạm giữ, tạm giam, bảo lĩnh, đặt tiền để bảo đảm, cấm đi khỏi nơi cư trú, tạm hoãn xuất cảnh”.

2. Các trường hợp bắt người gồm bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp; bắt người phạm tội quả tang; bắt người đang bị truy nã; bắt bị can, bị cáo để tạm giam; bắt người bị yêu cầu dẫn”. [32]

Từ việc chưa có sự thống nhất về khái niệm về các biện pháp ngăn chặn, cho nên về mặt lý luận đã có nhiều quan điểm khác nhau:

Có quan điểm cho rằng: “BPNC là biện pháp cưỡng chế trong tố tụng hình sự áp dụng đối với bị can, bị cáo, người bị truy nã hoặc đối với những người chưa bị khởi tố (trong trường hợp khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang) nhằm ngăn chặn những hành vi nguy hiểm cho xã hội, ngăn ngừa họ tiếp tục phạm tội, trốn tránh pháp luật hoặc có hành động gây cản trở cho việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự[37]

Quan điểm khác thì: “BPNC là một loạt biện pháp do Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án áp dụng đối với người bị tình nghi phạm tội, đối với bị can, bị cáo và cả người bị kết án khi các cơ quan này có căn cứ cho rằng những người này sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án hoặc tiếp tục phạm tội”. [40]

Chúng ta có thể thấy, các quan điểm này đã phản ánh được phần nào về khái niệm về các BPNC trong pháp luật TTHS. Trên cơ sở các quan điểm nêu trên, cùng với việc nghiên cứu nội dung quy định tại Điều 109 BLTTHS năm 2015, tác giả xin đưa ra quan điểm của mình về BPNC như sau: “Biện pháp ngăn chặn là biện pháp trong pháp luật TTHS, do các chủ thể có thẩm quyền áp dụng đối với bị can, bị cáo; người đang bị truy nã hoặc người có liên quan đến việc thực hiện tội phạm chưa bị khởi tố khi có những căn cứ do luật định, theo trình tự thủ tục nhất định nhằm ngăn chặn tội phạm, ngăn ngừa họ tiếp tục phạm tội, cũng như không cho họ có những hành vi gây khó khăn cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án.

Các biện pháp ngăn chặn bao gồm: Giữ người trong trường hợp khẩn cấp; bắt; tạm giữ; tạm giam; bảo lĩnh; đặt tiền để bảo đảm; cấm đi khỏi nơi cư trú; tạm hoãn xuất cảnh”.

Từ những vấn đề nêu trên, có thể thấy rằng bắt người là biện pháp ngăn chặn, bao gồm các trường hợp: Bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp; bắt người phạm tội quả tang; Bắt người đang bị truy nã; Bắt bị can, bị cáo để tạm giam; Bắt người bị yêu cầu dẫn độ.

Đối với biện pháp bắt người trong TTHS, hiện nay cũng tồn tại rất nhiều các quan niệm và ý kiến khác nhau:

Theo Từ điển Luật học thì: “Bắt là một trong những biện pháp ngăn chặn mà Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát hoặc Tòa án áp dụng khi có căn cứ chứng tỏ bị can, bị cáo sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc sẽ tiếp tục phạm tội cũng như khi thấy cần thiết để đảm bảo thi hành án”.[43]

Giáo trình Luật TTHS Việt Nam của trường Đại học Luật Hà Nội thì: “Biện pháp ngăn chặn bắt người là biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự được áp dụng đối với bị can, bị cáo, người đang bị truy nã và trong trường hợp khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang thì áp dụng cả đối với người chưa bị khởi tố về hình sự nhằm kịp thời ngăn chặn hành vi phạm tội của họ, ngăn ngừa họ trốn tránh pháp luật, tạo điều kiện thuận lợi cho việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự” [37].

Tác giả Nguyễn Mai Bộ cho rằng:“Bắt người là giữ người phạm pháp lại, không cho tiếp tục tự do hoạt động, chặn đứng hành động phạm tội đề phòng người đó lẩn trốn, tự sát, tiêu hủy chứng cứ hoặc gây trở ngại cho việc điều tra. Bắt người là một trong những biện pháp cưỡng chế cần thiết nhất của Nhà nước để trấn áp, ngăn chặn những hành động phạm tội… Bắt người là một trong những BPNC do CQĐT, VKS, TA áp dụng đối với bị can, bị cáo và có thể đối với người chưa bị khởi tố nhằm ngăn chặn tội phạm, ngăn ngừa việc người phạm tội trốn tránh pháp luật, bảo đảm cho việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành hình sự được thuận lợi và đúng pháp luật [4].

Tác giả Nguyễn Trọng Phúc thì: “Bắt người trong TTHS là giữ người có hành vi phạm tội, không để cho họ tiếp tục phạm tội[24].

Như vậy, ở mức độ nhất định các quan điểm, ý kiến trên vẫn còn chưa được thỏa mãn, chưa bao hàm hết nội dung của BPBN. Theo tác giả, khái niệm về BPBN cần phải thể hiện được đầy đủ các dấu hiệu đặc trưng về bản chất, thẩm quyền, căn cứ, mục đích, đối tượng bị áp dụng. Từ những lập luận đưa ra và trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn thi hành BPBN, tác giả cho rằng:“BPBN là biện pháp ngăn chặn trong TTHS, do các chủ thể có thẩm quyền áp dụng đối với bị can, bị cáo, người đang bị truy nã, người bị yêu cầu dẫn độ hoặc người có liên quan đến việc thực hiện tội phạm chưa bị khởi tố khi có những căn cứ do luật định, theo trình tự, thủ tục nhất định, nhằm kịp thời ngăn chặn tội phạm, ngăn ngừa không để họ tiếp tục phạm tội, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự”.

1.1.1.2. Đặc điểm biện pháp bắt người

Với khái niệm về biện pháp bắt người, có thể thấy rằng biện pháp bắt người có các đặc điểm sau đây:

Thứ nhất, BPBN là mang tính cưỡng chế của nhà nước, chỉ được quy định trong BLTTHS.

Tính cưỡng chế thể hiện ở sự đơn phương quyền lực của nhà nước, áp đặt ý chí lên đối tượng bị áp dụng và bắt buộc đối tượng đó phải có nghĩa vụ chấp hành. Tuy nhiên, nhà nước phải bảo vệ, bảo đảm các quyền lợi của người bị bắt, việc thực hiện quyền lực này phải trong khuôn khổ của pháp luật; các căn cứ, trình tự, thủ tục và thẩm quyền áp dụng phải được tuân thủ nghiêm ngặt, chấp hành một cách triệt để. Do tính chất của BPBN là biện pháp cưỡng chế làm hạn chế quyền và lợi ích của đối tượng bị áp dụng trong một thời gian nhất định, cho nên chỉ có BLTTHS là văn bản pháp lý duy nhất quy định về biện pháp bắt người.

Thứ hai, chủ thể áp dụng biện pháp bắt người là những chủ thể có thẩm quyền theo luật định.

Đặc điểm này xuất phát từ yêu cầu vừa bảo đảm quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, sự thận trọng, khách quan của việc áp dụng, vừa đảm bảo sự nhanh chóng, kịp thời trong việc ngăn chặn tội phạm. Ngoài những người, cơ quan có thẩm quyền THTT theo quy định pháp luật TTHS thì đối với trường hợp phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã thì mọi công dân cũng có thẩm quyền bắt người.

Thứ ba, BPBN chỉ được áp dụng khi có căn cứ và phải tuân theo trình tự, thủ tục nhất định được quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự.

BPBN là biện pháp áp dụng có tính lựa chọn, chỉ được áp dụng trong trường hợp thật sự cần thiết vì mục tiêu của tố tụng hình sự. Không phải bất kỳ người nào có hành vi phạm tội cũng đều bị áp dụng BPBN, mà chỉ áp dụng trong trường hợp có căn cứ theo luật định. Pháp luật TTHS quy định các căn cứ áp dụng BPBN với từng trường hợp cụ thể. Trên cơ sở đó, cơ quan, người có thẩm quyền THTT quyết định áp dụng BPBN phù hợp với quy định của pháp luật TTHS, với thực tiễn phòng chống tội phạm và yêu cầu bảo vệ quyền con người, quyền công dân.

Khi áp dụng BPBN phải tuân thủ trình tự, thủ tục do pháp luật TTHS quy định là đòi hỏi bắt buộc. Không thực hiện đúng các quy định về trình tự, thủ tục khi áp dụng BPBN sẽ bị coi là vi phạm pháp luật tố tụng. Tùy theo tính chất, mức độ vi phạm sẽ bị xử lý hành chính, kỷ luật hoặc xử lý TNHS theo quy định của pháp luật. Người bị áp dụng có quyền khiếu nại, đề nghị huỷ bỏ, thậm chí có quyền đòi bồi thường thiệt hại nếu việc áp dụng BPBN gây ra những thiệt hại cho họ khi họ xét thấy việc áp dụng BPBN đối với họ là không có căn cứ, sai về thẩm quyền, trình tự và thủ tục tố tụng.

1.1.1.3. Mục đích biện pháp bắt người

Căn cứ vào phạm vi đối tượng bị áp dụng thì mục đích biện pháp bắt người bao gồm hai mục đích cơ bản sau:

Thứ nhất, biện pháp bắt người có mục đích ngăn chặn. Ngăn chặn không cho tội phạm tiếp tục xảy ra, gây thiệt hại cho xã hội, không để cho người phạm tội tiếp tục thực hiện tội phạm, trốn tránh sự trừng phạt của pháp luật hoặc gây cản trở, khó khăn cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự.

Thứ hai, biện pháp bắt người tạo điều kiện thuận lợi để các cơ quan THTT giải quyết vụ án một cách nhanh chóng, kịp thời và đúng pháp luật, như không để người phạm tội có thể xóa bỏ dấu vết phạm tội, tiêu hủy chứng cứ, làm giả chứng cứ, thông cung giữa những người phạm tội hoặc với người làm chứng, đảm bảo sự có mặt của bị can, bị cáo bị án khi có yêu cầu của cơ quan THTT.

1.1.1.4. Ý nghĩa biện pháp bắt người

– Biện pháp bắt người tạo ra cơ sở pháp lý cho việc ngăn chặn tội phạm trong quá trình tố tụng giải quyết vụ án hình sự:

Việc quy định BPBN trong BLTTHS là đòi hỏi tất yếu khách quan trong nhà nước pháp quyền, tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động áp dụng pháp luật của các chủ thể có thẩm quyền THTT giải quyết vụ án hình sự. Quan điểm nêu rõ “Bảo đảm cho hoạt động của các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng được thuận lợi, góp phần quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh phòng chống tội phạm” [37].

Thực tiễn cho thấy, nhiều vụ án do tính chất phức tạp, người thực hiện hành vi phạm tội cố tình trốn tránh, gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự. Do đó, việc áp dụng BPBN nhằm ngăn chặn kịp thời và có hiệu quả ngay từ đầu những hành vi thực hiện tội phạm hoặc hành vi trốn tránh, gây khó khăn cho việc xử lý người phạm tội. Cùng với đó, việc bắt các đối tượng này góp phần hạn chế đến mức thấp nhất những khó khăn mà người phạm tội có thể gây ra cho quá trình giải quyết vụ án.

– Biện pháp bắt người bảo đảm quyền con người, quyền công dân:

Điều 20 Hiến pháp 2013 quy định: “Không ai bị bắt nếu không có quyết định của TAND, quyết định hoặc phê chuẩn của VKSND, trừ trường hợp phạm tội quả tang. Việc bắt, giam, giữ người do luật định”. [28].

Với quy định này, Hiến pháp năm 2013 khẳng định quyền bất khả xâm phạm thân thể của mọi người trong xã hội và nhà nước có trách nhiệm tôn trọng, thiết lập cơ chế để bảo vệ các quyền cơ bản này. Đây là quy định có tính chất nguyên tắc, làm cơ sở pháp lý cho việc hình thành hệ thống pháp luật về bảo vệ quyền con người, quyền công dân, làm cho quyền này được triển khai, thi hành trên thực tế. Do vậy, việc quy định BPBN trong BLTTHS đã thể chế hóa tinh thần tôn trọng, bảo đảm và bảo vệ quyền con người của Hiến pháp năm 2013.

Nguyên tắc tôn trọng và bảo vệ quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân đối với mọi hoạt động TTHS trong BLTTHS năm 2015, một mặt đã cụ thể hóa tư tưởng, cách tiếp cận của Hiến pháp năm 2013 về quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, đồng thời là định hướng cho việc tôn trọng, bảo đảm quyền con người của các chủ thể có thẩm quyền TTHS. Nguyên tắc này, thể hiện các định hướng đối với các chủ thể có thẩm quyền THTT, cần phải tôn trọng quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân khi THTT, giải quyết vụ án hình sự. Các chủ thể có thẩm quyền chỉ được áp dụng BPBN khi có những căn cứ và trong khuôn khổ quy định của PLTTHS; thường xuyên kiểm tra, kiểm soát tính hợp pháp, hợp lý của việc áp dụng BPBN, nếu phát hiện có vi phạm pháp luật phải huỷ bỏ ngay các quyết định đó; khi những căn cứ áp dụng BPBN không còn hoặc không cần thiết thì các chủ thể có thẩm quyền THTT cần phải kịp thời huỷ bỏ hoặc thay thế các quyết định đó bằng một biện pháp khác phù hợp hơn.

1.1.2. Các trường hợp bắt người trong tố tụng hình sự

1.1.2.1. Bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp

Thứ nhất, về căn cứ áp dụng:

Bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp được áp dụng đối với người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp. Do đó, để xác định căn cứ áp dụng biện pháp bắt người này cần xác định được đối tượng bị giữ trong trường hợp khẩn cấp. Theo khoản 1 Điều 110 BLTTHS năm 2015, khi thuộc một trong các trường hợp sau đây thì được giữ người trong trường hợp khẩn cấp:

Một là, có đủ căn cứ để xác định người đó đang chuẩn bị thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng (điểm a khoản 1 Điều 110 BLTTHS):

Đây là trường hợp hành vi khách quan được quy định trong cấu thành của một tội phạm chưa xảy ra, mới chỉ thể hiện ở những hành vi tạo ra những điều kiện vật chất hoặc tinh thần giúp cho việc thực hiện hành vi phạm tội có thể xảy ra và xảy ra thuận lợi, dễ dàng hơn. Việc bắt người trong trường hợp này cần phải đảm bảo 2 điều kiện: 1) Cơ quan có thẩm quyền có đầy đủ tài liệu, chứng cứ khẳng định một người đang chuẩn bị thực hiện tội phạm, qua các hành vi “tìm kiếm, sửa soạn công cụ, phương tiện hoặc tạo ra điều kiện cần thiết khác để thực hiện tội phạm[42, tr158] rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng nên cần phải bắt ngay trước khi tội phạm được thực hiện; 2) Tội phạm mà người đó đang chuẩn bị thực hiện là tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Vì vậy, chỉ khi nào có căn cứ khẳng định hành vi chuẩn bị thực hiện một tội phạm rất nghiêm trọng (quy hình mức hình phạt trên 7 năm tù đến 15 năm tù) hoặc đặc biệt nghiêm trọng (quy định mức hình phạt trên 15 năm tù đến 20 năm tù, tù chung thân hoặc tử hình) thì mới bắt khẩn cấp.

Hai là, người cùng thực hiện tội phạm hoặc bị hại hoặc người có mặt tại nơi xảy ra tội phạm chính mắt nhìn thấy và xác nhận đúng là người đã thực hiện tội phạm mà xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó trốn (điểm b khoản 1 Điều 110 BLTTHS):

Khác với trường hợp thứ nhất là hành vi khách quan được quy định trong CTTP chưa xảy ra thì trong trường hợp này là hành vi phạm tội đã diễn ra và người phạm tội không bị bắt ngay lúc đó nhưng người cùng thực hiện tội phạm, người bị hại hoặc người có mặt tại nơi xảy ra tội phạm đã trực tiếp chứng kiến hành vi phạm tội và trực tiếp xác nhận đúng là người đã thực hiện hành vi phạm tội, xét thấy cần ngăn chặn người đó bỏ trốn. Như vậy, để bắt người trong trường hợp này cần đáp ứng 2 điều kiện:

– Phải có người bị hại hoặc người có mặt tại nơi xảy ra tội phạm chính mắt trông thấy, thông báo cho cơ quan có thẩm quyền biết và xác định đúng người thực hiện tội phạm. Trong trường hợp này, cơ quan, người có thẩm quyền phải tiến hành xác minh tố giác của người bị hại hoặc người có mặt tại nơi xảy ra tội phạm, đồng thời kiểm tra căn cước, lai lịch của người bị tố giác để đề phòng nhầm lẫn hoặc đề phòng vu khống. Theo quy định của pháp luật hiện hành, trường hợp một người có mặt tại nơi xảy ra tội phạm nhưng lại không tận mắt chứng kiến hoặc không có mặt tại nơi xảy ra tội phạm nhưng được người khác trực tiếp chứng kiến mô tả lại, kể lại hay thậm chí chính người bị hại trực tiếp xác nhận với cơ quan có thẩm quyền nhưng việc xác nhận chỉ mang tính chất phỏng đoán. Căn cứ của việc ra quyết định bắt khẩn cấp nhằm ngăn chặn người bị tố giác thực hiện tội phạm trốn là những tài liệu, chứng cứ chứng minh rằng người đó đã có hành động bỏ trốn sau khi thực hiện tội phạm hoặc đã bộc lộ ý định bỏ trốn sau khi bị phát giác, không có nơi cư trú nhất định, thuộc loại lưu manh, hoạt động có tính chất chuyên nghiệp.

– Xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó trốn, tức là người đã thực hiện hành vi phạm tội đang có hành động trốn hoặc chuẩn bị trốn hoặc xét thấy có khả năng để cho rằng người đó có thể trốn, khó có thể triệu tập khi cần thiết, như không có nơi cư trú rõ ràng, thuộc đối tượng lưu manh, côn đồ; chưa xác định được nhân thân,…Việc xét thấy cần ngăn chặn hay việc người đó trốn do chưa có quy định cụ thể nên chủ yếu chỉ dựa trên sự đánh giá của cơ quan, người có thẩm quyền vào từng trường hợp cụ thể.

Ba là, khi thấy có dấu vết của tội phạm ở người hoặc tại chỗ ở hoặc nơi làm việc hoặc trên phương tiện của người bị nghi thực hiện tội phạm và xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó trốn hoặc tiêu hủy chứng cứ (điểm c khoản 1 Điều 110 BLTTHS):

Dấu vết của tội phạm có thể là vật chứng của vụ án (công cụ, phương tiện phạm tội) hoặc những dấu vết khác có liên quan đến hành vi phạm tội. Dấu vết của tội phạm có thể được tìm thấy ở nhiều nơi, tại hiện trường vụ án, trên thân thể của bị hại,… nhưng theo trường hợp này thì dấu vết của tội phạm phải được phát hiện ở người hoặc tại chỗ ở hoặc nơi làm việc hoặc trên phương tiện của người bị nghi thực hiện tội phạm. Để phát hiện được dấu vết của tội phạm, cơ quan THTT có thể tiến hành nhiều biện pháp khác nhau, như kiểm tra hành chính, lấy lời khai người làm chứng, khám chổ ở, khám người,… Người bị nghi thực hiện tội phạm là những người mà cơ quan có thẩm quyền có những tài liệu, chứng cứ khẳng định họ có những biểu hiện bất minh về thời gian sinh hoạt, thái độ, hành động, kinh tế, quan hệ,… có liên quan đến tội phạm nhưng chưa thể khẳng định được, như khi vụ án xảy ra, người đó có mặt tại hiện trường hoặc sau khi vụ án xảy ra, người đó hoang mang, lo lắng hay dò hỏi về tiến độ điều tra vụ án. Tuy nhiên, cũng chỉ áp dụng biện pháp giữ khẩn cấp đối với họ khi cơ quan có thẩm quyền THTT xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó bỏ trốn hoặc tiêu hủy chứng cứ, như xoá dấu vết tội phạm, chôn giữ cất dấu công cụ, phương tiện phạm tội,…

Thứ hai, về thẩm quyền áp dụng:

Khoản 2 Điều 110 BLTTHS năm 2015 những người sau đây có quyền ra quyết định giữ người trong trường hợp khẩn cấp: a) Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra các cấp; b) Thủ trưởng đơn vị độc lập cấp trung đoàn và tương đương, Đồn trưởng Đồn biên phòng, Chỉ huy trưởng Biên phòng Cửa khẩu cảng, Chỉ huy trưởng Bộ đôị Biên phòng tỉnh , thành phố trực thuộc trung ương, Cục trưởng Cục trinh sát biên phòng Bộ đội biên phòng, Cục trưởng Cục phòng, chống ma túy và tội phạm Bộ đội biên phòng, Đoàn trưởng Đoàn đặc nhiệm phòng , chống ma túy và tội phạm Bộ đội biên phòng; Tư lệnh vùng lực lượng Cảnh sát biển, Cục trưởng Cục Nghiệp vụ và pháp luật lực lượng Cảnh sát biển , Đoàn trưởng Đoàn đặc nhiệm phòng, chống tội phạm ma túy lực lượng Cảnh sát biển; Chi cục trưởng Chi cục Kiểm ngư vùng; c) Người chỉ huy tàu bay, tàu biển khi tàu bay, tàu biển đã rời khỏi sân bay, bến cảng [32].

Thứ ba, về thủ tục áp dụng:

Theo khoản 4 Điều 110 BLTTHS thì “Trong thời hạn 12 giờ kể từ khi giữ người TTHKC hoặc nhận người bị giữ TTHKC thì CQĐT, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra phải lấy lời khai ngay và những người quy định tại điểm a, b khoản 2 Điều này phải ra quyết định tạm giữ, ra lệnh BNBG hoặc trả tự do ngay cho người đó. Lệnh BNBG trong THKC phải gửi ngay cho VKS cùng cấp hoặc VKS có thẩm quyền kèm theo tài liệu liên quan đến việc giữ người để xét phê chuẩn” [32]. Ở đây, lệnh BNBG trong THKC phải ghi rõ họ tên, địa chỉ của người bị giữ, lý do, căn cứ giữ người quy định tại khoản 1 Điều này và các nội dung quy định tại khoản 2 Điều 132 của Bộ luật này; hồ sơ đề nghị VKS phê chuẩn lệnh BNBG trong THKC được quy định tại khoản 5 Điều 110 BLTTHS gồm: văn bản đề nghị VKS phê chuẩn lệnh BNBG trong THKC; lệnh giữ người trong THKC, BNBG trong THKC, quyết định tạm giữ; biên bản giữ người trong THKC; biên bản ghi lời khai của người bị giữ trong THKC; chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan đến việc giữ người trong THKC.

Trước khi xem xét, quyết định phê chuẩn hoặc không phê chuẩn lệnh BNBG trong THKC, nếu xét thấy cần thiết, KSV phải trực tiếp gặp, hỏi người bị giữ trong THKC và biên bản ghi lời khai do KSV lập phải đưa vào hồ sơ vụ việc, vụ án. Trong thời hạn 12 giờ kể từ khi nhận được hồ sơ đề nghị xét phê chuẩn, VKS phải ra quyết định phê chuẩn hoặc quyết định không phê chuẩn. Trường hợp VKS quyết định không phê chuẩn lệnh BNBG trong THKC thì người đã ra lệnh giữ người trong THKC, CQĐT đã nhận người bị giữ trong THKC phải trả tự do ngay cho người bị giữ.

1.1.2.2. Bắt người phạm tội quả tang

Thứ nhất, về căn cứ áp dụng:

Theo quy định khoản 1 Điều 111 BLTTHS thì có 3 trường hợp bắt người phạm tội quả tang:

Một là, người đang thực hiện tội phạm thì bị phát hiện, bị bắt:

Đây là trường người đang thực hiện hành vi được mô tả trong cấu thành của một tội phạm cụ thể nào đó nên phải bắt để ngăn chặn ngay việc phạm tội, không để cho tội phạm tiếp tục xảy ra. Ví dụ: đang dùng vũ khí hoặc phương tiện nguy hiểm tấn công người khác; đang thực hiện hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác thì bị phát hiện và bắt giữ…

Đối với những tội phạm và hành vi phạm tội được thực hiện trong một thời gian dài, không bị gián đoạn thì bất cứ lúc nào phát hiện ra cũng đều là phạm tội quả tang (các tội được thực hiện bởi hành vi tàng trữ). Đối với hành vi phạm tội liên tục thì chỉ có thể bắt quả tang khi hành vi đó đang được thực hiện.

Chỉ có thể bắt người trong trường hợp đang thực hiện tội phạm khi một người đang thực hiện hành vi vi phạm pháp luật hình sự và phải có căn cứ rõ ràng, cụ thể. Còn đối với những tội phạm tuy đang diễn ra nhưng thiếu cụ thể, rõ ràng thì không thể bắt quả tang được. Đối với hành vi đang tiêu thụ tài sản do đã chiếm đoạt được (có sự gián đoạn về thời gian) thì không coi là phạm tội quả tang.

Hai là, ngay sau khi thực hiện tội phạm thì bị phát hiện, bị bắt giữ:

Đây là trường hợp người phạm tội vừa thực hiện tội phạm xong chưa kịp chạy trốn, chưa kịp cất giấu vật chứng hoặc đang tìm cách cất giấu vật chứng thì bị phát hiện và bị bắt. Các chứng cứ về hành vi phạm tội cụ thể, rõ ràng, như vật chứng, sự nhìn thấy của người làm chứng, người bị hại được thể hiện bằng các lời khai,… Trong trường hợp bắt quả tang này phải có chứng cứ chứng minh là kẻ đó vừa gây án xong, chưa kịp chạy trốn và sự phát hiện, bắt giữ người phạm tội phải xảy ra tức thời sau khi tội phạm được thực hiện, nghĩa là không được có sự gián đoạn về thời gian.

Ba là, đang hoặc ngay sau khi thực hiện tội phạm thì bị đuổi bắt:

Khác với hai trường hợp phạm tội quả tang nêu trên, trong trường hợp này người phạm tội không bị bắt ngay khi đang thực hiện tội phạm (trường hợp quả tang thứ nhất) hoặc bị bắt ngay sau khi thực hiện tội phạm (trường hợp quả tang thứ hai) mà có một khoảng thời gian nhất định đuổi bắt kẻ phạm tội. Tất nhiên, việc đuổi bắt phải xảy ra ngay sau khi phát hiện tội phạm và giữa hành vi đuổi bắt và hành vi chạy trốn phải có sự liên tục về thời gian.

LIỆN HỆ:

SĐT+ZALO: 0935568275

E:\DỮ LIỆU COP CỦA CHỊ YẾN\LUAN VAN VIEN HAN LAM\VIEN HAN LAM DOT 13/ LÊ ĐỨC PHẤN

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *