Định tội danh tội trộm cắp tài sản từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng

Định tội danh tội trộm cắp tài sản từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng

Định tội danh tội trộm cắp tài sản từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng

  1. Tính cấp thiết của đề tài

Sau 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới đất nước do Đảng lãnh đạo (Đại hội Đảng lần VI năm 1986), nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, vị thế ngày càng khẳng định, uy tín được nâng cao trên trường khu vực và quốc tế. Đất nước với sự chuyển dịch của nền kinh tế từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung sang cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, kinh tế đã đạt tốc độ tăng trưởng khá ấn tượng, đời sống của người dân được cải thiện, thu nhập không ngừng được nâng lên. Tuy nhiên, mặt trái từ nền kinh tế thị trường đã làm cho tình hình tội phạm diễn biến hết sức phức tạp, nhiều sự biến tướng của hành vi phạm tội mới với những thủ đoạn hết sức tinh vi, xảo quyệt, gây ra những thiệt hại lớn về người, tài sản cho nhà nước và công dân. Trước tình hình đó, Đảng và Nhà nước ta đã đề ra nhiều biện pháp khác nhau nhằm ngăn chặn, cố gắng đẩy lùi các loại tội phạm, đảm bảo được sự ổn định về chính trị, phát triển về kinh tế và bước đầu đã có sự chuyển biến tích cực, về cơ bản tình hình tội phạm đã được kiềm chế, nhiều loại tội phạm đã thuyên giảm rõ rệt.

Thành phố Đà Nẵng là 1 trong 5 thành phố trực thuộc Trung ương của cả nước, là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa, khoa học, xã hội của khu vực miền Trung và Tây Nguyên. Thời gian gần đây, do chính mặt trái của cơ chế thị trường và quá trình đô thị hóa diễn ra nhanh chóng, trong các loại tội phạm thì tội trộm cắp tài sản có sự chuyển biến rất khó lường, khó dự báo, xu hướng tăng lên cả về số vụ, số người phạm tội với tính chất, mức độ ngày càng nghiêm trọng, làm ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự, an toàn xã hội, gây ra nhiều lo lắng, bất ổn cho đời sống của người dân địa phương. Trước tình hình đó, để xử lý có hiệu quả nhất đối với loại tội phạm này, các cơ quan có thẩm quyền THTT thành phố Đà Nẵng đã không ngừng nổ lực nâng cao chất lượng hoạt động áp dụng pháp luật hình sự, trong đó xác định hoạt động định tội danh là hoạt động then chốt, có ý nghĩa quyết định nhất; phấn đấu mục tiêu không để xảy ra tình trạng oan sai, bỏ lọt tội phạm; hạn chế đến mức thấp nhất các quyết định, bản án bị hủy, sửa; đảm bảo tính công minh, thuyết phục, đúng pháp luật của các bản án đã tuyên.

Tuy nhiên, từ thực tại xét xử của Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng thấy rằng, hoạt động định tội danh tội trộm cắp tài sản của các cơ quan có thẩm quyền THTT còn có không ít những bất cập và hạn chế, số vụ án bị hủy, sửa vẫn còn tồn tại, một số trường hợp áp dụng không đúng quy định của pháp luật dẫn đến việc định tội, định khung, áp dụng tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS chưa chính xác. Vấn đề này, đã làm giảm đi hiệu quả hoạt động đấu tranh, phòng chống tội phạm, ảnh hưởng không nhỏ đến uy tín của cơ quan nhà nước và niềm tin của quần chúng nhân dân đối với các cơ quan bảo vệ pháp luật của thành phố. Những hạn chế, bất cập đó tựu chung do nhiều nguyên nhân khác nhau, có thể kể đến là do chính quy định của pháp luật còn chưa rõ ràng, khó hiểu; việc nhận thức trong hoạt động áp dụng pháp luật còn chưa thống nhất; trình độ, năng lực của một số cán bộ còn hạn chế, sự sa sút về đạo đức, tinh thần trách nhiệm của không ít cán bộ THTT,…

Với những lý do nêu trên, để làm rõ những vấn đề lý luận và giải quyết vấn đề thực tiễn cấp bách đang đặt ra, tác giả quyết định chọn vấn đề:“Định tội danh tội trộm cắp tài sản từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng” làm đề tài nghiên cứu khoa học của mình với mong muốn góp phần phục vụ trực tiếp cho công tác xử lý các vụ án hình sự liên quan đến tội phạm này.

  1. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
  2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

Mục đích nghiên cứu của đề tài là góp phần làm sáng tỏ thêm cơ sở lý luận, pháp luật của định tội danh tội trộm cắp tài sản và thực tiễn định tội danh tội trộm cắp tài sản tại thành phố Đà Nẵng để kiến nghị các giải pháp bảo đảm định tội danh đúng đối với tội phạm này trong thời gian tới.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Trên cơ sở mục đích nghiên cứu, luận văn có các nhiệm vụ sau đây:

Thứ nhất, phân tích làm rõ thêm cơ sở lý luận lý luận của định tội danh tội trộm cắp tài sản, như khái niệm, đặc điểm, mục đích, ý nghĩa của định tội danh tội trộm cắp tài sản; phân loại, các giai đoạn; các trường hợp của định tội danh tội trộm cắp tài sản và cơ sở pháp luật của định tội danh tội trộm cắp tài sản.

Thứ hai, khảo sát, đánh giá thực tiễn định tội danh tội trộm cắp tài sản tại thành phố Đà Nẵng, chỉ ra được những ưu điểm, tồn tại và hạn chế, cũng như nguyên nhân của những tồn tại và hạn chế đó .

Thứ ba, đặt ra yêu cầu định tội danh đúng tội trộm cắp tài sản và đề xuất các giải pháp bảo đảm định tội danh đúng tội trộm cắp tài sản tại thành phố Đà Nẵng nói riêng và trong cả nước nói chung.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của đề tài luận văn là quá trình và kết quả hoạt động định tội danh tội trộm cắp tài sản trên 3 phương diện: lý luận định tội danh tội trộm cắp tài sản, thực tiễn định tội danh tội trộm cắp tài sản tại thành phố Đà Nẵng và giải pháp bảo đảm định tội danh đúng tội trộm cắp tài sản.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

Đề tài luận văn được nghiên cứu về các nội dung liên quan đến hoạt động định tội danh tội trộm cắp tài sản, trên phạm vi không gian là địa bàn thành phố Đà Nẵng, cụ thể 07 Tòa án cấp huyện (Hải Châu, Thanh Khê, Liên Chiểu, Cẩm Lệ, Ngũ Hành Sơn, Sơn Trà, Hòa Vang) và 01 Tòa án cấp tỉnh (TAND thành phố Đà Nẵng) và phạm vi thời gian là 5 năm (từ năm 2016 đến 2020).

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

5.1. Cơ sở lý luận.

Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác-Lênin; tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật; các chủ trương, đường lối, quan điểm của Đảng, Nhà nước, chính quyền địa phương về xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân, về chiến lược cải cách tư pháp, về chính sách hình sự, đường lối xử lý đối với tội phạm nói chung và đối với tội trộm cắp tài sản nói riêng.

5.2. Phương pháp nghiên cứu

Trong quá trình nghiên cứu đề tài luận văn, tác giả đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể và phương pháp nghiên cứu đặc thù của khoa học luật hình sự, như phương pháp thống kê, phương pháp so sánh, đối chiếu, phương pháp lịch sử, phương pháp phân tích, tổng hợp, phương pháp diễn dịch, quy nạp và phương pháp chuyên gia.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn

6.1. Ý nghĩa lý luận

Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần bổ sung, hoàn thiện hơn kho tàng lý luận về định tội danh trong pháp luật hình sự Việt Nam nói chung và đối với tội trộm cắp tài sản nói riêng, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động đấu tranh phòng, chống tội phạm; bảo vệ quyền con người; quyền và lợi ích hợp pháp của nhà nước, tổ chức và công dân. Ngoài ra, việc nghiên cứu đề tài cũng đã tạo ra những ý tưởng mới, có tính gợi mỡ cho việc nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến các vấn đề này trong tương lai.

6.2. Ý nghĩa thực tiễn

Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong việc giải quyết các vụ án hình sự đối với tội trộm cắp tài sản. Đây còn là cơ sở để đưa ra những kiến nghị sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự liên quan đến định tội danh tội trộm cắp tài sản. Mặt khác, nội dung của luận văn có thể được sử dụng trong nghiên cứu, học tập của sinh viên, học viên, cán bộ nghiên cứu, giảng dạy tại các cơ sở đào tạo chuyên ngành luật.

7. Kết cấu của luận văn

Luận văn được thiết kế gồm 3 chương:

Chương 1. Cơ sở lý luận và pháp luật của định tội danh tội trộm cắp tài sản.

Chương 2. Thực tiễn định tội danh tội trộm cắp tài sản tại thành phố Đà Nẵng.

Chương 3. Yêu cầu và giải pháp bảo đảm định tội danh đúng tội trộm cắp tài sản.

Chương 1

cơ sở lý luẬn và pháp luật của đỊnh tỘi danh

TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

1.1. Cơ sở lý luận của định tội danh tội trộm cắp tài sản

1.1.1. Khái niệm, đặc điểm, mục đích và ý nghĩa của định tội danh tội trộm cắp tài sản

1.1.1.1. Khái niệm định tội danh tội trộm cắp tài sản

Hiện nay, vấn đề định tội danh đã được nghiên cứu bởi nhiều nhà khoa học luật hình sự. Tuy nhiên, mỗi nhà khoa học lại có các quan điểm khác nhau về khái niệm định tội danh:

Theo GS. TS. Võ Khánh Vinh cho rằng: “Định tội danh là một dạng hoạt động nhận thức, hoạt động áp dụng pháp luật hình sự nhằm đi tới chân lý khách quan trên cơ sở xác định đúng đắn, đầy đủ các tình tiết cụ thể của hành vi phạm tội được thực hiện, nhận thức đúng nội dung quy phạm pháp luật hình sự quy định CTTP tương ứng và mối liên hệ tương đồng giữa các dấu hiệu của cấu thành tội phạm với các tình tiết cụ thể của hành vi phạm tội bằng các phương pháp và thông qua các giai đoạn nhất định”. [38, tr.20]

Còn theo quan điểm GS. TSKH. Lê Cảm thì: “Định tội danh là một quá trình nhận thức lý luận có tính logic, đồng thời là một trong những dạng của hoạt động thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự, cũng như pháp luật TTHS và được tiến hành bằng cách trên cơ sở các chứng cứ, tài liệu thu thập được và các tình tiết thực tế của vụ án hình sự đối chiếu, so sánh và kiểm tra để xác định sự phù hợp giữa các dấu hiệu của hành vi nguy hiểm cho xã hội thực hiện với các dấu hiệu của CTTP cụ thể tương ứng do luật hình sự quy định”. [3, tr.11]

PGS. TS. Lê Văn Đệ nhận định: “Định tội danh là việc xác định và ghi nhận về mặt pháp lý sự phù hợp chính xác giữa các dấu hiệu của hành vi phạm tội cụ thể đã được thực hiện với các dấu hiệu của cấu thành tội phạm được pháp luật hình sự quy định”. [11, tr. 108]

Theo PGS. TS. Dương Tuyết Miên thì: “Định tội danh được hiểu là hoạt động thực tiễn của các cơ quan tiến hành tố tụng (Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án) và một số cơ quan khác có thẩm quyền theo quy định của pháp luật để xác định một người có phạm tội hay không, nếu phạm tội thì đó là tội gì, theo Điều luật nào của Bộ luật hình sự, hay nói cách khác đây là quá trình xác định tên tội cho hành vi nguy hiểm đã thực hiện”. [15, tr.9]

Có thể thấy rằng, mỗi một nhà nghiên cứu đều thể hiện quan điểm riêng của mình, song khái quát lại thì tất cả đều có những điểm chung là:

– Định tội danh là quá trình nhận thức của con người, mang tính lôgic về việc có sự phù hợp hay không phù hợp giữa dấu hiệu hành vi nguy hiểm cho xã hội đã xảy ra trên thực tế với dấu hiệu của một tội phạm cụ thể tương ứng, được quy định trong phần tội phạm của BLHS.

– Định tội danh cũng là hoạt động áp dụng pháp luật hình sự được thực hiện bởi các chủ thể có thẩm quyền trên cơ sở quy định của pháp luật.

– Định tội danh chính thức còn là nền tảng cho việc quyết định hình phạt và giải quyết các vấn đề khác có liên quan đến TNHS của người tội.

Từ những vấn đề trên, học viên mạnh dạn đưa ra khái niệm định tội danh của mình như sau: “Định tội danh tội là hoạt động thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự của các chủ thể có thẩm quyền theo quy định của pháp luật, trên cơ sở các chứng cứ, tài liệu đã thu thập được, để xác định về mặt pháp lý sự phù hợp giữa hành vi nguy hiểm cho xã hội với các dấu hiệu cấu thành tội phạm cụ thể được quy định trong BLHS”.

Đối với tội Trộm cắp tài sản, theo pháp luật hiện hành, là một tội phạm cụ thể được quy định tại Điều 173 BLHS năm 2015, Chương XVI Các tội xâm phạm sở hữu. Một người được xem là chủ thể của tội phạm này khi thỏa mãn các dấu hiệu: Thứ nhất, về mặt khách quan: tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội; Thứ hai, về mặt pháp lý: tội phạm là hành vi trái pháp luật hình sự; Thứ ba, về mặt chủ quan: tội phạm là hành vi do người có năng lực TNHS và đủ độ tuổi chịu TNHS thực hiện một cách có lỗi.

Trên cơ sở khái niệm định tội danh mà tác giả đưa ra, cùng với quy định của BLHS về tội Trộm cắp tài sản, có thể đưa ra khái niệm định tội danh tội Trộm cắp tài sản như sau: Định tội danh tội trộm cắp tài sản là hoạt động thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự của các chủ thể có thẩm quyền theo quy định của pháp luật, trên cơ sở các chứng cứ, tài liệu đã thu thập được, để xác định về mặt pháp lý sự phù hợp giữa hành vi nguy hiểm cho xã hội với các dấu hiệu cấu thành của tội Trộm cắp tài sản quy định tại Điều 173 BLHS, từ đó xác định một người có phạm tội Trộm cắp tài sản hay không, nếu phạm tội thì theo khoản, điểm nào của điều luật”.

1.1.1.2. Đặc điểm định tội danh tội trộm cắp tài sản

Trên cơ sở khái niệm đưa ra, có thể thấy định tội danh tội Trộm cắp tài sản có các đặc điểm như sau:

Thứ nhất, định tội danh tội trộm cắp tài sản là định tội danh về một loại tội phạm cụ thể được quy định tại Điều 173 BLHS.

Ngoài đặc điểm chung với tư cách là hoạt động nhận thức mang tính lôgic của con người thì định tội danh tội trộm cắp tài sản có đặc điểm riêng liên quan đến đặc điểm của hành vi trộm cắp tài sản xảy ra trong thực tế khách quan và quy định của BLHS về tội phạm này. Khác với nhiều tội phạm khác, để thực hiện được hành vi TCTS, người phạm tội đã thực hiện hành vi lén lút để lấy tài sản mà chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản không biết đến, chỉ sau đó họ mới biết mình đã bị mất tài sản. Chủ thể định tội danh phải đối chiếu, so sánh và đưa ra kết luận về việc có hay không có sự phù hợp giữa hành vi chiếm đoạt tài sản xảy ra với quy phạm pháp luật quy định về tội Trộm cắp tài sản trong BLHS hiện hành.

Thứ hai, định tội danh tội Trộm cắp tài sản là hoạt động áp dụng pháp luật hình sự của các chủ thể có thẩm quyền theo quy định của pháp luật.

Do đó, quá trình định tội danh phải được tuân theo những thủ tục chặt chẽ về mặt tố tụng, theo quy định của pháp luật hình sự thì mọi vi phạm pháp luật TTHS đều có nguy cơ dẫn đến oan sai, bỏ lọt tội phạm và người phạm tội, hạn chế hiệu quả hoạt động đấu tranh phòng, chống tội phạm. Để định tội danh được chính xác, phù hợp với các tình tiết thực tế khách quan của vụ án thì chủ thể định tội danh ngoài việc căn cứ quy định tại Điều 173 BLHS thì phải căn cứ cả quy định Phần chung của BLHS.

Thứ ba, cơ sở pháp luật của định tội danh tội Trộm cắp tài sản là Bộ luật hình sự (bao gồm Phần chung và Phần các tội phạm), cụ thể là toàn bộ nội dung của Điều 173 BLHS. Trong khi đó, mô hình pháp luật của việc định tội danh tội Trộm cắp tài sản chính là cấu thành tội phạm này, bao gồm 4 yếu tố: khách thể của tội phạm, mặt khách quan của tội phạm, chủ thể của tội phạm và mặt chủ quan của tội phạm.

Thứ tư, định tội danh tội trộm cắp tài sản liên quan đến vấn đề chứng cứ, tài liệu đã được thu thập, kiểm tra và đánh giá.

Đối với hình thức định tội danh không chính thức, các tình tiết của vụ án được mặc nhiên coi là đúng và đã được chứng minh bằng các chứng cứ đã thu thập được. Tuy nhiên, đối với hình thức định tội danh chính thức thì khác, xuất phát từ nguyên tắc: “Trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng” [19] nên chưa thể khẳng định ngay từ đầu là bị can đó có phải là người phạm tội trộm cắp tài sản hay không. Việc định tội danh tội TCTS được tiến hành song song với hoạt động thu thập, kiểm tra và đánh giá chứng cứ. Do đó, định tội danh tội TCTS phải gắn liền với hoạt động chứng minh tội phạm của các chủ thể có thẩm quyền.

1.1.1.3. Mục đích định tội danh tội trộm cắp tài sản:

Thứ nhất, định tội danh tội trộm cắp tài sản có mục đích góp phần bảo vệ quyền lợi về mặt kinh tế cho giai cấp thống trị xã hội.

Trong xã hội XHCN nước ta, hoạt động này bảo vệ quyền sở hữu hợp pháp tài sản cho các chủ thể trong xã hội, mà chủ yếu là tài sản của giai cấp công nhân và nhân dân lao động chống lại mọi hành vi xâm hại của đối tượng phạm tội.

Thứ hai, định tội danh tội TCTS góp phần đưa các quy phạm pháp luật nói chung và quy phạm pháp luật hình sự nói riêng vào thực tế cuộc sống. Điều này đã được khẳng định: “Đạo luật hình sự thể hiện ý chí về mặt Nhà nước của nhân dân ta đối với vấn đề đấu tranh với tình hình tội phạm. Việc tuân thủ nghiêm chỉnh đạo luật hình sự trong khi định tội danh là điều kiện cần thiết và quan trọng của việc thực hiện chính sách của Nhà nước nhằm khắc phục tình trạng tội phạm ở nước ta. Và theo Lênin: “Một đạo luật là một biện pháp chính trị, là chính trị”. Do vậy, định tội danh đúng là một biểu hiện của việc thực hiện đúng biện pháp chính trị, thực thi đúng chính trị, thực thi đúng ý chí của nhân dân đã được thể hiện trong luật, bảo vệ có hiệu quả các lợi ích của xã hội, của Nhà nước và của con người, của công dân”. [38, tr.29].

1.1.1.4. Ý nghĩa định tội danh tội trộm cắp tài sản:

Hoạt động định tội danh tội trộm cắp tài sản của các chủ thể có thẩm quyền có thể theo 2 xu hướng, đó là định tội danh đúng hoặc định tội danh sai

Thứ nhất, đối với hoạt động định tội danh đúng tội trộm cắp tài sản:

Định tội danh đúng là tiền đề cho việc quyết định hình phạt đúng: Định tội danh là cơ sở để áp dụng các chế tài hình sự được quy định tại Điều 173 BLHS, ngoài ra đây cũng là tiền đề để áp dụng các quy định khác của BLHS, như quy định về nguyên tắc xử lý; về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS; miễn trách nhiệm hình sự; miễn hình phạt; án treo; miễn, giảm thời hạn chấp hành hình phạt; xóa án tích; tái phạm, tái phạm nguy hiểm,…

Định tội danh đúng là cơ sở để ra các quyết định tố tụng chính xác: Trong quá trình tố tụng không bắt oan, sai người vô tội, không bỏ lọt tội phạm và người phạm tội.

Định tội danh đúng còn là cơ sở để xác định thẩm quyền điều tra, truy tố, xét xử đúng; xác định thời hạn điều tra, truy tố, xét xử cũng như thời hạn áp dụng các biện pháp ngăn chặn phù hợp với quy định của BTTHS đối với người phạm tội.

Thứ hai, đối với hoạt động định tội danh sai tội trộm cắp tài sản:

Định tội danh sai không chỉ làm cho việc QĐHP không chính xác, không công bằng, mà còn áp dụng không có căn cứ một loạt các biện pháp pháp lý khác (quyết định hình phạt bổ sung…), áp dụng hoặc không áp dụng đặc xá, miễn trách nhiệm hình sự, tính toán không đúng thời hiệu, án tích,… Cũng không kém phần có hại và bất công những trường hợp ngược lại, khi hành vi của người có lỗi CTTP nghiêm trọng hơn nhưng lại được định tội danh theo hướng nhẹ hơn. Trong trường hợp đó người có lỗi chịu hình phạt ít nghiêm khắc hơn so với hình phạt đáng lẽ người đó phải chịu theo pháp luật, còn tội phạm lại được giá nhẹ về đạo đức, chính trị và pháp lý một cách thiếu cơ sở. Điều đó làm giảm hiệu quả của công tác đấu tranh với tình hình tội phạm và cùng lúc gây sự công phẫn hợp pháp, công bằng của nhân dân, làm nảy sinh những quan niệm không đúng về thực trạng và các biện pháp đấu tranh với tội phạm, làm giảm uy tín của các cơ quan tư pháp. Rõ ràng đó là những vi phạm nghiêm trọng các đòi hỏi của nguyên tắc công bằng, pháp chế. [38, tr.29].

1.1.2. Phân loại và các giai đoạn định tội danh tội trộm cắp tài sản

1.1.2.1. Phân loại định tội danh tội trộm cắp tài sản

Căn cứ vào chủ thể tiến hành và hậu quả của việc định tội danh, có thể chia hoạt động định tội danh thành 2 loại: Định tội danh chính thức và định tội danh không chính thức.

  1. Định tội danh chính thức tội trộm cắp tài sản:

Khoa học luật hình sự cho rằng: “Định tội danh chính thức là sự đánh giá về mặt nhà nước, tính chất pháp lý hình sự về một hành vi phạm tội cụ thể do các chủ thể được Nhà nước ủy quyền thực hiện” [4, tr.23]. Do đó, định tội danh tội TCTS là hoạt động áp dụng pháp luật hình sự của cơ quan Điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án và các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra. Vì vậy, đặc điểm cơ bản của hình thức định tội danh chính thức tội Trộm cắp tài sản có thể được xác định như sau:

– Định tội danh chính thức tội TCTS là hoạt động mang tính tổ chức, quyền lực Nhà nước.

Chủ thể tiến hành hoạt động định tội danh được Nhà nước quy định rõ trong BLTTHS, đó là các cơ quan có thẩm quyền THTT (bao gồm: cơ quan tiến hành tố tụng và cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra) và người có thẩm quyền tiến hành tố tụng (bao gồm: người tiến hành tố tụng; người được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra). Những chủ thể nói trên tiến hành định tội danh tội TCTS khi thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình theo quy định của pháp luật.

– Định tội danh chính thức tội TCTS được tiến hành trong tất cả các giai đoạn tố tụng, từ khởi tố, điều tra, truy tố đến xét xử.

Từ kết quả xác minh nguồn tin, khi xác định có dấu hiệu của tội phạm, Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra phải sơ bộ tiến hành định tội danh. Trường hợp xác định có dấu hiệu của tội trộm cắp tài sản thì phải ra quyết định khởi tố vụ án, quyết định phải ghi rõ thời gian; căn cứ khởi tố; cụ thể các khoản, điểm trong điều luật và họ tên, chức vụ người ra quyết định. Các quyết định hay các văn bản tố tụng hình sự khác trong các giai đoạn tiếp theo, như quyết định khởi tố bị can; bản kết luận điều tra; bản cáo trạng và bản án đều phải thể hiện quan điểm chính thức của các chủ thể có thẩm quyền THTT trong đó. Trường hợp đã khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử về tội phạm khác, song trong quá trình hoạt động tố tụng mà phát hiện tội TCTS thì phải định tội danh lại, nghĩa là phải thay đổi tội danh trong các văn bản tố tụng hình sự nói trên và phải được thực hiện theo đúng trình tự, thủ tục quy định trong BLTTHS.

– Hậu quả pháp lý định tội danh chính thức tội TCTS là việc xác định TNHS đối với người phạm tội:

Khoa học Luật hình sự Việt Nam cũng như khoa học Luật hình sự các nước trên thế giới, đều thừa nhận nguyên tắc: “Một người chỉ phải chịu TNHS khi hành vi nguy hiểm cho xã hội của họ đã thỏa mãn đầy đủ các dấu hiệu CTTP được quy định trong BLHS và khi hành vi nguy hiểm cho xã hội đó thỏa mãn đầy đủ các dấu hiệu CTTP được quy định trong BLHS thì người thực hiện hành vi đó không tránh khỏi việc phải chịu TNHS”. Xuất phát từ nguyên tắc nói trên, khi có đầy đủ chứng cứ, chứng minh tội phạm thì tất yếu người thực hiện hành vi phạm tộị đó phải gánh chịu các biện pháp về TNHS, như hình phạt, các biện pháp tư pháp, biện pháp giám sát, giáo dục,… Việc người phạm tội phải gánh chịu các biện pháp đó, đều có liên quan đến hoạt động định tội danh chính thức. Nhưng cũng cần lưu ý rằng, việc định tội danh chính thức không đồng nghĩa với việc khẳng định đối tượng bị định tội phải gánh chịu kết quả của tất cả hoạt động định tội danh. Điều 13 BLTTHS năm 2015 quy định rõ: “Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật”. [19, Điều 13].

Như vậy, chỉ có duy nhất chủ thể là TAND, bằng một phiên tòa xét xử công khai với đầy đủ những chứng cứ thu thập được, mới có thẩm quyền đưa ra kết luận cuối cùng bằng một bản án có hiệu lực pháp luật về việc bị cáo là người phạm tội. Nói một cách khác, bản án có hiệu lực pháp luật của Tòa án là văn bản định tội danh cuối cùng, chính thức khẳng định về tội danh Trộm cắp tài sản đối với hành vi đã thực hiện.

  1. Định tội danh không chính thức tội trộm cắp tài sản:

“Định tội danh không chính thức là sự đánh giá pháp lý về hành vi phạm tội do các nhà nghiên cứu khoa học pháp lý, tác giả bài báo, tạp chí, công trình khoa học, sinh viên, học viên hoặc bất kỳ một người nào đó quan tâm nghiên cứu cụ thể vụ án này hay vụ án khác đưa ra” [37]. Khác với định tội danh chính thức, định tội danh không chính thức tội TCTS không phải do những chủ thể có thẩm quyền thực hiện theo quy định của pháp luật. Khái niệm “chính thức” ở đây phải được hiểu là chính thức về mặt Nhà nước. Định tội danh không chính thức không phải là sự đánh giá chính thức về mặt nhà nước, không được thể hiện trong các văn bản tố tụng và không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ pháp lý của đối tượng bị định tội danh.

Như vậy, có thể tóm tắt sự khác biệt cơ bản giữa định tội danh chính thức và định tội danh không chính thức tội trộm cắp tài sản qua một số điểm sau:

Một là, khác nhau về chủ thể tiến hành: Chủ thể tiến hành hoạt động định tội danh không chính thức tội TCTS có thể là bất kỳ ai quan tâm đến vụ án hình sự và nắm được các tình tiết của vụ án đó. Người định tội danh không chính thức có thể liên quan hoặc không đến hoạt động tố tụng, cần thấy rằng ngay bản thân những người có thẩm quyền THTT cũng có hoạt động tư duy theo hướng định tội danh cho hành vi chiếm đoạt tài sản của bị can, bị cáo. Trong thực thế, bị can, bị cáo cũng có thể định tội danh cho chính bản thân mình, đương nhiên họ có thể không thừa nhận hành vi phạm tội đã thực hiện, trong trường hợp này họ định tội danh theo hướng phủ định tội danh. Trường hợp khác, bị can, bị cáo thừa nhận đã phạm tội TCTS nhưng xin được hưởng lượng khoan hồng, giảm nhẹ mức hình phạt đã tuyên thì việc này là tự định tội danh theo hướng khẳng định. Cũng có thể bị can, bị cáo tiếp nhận kết quả định tội danh của các chủ thể khác, nhất là của các cơ quan, người có thẩm quyền THTT áp dụng cho họ. Người bị hại, người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự cũng có thể có hoạt động định tội danh không chính thức theo các hướng nêu trên. Tuy nhiên, phải thấy rằng chủ thể phổ biến của hoạt động định tội danh không chính thức là các nhà khoa học; những người đang nghiên cứu, giảng dạy, học tập trong lĩnh vực pháp luật, các chủ thể này quan tâm đến việc định tội danh vì đó chính là chuyên môn, nghề nghiệp, sở trường của họ đang theo đuổi. Chính vì vậy, định tội danh không chính thức có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc phát triển ngành khoa học pháp lý hình sự và là một trong những kênh để đưa lý luận tiếp cận với thực tiễn nhằm giải quyết hiệu quả các vụ án hình sự trong thực tế cuộc sống.

Hai là, khác nhau về hình thức thể hiện: Hình thức thể hiện của định tội danh chính thức là các quyết định hoặc văn bản tố tụng hình sự khác được ban hành bởi các cơ quan có thẩm quyền THTT. Trong khi đó, hình thức của định tội danh không chính thức lại chủ yếu là các công trình khoa học, các bài viết, bài báo đăng tải trên các Tạp chí chuyên ngành, ngoài ra còn có ở các văn bản, như đơn kháng cáo của bị cáo, người bị hại; bản luận cứ bào chữa của luật sư,… Do không phải là chính thức nên hình thức thể hiện không được pháp luật điều chỉnh mà được viết theo ý chủ quan của các chủ thể định tội danh không chính thức.

Ba là, khác nhau về hậu quả pháp lý: Kết quả của định tội danh không chính thức không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ pháp lý của đối tượng hoạt động định tội danh. Do không xuất phát, đại diện cho quyền lực nhà nước nên chủ thể của hoạt động định tội danh không chính thức không có quyền áp đặt các biện pháp cưỡng chế để bảo đảm cho kết quả định tội danh của mình. Tuy nhiên, nếu hoạt động định tội danh không chính thức được dư luận xã hội quan tâm, nhất là trong trường hợp nó đối lập hoàn toàn với kết quả định tội danh chính thức và phản ánh đúng thực tế, yêu cầu của pháp luật hình sự thì có thể xuất hiện khả năng có sự chuyển hóa từ định tội danh không chính thức thành định tội danh chính thức tội TCTS.

Trong thực tế không phải lúc nào việc định tội danh của các cơ quan, người có thẩm quyền THTT cũng luôn luôn đúng, điều đó được minh chứng ở các vụ oan sai, tuy không nhiều nhưng đã xảy ra và được dư luận quan tâm. Trong trường hợp này, có thể sẽ xuất hiện việc song hành định tội danh, một bên là định tội danh không chính thức bên ngoài xã hội và bên khác là định tội danh trong nội bộ cơ quan, người có thẩm quyền THTT. Các cơ quan, người có thẩm quyền THTT này có thể tham khảo kết quả định tội danh không chính thức bên ngoài xã hội của giới khoa học, những nhà nghiên cứu pháp lý và sự chuyển hóa hình thức định tội danh nói trên có thể xảy ra.

1.1.2.2. Các giai đoạn định tội danh tội trộm cắp tài sản

Thứ nhất, thu thập, kiểm tra và đánh giá toàn diện chứng cứ, chứng minh vụ án TCTS:

Hoạt động cơ bản và tiên quyết đối với định tội danh là việc tiếp cận, phân tích và đánh giá được tất cả các thông tin liên quan đến vụ án. Công việc đầu tiên của hoạt động định tội danh chính là việc các chủ thể có thẩm quyền tiếp nhận, thu thập thông tin, sau đó tiến hành kiểm tra, phân tích dưới góc độ pháp lý, tạo tiền đề cho việc đánh giá toàn diện chứng cứ, chứng minh sự thật khách quan của vụ án. Hoạt động này vừa là thẩm quyền, vừa là trách nhiệm đối với các chủ thể theo quy định của pháp luật, đặc biệt là ĐTV, KSV và TP.

Khi thực hiện quá trình định tội danh tội TCTS, các chủ thể có trách nhiệm tiến hành tiếp nhận thông tin, thu thập chứng cứ, sau đó làm cơ sở cho hoạt động kiểm tra, đánh giá và đưa ra nhận định cụ thể, toàn diện đối với vụ án, đặc biệt là các chứng cứ, chứng minh hành vi TCTS đã được thực hiện.

Từ những thông tin được tiếp nhận, cơ quan chức năng tiến hành xác minh thông tin, nắm bắt được các tình tiết, qua đó xác định trách nhiệm của mình trong việc thu thâp chứng cứ và giải quyết vụ án liên quan đến hành vi TCTS được trình báo. Mỗi thông tin được tiếp nhận, cơ quan chức năng có trách nhiệm chứng minh tính hợp pháp, hợp lý của thông tin thông qua việc tìm kiếm, xác thực, xác minh và thu thập các chứng cứ có liên quan. Sau khi các chứng cứ liên quan được thu thập thì cần được tiến hành kiểm tra, việc kiểm tra chứng cứ là căn cứ, cơ sở cho hoạt động đánh giá chứng cứ.

Trong vụ án, các chứng cứ, chứng minh cho hành vi phạm tội sau khi được thu thập sẽ được tiến hành kiểm tra nhằm xác thực lại hiện trạng của chứng cứ, phân loại và xác định vai trò của chứng cứ trong vụ án, xem đâu là chứng cứ có giá trị chứng minh, đâu là chứng cứ không có giá trị chứng minh. Sau đó, chứng cứ cần được đánh giá một cách toàn diện, xem xét về giá trị pháp lý cũng như giá trị chứng minh trong thực tiễn. Các chứng cứ này phải làm sáng tỏ sự thật khách quan, làm rõ được các thông tin, tình tiết của vụ án. Đồng thời, việc đánh giá toàn diện chứng cứ, chứng minh của vụ án phải được thực hiện thông qua việc xác định được mức độ và giá trị chứng minh của từng loại chứng cứ, từng hành vi và các vấn đề liên quan nhằm làm cơ sở xâu chuỗi, hệ thống lại toàn bộ chứng cứ, toàn bộ diễn biến của vụ án. Bên cạnh đó, ngoài giá trị chứng minh, các chứng cứ này cũng cần đảm bảo được tính hợp pháp của nó thông qua việc kiểm tra, xem xét về trình tự, thủ tục, thẩm quyền, phương pháp thu thập chứng cứ và bảo quản chứng cứ,…

Hoạt động thu thập, kiểm tra và đánh giá chứng cứ trong vụ án phải được tiến hành nhanh chóng, kịp thời, đúng thời hạn luật định. Trong thời hạn quy định của pháp luật, hoạt động thu thập, kiểm tra và đánh giá chứng cứ phải được tiến hành phù hợp với quá trình giải quyết vụ án. Các thông tin của vụ án cũng phải được nắm bắt đầy đủ, tránh trường hợp bỏ lọt chứng cứ hoặc không thể thu thập được chứng cứ do hiện trường vụ án bị thay đổi bởi các yếu tố chủ quan và khách quan. Hoạt động kiểm tra, đánh giá chứng cứ cũng cần được thực hiện kịp thời, phù hợp với tiến trình giải quyết vụ án nhằm đảm bảo cho việc làm sáng tỏ sự thật khách quan một cách nhanh chóng và giải quyết vụ án một cách hiệu quả, đảm bảo trình độ, năng lực làm việc của cơ quan có thẩm quyền, cũng như đảm bảo cho các quyền và lợi ích của các bên liên quan trong vụ án.

Chứng cứ của vụ án sau khi được thu thập, kiểm tra, đánh giá phải được thực hiện theo đúng thủ tục luật định, đảm bảo giá trị pháp lý và giá trị chứng minh. Khi chứng cứ được đưa vào phục vụ cho hoạt động định tội danh thì có vai trò vô cùng quan trọng, không chỉ trong việc làm sáng tỏ sự thật khách quan mà còn quyết định đến mức độ TNHS của người thực hiện hành vi phạm tội. Việc đánh giá sai hoặc đánh giá không toàn diện chứng cứ sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến tiến trình giải quyết vụ án, cũng như quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể liên quan trong vụ án.

Do đó, khi tiến hành hoạt động định tội danh, các chứng cứ của vụ án phải được thu thập, kiểm tra và đánh giá một cách đầy đủ, toàn diện. Việc thu thập, kiểm tra và đánh giá chứng cứ, chứng minh cho vụ án TCTS phải được thực hiện một cách khách quan, toàn diện. Trách nhiệm thu thập, kiểm tra và đánh giá thuộc thẩm quyền của cơ quan và người có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Vì vậy, khi thực hiện các hoạt động thu thập, kiểm tra và đánh giá chứng cứ, cần thực hiện thông qua kết quả bằng các văn bản, tài liệu mang tính chứng minh, xác thực và đảm bảo cho việc thu thập, kiểm tra và đánh giá chứng cứ đã được thực hiện theo đúng quy định của pháp luật. Việc thu thập, kiểm tra và đánh giá chứng cứ đã đảm bảo được tính nguyên vẹn, đầy đủ, phục vụ cho hoạt động giải quyết vụ án. Bên cạnh đó, việc kiểm tra, đánh giá chứng cứ cũng phải được xem xét trong các mối quan hệ liên kết với vụ án, điều này đảm bảo cho việc làm sáng tỏ được tất cả các tình tiết và diễn biến của hành vi phạm tội. Khi hoạt động thu thập, kiểm tra và đánh giá chứng cứ được thực hiện một cách khách quan và toàn diện thì quyết định hình phạt được thực hiện chặt chẽ, đảm bảo cho việc xác định tội danh và áp dụng mức độ TNHS trong vụ án trộm cắp tài sản được chính xác.

Thứ hai, so sánh và đối chiếu các tình tiết của vụ án đã được làm rõ với quy định tội TCTS để xác định sự tương đồng:

Đây được xem là giai đoạn xác định sự tương đồng về mặt pháp lý giữa hành vi phạm tội được thực hiện với dấu hiệu cấu thành tội TCTS, do đó đây là giai đoạn trung tâm trong quá trình định tội danh. Trong giai đoạn này, chủ thể định tội danh cần đối chiếu từng tình tiết cụ thể đã xảy ra với các dấu hiệu của CTTP, sau đó tiến hành so sánh tổng thể tất cả các tình tiết với tổng thể các dấu hiệu cấu thành tội phạm.

Trên cơ sở đó, phải phát hiện, tìm ra sự đồng nhất giữa các tình tiết điển hình với các dấu hiệu pháp lý quy định trong Điều 173 BLHS. Trường hợp có căn cứ khẳng định không có sự đồng nhất thì phải xem xét, kiểm tra lại. Sau khi xác định chắc nhắn không có sự đồng nhất với cấu thành tội TCTS thì có thể chuyển sang kiểm tra các quy phạm pháp luật hình sự khác, để kết luận có hay không có tội phạm xảy ra, nếu có tội phạm xảy ra không thuộc trường hợp tội TCTS thì CTTP nào khác trong BLHS.

Trường hợp có căn cứ xác định có dấu hiệu của tội TCTS thì chủ thể định tội danh vẫn phải kiểm tra lại trước khi đi đến kết luận về việc đối tượng phạm tội TCTS. Sau khi xác định được đối tượng của vụ án là người có hành vi phạm tội TCTS thì phải xác định các khoản, điểm cụ thể trong điều luật. Tiếp đó, phải xác định xem vụ án có các yếu tố khác liên quan không, như yếu tố đồng phạm; phạm tội hoàn thành hay phạm tội chưa hoàn thành; tái phạm hay tái phạm nguy hiểm,…

Kết thúc giai đoạn này, chủ thể định tội danh đã có tất cả các cơ sở pháp lý để xác định đối tượng phạm tội TCTS và xác định được các điều luật cụ thể có liên quan đến tội phạm này thuộc quy định Phần chung của BLHS.

Thứ ba, đưa ra kết luận về tội TCTS đối với người đã thực hiện hành vi phạm tội.

Căn cứ vào những chứng cứ đã được thu thập, kiểm tra và đánh giá, việc đưa ra kết luật về tội danh thông qua hoạt động này nhằm củng cố căn cứ pháp lý, xác định hành vi đã thực hiện là hành vi phạm tội TCTS, các chứng cứ, chứng minh sự thật khách quan đã làm sáng tỏ các nội dung và các tình tiết của vụ án, từ đó có cơ sở xác định tội danh mà người đã thực hiện hành vi phạm tội.

Tuy nhiên, việc đưa ra kết luận tội danh TCTS không chỉ dừng lại ở việc xác định tên tội danh mà cần phải xác định được chính xác mức độ phạm tội phù hợp với trường hợp cụ thể nào và mức độ TNHS đối với từng trường hợp đó. Kết luận về tội danh của người thực hiện hành vi phạm tội theo căn cứ kết quả của việc so sánh, đối chiếu các tình tiết của vụ án và dấu hiệu trong từng trường hợp được quy định theo từng điểm, khoản tại Điều 173 BLHS hiện hành. Đây là cơ sở về mức độ TNHS, cũng là cơ sở về tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội mà hoạt động so sánh, đối chiếu xác định được, làm căn cứ cho việc đưa ra kết luận tội danh dưới góc độ mức độ TNHS.

Do vậy, kết luận về tội danh đối với người thực hiện hành vi TCTS cần xác định rõ hành vi đã được thực hiện tương xứng với trường hợp nào tại các khoản, điểm của điều luật và tương xứng với mức độ nguy hiểm cho xã hội của từng trường hợp là ít nghiêm trọng, nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hay đặc biệt nghiêm trọng.

1.1.3. Các trường hợp của định tội danh tội trộm cắp tài sản

1.1.3.1. Định tội danh tội trộm cắp tài sản trong trường hợp thông thường

Trong trường hợp này, trên cơ sở phân tích, đối chiếu hành vi đã thực hiện với quy định của Điều 173 BLHS, chủ thể tiến hành định tội danh sẽ xem xét hành vi trên thực tế có xâm hại đến quan hệ sở hữu hay không? Hay nói cách khác, chủ thể tiến hành định tội danh sẽ phải xác định khách thể trực tiếp bị xâm hại để đưa ra kết luận có hay không hành vi phạm tội TCTS. Sau đó, chủ thể tiến hành định tội danh sẽ xem xét các dấu hiệu thuộc về mặt khách quan, chủ thể và mặt chủ quan của hành vi đã thực hiện có thoả mãn các dấu hiệu cấu thành tội TCTS được quy định tại Điều 173 BLHS. Ngoài ra, chủ thể định tội danh cũng sẽ chú ý đến những dấu hiệu thuộc về động cơ và mục đích phạm tội, bởi đây có thể được coi là những tình tiết quan trọng để xem xét, đối chiếu với những tình tiết tương ứng thuộc về hành vi nguy hiểm của người phạm tội, từ đó mới có thể đưa ra quyết định định tội danh chính xác.

  • Định tội danh tội trộm cắp tài sản theo cấu thành tội phạm cơ bản:

CTTP cơ bản là hệ thống các dấu hiệu đặc trưng, bắt buộc đối với mọi trường hợp phạm tội của một loại tội, phản ánh bản chất của loại tội phạm đó và cho phép phân biệt tội phạm này với tội phạm khác [39]. Định tội danh tội trộm cắp tài sản theo CTTP cơ bản là sự đánh giá về mặt pháp lý hình sự hành vi nguy hiểm cho xã hội được thực hiện trên cơ sở đối chiếu, so sánh và kiểm tra để xác nhận sự giống nhau giữa các dấu hiệu của hành vi. Sau khi xác định có dấu hiệu của tội phạm nói chung và dấu hiệu tội xâm phạm sở hữu nói riêng, chủ thể có thẩm quyền định tội danh tiến hành đối chiếu hành vi nguy hiểm cho xã hội đã xảy ra phù hợp dấu hiệu định tội được mô tả tại Khoản 1 Điều 173 BLHS.

Như vậy, định tội danh tội trộm cắp tài sản theo CTTP cơ bản là định tội danh theo khoản 1 Điều 173 BLHS.

  • Định tội danh tội trộm cắp tài sản theo CTTP tăng nặng:

CTTP tăng nặng là hệ thống các dấu hiệu định tội (các dấu hiệu của CTTP cơ bản) và các dấu hiệu làm tăng nặng một cách đáng kể mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm đó (các dấu hiệu định khung tăng nặng) [40]. Đối với định tội danh tội TCTS sản theo CTTP tăng nặng thì chủ thể định tội danh ngoài việc xác định sự tương đồng của hành vi phạm tội với dấu hiệu định tội tại Khoản 1 Điều 173 BLHS, còn có thêm sự tương đồng với dấu hiệu định khung tăng nặng TNHS được quy định tại Khoản 2, 3, 4 Điều 173 BLHS.

Như vậy, định tội danh tội trộm cắp tài sản theo CTTP tăng nặng là định tội danh theo Khoản 2, 3, 4 Điều 173 BLHS.

LIỆN HỆ:

SĐT+ZALO: 0935568275

E:\DỮ LIỆU COP CỦA CHỊ YẾN\LUAN VAN VIEN HAN LAM\VIEN HAN LAM DOT 13/ NGUYỄN THỊ BÍCH LÂN

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *