Bắt người theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam

Bắt người theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam

Bắt người theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Bình

1. Tính cấp thiết của đề tài

Trong những BPNC thì bắt người chiếm vị trí quan trọng và được áp dụng thường xuyên để đấu tranh PCTP. Bắt người là một BPNC trong TTHS phục vụ hiệu quả cho việc ngăn chặn tội phạm và tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động điều tra, giải quyết VAHS, với mục đích: “Để kịp thời ngăn chặn tội phạm hoặc khi có căn cứ chứng tỏ người bị buộc tội sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc sẽ tiếp tục phạm tội hoặc để bảo đảm thi hành án” [35, tr.101]. Biện pháp bắt người là một trong các BPNC trong TTHS được áp dụng rất phổ biến trong thực tiễn và đã phát huy được vai trò to lớn trong việc giải quyết VAHS. Việc áp dụng biện pháp bắt người đúng đắn, kịp thời là sự bảo đảm rất quan trọng cho việc chủ động phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm, phát hiện nhanh chóng, chính xác và xử lý công minh mọi hành vi phạm tội, không làm oan người vô tội cũng như không để lọt tội phạm; góp phần bảo vệ pháp chế XHCN, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, lợi ích của Nhà nước và chế độ XHCN. Tuy nhiên, bắt người là biện pháp ảnh hưởng trực tiếp đến tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, những quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, nếu bắt oan, sai thì hậu quả của nó rất phức tạp và có thể không lường trước được. Bên cạnh đó, việc áp dụng biện pháp bắt người cũng là vấn đề nhạy cảm trong đời sống chính trị – xã hội, bởi vì nó ảnh hưởng trực tiếp đến một số quyền con người và quyền cơ bản của công dân được quy định trong Hiến pháp, như: quyền bất khả xâm phạm về thân thể; quyền được pháp luật bảo hộ về sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của con người…; nó liên quan nhiều đến việc thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Do đó, những VPPL về biện pháp bắt người, nhất là những vi phạm xâm phạm đến quyền con người trong TTHS rất dễ bị các thế lực thù địch, phản động lợi dụng để tuyên truyền xuyên tạc, chống phá Đảng và Nhà nước ta. Bên cạnh đó, BLTTHS năm 2015 mới có hiệu lực thi hành với nhiều quy định mới về biện pháp bắt người cũng chưa được nghiên cứu đầy đủ.

Quảng Bình là một tỉnh thuộc Bắc Trung Bộ, phía Bắc giáp tỉnh Hà Tĩnh, phía Đông giáp biển Đông, phía Tây giáp hai tỉnh Khăm Muộn và Sa Vẳn Na Khệt của nước CHDCND Lào, phía Nam giáp tỉnh Quảng Trị. Quảng Bình có diện tích tự nhiên là 8.065 km2; dân số đến năm 2019 là 953.914 người. Những năm gần đây, tình hình tội phạm trên địa bàn tỉnh Quảng Bình diễn biến phức tạp, có chiều hướng gia tăng với nhiều hình thức khác nhau, thủ đoạn hoạt động ngày càng tinh vi, xảo quyệt. Theo số liệu báo cáo tổng kết công tác đấu tranh PCTP cho thấy trong khoảng thời gian từ năm 2015 đến năm 2019, các lực lượng chức năng trên địa bàn tỉnh đã phát hiện, khởi tố mới 3.680 vụ phạm pháp hình sự. Theo đó, từ năm 2011 đến năm 2015, Cơ quan CSĐT – Công an tỉnh Quảng Bình đã bắt 4.960 đối tượng, trong đó: bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp 1.019 đối tượng (chiếm tỷ lệ 20,54%); bắt người phạm tội quả tang 2.235 đối tượng (chiếm tỷ lệ 45,06%); bắt người đang bị truy nã 195 đối tượng (chiếm tỷ lệ 3,93%); bắt bị can, bị cáo để tạm giam 1.511 đối tượng (chiếm tỷ lệ 30,47%) [47, tr.14]. Những số liệu trên đã cho thấy tính chất công tác bắt giữ đối tượng phạm tội là vấn đề được tiến hành thường xuyên. Trong khi đó, công tác xử lý các vụ án, các đối tượng gây án còn nhiều bất cập, gặp nhiều khó khăn trong quá trình áp dụng các quy định pháp luật hình sự, nhất là vấn đề áp dụng BPNC bắt người theo pháp luật TTHS.

Về biện pháp bắt người, cho đến nay cũng đã có nhiều công trình trong và ngoài nước nghiên cứu. Tuy nhiên, do khác nhau về phương pháp tiếp cận, về giới hạn địa bàn nghiên cứu, về thời gian và phạm vi khảo sát cho nên nhiều vấn đề có liên quan đến biện pháp bắt người còn chưa được đề cập, nghiên cứu tới. Vì vậy, nghiên cứu hoàn thiện lý luận, nâng cao hiệu quả biện pháp bắt người trong TTHS tại tỉnh Quảng Bình là một đòi hỏi hết sức cấp bách đảm bảo cho việc thực hiện thắng lợi nhiệm vụ đấu tranh PCTP đảm bảo sự ổn định về TTATXH, phục vụ đắc lực cho sự nghiệp phát triển kinh tế – xã hội của tỉnh Quảng Bình. Xuất phát từ yêu cầu của thực tiễn trên, xét thấy cần phải nghiên cứu sâu hơn, đầy đủ hơn về nội dung này, đó cũng là lý do tôi chọn nghiên cứu đề tài: “Bắt người theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Bình” làm luận văn tốt nghiệp Cao học Luật.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

– Nghiên cứu làm sáng tỏ cơ sở lý luận về BPNC bắt người.

– Phân tích, đánh giá thực trạng áp dụng BPNC bắt người hiện nay trên địa bàn tỉnh Quảng Bình. Trên cơ sở đó tìm ra những hạn chế, tồn tại của việc áp dụng biện pháp này trong thực tiễn, chỉ ra nguyên nhân của những hạn chế, tồn tại đó.

– Đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng BPNC bắt người và phòng ngừa những vi phạm trong việc áp dụng biện pháp này của cơ quan chức năng trên địa bàn tỉnh Quảng Bình trong thời gian tới.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Để đạt được những mục đích nêu trên, trong quá trình nghiên cứu chúng tôi sẽ thực hiện các nhiệm vụ sau đây:

– Hệ thống hóa và thống nhất nhận thức một số vấn đề lý luận và pháp lý cơ bản về BPNC bắt người theo pháp luật TTHS Việt Nam hiện hành.

– Khảo sát thu thập thông tin, số liệu thực tế nhằm phân tích tình hình áp dụng BPNC bắt người để minh họa cho quá trình thực tiễn áp dụng biện pháp bắt người theo pháp luật TTHS trên địa bàn tỉnh Quảng Bình.

– Đề xuất những giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp bắt người theo pháp luật TTHS Việt Nam trong thời gian tới của cơ quan chức năng trên địa bàn tỉnh Quảng Bình.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

– Các quy định về biện pháp bắt người theo pháp luật TTHS Việt Nam quy định tại BLTTHS năm 2003.

– Các quy định về biện pháp bắt người theo pháp luật TTHS Việt Nam quy định tại BLTTHS năm 2015.

– Thực tiễn áp dụng biện pháp bắt người theo pháp luật TTHS Việt Nam trên địa bàn tỉnh Quảng Bình.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

– Phạm vi về nội dung: Đề tài nghiên cứu các quy định về biện pháp bắt người theo pháp luật TTHS Việt Nam.

– Phạm vi về không gian: Đề tài nghiên cứu thực trạng áp dụng biện pháp bắt người theo pháp luật TTHS Việt Nam từ thực tiễn tại địa bàn tỉnh Quảng Bình.

– Phạm vi về thời gian: Các số liệu thống kê được tác giả thu thập trong giai đoạn từ năm 2015 đến năm 2019.

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

5.1. Cơ sở lý luận

Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lênin về Nhà nước và pháp luật nói chung, Nhà nước và pháp luật XHCN nói riêng; tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật với tư tưởng Nhân dân là chủ thể của quyền lực xã hội, mọi hoạt động của Nhà nước phải xuất phát từ lợi ích của Nhân dân và việc hoàn thiện pháp luật phải xuất phát từ lợi ích của Nhân dân; các quan điểm của Đảng, Nhà nước ta về công tác đấu tranh PCTP, cải cách tư pháp, Nhà nước pháp quyền và vấn đề quyền con người.

5.2. Phương pháp nghiên cứu

Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể sau:

– Phương pháp phân tích, so sánh, tổng hợp: được sử dụng xuyên suốt trong luận văn nhằm làm rõ các vấn đề lý luận, pháp lý, so sánh, phân tích các tài liệu, số liệu, phát hiện, luận giải thuyết phục về các nội dung có liên quan đến đề tài luận văn; tổng hợp các tài liệu, số liệu phản ánh thực tiễn áp dụng biện pháp bắt người trong TTHS để rút ra kết luận tổng quát.

Phương pháp thống kê: được tác giả sử dụng để thống kê các số liệu thực tế thu thập tại địa bàn Quảng Bình nhằm minh họa, làm rõ thực trạng của tình hình áp dụng biện pháp bắt người theo pháp luật TTHS Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Bình từ năm 2015 đến năm 2019 trong chương 2 của luận văn.

Phương pháp nghiên cứu hồ sơ vụ án điển hình (được sử dụng chủ yếu tại chương 2): Để có cơ sở cho việc đưa ra những nhận xét, đánh giá trong luận văn, tác giả đã nghiên cứu, tìm hiểu hồ sơ một số vụ án trong đó có áp dụng biện pháp bắt người đạt kết quả cao hoặc bộc lộ những thiếu sót dẫn đến hạn chế kết quả hoạt động TTHS tại địa bàn tỉnh Quảng Bình từ năm 2015 đến năm 2019.

+ Phương pháp trao đổi, tọa đàm: được sử dụng để trao đổi, tìm hiểu một số thông tin thực tế từ các cán bộ điều tra, ĐTV của Cơ quan CSĐT Công an tỉnh Quảng Bình có kinh nghiệm trong công tác chỉ đạo và tiến hành hoạt động bắt người theo pháp luật TTHS.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

6.1. Ý nghĩa lý luận

Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần hoàn thiện lý luận khoa học về BPNC nói chung, biện pháp bắt người theo pháp luật TTHS Việt Nam nói riêng. Đây là tài liệu có thể dùng trong công tác nghiên cứu, học tập, tham khảo dành cho các học viên ngành Luật nói chung, Luật hình sự và TTHS nói riêng.

6.2. Ý nghĩa thực tiễn

Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể được nghiên cứu, sử dụng trong thực tiễn chỉ đạo và tiến hành hoạt động áp dụng các quy định của pháp luật hình sự và TTHS để ngăn chặn, đấu tranh PCTP trên địa bàn tỉnh Quảng Bình. Luận văn là công trình khoa học đầu tiên khảo sát một cách toàn diện và sâu sắc về thực tiễn áp dụng biện pháp bắt người theo pháp luật TTHS Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Bình từ năm 2015 đến năm 2019. Làm rõ những kết quả đạt được, các hạn chế, nguyên nhân những hạn chế, từ đó đề xuất các kiến nghị góp phần hoàn thiện các quy định của pháp luật và nâng cao hiệu quả hoạt động áp dụng các quy định của pháp luật hình sự, TTHS để thực hiện biện pháp bắt người trong đấu tranh PCTP ở địa bàn tỉnh Quảng Bình. Ngoài ra, luận văn còn là tài liệu tham khảo cho các giảng viên, học viên, các nhà nghiên cứu khi nghiên cứu đến những vấn đề có liên quan đến Luật hình sự và TTTHS nói chung, các BPNC nói riêng.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục phần nội dung của luận văn được cấu trúc gồm 3 chương.

Chương 1: Lý luận về bắt người và quy định theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam

Chương 2: Quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 về biện pháp ngăn chặn bắt người và thực trạng áp dụng trên địa bàn tỉnh Quảng Bình

Chương 3: Các yêu cầu và giải pháp bảo đảm áp dụng đúng biện pháp bắt người theo pháp luật tố tụng hình sự trên địa bàn tỉnh Quảng Bình

CHƯƠNG 1

LÝ LUẬN VỀ BẮT NGƯỜI VÀ QUY ĐỊNH

THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM

1.1. Lý luận về biện pháp bắt người theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam

1.1.1. Khái niệm biện pháp bắt người

Để làm rõ nội dung pháp lý của biện pháp bắt người trong TTHS chúng ta cần phải làm rõ một số khái niệm có liên quan như: Biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế trong TTHS.

Thứ nhất, về biện pháp ngăn chặn: Các BPNC trong TTHS được quy định tại Điều 109, BLTTHS năm 2015 như sau:

“1. Để kịp thời ngăn chặn tội phạm hoặc khi có căn cứ chứng tỏ người bị buộc tội sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc sẽ tiếp tục phạm tội hoặc để bảo đảm thi hành án, cơ quan, người có thẩm quyền THTT trong phạm vi thẩm quyền của mình có thể áp dụng biện pháp giữ người trong trường hợp khẩn cấp, bắt, tạm giữ, tạm giam, bảo lĩnh, đặt tiền để bảo đảm, cấm đi khỏi nơi cư trú, tạm hoãn xuất cảnh. 2. Các trường hợp bắt người gồm bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, bắt người phạm tội quả tang, bắt người đang bị truy nã, bắt bị can, bị cáo để tạm giam, bắt người bị yêu cầu dẫn độ.” [35, tr.101].

Thứ hai, biện pháp cưỡng chế: Theo Đại từ điển Tiếng Việt do Viện Ngôn ngữ học biên soạn năm 2010: “Cưỡng chế là bắt phải tuân theo bằng sức mạnh quyền lực” [50, tr.599]. Căn cứ vào loại VPPL khác nhau, cưỡng chế cũng có được chia thành các loại khác nhau, như: cưỡng chế dân sự, cưỡng chế hành chính, cưỡng chế hình sự và cưỡng chế TTHS. Các biện pháp cưỡng chế trong TTHS được quy định tại Điều 126 – BLTTHS năm 2015 như sau: “Để bảo đảm hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án, trong phạm vi thẩm quyền của mình, cơ quan, người có thẩm quyền THTT có thể áp dụng biện pháp áp giải, dẫn giải, kê biên tài sản, phong tỏa tài khoản” [35, tr.121]. Như vậy, có thể khẳng định rằng biện pháp bắt người là BPNC mang tính cưỡng chế trong TTHS, là một thuật ngữ đã xuất hiện từ lâu đời và được mọi người sử dụng thường xuyên trong đời sống xã hội.

Theo Đại từ điển Tiếng Việt do Viện Ngôn ngữ học biên soạn năm 2010 thì: “Bắt là một động từ diễn tả sự nắm lại, giữ lại một người hay một sinh vật nào đó không để cho tự do hoạt động hoặc cử động” [50, tr.60]. Còn theo Từ điển Tiếng Việt của Nguyễn Như Ý xuất bản năm 1998 thì “Bắt là nắm lại, giữ lại, không để cho tự do hoạt động hoặc cử động” [53, tr.74].

Như vậy, bắt được bắt đầu khi chủ thể thực hiện hành động nắm, giữ và kết thúc khi hành động nắm giữ đó chấm dứt. Bắt ở đây được hiểu theo nghĩa rộng. Khi tiếp cận bắt với tư cách là một BPNC trong TTHS, do chưa có định nghĩa pháp lý về biện pháp bắt người, cho nên đã có nhiều quan điểm khác nhau, đáng chú ý là một số quan điểm sau:

ThS. Nguyễn Hữu Huân cho rằng: “Bắt người là BPNC có tính cưỡng chế nghiêm khắc, vì vậy việc bắt người nhất thiết phải tuân thủ các căn cứ, trình tự, thủ tục rất chặt chẽ mà pháp luật quy định” [24, tr.5].

Theo quan niệm của ThS. Nguyễn Hồng Ly: “Bắt người là giữ người phạm pháp, không cho tiếp tục tự do hoạt động, chặn đứng hành động phạm tội đề phòng người đó lẩn trốn, tự sát, tiêu hủy chứng cứ hoặc gây trở ngại cho việc điều tra. Bắt người là một trong những biện pháp cưỡng chế cần thiết nhất của Nhà nước để trấn áp, ngăn chặn những hành động phạm tội… Bắt người là một trong những BPNC do CQĐT, VKS, Tòa án áp dụng đối với bị can, bị cáo và có thể đối với người chưa bị khởi tố nhằm ngăn chặn tội phạm, ngăn ngừa việc người phạm tội trốn tránh pháp luật, bảo đảm cho việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự được thuận lợi và đúng pháp luật” [27, tr.31-32].

Theo Từ điển Bách khoa CAND của Nxb. CAND xuất bản năm 2005: “Bắt người phạm tội là một BPNC trong TTHS, được tiến hành theo quy định của pháp luật và theo lệnh của CQĐT, VKS, Tòa án nhằm chặn đứng hành vi phạm tội và không gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử cũng như việc đảm bảo thi hành luật” [4, tr.35].

Giáo trình Luật TTHS Việt Nam của Đại học Luật Hà Nội đưa ra khái niệm: “Bắt nguời là BPNC trong TTHS được áp dụng đối với bị can, bị cáo, nguời đang bị truy nã và trong truờng hợp khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang thì áp dụng cả đối với nguời chưa bị khởi tố về hình sự nhằm kịp thời ngăn chặn hành vi phạm tội của họ, ngăn ngừa họ trốn tránh pháp luật, tạo điều kiện thuận lợi cho việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự.” [45, tr.200].

Còn theo Giáo trình Luật TTHS Việt Nam của Trung tâm Đào tạo từ xa Đại học Mở Hà Nội thì: “Bắt người là BPNC trong TTHS do CQĐT, VKS, Tòa án áp dụng đối với bị can, bị cáo và có thể đối với người chưa bị khởi tố nhằm ngăn chặn tội phạm, ngăn ngừa việc người phạm tội trốn tránh pháp luật, bảo đảm cho việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự được thuận lợi và đúng pháp luật” [46, tr.214].

Từ những phân tích trên, tác giả xin đưa ra khái niệm biện pháp bắt người trong TTHS như sau: “Biện pháp bắt người trong TTHS là BPNC trong TTHS, do những người có thẩm quyền theo luật định tiến hành áp dụng đối với bị can, bị cáo, người đang bị truy nã hoặc người có liên quan đến việc thực hiện tội phạm chưa bị khởi tố khi có những căn cứ do luật định, theo trình tự thủ tục nhất định nhằm ngăn chặn tội phạm và bảo đảm cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án hình sự được tiến hành nhanh chóng, kịp thời và đúng pháp luật”.

Bắt người không phải là biện pháp trừng phạt của pháp luật đối với người phạm tội mà là BPNC trong TTHS được áp dụng để tước bỏ điều kiện gây ra tội phạm, chặn đứng hành vi phạm tội và hành vi trốn tránh pháp luật của người phạm tội, bảo đảm sự hoạt động đúng đắn của những cơ quan có thẩm quyền THTT. Bắt người trong TTHS là giữ người thực hiện hành vi phạm tội, không cho người đó tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội, đề phòng người đó bỏ trốn hoặc gây khó khăn cho hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án.

Xuất phát từ yêu cầu thực tiễn của công cuộc đấu tranh PCTP cũng như yêu cầu tăng cường pháp chế XHCN; bảo đảm quyền con người của công dân, kế thừa có chọn lọc các quy định về bắt người trong các văn bản pháp luật TTHS trước đây. BLTTHS năm 2015 quy định các trường hợp bắt người gồm: Bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp; Bắt người phạm tội quả tang; Bắt người đang bị truy nã; Bắt bị can, bị cáo để tạm giam; Bắt tạm giam người bị yêu cầu dẫn độ [35, tr.101].

1.1.2. Những yêu cầu và vai trò của biện pháp ngăn chặn bắt người

1.1.2.1. Những yêu cầu của biện pháp ngăn chặn bắt người

Trong hệ thống các BPNC của TTHS thì bắt người là biện pháp quan trọng được áp dụng rất phổ biến. Việc áp dụng biện pháp bắt người không chỉ có ý nghĩa quan trọng đối với công tác đấu tranh PCTP nói chung và việc giải quyết các nhiệm vụ của quá trình TTHS nói riêng mà còn gắn liền với việc hạn chế quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, nhất là các quyền tự do cá nhân được Hiến pháp ghi nhận và bảo đảm. Do đó, BPNC bắt người được quy định rất chặt chẽ trong BLTTHS, là cơ sở cho hoạt động bắt người trên thực tiễn, tránh vận dụng biện pháp bắt người một cách tuỳ tiện, dẫn đến bắt oan người vô tội, bắt không đúng thủ tục, bắt trái thẩm quyền. Vì vậy, khi áp dụng biện pháp bắt người theo pháp luật TTHS các chủ thể tiến hành cần đảm bảo một số yêu cầu sau:

– Yêu cầu về chính trị

Bắt người luôn là vấn đề nhạy cảm trong đời sống chính trị – xã hội, bắt người đúng hay không đúng quy định của pháp luật, bắt oan, sai có ảnh hưởng trực tiếp đến những quyền cơ bản của công dân, liên quan đến đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Hiện nay, có rất nhiều những thế lực thù địch, phản động trong và ngoài nước đang tìm mọi cách để chống phá Nhà nước ta. Hoạt động bắt người phải đảm bảo tốt cho nhiệm vụ chính trị của Đảng, Nhà nước và của địa phương trong từng thời kỳ, từng giai đoạn phát triển của đất nước.

Công tác đấu tranh PCTP nói chung và việc áp dụng BPNC bắt người trong quá trình giải quyết VAHS nói riêng đều nhằm mục đích bảo đảm an ninh chính trị và trật tự, an toàn xã hội. Xuất phát từ yêu cầy này, Đảng và Nhà nước đã có các hướng dẫn, chỉ đạo hoạt động bắt người liên quan đến các đối tượng có ảnh hưởng lớn đến đời sống chính trị, kinh tế và xã hội. Khi tiến hành áp dụng BPNC bắt người đối với những đối tượng này thường tạo ra những luồng dư luận, ảnh hưởng đến những vấn đề nhạy cảm về chính trị, kinh tế dễ bị những thế lực thù địch lợi dụng xuyên tạc, tuyên truyền nhằm làm giảm uy tín của Đảng và Nhà nuớc.

Vì vậy, trong quá trình thực hiện cơ quan, người có thẩm quyền THTT cần vận dụng linh hoạt các quy định của pháp luật và tiên quyết thực hiện theo các chỉ đạo hướng dẫn của Đảng và Nhà nước về BPNC bắt người với những đối tượng đặc biệt. Đồng thời, xây dựng kế hoạch hạn chế những tiêu cực xảy ra khi tiến hành.

– Yêu cầu về pháp luật

Khoản 2, Điều 20, Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam năm 2013 quy định: “Không ai bị bắt nếu không có quyết định của TAND, quyết định hoặc phê chuẩn của VKSND, trừ trường hợp phạm tội quả tang. Việc bắt, giam giữ người do luật định” [32, tr.25]. Tại Điều 10 BLTTHS năm 2015 quy định: “Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể. Không ai bị bắt nếu không có quyết định của Tòa án, quyết định hoặc phê chuẩn của VKS, trừ trường hợp phạm tội quả tang. Việc giữ người trong trường hợp khẩn cấp, việc bắt, tạm giữ, tạm giam người phải theo quy định của Bộ luật này…” [35, tr.15]. Như vậy, để đảm bảo bắt đúng đối tượng, BPNC bắt người được quy định rất chặt chẽ trong BLTTHS đây là cơ sở cho hoạt động bắt trên thực tiễn.

Trong quá trình tiến hành bắt, cơ quan, người có thẩm quyền THTT cần có tài liệu, chứng cứ cần thiết chứng minh rằng họ là đối tượng bị áp dụng BPNC bắt người. Nếu bắt người không đúng sẽ gây tác hại nhiều mặt như xâm phạm quyền con người và quyền tự do thân thể của công dân, làm giảm uy tín của Nhà nước và các cơ quan bảo vệ pháp luật, gây hoang mang trong dư luận, dễ bị các thế lực phản động, thù địch trong và ngoài nước xuyên tạc để chống lại Nhà nước ta. Vì vậy, những tài liệu chứng cứ để bắt người cần thu thập qua quá trình điều tra xác minh, cũng có thể thu thập bằng những biện pháp nghiệp vụ. Trong quá trình thực hiện hoạt động bắt cần phải tuân thủ đúng các điều kiện do luật định về trình tự, thủ tục, thẩm quyền.

Bắt người về bản chất là biện pháp cưỡng chế, tác động trực tiếp đến quyền tự do thân thể của công dân tuy nhiên lại không nhằm xâm phạm đến thân thể họ như là sự trừng phạt hành vi họ đã thực hiện mà chỉ nhằm mục đích ngăn chặn tội phạm diễn ra và hạn chế sự nguy hiểm cho xã hội. Vì vậy, cơ quan THTT không được xâm phạm tới danh dự, nhân phẩm của người bị bắt. Nghiêm cấm tra tấn, bức cung, dùng nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm thân thể, tính mạng, sức khỏe của con người. Không được dựa vào các tài liệu chưa được kiểm tra, xác minh hay dựa trên ý chí chủ quan làm căn cứ để thực hiện hoạt động bắt dẫn đến tình trạng oan, sai, bỏ lọt tội phạm gây hậu quả nghiêm trọng về nhiều mặt. Tuy nhiên, trong quá trình tiến hành hoạt động bắt người, cơ quan, người có thẩm quyền THTT cần phải biết vận dụng linh hoạt, đúng pháp luật trong từng trường hợp bắt cụ thể. Để làm được điều đó cơ quan, người có thẩm quyền THTT cần nắm vững các quy định của pháp luật về biện pháp bắt người và áp dụng một cách chính xác, triệt để và đảm bảo an toàn.

– Yêu cầu về nghiệp vụ

Điều tra VAHS là hoạt động có mục đích khám phá sự thật khách quan của vụ án nhằm chứng minh tội phạm và người phạm tội. Trong hoạt động điều tra, bắt người là một trong những biện pháp cưỡng chế của Nhà nước để trấn áp, ngăn chặn hành vi phạm tội và có vai trò quan trọng trong cuộc đấu tranh PCTP, trốn tránh pháp luật cũng như gây khó khăn cho việc giải quyết VAHS. Trong hoạt động bắt người, cơ quan, người có thẩm quyền THTT phải có trình độ nghiệp vụ chuyên môn vững vàng, có như vậy khi thực hiện việc bắt người mới không vấp phải những khó khăn, vướng mắc. Yêu cầu đối với hoạt động bắt phải đảm bảo tính bất ngờ, khách quan và chính xác.

Bí mật, bất ngờ là yếu tố quan trọng bảo đảm cho việc bắt người được tiến hành một cách hiệu quả nhất, khi tiến hành hoạt động bắt người không để đối tượng biết, bỏ trốn, hoặc gây cản trở cho cuộc bắt, hoặc tiêu huỷ chứng cứ. Yếu tố bất ngờ được biểu hiện trong kế hoạch bắt người như: bí mật về thời gian, địa điểm sẽ tiến hành bắt đối tượng, bí mật về sự chuẩn bị lực lượng bắt… Bí mật là yếu tố cần thiết cho sự thành công của hoạt động bắt người, làm sao để đối tượng bắt chỉ biết là chúng bị bắt khi lực lượng tiến hành bắt xuất hiện và triển khai lệnh bắt. Muốn đạt được yêu cầu như vậy, đòi hỏi công tác chuẩn bị cho việc bắt cần phải tỉ mỉ, cẩn trọng và chu đáo. Trước khi bắt người cần phải nghiên cứu kỹ hồ sơ, nhân thân của đối tượng và những tài liệu xác minh ban đầu, phải lập kế hoạch của việc bắt người chi tiết về thời gian, địa điểm, thành phần tham gia, công cụ phương tiện hỗ trợ… đặc biệt cần tính toán các phương án có thể xảy ra để chủ động, linh hoạt trong quá trình tiến hành.

Việc bắt người có thành công phải đảm bảo tất cả những mục tiêu trong kế hoạch đã hoạch định trước và linh hoạt trong mọi tình huống có thể xảy ra, khi triển khai bắt phải tiến hành một cách khẩn trương và nhanh chóng.

1.1.2.2. Vai trò của biện pháp ngăn chặn bắt người

Quyết định bắt người tác động trực tiếp đến quyền tự do về thân thể của công dân, một trong các quyền nhân thân quan trọng nhất của con người được quy định trong Hiến pháp. Vì vậy, cần phải có sự cân nhắc hết sức quan trọng khi quyết định việc bắt người. Việc bắt người đúng pháp luật sẽ góp phần nâng cao hiệu quả đấu tranh PCTP, ngăn chặn kịp thời những hành vi phạm tội cũng như hành vi trốn tránh pháp luật, gây khó khăn cho việc giải quyết vụ án, bảo đảm cho việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án được thuận lợi. Ngược lại, việc bắt người không đúng pháp luật sẽ gây tác hại nhiều mặt như xâm phạm quyền tự do thân thể của công dân, làm giảm uy tín của Nhà nước và các cơ quan bảo vệ pháp luật, gây hoang mang trong dư luận, dễ bị các thế lực phản động, thù địch trong và ngoài nước lợi dụng để xuyên tạc nói xấu chế độ, chống lại Nhà nước. Quy định và thi hành biện pháp bắt người trong TTHS có vai trò lớn trong việc giải quyết VAHS, bảo đảm phát hiện chính xác và xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm:

Một là, “BPNC bắt người thể hiện sự chuyên chính của nhà nước XHCN trong việc đấu tranh, PCTP” [16, tr.95].

Khái niệm tội phạm được quy định trong BLHS hiện hành là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong BLHS, do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm đến các quan hệ xã hội mà theo quy định của BLHS phải bị xử lý hình sự. Tội phạm trực tiếp hoặc gián tiếp xâm hại đến sự bền vững và ổn định của chế độ nhà nước, chế độ kinh tế – chính trị và xã hội, đến tính mạng, sức khỏe, tự do, danh dự, nhân phẩm và tài sản của công dân cũng như xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật XHCN.

Quy định về biện pháp bắt người là thể hiện đường lối, chính sách của Nhà nước ta trong việc xử lý những hành vi phạm tội và thể hiện thái độ kiên quyết, triệt để của Nhà nước trong việc đấu tranh PCTP.

Hai là, “bảo đảm cho hoạt động của các cơ quan có thẩm quyền THTT được thuận lợi, góp phần quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh PCTP” [16, tr.95].

Khi tiến hành bắt người, trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, cơ quan, người có thẩm quyền THTT phải tôn trọng và bảo vệ quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân; thường xuyên kiểm tra tính hợp pháp và sự cần thiết của biện pháp bắt người đã áp dụng, kịp thời hủy bỏ hoặc thay đổi BPNC bắt người nếu xét thấy có vi phạm pháp luật hoặc không còn cần thiết. Hiện nay, nhiều vụ án do tính chất phức tạp, người thực hiện hành vi phạm tội cố tình trốn tránh, gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án. Do đó, việc áp dụng BPNC bắt người nhằm ngăn chặn kịp thời và có hiệu quả ngay từ đầu những hành vi thực hiện tội phạm hoặc hành vi trốn tránh, gây khó khăn cho việc xử lý người phạm tội. Cùng với đó, việc bắt các đối tượng này góp phần hạn chế đến mức thấp nhất những khó khăn mà người phạm tội có thể gây ra cho quá trình giải quyết VAHS.

Ba là, BPNC bắt người giúp việc ngăn chặn tội phạm được kịp thời và hiệu quả [16, tr.96].

Việc này có ý nghĩa rất lớn trong việc làm giảm hậu quả của tội phạm. Kịp thời ngăn chặn tội phạm góp phần bảo vệ những đối tượng dễ bị tội phạm tác động tới, đồng thời ngăn chặn và hạn chế hậu quả do tội phạm gây ra.

Bốn là, cơ sở pháp lý để cơ quan, người có thẩm quyền THTT áp dụng BPNC bắt người trong những trường hợp cần thiết, nhằm đạt được mục đích, nhiệm vụ của TTHS [16, tr.96].

Việc bắt người có tác động trực tiếp đến quyền con người, quyền tự do về thân thể bởi vậy khi áp dụng cần phải tính toán hợp lý. Bắt người đúng pháp luật sẽ góp phần nâng cao hiệu quả của cuộc đấu tranh PCTP. Ngược lại, bắt người không đúng pháp luật sẽ gây tác hại lớn, không những xâm phạm quyền tự do thân thể của công dân mà còn làm giảm uy tín của Nhà nước và các cơ quan bảo vệ pháp luật, gây hoang mang trong dư luận quần chúng Nhân dân, dễ bị các thế lực phản động, thù địch trong và ngoài nước lợi dụng để xuyên tạc nói xấu chế độ, chống phá Nhà nước ta. Vì vậy, việc quy định các cơ sở pháp lý đảm bảo chặt chẽ sẽ góp phần giúp cho việc áp dụng biện pháp bắt người là một yêu cầu cấp thiết và quan trọng trong TTHS Việt Nam

1.1.3. Bản chất pháp lý biện pháp bắt người

1.1.3.1. Tính cưỡng chế của Nhà nước

Trong xã hội XHCN, giáo dục, thuyết phục là phương pháp chủ yếu, cơ bản để thực hiện các chức năng quản lý Nhà nước, quản lý xã hội trên các phương diện chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Điều này được lý giải từ tính xã hội rộng rãi của Nhà nước ta: “Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam là nhà nước pháp quyền XHCN của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân….do Nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân” [32, tr.2], trong đó mọi chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đều xuất phát từ lợi ích của Nhân dân. Nhưng bên cạnh biện pháp giáo dục, thuyết phục, việc áp dụng biện pháp cưỡng chế là cần thiết, phù hợp với bản chất xã hội rộng rãi của Nhà nước ta, bởi lẽ việc áp dụng biện pháp cưỡng chế cũng nhằm bảo vệ lợi ích chung của xã hội, trong đó có lợi ích của cá nhân.

Biện pháp bắt người là BPNC nói riêng và là biện pháp cưỡng chế trong TTHS nói chung. Do đó, bản chất pháp lý của biện pháp bắt người chính là sự cưỡng chế của Nhà nước mang tính ngăn chặn được áp dụng trong những trường hợp cần thiết của hoạt động TTHS nhằm thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ đấu tranh PCTP. Về tính chất của sự cưỡng chế, áp dụng biện pháp bắt người chính là sự tác động trực tiếp của Nhà nước và xã hội lên đối tượng bị áp dụng. Sự tác động này thể hiện ý chí đơn phương của Nhà nước mà không bị cản trở hay phụ thuộc vào ý chí của bất kỳ cá nhân hay tổ chức nào. Các quyết định, lệnh bắt người của cơ quan, người có thẩm quyền THTT có tính chất bắt buộc đối với người tham gia tố tụng, các cơ quan Nhà nước, tổ chức và cá nhân. Quyết định, lệnh bắt người làm phát sinh quan hệ pháp luật TTHS giữa một bên là chủ thể có thẩm quyền áp dụng biện pháp bắt người và một bên là người bị bắt, từ đó phát sinh quyền và nghĩa vụ pháp lý của các bên. Theo quy định của pháp luật TTHS Việt Nam hiện hành, chủ thể có thẩm quyền áp dụng biện pháp bắt người chủ yếu là người có thẩm quyền THTT. Bên cạnh đó, còn có sự tham gia của chính quyền địa phương, cơ quan, tổ chức và các cá nhân khác, như: chính quyền địa phương tham gia hỗ trợ việc bắt người, chứng kiến việc bắt người, lập biên bản và giải người bị bắt phạm tội quả tang đến CQĐT; đại diện của cơ quan, tổ chức tham gia với tư cách là người chứng kiến; cá nhân tham gia vào việc bắt người với tư cách là người chứng kiến hoặc là người trực tiếp bắt người phạm tội quả tang, bắt người đang bị truy nã. Trong trường hợp người bị bắt chống đối, không chấp hành thì chủ thể có thẩm quyền bắt người có thể áp dụng các biện pháp cưỡng chế cần thiết để bảo đảm, thậm chí cả việc sử dụng vũ lực để khóa trói, vô hiệu hóa sự kháng cự, chống đối từ phía người bị bắt.

Về nội dung của sự cưỡng chế, áp dụng biện pháp bắt người chính là sự tác động lên thân thể, tư tưởng, tâm lý và hành vi của chính người bị bắt, qua đó hạn chế quyền tự do cá nhân của người bị bắt. Áp dụng biện pháp bắt người thực chất là sự tác động lên thân thể của người bị bắt bằng việc giữ và giải người bị bắt về cơ quan có thẩm quyền; thậm chí trong trường hợp người bị bắt có hành vi chống đối, chống trả thì lực lượng thi hành biện pháp bắt người được phép sử dụng vũ lực để khống chế, trấn áp và vô hiệu hóa sự chống cự của đối tượng. Khi áp dụng biện pháp bắt người, các quyền thiết thân nhất của người bị bắt bao giờ cũng bị hạn chế ở mức độ nhất định. Do đó, biện pháp bắt người phải được áp dụng với đầy đủ các căn cứ luật định, tuân thủ nghiêm ngặt các quy định về thẩm quyền và thủ tục áp dụng. Biện pháp bắt người cùng với biện pháp tạm giữ người, tạm giam người có mức độ hạn chế quyền tự do cá nhân của đối tượng bị áp dụng nhiều hơn so với các BPNC khác, bởi vì nó cách ly đối tượng ra khỏi cộng đồng trong một khoảng thời gian nhất định. Do đó, bắt người là biện pháp cưỡng chế mang tính nghiêm khắc.

1.1.3.2. Tính ngăn chặn

Nhìn chung, BLTTHS năm 2015 đã sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện hơn các quy định về BPNC so với các quy định trong BLTTHS năm 2003 theo hướng quy định cụ thể và chặt chẽ hơn nhằm đảm bảo tốt hơn quyền con người, quyền công dân cho người bị buộc tội, cũng như đảm bảo cho quá trình tố tụng được công bằng và hiệu quả. Biện pháp bắt người không chỉ là biện pháp cưỡng chế trong TTHS mà còn là một BPNC. Bản chất ngăn chặn của biện pháp bắt người được thể hiện trước hết ở việc ngăn chặn tội phạm. Để bảo vệ lợi ích của Nhà nước, của tổ chức, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, Nhà nước áp dụng nhiều biện pháp cưỡng chế khác nhau để ngăn chặn mọi hành vi VPPL nói chung và tội phạm nói riêng. Trong đó, biện pháp bắt người là một trong những biện pháp được áp dụng nhằm ngăn chặn tội phạm có hiệu quả. Ngăn chặn tội phạm ở đây là sự ngăn chặn không để cho người phạm tội thực hiện tội phạm được đến cùng. Bên cạnh đó, tính ngăn chặn của biện pháp bắt người còn thể hiện ở phương diện ngăn chặn người bị buộc tội tiếp tục phạm tội, ở chỗ diễn biến tâm lý cũng như thái độ chủ quan của người bị buộc tội cũng rất phức tạp. Bên cạnh những người tỏ rõ sự ăn năn hối lỗi, nhận thức rõ về lỗi lầm cũng như hành vi phạm tội của mình, còn có không ít người có thái độ ngoan cố, tiếp tục phạm tội hoặc có dấu hiệu tiếp tục phạm tội, như: chuẩn bị công cụ, phương tiện để thực hiện hành vi phạm tội mới; kích động, xúi giục người khác phạm tội… Vì vậy, việc áp dụng biện pháp bắt người trong trường hợp này còn là ngăn chặn người bị buộc tội tiếp tục phạm tội.

Ngoài ra, bản chất ngăn chặn của biện pháp bắt người còn thể hiện việc ngăn chặn người bị buộc tội trốn tránh sự trừng phạt của pháp luật. Bên cạnh việc nhiều đối tượng tự nguyện chấp hành, hợp tác tích cực với các cơ quan, người có thẩm quyền THTT thì cũng có rất nhiều đối tượng tìm đủ mọi cách để trốn tránh sự trừng phạt của pháp luật, như: bỏ trốn; có dấu hiệu bỏ trốn. Việc điều tra, truy tố, xét xử sẽ không còn ý nghĩa giáo dục và răn đe nếu người phạm tội tránh được sự trừng phạt của pháp luật, việc áp dụng biện pháp bắt người sẽ ngăn chặn được hành vi bỏ trốn của người bị buộc tội nhằm trốn tránh sự trừng phạt của pháp luật.

BPNC bắt người chính là biện pháp bảo đảm ngăn chặn kịp thời hành vi cản trở việc xác định sự thật của vụ án. Cản trở việc xác định sự thật của vụ án được biểu hiện ở nhiều dạng hành vi khác nhau, như: tiêu hủy, giả mạo chứng cứ, tài liệu, đồ vật của vụ án, tẩu tán tài sản liên quan đến vụ án; mua chuộc, cưỡng ép, xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật; đe dọa, khống chế, trả thù người làm chứng, bị hại… Đây rõ ràng là những hành vi cần phải được ngăn chặn ngay để đảm bảo tính khách quan của những thông tin, tài liệu, chứng cứ thu thập được, góp phần giải quyết vụ án được chính xác, kịp thời.

Như vậy, bản chất ngăn chặn luôn được thể hiện ở biện pháp bắt người, trong mọi trường hợp bắt người. Tuy nhiên, mức độ thể hiện tính ngăn chặn được thể hiện khác nhau ở các trường hợp bắt người, như: bắt người phạm tội quả tang thể hiện rõ tính ngăn chặn tội phạm; bắt người đang bị truy nã, bắt tạm giam bị cáo tại phiên toà thể hiện rõ sự ngăn chặn việc người bị buộc tội trốn tránh sự trừng phạt của pháp luật;…

LIỆN HỆ:

SĐT+ZALO: 0935568275

E:\DỮ LIỆU COP CỦA CHỊ YẾN\LUAN VAN VIEN HAN LAM\VIEN HAN LAM DOT 11\SAU BAO VE\DOT 7/ HOANG ANH THANH

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *