TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO VI PHẠM HỢP ĐỒNG

TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO VI PHẠM HỢP ĐỒNG VIỄN THÔNG

TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO VI PHẠM HỢP ĐỒNG VIỄN THÔNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

  1. 1. Tính cấp thiết của đề tài

BLDS đầu tiên của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam được ban hành vào năm 1995, là cơ sở pháp lý quan trọng cho việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể tham gia quan hệ hợp đồng, hạn chế các hành vi vi phạm hợp đồng cũng như có các biện pháp chế tài áp dụng khi có hành vi vi phạm hợp đồng xảy ra. BLDS năm 2005 thay thế BLDS 1995 đã pháp điển hóa và thống nhất hơn về pháp luật hợp đồng ở nước ta mà trước đó vốn bị chia tách ra thành các mảng riêng biệt. Bộ luật dân sự với vị trí là Luật gốc, Luật nền, Luật chung của hệ thống pháp luật tư. Vì thế, mọi nội dung và hình thức thể hiện được dự liệu trong Bộ luật này phải đạt được tính ổn định cao và bao quát lớn.

    1. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài
    2. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

Luận văn đặt mục đích tập trung làm rõ những vấn đề lí luận chung nhất trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng Viễn Thông ở Việt Nam hiện nay, đánh giá thực trạng của các quy định pháp luật hiện hành, nêu ra những tồn tại, bất cập của những quy định này, trên cơ sở đó kiến nghị, sửa đổi một số quy định của Luật Viễn Thông về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng Viễn Thông ở Việt Nam hiện nay. Từ mục đích trên, luận văn đặt ra các nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu sau:

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Nghiên cứu một số vấn đề lí luận trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng Viễn Thông ở Việt Nam hiện nay nhằm làm rõ bản chất pháp lý, chức năng của chế tài trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng Viễn Thông ở Việt Nam hiện nay trong hoạt động viễn thông, cấu trúc pháp luật về chế tài bồi thường thiệt hại và quá trình hình thành và phát triển của các quy định về chế tài trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng Viễn Thông ở Việt Nam.

    1. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Luận văn có đối tượng nghiên cứu là các văn bản quy phạm pháp luật bao gồm pháp luật dân sự và pháp luật viễn thông. Ngoài ra, Luận văn cũng quan tâm cả nhưng đối tượng là các quan hệ xã hội trong quá trình thi hành pháp luật về hợp đồng; về trách nhiệm pháp lý do vi phạm hợp đồng và vì thế, ngoài những hiện tượng thực tiễn, Luận văn cũng có đối tượng là các quy định pháp luật và thực tiễn thi hành các quy định về pháp luật tố tụng.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

Luận văn tập trung nghiên cứu các quy định pháp luật hiện hành về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng Viễn Thông ở Việt Nam hiện nay, đánh giá thực trạng pháp luật để thấy được vị trí, vai trò và mối quan hệ của hình thức chế tài này với các hình thức chế tài khác. Luận văn chỉ nghiên cứu, tìm hiểu các quy định về chế tài trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng Viễn Thông ở Việt Nam hiện nay của Luật Viễn Thông.

    1. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu

5.1. Phương pháp luận

Cùng với việc sử dụng phương pháp luận chung nhất của phép biện chứng duy vật, đề tài được thực hiện bằng việc sử dụng kết hợp các phương pháp nghiên cứu chuyên ngành luật như phương pháp mô tả, phân tích, so sánh, tổng hợp, chứng minh, thống kê…

5.2. Phương pháp nghiên cứu

Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở lý luận chung, phân tích, so sánh được sử dụng chủ yếu để đánh giá, nhận xét về các quy định pháp luật hiện hành về chế tài trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng viễn thông ở việt nam hiện nay trong tương quan so sánh với các quy định trước đây. Ngoài ra, tác giả cũng sử dụng phương pháp thống kê, phương pháp lịch sử để đánh giá sự phát triển và những hạn chế cần khắc phục của pháp luật hiện hành.

    1. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

6.1. Ý nghĩa lý luận

Phân tích các quy định hiện hành của pháp luật Việt Nam về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng dịch vụ viễn thông. Trong quá trình phân tích, luận văn so sánh các quy định của pháp luật hiện hành với các quy định trong văn bản pháp luật trước đây để thấy rõ được những điểm tiến bộ cũng như những hạn chế, bất cập của pháp luật viễn thông hiện hành gây khó khăn cho việc áp dụng trên thực tế.

6.2. Ý nghĩa thực tiễn

Từ việc nghiên cứu trên đưa ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng viễn thông ở việt nam hiện nay để đáp ứng được những yêu cầu của thực tiễn.

    1. 7. Cơ cấu của luận văn

Ngoài phần Lời nói đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm có 3 chương:

Chương 1: Những vấn đề chung về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng Viễn Thông ở Việt Nam hiện nay.

Chương 2: Thực trạng pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng Viễn Thông ở Việt Nam hiện nay.

Chương 3: Thực tiễn áp dụng pháp luật và hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm nghĩa vụ hợp đồng Viễn Thông.

  1. CHƯƠNG 1
  2. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO VI PHẠM HỢP ĐỒNG VIỄN THÔNG VIỆT NAM HIỆN NAY
    1. 1.1. Khái quát về hợp đồng viễn thông và trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng viễn thông
      1. 1.1.1. Khái niệm, đặc điểm của hợp đồng viễn thông

Hợp đồng kinh doanh viễn thông là thỏa thuận, theo đó một bên (bên cung ứng dịch vụ) có nghĩa vụ thực hiện dịch vụ cho một bên khác và nhận sử dụng thanh toán; bên sử dụng dịch vụ (sau đây gọi là khách hàng) có nghĩa vụ thanh toán cho bên cung ứng dịch vụ theo thỏa thuận (quy định tại, Điều 16. Quyền, nghĩa vụ của người sử dụng dịch vụ viễn thông và thuê bao viễn thông).

. Theo quy định của Bộ luật dân sự, Luật thương mại và các văn bản có liên quan khác, chế tài bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng có những đặc điểm sau:

– Chế tài bồi thường thiệt hại là các chế tài hợp đồng phát sinh khi có hành vi vi phạm hợp đồng trong thương mại

– Chế tài bồi thường thiệt hại là chế tài mang tính chất tài sản

– Chủ thể lựa chọn và quyết định hình thức chế tài buộc bồi thường thiệt hại chính là bên bị vi phạm trong quan hệ hợp đồng

      1. 1.1.2. Khái niệm trách nhiệm pháp lý, trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng Viễn Thông

1.1.2.1. Khái niệm trách nhiệm pháp lý do vi phạm hợp đồng

* Khái niệm trách nhiệm: Dưới góc độ ngôn ngữ, theo Đại từ điển tiếng Việt trang 1571 trách nhiệm là “điều phải làm, phải gánh vác hoặc phải nhận lấy về mình”. Khái niệm này rất gần nghĩa với “nghĩa vụ” là “bổn phận phải làm đối với xã hội hoặc với người khác”. Dưới phương diện đạo đức xã hội, trách nhiệm là sự ràng buộc cá nhân, tổ chức phải thực hiện những nghĩa vụ nghiêng về bổn phận mang tính luận lý, đạo đức. Dưới góc độ pháp lý, trách nhiệm pháp lý của cá nhân, tổ chức phát sinh dưới cơ sở pháp luật, được đảm bảo thực hiện bằng pháp luật.

Dù hiểu theo nghĩa nào thì có thể thấy TNDS mang một số đặc điểm sau:

Thứ nhất, TNDS mang đầy đủ các đặc điểm của trách nhiệm pháp lý nói chung.

Thứ hai, căn cứ để áp dụng TNDS là phải có hành vi vi phạm pháp luật.

Thứ ba, khi TNDS được áp dụng bao giờ nó cũng mang lại những hậu quả bất lợi đối với bên vi phạm, đó là những hậu quả bất lợi về mặt tài sản đối với bên vi phạm.

Như vậy, trong hợp đồng, trách nhiệm do vi phạm hợp đồng có thể được hiểu là việc một bên trong hợp đồng phải gánh chịu các hậu quả pháp lý bất lợi do việc họ đã không thực hiện hoặc thực hiện không đúng các nghĩa vụ trong hợp đồng.

* Về thẩm quyền áp dụng

* Về tính chất của trách nhiệm

* Về thời điểm phát sinh

* Về mục đích áp dụng

1.1.2.2. Khái niệm trách nhiệm bồi thường thiệt hại

1.1.2.3. Khái niệm trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng viễn thông

1.1.2.4. Đặc trưng pháp lý của trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm nghĩa vụ trong hợp đồng viễn thông

    1. 1.2. Ý nghĩa quy định của pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm nghĩa vụ trong hợp đồng

Sự xuất hiện của chế định này có một ý nghĩa quan trọng đối với môi trường hoạt động viễn thông và sự phát triển kinh tế nói chung, cụ thể, chế định về TNBTTH do vi phạm hợp đồng viễn thông góp phần:

Thứ nhất, bảo vệ lợi ích của các bên trong quan hệ hợp đồng: Bất cứ chủ thể nào khi tham gia giao kết hợp đồng viễn thông đều hướng đến mục tiêu hàng đầu đó là những lợi ích kinh tế.

Thứ hai, phòng ngừa hành vi vi phạm: Một hợp đồng viễn thông đã ký kết có hiệu lực pháp luật sẽ làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên chủ thể tham gia giao kết.

Thứ ba, giáo dục, nâng cao nhận thức và ý thức chấp hành pháp luật của các bên chủ thể trong hợp đồng

    1. 1.3. Khái lược pháp luật về bồi thường thiệt hại do vi phạm nghĩa vụ trong hợp đồng trong hoạt động Viễn Thông
      1. 1.3.1. Hệ thống các văn bản pháp luật về bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng thương mại

Trong một quan hệ pháp luật kinh doanh thương mại cụ thể, các quy định của luật chuyên ngành (như Bộ luật hàng hải, Luật hàng không dân dụng, luật kinh doanh bảo hiểm v.v…) sẽ được ưu tiên áp dụng trước, những vấn đề nào luật chuyên ngành không quy định hoặc không quy định đầy đủ thì sẽ áp dụng luật chung.

Bên cạnh nguyên tắc luật chung – luật chuyên ngành, việc áp dụng pháp luật còn tuân theo nguyên tắc ưu tiên áp dụng điều ước quốc tế, Khoản 1 Điều 5 Luật thương mại năm 2005 quy định: “Trường hợp điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định áp dụng pháp luật nước ngoài, tập quán thương mại quốc tế hoặc có quy định khác với quy định của Luật này thì áp dụng quy định của điều ước quốc tế đó.”

      1. 1.3.2. Nội dung của pháp luật về bồi thường thiệt hại do vi phạm nghĩa vụ trong hợp đồng thương mại

Pháp luật về BTTH do vi phạm hợp đồng thương mại chính là sự ghi nhận của Nhà nước và cũng thể hiện thái độ của Nhà nước đối với hành vi vi phạm hợp đồng gây thiệt hại cho đối tác trong quan hệ hợp đồng và kinh tế – xã hội nói chung. Nội dung cơ bản của pháp luật về BTTH do vi phạm họp đồng thương mại bao gồm:

– Quy định về điều kiện phát sinh TNBTTH do vi phạm hợp đồng thương mại

– Quy định về giới hạn TNBTTH

– Quy định về miễn TNBTTH

– Quy định về áp dụng phối hợp chế tài bồi thường thiệt hại với các hình thức chế tài khác

– Quy định thủ tục giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại tại Tòa án: Đây là thủ tục giải quyết vụ án, gồm có:

* Thủ tục giải quyết vụ án tại Tòa án cấp sơ thẩm;

* Thủ tục giải quyết vụ án tại Tòa án cấp phúc thẩm;

* Thủ tục xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật.

– Quy định thủ tục giải quyết tranh chấp thương mại.

  1. CHƯƠNG 2
  2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO VI PHẠM HỢP ĐỒNG VIỄN THÔNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

    1. 2.1. Các điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng viễn thông

Hành vi không thực hiện nghĩa vụ được hiểu là người có nghĩa vụ phải thực hiện nghĩa vụ trước người có quyền theo quan hệ nghĩa vụ được xác lập nhưng người có nghĩa vụ đã không thực hiện nghĩa vụ đó. Hành vi không thực hiện nghĩa vụ có thể được biểu hiện qua các trường họp sau đây:

  • Người có nghĩa vụ không thực hiện việc chuyển giao tài sản nếu đối tượng của nghĩa vụ đượp các bên thỏa thuận là tài sản và theo đó bên có nghĩa vụ phải chuyển giao tài sản cho bên có quyền;
  • Người có nghĩa vụ không thực hiện công việc theo thỏa thuận với bên có quyền hoặc theo quy định của pháp luật.
      1. 2.1.1. Có hành vi vi phạm hợp đồng

Để xem xét một hành vi có vi phạm hợp đồng hay không thì cần dựa trên căn cứ:

Một là, hợp đồng đã kí kết và có hiệu lực pháp luật có ghi nhận sự thỏa thuận của các bên về việc thực hiện nghĩa vụ.

Hai là, có hành vi không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, nghĩa vụ thỏa thuận trong hợp đồng hoặc quy định của pháp luật.

– Vi phạm nghĩa vụ thanh toán

  • Vi phạm điều khoản về chất lượng, yêu cầu kĩ thuật của hàng hóa dịch vụ
  • Vi phạm điều khoản về thời hạn thực hiện hợp đồng
      1. 2.1.2. Có thiệt hại vật chất thực tế phát sinh

Hành vi vi phạm nghĩa vụ hợp đồng là điều kiện đầu tiên để xác định trách nhiệm BTTH. Có hành vi vi phạm không thực hiện, thực hiện không đúng nghĩa vụ trong hợp đồng được xác định là hành vi trái pháp luật, lúc này đã phát sinh trách nhiệm pháp lý đối với hành vi đó. Nếu một hành vi vi phạm nghĩa vụ mà chưa gây thiệt hại cho chủ thể có quyền yêu cầu thì bên vi phạm phải có trách nhiệm phải tiếp tục thực hiện nghĩa vụ thôi thì chưa đủ, trách nhiệm BTTH chỉ phát sinh khi hành vi vi phạm đó dẫn đến hậu quả gây thiệt hại cho bên bị vi phạm.

Những thiệt hại có thể dễ dàng xác định được nhưng cũng có những thiệt hại mà việc xác định chúng vô cùng khó khăn. Thiệt hại phải là thiệt hại thực tế tính được thành tiền mà không phải là thiệt hại do bên bị vi phạm tưởng tượng ra, liệt kê thiệt hại một cách vô căn cứ nhằm buộc bên vi phạm phải bồi thường. Việc xác định chính xác thiệt hại là việc làm vô cùng quan trọng, nó không chỉ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bên bị thiệt hại mà còn bảo đảm sự công bằng cho bên gây thiệt hại, họ chỉ phải bồi thường trong phạm vi những tổn thất thực tế do mình gây ra.

      1. 2.1.3. Hành vi vi phạm nghĩa vụ trong hợp đồng là nguyên nhân trực tiếp gây ra thiệt hại

Hành vi vi phạm nghĩa vụ hợp đồng là điều kiện đầu tiên để xác định trách nhiệm BTTH. Có hành vi vi phạm không thực hiện, thực hiện không đúng nghĩa vụ trong hợp đồng được xác định là hành vi trái pháp luật, lúc này đã phát sinh trách nhiệm pháp lý đối với hành vi đó. Nếu một hành vi vi phạm nghĩa vụ mà chưa gây thiệt hại cho chủ thể có quyền yêu cầu thì bên vi phạm phải có trách nhiệm phải tiếp tục thực hiện nghĩa vụ thôi thì chưa đủ, trách nhiệm BTTH chỉ phát sinh khi hành vi vi phạm đó dẫn đến hậu quả gây thiệt hại cho bên bị vi phạm.

Thiệt hại hiểu theo nghĩa rộng đó là toàn bộ những tổn thất, mất mát về tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản của cá nhân, tổ chức. Tuy nhiên, như đã nói, xuất phát từ tính chất đền bù ngang giá của các quan hệ hợp đồng thương mại, thiệt hại trong vi phạm nghĩa vụ hợp đồng chỉ được xác định đơn thuần là những thiệt hại về vật chất. Đó là những thiệt hại mang tính chất tài sản có thể tính toán được bằng con số cụ thể.

Có thể thấy, thuật ngữ “giá trị tổn thất, trực tiếp” mà Luật thương mại năm 2005 sử dụng có tính khái quát hơn, nhấn mạnh yếu tố ‘trực tiếp” và tính “thực tế”, tạo ra sự phân biệt cần thiết với loại thiệt hại “suy đoán” như khoản lợi đáng lẽ được hưởng.

    1. 2.2. Các quy định về giới hạn trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng viễn thông

Trong quan hệ hợp đồng viễn thông, BTTH là một chế định có ý nghĩa quan trọng nhằm bù đắp, khôi phục những tổn thất vật chất mà bên bị vi phạm phải gánh chịu hoặc những thiệt hại khác về vật chất mà đáng ra họ được hưởng khi có hành vi vi phạm hợp đồng.

Theo quy định này, bên bị vi phạm không được phép viện dẫn bất cứ lý do vi phạm hợp đồng nào của bên kia để bỏ mặc hậu quả bất lợi xảy ra.

Bên cạnh đó, do tính đặc thù của hoạt động logistics, Luật viễn thông cũng có những quy định điều chỉnh riêng đối với giới hạn trách nhiệm BTTH trong hoạt động này.

    1. 2.3. Các trường hợp miễn (loại trừ) trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng viễn thông

Về nguyên tắc chung, khi có thiệt hại xảy ra do hành vi vi phạm hợp đồng thì bên vi phạm hợp đồng phải có trách nhiệm bồi thường cho bên bị vi phạm đối với những thiệt hại thực tế bị gây ra bởi hành vi vi phạm của mình.

      1. 2.3.1. Miễn trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong trường hợp các bên đã thỏa thuận

1. Người sử dụng dịch vụ bưu chính phải bồi thường thiệt hại cho doanh nghiệp cung ứng dịch vụ bưu chính và các bên có liên quan theo quy định của pháp luật khi gửi vật phẩm, hàng hoá không được gửi quy định tại Điều 12 hoặc bưu gửi không được gói, bọc theo quy định tại điểm d khoản 1 Điều 11 của Luật này.

2. Trừ trường hợp các bên có thoả thuận khác, người sử dụng dịch vụ bưu chính không phải bồi thường thiệt hại trong các trường hợp sau đây:

a) Thiệt hại xảy ra do doanh nghiệp cung ứng dịch vụ bưu chính vi phạm hợp đồng đã giao kết.

b) Bưu gửi đã được chấp nhận đúng thỏa thuận trong hợp đồng;

Xuất phát từ việc tôn trọng nguyên tắc tự do thỏa thuận của các bên trong hợp đồng, Trừ trường hợp các bên có thoả thuận khác, người sử dụng dịch vụ bưu chính không phải bồi thường thiệt hại trong các trường hợp sau đây:

a) Thiệt hại xảy ra do doanh nghiệp cung ứng dịch vụ bưu chính vi phạm hợp đồng đã giao kết;

b) Bưu gửi đã được chấp nhận đúng thỏa thuận trong hợp đồng;

c) Doanh nghiệp cung ứng dịch vụ viễn thông không thực hiện các quy định về khiếu nại, giải quyết tranh chấp quy định tại Điều 38 và Điều 39 của Luật này, và nếu không trái với quy định của pháp luật, không trái với thuần phong mỹ tục và đạo đức xã hội thì những thỏa thuận đó đều có giá trị pháp lý bắt buộc, ngay cả việc các bên tự thỏa thuận trong hợp đồng những điều kiện để miễn trừ trách nhiệm đối với hành vi vi phạm họp đồng thỏa mãn các điều kiện ấy.

      1. 2.3.2. Miễn trách nhiệm trong trường hợp xảy ra sự kiện bất khả kháng

Hiện nay, khi xem xét về vấn đề miễn trách nhiệm BTTH do vi phạm hợp đồng, pháp luật của hầu hết các nước trên thế giới đều ghi nhận sự kiện bất khả kháng là căn cứ để miễn trách nhiệm cho bên vi phạm hợp đồng.

Thứ nhất, sự kiện bất khả kháng phải là “sự kiện xảy ra một cách khách quan, không thể tiên liệu được và không thể khắc phục được mặc dù đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết và khả năng cho phép”.

Thứ hai, sự kiện bất khả kháng và hành vi vi phạm hợp đồng của bên có nghĩa vụ phải có mối quan hệ nhân quả với nhau.

Thứ ba, khi có sự kiện bất khả kháng xảy ra, bên có nghĩa vụ đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết trong khả năng của mình để khắc phục, hạn chế tối đa thiệt hại có thể xảy ra, nhưng hậu quả là bên có nghĩa vụ vẫn không thể khắc phục được và đã vi phạm hợp đồng.

Một điểm cần lưu ý đó là, hiện nay, sự kiện bất khả kháng mới chỉ được Luật viễn thông 2016 quy định chung là một căn cứ miễn trách nhiệm đối với hành vi vi phạm, mà không quy định rõ sự kiện này sẽ được thừa nhận là căn cứ miễn trách nhiệm nếu nó xảy ra đối với các bên tham gia quan hệ hợp đồng hay đối với cả bên thứ ba trong quan hệ hợp đồng như quy định của Điều 40 Pháp lệnh hợp đồng kinh tế trước đây. Xem xét vấn đề này, có hai quan điểm:

Một là coi sự kiện bất khả kháng là căn cứ miễn trách nhiệm kể cả khi nó xảy ra với bên thứ ba.

Hai là sự kiện bất khả kháng chỉ được thừa nhận là căn cứ miễn trách nhiệm nếu nó xảy ra đối với các bên tham gia quan hệ hợp đồng, mà không áp đụng đối với bên thứ ba.

      1. 2.3.3. Miễn trách nhiệm trong trường hợp hành vi vi phạm của một bên hoàn toàn do lỗi của bên kia

Việc hợp đồng không được thực hiện hoặc vi phạm bắt nguồn từ chính lỗi của bên bị vi phạm thì bên vi phạm sẽ được loại trừ trách nhiệm đối với hành vi vi phạm đó. Hay nói cách khác, bên vi phạm hợp đồng sẽ không phải chịu trách nhiệm nếu như việc vi phạm đó hoàn toàn do lỗi của bên bị thiệt hại. Như vậy, để được miễn trừ trách nhiệm BTTH, ngoài việc chứng minh mình không có lỗi, bên vi phạm còn phải chứng minh lỗi hoàn toàn thuộc về bên còn lại.

      1. 2.3.4. Miễn trách nhiệm bồi thường trong trường hợp hành vi vi phạm của một bên do thực hiện quyết định của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền mà các bên không thể biết được vào thời điểm giao kết hợp đồng

Có thể thấy, quy định về miễn trách nhiệm BTTH trong trường hợp này còn nhiều điểm chưa rõ ràng:

Một là pháp luật đặt ra việc “các bên” không thể biết quyết định cơ quan nhà nước có thẩm quyền dẫn đến vi phạm hợp đồng, song điều này chỉ có ý nghĩa đối với bên vi phạm hợp đồng, từ đó khẳng định bên vi phạm hợp đồng không có “lỗi”.

Hai là hiểu thế nào là “không thể biết” để từ đó được miễn trách nhiệm đối với trường hợp này cũng còn quá chung chung.

Mặt khác, thực tiễn cho thấy, khi thực hiện quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền các bên trong quan hệ hợp đồng vẫn phải chịu những thiệt hại vật chất nhất định.

TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO VI PHẠM HỢP ĐỒNG VIỄN THÔNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO VI PHẠM HỢP ĐỒNG VIỄN THÔNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
    1. 2.4. Các quy định về áp dụng phối hợp chế tài bồì thường thiệt hại với các hình thức chế tài khác

1.Thu hồi kho số viễn thông, tài nguyên Internet là việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định thu lại quyền sử dụng kho số viễn thông, tài nguyên Internet đã phân bổ cho tổ chức, cá nhân còn thời hạn sử dụng.

2.Việc thu hồi kho số viễn thông, tài nguyên Internet được thực hiện trong các trường hợp sau đây.

3. Tổ chức, cá nhân bị thu hồi kho số viễn thông, tài nguyên Internet quy định tại khoản 2 Điều này phải ngừng sử dụng kho số viễn thông, tài nguyên Internet theo quyết định thu hồi kho số viễn thông, tài nguyên Internet.

4. Nhà nước bồi thường cho tổ chức, cá nhân bị thu hồi kho số viễn thông, tài nguyên Internet quy định tại điểm a và điểm b khoản 2 Điều này

Về khả năng áp dụng phối hợp chế tài bồi thường thiệt hại với chế tài phạt vi phạm hợp đồng.

1. Trường hợp các bên không có thỏa thuận phạt vi phạm thì bên bị vi phạm chỉ có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại, trừ trường hợp Luật này có quy định khác.

2. Trường hợp các bên có thỏa thuận phạt vi phạm thì bên bị vi phạm có quyền áp dụng cả chế tài phạt vi phạm và buộc bồi thường thiệt hại, trừ trường hợp Luật này có quy định khác”2.5. Xác định thiệt hại

Có nhiều quan điểm và cách hiểu khác nhau về các khoản bồi thường này.

Thứ nhất, về giá trị tổn thất thực tế, trực tiếp

Thứ hai, khoản lợi trực tiếp mà bên bị vi phạm đáng lẽ được hưởng nếu không cỏ hành vi vi phạm hợp đồng.

    1. 2.5. Giải quyết tranh chấp

Hiện nay luật đã quy định khá rõ ràng về các phương thức giải quyết tranh chấp. Theo đó, các phương thức này cũng là những phương thức mà các bên chủ thể tham gia giao kết hợp đồng viễn thông có thể tìm đến để yêu cầu bồi thường cho mình khi phải gánh chịu những thiệt hại từ hành vi vi phạm nghĩa vụ trong hợp đồng của bên còn lại. Cụ thể:

* Thương lượng: Đây là cách thức đơn giản nhất để giải quyết tranh chấp giữa các bên.

* Hòa giải: Đây là phương thức giải quyết tranh chấp với sự tham gia của bên thứ ba làm trung gian hòa giải.

* Trọng tài: Đây là một trong những phương thức giải quyết tranh chấp được sử dụng khá phổ biến và hiệu quả trong các tranh chấp.

* Tòa án: ở nước ta chưa có tòa án chuyên trách về BVQLNTD, các vụ kiện đòi BTTH do hành vi xâm phạm quyền lợi NTD được xếp vào loại các vụ kiện dân sự (khoản 6 Điều 25 BLTTDS 2005).

  1. CHƯƠNG 3
  2. THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VÀ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO VI PHẠM NGHĨA VỤ HỢP ĐỒNG VIỄN THÔNG

    1. 3.1. Thực tiễn áp dụng để giải quyết tranh chấp do vi phạm nghĩa vụ trong hợp đồng viễn thông

Quá trình hội nhập khu vực và quốc tế cùng với việc từng bước định hình nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã tạo ra những tiền đề và thuận lợi quan trọng trong phát triển kinh tế, xã hội ở nước ta. Thực tế này đã đem đến sự chuyển biến tích cực trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội nói chung và nhu cầu sử dụng “viễn thông” nói riêng.

    1. 3.2. Hoàn thiện quy định về bồi thường thiệt hại do vi phạm nghĩa vụ trong hợp đồng viễn thông
      1. 3.2.1. Hoàn thiện các quy định về xác định thiệt hại thực tế

Để đảm bảo bảo vệ tối đa quyền lợi của các chủ thể, đảm bảo nguyên tắc bồi thường toàn bộ thiệt hại và phù hợp với thực tiễn. Phạm vi các thiệt hại được coi là thiệt hại thực tế cần được mở rộng như sau:

Một là, thừa nhận thiệt hại vô hình như mất uy tín kinh doanh, ảnh hưởng đến thương hiệu cũng là một loại thiệt hại thực tế

Hai là, hành vi vi phạm của một bên do thực hiện quyết định của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền mà các bên không thể biết được vào thời điểm giao kết hợp đồng.

Ba là, thừa nhận một số khoản thiệt hại gián tiếp mà bên bị vi phạm có thể yêu cầu bồi thường cũng là thiệt hại thực tế

      1. 3.2.2. Hoàn thiện các quy định về các trường hợp miễn trách nhiệm do vi phạm hợp đồng trong hoạt động viễn thông
  • BLDS năm 2005 là văn bản pháp luật có tính pháp điển hóa cao, đã đặt những nền tảng cơ bản nhằm điều chỉnh các quan hệ dân sự theo các quy tắc chung, mà quan hệ hợp đồng là một trong số đó. Mặc dù vậy, vẫn tồn tại những quy định mâu thuẫn nhau giữa BLDS 2005 và các luật chuyên ngành liên quan đến vấn đề hợp đồng, do đó dẫn đến việc khó áp dụng luật trong thực tiễn khi có tranh chấp xảy ra, cụ thể là:
  • Về trách nhiệm bồi thường thiệt hại, theo BLDS 2005, có bốn căn cứ để xác định trách nhiệm BTTH
  • Về căn cứ loại trừ trách nhiệm vi phạm nghĩa vụ hợp đồng cũng tồn tại một vài điểm chưa thống nhất.
  • Bổ sung quy định điều kiện để công nhận thỏa thuận miễn trừ trách nhiệm hợp đồng giữa các bên.
      1. 3.2.3. Quy định cụ thể về trường hợp thực hiện quyết định của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền là căn cứ miễn trách nhiệm do vi phạm hợp đồng

Hiện nay các văn bản pháp luật đều dùng thuật ngữ “miễn trách nhiệm” là thiếu chính xác về mặt khoa học. Vì bản thân hành vi vi phạm nghĩa vụ không cấu thành trách nhiệm vì thế dùng cụm từ “loại trừ trách nhiệm” sẽ chính xác hơn. “Miễn” có nghĩa là đã phát sinh loại trách nhiệm này theo quy định của pháp luật nhưng bản thân chủ thể bị xâm phạm miễn việc thực hiện nghĩa vụ cho người có hành vi vi phạm thực hiện nghĩa vụ trong họp đồng. Mặt khác, cần có quy định hướng dẫn cụ thể cơ quan quản lý nhà nước trong trường hợp này ra quyết định nhằm mục đích gì, những điều kiện cụ thể để một quyết định có thể trở thành căn cứ miễn trách nhiệm do bên vi phạm hợp đồng. Nếu việc thực hiện quyết định của cơ quan quản lý nhà nước mang lại lợi ích cho bên vi phạm và gây thiệt hại cho bên bị vi phạm hợp đồng thì cần có cơ chế phù hợp đảm bảo lợi ích của cả hai bên trong quan hệ hợp đồng.

      1. 3.2.4. Hoàn thiện quy định về căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại

BLDS tại Điều 604 đã dự liệu trường hợp là người gây thiệt hại dù có lỗi cố ý hay vô ý đều phải chịu trách nhiệm bồi thường. Lỗi trong trường hợp này không có ý nghĩa như việc xác định lỗi trong trách nhiệm hình sự, lỗi trong trách nhiệm hình sự có tính quyết định trong việc định tội danh và quyết định hình phạt. Còn lỗi cố ý hay vô ý trong trách nhiệm dân sự, viễn thông không có ý nghĩa trong việc xác định mức bồi thường mà lỗi trong lĩnh vực này là một trong những căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường. Chỉ cần lưu ý là lỗi vô ý thì có thể xem xét để giảm bớt bồi thường khi điều kiện và hoàn cảnh kinh tế trước mắt cũng như lâu dài quá khó khăn trong việc thực hiện trách nhiệm bồi thường.

Theo nguyên tắc lỗi suy đoán trong pháp luật thì mọi hành vi vi phạm đều mặc nhiên được coi là có lỗi (không phân biệt là lỗi cố ý hay vô ý) nếu bên vi phạm không chứng minh được mình không có lỗi. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng phát sinh khi có đủ các căn cứ.

      1. 3.2.5 Hoàn thiện quy định áp dụng phối hợp chế tài bồi thường thiệt hại và chế

Trong quy định tại Điều 307, các nhà làm luật muốn nhấn mạnh việc chế tài phạt vi phạm có thể áp dụng đồng thời với chế tài buộc bồi thường thiệt hại, hay nói cách khác, việc áp dụng chế tài phạt vi phạm không làm mất quyền áp dụng chế tài buộc bồi thường thiệt hại của bên bị vi phạm. Tuy nhiên, nội dung này đã được ghi nhận trong Điều 316: “Một bên không bị mất quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại đối với tổn thất do vi phạm hợp đồng của bên kia khi đã áp dụng các chế tài khác”. Như vậy, theo quy định tại Điều 316, thì chế tài buộc bồi thường thiệt hại có thể áp dụng cùng một lúc với các chế tài khác bao gồm chế tài phạt vi phạm. Do đó, việc đặt ra một điều luật riêng để điều chỉnh mối quan hệ giữa chế tài phạt vi phạm và bồi thường thiệt hại như trong Điều 307 là không cần thiết.

      1. 3.2.6. Thống nhất, hoàn thiện các văn bản pháp luật Việt Nam về hợp đồng

Một trong những tồn tại của pháp luật hợp đồng Việt Nam đó là BLDS năm 2005 và các luật chuyên ngành vẫn còn có những điểm chưa tương đồng nên tác giả kiến nghị cần có sự sửa đổi, bổ sung các văn bản pháp luật chuyên ngành có quy định về hợp đồng theo đúng hướng mà BLDS đã xây dựng, vẫn biết rằng nguyên tắc chung là khi có sự khác biệt giữa Luật chuyên ngành và Luật chung thì sẽ ưu tiên áp dụng luật chuyên ngành nhưng cần nhớ rằng, các quy định của Luật chuyên ngành có nhiệm vụ quy định rõ hơn một vấn đề chứ không thể có cách tiếp cận trái ngược so với Luật chung, phải tuân theo những nguyên tắc ban đầu của Luật chung đặt ra.

      1. 3.2.7. Quy định cụ thề về các điều kiện để xác định một sự kiện là căn cứ miễn trách nhiệm do vi phạm hợp đồng

Những điều kiện cần và đủ để một sự kiện được coi là căn cứ miễn trách nhiệm do vi phạm hợp đồng viễn thông bao gồm:

  • Thứ nhất, sự kiện này phải xảy ra sau khi các bên các ký kết hợp đồng;
  • Thứ hai, ở thời điểm ký kết hợp đồng các bên không biết và không thể biết sự kiện đó sẽ xảy ra;
  • Thứ ba, sự kiện đó là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến việc vi phạm hợp đồng;
  • Thứ tư, khi các sự kiện này xảy ra, các bên đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết trong khả năng nhưng không thể khắc phục được.
      1. 3.2.8. Bổ sung quy định điều kiện để công nhận thỏa thuận miễn trừ trách nhiệm hợp đồng giữa các bên

Từ những phân tích và so sánh với pháp luật một số nước về trường hợp miễn trừ trách nhiệm hợp đồng theo thỏa thuận của các bên, việc áp dụng căn cứ này phải có những điều kiện nhất định để vừa đảm bảo tôn trọng sự tự do thỏa thuận giữa các bên, vừa hạn chế một bên lợi dụng căn cứ này để trốn tránh trách nhiệm hợp đồng. Theo đó, một thỏa thuận về căn cứ miễn trách nhiệm do vi phạm hợp đồng chỉ có giá trị pháp lý nếu như nó không phải là vi phạm do cố ý. Ngoài ra, khi giải quyết tranh chấp hợp đồng, cơ quan tài phán cũng cần đánh giá tính hợp lý của thỏa thuận này, cần phải phân tích sự vi phạm nghĩa vụ hợp đồng, phân tích nội dung của hợp đồng.

      1. 3.2.9. Quy định rõ về trường hợp miễn trách nhiệm do xảy ra sự kiện bất khả kháng

Cần có quy định làm rõ sự kiện bất khả kháng sẽ được thừa nhận là căn cứ miễn trách nhiệm nếu nó xảy ra chỉ đối với các bên tham gia quan hệ hợp đồng hay đối với cả bên thứ ba trong quan hệ hợp đồng.

Có thể thừa nhận việc xảy ra sự kiện bất khả kháng đối với bên vi phạm hợp đồng hoặc với bên thứ ba là căn cứ miễn trách nhiệm. Tuy nhiên, sự kiện bất khả kháng này phải đáp ứng đủ các điều kiện để sự bất khả kháng là căn cứ miễn trách nhiệm với bên thứ ba trở thành căn cứ miễn trách nhiệm cho một bên trong hợp đồng viễn thông, chỉ khi hợp đồng của bên vi phạm với bên thứ ba có quan hệ mật thiết với hợp đồng viễn thông giữa bên vi phạm và bên bị vi phạm và việc bên thứ ba vi phạm hợp đồng là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến việc vi phạm hợp đồng của bên vi phạm và bên bị vi phạm không thể khắc phục được. Ngoài ra, để hạn chế việc trốn tránh trách nhiệm của bên có hành vi vi phạm hợp đồng, cần quy định rõ giới hạn của việc áp dụng căn cứ này, nếu không có thể dẫn chiếu đến nhiều bên trong quan hệ hợp đồng, gây thiệt hại cho quyền lợi chính đáng của bên bị vi phạm.

TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO VI PHẠM HỢP ĐỒNG VIỄN THÔNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO VI PHẠM HỢP ĐỒNG VIỄN THÔNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
  1. KẾT LUẬN

Trong nền kinh tế thị trường, pháp luật về hợp đồng nói chung và hợp đồng trong hoạt động viễn thông nói riêng luôn đóng vai trò quan trọng. Khi tham gia vào hợp đồng, bên nào cũng muốn thực hiện đúng nghĩa vụ của mình để hưởng các quyền lợi theo thỏa thuận trong hợp đồng đã giao kết. Mặc dù vậy, trong thực tiễn khó có thể tránh khỏi việc các bên vi phạm nghĩa vụ do thực hiện không đúng, không đầy đủ, chậm thực hiện nghĩa vụ dân sự…do nhiều nguyên nhân khác nhau, cả về mặt chủ quan và khách quan, dẫn đến việc thực hiện hợp đồng không đúng như ý của các bên và thiệt hại xảy ra cho các bên bị vi phạm. Vì thế, chế định TNBT do vi phạm nghĩa vụ trong hợp đồng đóng một vai trò quan trọng trong việc bảo vệ quyền lợi, định hướng giải quyết tranh chấp trong các bên khi có vấn đề vi phạm nghĩa vụ trong hợp đồng xảy ra, đảm bảo cho kỷ cương của pháp luật hợp đồng luôn được các thành viên trong xã hội tôn trọng.

Hiện nay, trong BLDS năm 2005 mới chỉ có một mục riêng quy định TNDS nói chung, cho cả lĩnh vực trong hợp đồng và ngoài hợp đồng. Hơn nữa, các quy định về TNBTTH do vi phạm hợp đồng còn bị phân tán và rời rạc trong cả hai văn bản pháp luật. Từ việc nghiên cứu, so sánh và đánh giá các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành, hay qua các thời kì, tác giả đã phân tích và làm rõ các vấn đề còn tồn tại trong pháp luật hợp đồng, theo đó đề xuất một số kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật về TNBTTH do vi phạm hợp đồng cũng như nâng cao năng lực đội ngũ các nhà thực thi pháp luật và ý thức người dân. Nếu bên nào vi phạm hợp đồng sẽ phải chịu những chế tài theo quy định của pháp luật. Do đó, chế tài do vi phạm hợp đồng viễn thông có ý nghĩa quan trọng đối với các bên trong quan hệ hợp đồng và góp phần duy trì trật tự cho cả nền kinh tế.

Trong các chế tài, chế tài bồi thường thiệt hại là hình thức chế tài thường xuyên được áp dụng với mục đích quan trọng nhất là bù đắp, khôi phục những lợi ích vật chất bị mất, giảm sút do hành vi vi phạm hợp đồng gây ra cho bên bị vi phạm. Trên cơ sở các quy định của pháp luật hiện hành, các tài liệu và thực tiễn áp dụng chế tài bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng trong hoạt động viễn thông, luận văn đã nghiên cứu và phân tích để có được cách nhìn toàn diện hơn, qua đó đánh giá những vấn đề lý luận và thực tiễn về chế tài bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng trong viễn thông ở Việt Nam hiện nay.

Pháp luật về chế tài bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng trong hoạt động viễn thông ở Việt Nam cũng có những bước phát triển phù hợp với điều kiện kinh tế – xã hội trong từng thời kì. Kế thừa pháp luật về bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng trong hoạt động viễn thông trong cơ chế kế hoạch hóa, Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế năm 1989 rất quan tâm đến chế tài bồi thường thiệt hại. Khi các quan hệ kinh tế trong cơ chế thị trường đã hình thành và phát triển…Tuy nhiên thì các quy định hiện hành về chế tài bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng trong hoạt động viễn thông vẫn còn những vướng mắc, bất cập cần tiếp tục sửa đổi, bổ sung hoàn thiện.

Việc nghiên cứu để làm sáng tỏ một cách có hệ thống, khái quát và toàn diện về TNBTTH do vi phạm hợp đồng viễn thông là một vấn đề không đơn giản đối với tác giả khi nghiên cứu thực hiện luận văn này, bởi nó đòi hỏi trình độ chuyên sâu. Do thời gian và trình độ hạn chế của tác giả, luận văn không thể tránh khỏi những thiếu sót về cả nội dung và hình thức. Vì vậy, tác giả mong nhận được ý kiến đóng góp và chỉ dẫn của thầy cô giáo.

LIỆN HỆ:

SĐT+ZALO: 0935568275

E:\DỮ LIỆU COP CỦA CHỊ YẾN\LUAN VAN VIEN HAN LAM\VIEN HAN LAM DOT 6\KINH TE\TRAN DANG THANH

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *