Tội sản xuất tàng trữ vận chuyển sử dụng mua bán trái phép chất độc

Tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng hoặc mua bán trái phép chất độc theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn huyện Phú Ninh, tỉnh Quảng Nam

Tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng hoặc mua bán trái phép CĐ theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn huyện Phú Ninh, tỉnh Quảng Nam

1. Tính cấp thiết của đề tài

Huyện Phú Ninh, tỉnh Quảng Nam được thành lập theo Nghị định số 01/2005/NĐ-CP ngày 05 tháng 01 năm 2005 của Chính phủ, gồm 11 xã, thị trấn, diện tích tự nhiên 251,52 km2, dân số 78,359, mật độ dân số 312 người/ km2. Được thiên nhiên ưu đãi, Phú Ninh có mỏ vàng Bồng Miêu với trữ lượng lớn được xem như báu vật nằm im trong lòng đất. Nguồn khoáng sản quý này đã đem lại cho người dân những giá trị vật chất vô cùng to lớn. Tuy nhiên cùng với dòng chảy của nền kinh tế thị trường, bên cạnh những mặt tích cực, nhiều vấn đề tiêu cực theo đó nảy sinh. Tình trạng khai thác vàng trái phép bằng Natry Cyanua (NaCN- một loại hóa chất cực độc để tách vàng) diễn ra phức tạp, kéo dài. Những năm gần đây, hàng trăm người dân từ khắp nơi đổ về khu vực mỏ vàng Bồng Miêu, xã Tam Lãnh, huyện Phú Ninh, tỉnh Quảng Nam dựng lán trại, lắp đặt máy xay đá, lọc quặng làm vàng; không chỉ làm mất an ninh trật tự ở địa phương, gây ô nhiễm môi trường, đặc biệt ở vùng hạ du, hàng triệu người phải sống chung với nguồn nước bị nhiễm chất độc NaCN mà còn tiềm ẩn nhiều nguy cơ gây sập hầm nguy hiểm đến tính mạng con người. Thực tế là vậy, xong cơ chế quản lý và chính sách pháp luật không phải lúc nào cũng ngay lập tức, kịp thời, phù hợp với thực trạng trên. Và cũng theo đó, tình hình tội phạm diễn biến phức tạp trên tất cả các lĩnh vực, trong đó có : “ Tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng hoặc mua bán trái phép chất độc” (Chất độc ở đây chủ yếu là NaCN), có xu hướng gia tăng cả về số vụ, số lượng. Tuy nhiên, thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử Tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng hoặc mua bán trái phép CĐ còn nhiều vướng mắc, chưa có sự thống nhất giữa các cơ quan có thẩm quyền về vấn đề định lượng, định khung hình phạt tăng nặng, quyết định hình phạt. Bất cập này đòi hỏi khoa học pháp lý phải giải quyết một cách đầy đủ.

Việc nghiên cứu tội phạm cụ thể, ở đây là tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng hoặc mua bán trái phép chất độc được quy định trong Bộ luật hình sự dưới góc độ thực tiễn tại huyện Phú Ninh, tỉnh Quảng Nam không những có ý nghĩa sâu sắc về mặt lý luận mà bao hàm cả thực tiễn áp dụng pháp luật. Thông qua đề tài nhằm đưa ra những giải pháp hiệu quả, góp phần hoàn thiện chế định về Tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng hoặc mua bán trái phép CĐ trong Bộ luật hình sự Việt Nam. Đồng thời giúp người tiến hành tố tụng có cái nhìn toàn diện, khách quan, định tội danh và quyết định hình phạt chính xác hơn đối với loại tội này. Chính vì vậy, tác giả đã lựa chọn đề tài: “ Tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng hoặc mua bán trái phép chất độc theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn huyện Phú Ninh, tỉnh Quảng Nam” để thực hiện dưới dạng luận văn thạc sỹ luật học.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

Làm rõ các dấu hiệu pháp lý hình sự, nêu và phân tích những vấn đề chung về định tội danh và quyết định hình phạt của Tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng hoặc mua bán trái phép CĐ theo Điều 238 Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009. Kết hợp giữa nghiên cứu lý luận và đánh giá thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự về tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng hoặc mua bán trái phép chất độc trên địa bàn huyện Phú Ninh, tỉnh Quảng Nam nhằm rút ra những hạn chế và nguyên nhân dẫn đến những hạn chế đó. Từ đó đưa ra giải pháp, góp phần khắc phục, góp phần nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng, chống tội phạm.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

– Nghiên cứu khái niệm và phân tích các yếu tố cấu thành Tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng hoặc mua bán trái phép CĐ theo Điều 238 Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009. Nêu và phân tích các dấu hiệu định khung tăng nặng của tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng hoặc mua bán trái phép chất độc.

– Khái quát quá trình lập pháp hình sự về Tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng hoặc mua bán trái phép CĐ giai đoạn từ năm 1945 đến trước năm 1985 và theo Bộ luật hình sự năm 1985.

– Trình bày những vấn đề lý luận về định tội danh và đánh giá thực tiễn định tội danh đối với tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng hoặc mua bán trái phép chất độc từ thực tiễn huyện Phú Ninh, tỉnh Quảng Nam trong năm năm (từ năm 2010 đến năm 2014).

– Nêu và phân tích một số hạn chế, nguyên nhân của những hạn chế và các giải pháp khắc phục trong hoạt động quyết định hình phạt đối với tội này.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu: Tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng hoặc mua bán trái phép CĐ theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn huyện Phú Ninh, tỉnh Quảng Nam.

Phạm vi nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng hoặc mua bán trái phép chất độc dưới góc độ pháp luật hình sự và hoạt động định tội danh, định khung hình phạt cũng như quyết định hình phạt đối với loại tội phạm này trên địa bàn huyện Phú Ninh, tỉnh Quảng Nam.

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu

Phương pháp luận: Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa duy vật biện chứng và Chủ nghĩa duy vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác- Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng ta về đấu tranh phòng chống tội phạm.

Phương pháp nghiên cứu: Trong quá trình nghiên cứu, tác giả đã sử dụng một cách linh hoạt, đan xen các phương pháp nghiên cứu của khoa học luật hình sự như: phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp thống kê, phương pháp vụ án điển hình, phương pháp lịch sử và nghiên cứu thực tiễn…

6. Ý nghĩa của đề tài

Kết quả của hoạt động nghiên cứu lý luận góp phần làm nguồn tư liệu tham khảo trong công tác đào tạo và nghiên cứu khoa học pháp lý hình sự. Đồng thời góp phần giúp người tiến hành tố tụng ở huyện Phú Ninh nói riêng và địa phương khác nói chung trong hoạt động định tội danh và quyết định hình phạt đối với Tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng hoặc mua bán trái phép CĐ được chính xác hơn nhằm thực hiện hiệu quả công tác đấu tranh phòng chống tội phạm.

7. Bố cục của luận văn

Ngoài Phần mở đầu; Phần kết luận; Danh mục tài liệu tham khảo; Danh mục các chữ viết tắt và Danh mục các bảng biểu, nội dung luận văn gồm 3 Chương:

Chương 1: Một số vấn đề chung về tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng hoặc mua bán trái phép chất độc theo pháp luật hình sự Việt Nam

Chương 2: Quy định của pháp luật hình sự về Tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng hoặc mua bán trái phép CĐ

Chương 3: Áp dụng Bộ luật hình sự về tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng hoặc mua bán trái phép chất độc từ thực tiễn huyện Phú Ninh, tỉnh Quảng Nam từ năm 2010 đến năm 2014 và những giải pháp.

Chương 1

MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ Tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng hoặc mua bán trái phép CĐ THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM

1.1. Khái niệm tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng hoặc mua bán trái phép chất độc

Sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng hoặc mua bán trái phép chất độc là hành vi làm ra, cất giữ, chuyển dịch, bán hay mua để bán lại chất độc và theo Điều 238 Bộ luật hình sự Việt Nam, tội phạm này được hiểu là hành vi sản xuất trái phép, tàng trữ trái phép, vận chuyển trái phép, sử dụng trái phép, mua bán trái phép chất độc.

Theo quy định tại Điều 4 Luật hóa chất ngày 21/11/2007 thì: Hóa chất độc là hóa chất nguy hiểm có ít nhất một trong những đặc tính nguy hiểm quy định từ điểm đ đến điểm n khoản 4 Điều này. Theo đó:

Điểm đ) Độc cấp tính;

e) Độc mãn tính;

g) Gây kích ứng với con người;

h) Gây ung thư hoặc có nguy cơ gây ung thư;

i) Gây biến đổi gen;

k) Độc đối với sinh sản;

l) Tích lũy sinh học;

m) Ô nhiễm hữu cơ khó phân hủy;

n) Độc hại đến môi trường.

Vì là hóa chất nguy hiểm nên chất độc nằm trong Danh mục hóa chất sản xuất, kinh doanh có điều kiện, Danh mục hóa chất hạn chế sản xuất, kinh doanh, Danh mục hóa chất cấm. Danh mục này được quy định tại Nghị định 108/2008/NĐ-CP ngày 07 tháng 10 năm 2008 Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật hóa chất.

Chỉ những cá nhân, tổ chức nào được phép của cơ quan nhà nước có thẩm quyền mới được sản xuất, kinh doanh. Việc sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán một cách trái phép, trái pháp luật sẽ bị xử lý nhằm thống nhất quản lý nhà nước về chất độc, ngăn chặn tình trạng lạm dụng chất độc cũng như bảo vệ sức khỏe người dân, ngăn ngừa tội phạm.

1.2. Các dấu hiệu pháp lý của Tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng hoặc mua bán trái phép CĐ

1.2.1. Khách thể của tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng hoặc mua bán trái phép chất độc

Tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng hoặc mua bán trái phép CĐ là tội xâm phạm đến chế độ quản lý của Nhà nước về chất độc, xâm phạm an toàn, trật tự xã hội.

Đối tượng tác động của tội phạm này là chất độc. Chất độc ở đây được hiểu là những chất có độc tính rất cao và rất có hại đối với sức khỏe và tính mạng của con người.

1.2.2. Mặt khách quan của tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng hoặc mua bán trái phép chất độc

Mặt khách quan của Tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng hoặc mua bán trái phép CĐ thể hiện ở một trong các hành vi sau: Hành vi sản xuất trái phép, tàng trữ trái phép, vận chuyển trái phép, sử dụng trái phép, mua bán trái phép chất độc.

Luật quy định tội này có cấu thành hình thức. Hậu quả của hành vi sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép chất độc cũng không phải là dấu hiệu bắt buộc đối với tội phạm này nhưng việc xác định hậu quả là rất cần thiết. Các dấu hiệu khác của mặt khách quan như: công cụ, phương tiện, phương pháp, thủ đoạn, thời gian, không gian, địa điểm phạm tội không phải là yếu tố bắt buộc của cấu thành cơ bản của tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng hoặc mua bán trái phép chất độc.

1.2.3. Mặt chủ quan của Tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng hoặc mua bán trái phép CĐ

Mặt chủ quan của tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng hoặc mua bán trái phép chất độc được thực hiện do lỗi cố ý. Về mặt lý trí, người phạm tội nhận thức được hành vi của mình là hành vi trái pháp luật hình sự và nguy hiểm cho xã hội nhưng vẫn cố tình thực hiện. Nếu vì lý do nào đó mà người phạm tội không nhận thức được hoặc không buộc phải nhận thức được hành vi của mình là trái phép thì không thuộc trường hợp phạm tội này.

Động cơ và mục đích phạm tội thực hiện không phải là dấu hiệu bắt buộc của Tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng hoặc mua bán trái phép CĐ.

1.2.4. Chủ thể của tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng hoặc mua bán trái phép chất độc

Chủ thể của tội phạm này là người đã có lỗi trong việc thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị pháp luật hình sự cấm, có năng lực TNHS và đủ độ tuổi chịu TNHS theo luật định.

Đối với Tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng hoặc mua bán trái phép CĐ, chủ thể của tội phạm là chủ thể thường. Người từ đủ 14 tuổi nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu TNHS về tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng hoặc mua bán trái phép chất độc theo khoản 3(đây là tội rất nghiêm trọng – mức cao nhất của khung hình phạt đến 15 năm tù), khoản 4 (đây là tội đặc biệt nghiêm trọng – mức cao nhất của khung hình phạt là chung thân). Điều 238 BLHS, người từ đủ 16 tuổi phải chịu TNHS về Tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng hoặc mua bán trái phép CĐ trong mọi trường hợp phạm tội.

"<yoastmark

Chương 2

QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ TỘI SẢN XUẤT, TÀNG TRỮ, VẬN CHUYỂN, SỬ DỤNG HOẶC MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT ĐỘC

2.1. Khái quát quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về Tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng hoặc mua bán trái phép CĐ

2.1.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến trước năm 1985

Trong suốt gia đoạn này, pháp luật hình sự Việt Nam hầu như không có quy định nào riêng liên quan đến tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng hoặc mua bán trái phép chất độc.

2.1.2. Theo Bộ luật hình sự năm 1985

Tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng hoặc mua bán trái phép CĐ( Điều 238 BLHS được sửa đổi, bổ sung năm 2009) theo Bộ luật hình sự 1985 là Tội chế tạo, tàng trữ, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất nổ, chất cháy, chất độc, chất phóng xạ được quy định tại Điều 96. Điều này không nằm trong Chương: Các tội xâm phạm an toàn, trật tự công cộng và trật tự quản lý hành chính mà nằm trong Chương 1: Các tội xâm phạm an ninh quốc gia; mục B: Các tội khác xâm phạm an ninh quốc gia. Điều 96 Bộ luật hình sự 1985 quy định như sau:

Điều 96: Tội chế tạo, tàng trữ, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất nổ, chất cháy, chất độc, chất phóng xạ.

1. Người nào chế tạo, tàng trữ, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất nổ, chất cháy, chất độc, chât phóng xạ thì bị phạt tù từ một năm đến năm năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ ba năm đến mười hai năm:

a) Có tổ chức;

b) Vật phạm pháp có số lượng lớn;

c) Gây hậu quả nghiêm trọng;

d) Tái phạm nguy hiểm

3. Phạm tội trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ 10 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân.

Qua quá trình áp dụng, BLHS 1985 đã bộc lộ những hạn chế nhất định cần phải được sửa đổi, bổ sung. Do đó, BLHS 1985 đã được sửa đổi 04 lần (ngày 28/12/1989, ngày 12/8/1991, ngày 22/12/1992 và ngày 10/5/1997). Theo đó, chế tài tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng hoặc mua bán trái phép chất độc cũng có bổ sung (phạt tiền) tại khoản 3 Điều 100 như sau:

“3. Người nào phạm một trong các tội quy định ở Điều 90 và Điều 91 trong trường hợp hình phạt chính không phải là hình phạt tiền, thì có thể bị phạt tiền theo mức đã quy định đối với mỗi tội.

Người nào phạm một trong các tội quy định ở các điều 88, 95, 96, 98 và 99 thì có thể bị phạt tiền từ ba trăm đến ba triệu đồng; ở các điều 96 a hoặc ở điều 97 trong trường hợp hình phạt chính không phải là hình phạt tiền, thì có thể bị phạt tiền đến mười lần trị giá hàng phạm pháp”.

Liên quan đến Tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng hoặc mua bán trái phép CĐ thì Luật hình sự sửa đổi, bổ sung năm 1992 và 1997 không có gì mới.

Bộ luật hình sự 1999 ra đời đã kế thừa các quy định của BLHS 1985 và được hoàn thiện. Liên quan đến Chất nổ và chất phóng xạ được quy định thành hai tội riêng, chất cháy và chất độc được quy định chung trong một tội và trở thành tội ghép. Cụ thể:

Điều 238. Tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng hoặc mua bán trái phép chất cháy, chất độc

1.Người nào sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép chất cháy, chất độc, thì bị phạt tù từ một năm đến năm năm.

2.Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ ba năm đến mười năm:

a, Có tổ chức;

b, Vật phạm pháp có số lượng lớn;

c, Vận chuyển, mua bán qua biên giới;

d, Gây hậu quả nghiêm trọng;

đ, Tái phạm nguy hiểm.

3.Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm:

a, Vật phạm pháp có số lượng rất lớn;

b, Gây hậu quả rất nghiêm trọng.

4.Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười lăm năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân:

a, Vật phạm pháp có số lượng đặc biệt lớn;

b; Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.

5.Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, phạt quản chế hoặc cấm cư trú từ một năm đến năm năm.

Bộ luật hình sửa đổi, bổ sung năm 2009, liên quan đến tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng hoặc mua bán trái phép chất cháy, chất độc cũng không có gì thay đổi.

2.2. Quy định của Bộ luật hình sự hiện hành về tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng hoặc mua bán trái phép chất độc

2.2.1. Quy định về cấu thành cơ bản của tội phạm

Khoản 1 Điều 238 BLHS: Người nào sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng hoặc mua bán trái phép chất độc thì bị phạt tù từ một năm đến năm năm.

BLHS quy định chỉ cần hành vi sản xuất trái phép, tàng trữ trái phép, vận chuyển trái phép, sử dụng trái phép hoặc mua bán trái phép chất độc thì đã cấu thành tội phạm mà không đòi hỏi phải có hậu quả nguy hại xảy ra.

Cấu thành Tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng hoặc mua bán trái phép CĐ là cấu thành tội phạm phức tạp: bởi vì người làm luật mô tả nhiều hành vi trong cấu thành tội phạm này.

2.2.2. Quy định về các khung tăng nặng

Điều 238 BLHS quy định bốn khung hình phạt áp dụng đối với người phạm tội và được sắp xếp theo trình tự tăng dần về độ nghiêm khắc.Theo quy định tại khoản 2 Điều 238 BLHS thì có những tình tiết định khung tăng nặng sau đây:

a) Có tổ chức;

b) Vật phạm pháp có số lượng lớn;

c) Vận chuyển, mua bán qua biên giới;

d) Gây hậu quả nghiêm trọng;

đ) Tái phạm nguy hiểm.

2.2.3. Quy định về hình phạt trong chế tài

Điều 238 Bộ luật hình sự quy định gồm hình phạt chính và hình phạt bổ sung. Hình phạt chính là tù có thời hạn và hình phạt bổ sung gồm phạt tiền, phạt quản chế hoặc cấm cư trú.

Khung cơ bản ở khoản 1 có mức hình phạt tù từ một năm đến năm năm, phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 của điều luật thì người phạm tội bị phạt tù từ ba năm đến mười năm, là tội phạm rất nghiêm trọng, khung tăng nặng ở khoản 3 có mức phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm, khung tăng nặng ở khoản 4 có mức phạt tù từ mười lăm năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân.

Ngoài hình phạt chính, người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, bị phạt quản chế hoặc cấm cư trú từ một năm đến năm năm. Như vậy, các hình phạt bổ sung quy định đối với tội phạm này ở dạng tùy nghi.

"<yoastmark

Chương 3

ÁP DỤNG BỘ LUẬT HÌNH SỰ VỀ TỘI SẢN XUẤT, TÀNG TRỮ, VẬN CHUYỂN, SỬ DỤNG HOẶC MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT ĐỘC TỪ THỰC TIỄN HUYỆN PHÚ NINH, TỈNH QUẢNG NAM TỪ NĂM 2010 ĐẾN NĂM 2014 VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP

3.1. Thực tiễn định tội danh, những bất cập, hạn chế và nguyên nhân

Trong 5 năm kể từ năm 2010 đến năm 2014, tình hình tội phạm ở huyện Phú Ninh nhìn chung có những diễn biến phức tạp. Theo thống kê của Viện kiểm sát nhân dân huyện Phú Ninh, tỉnh Quảng Nam trong 5 năm qua trên địa bàn huyện Phú Ninh đã xảy ra 402 vụ phạm pháp hình sự, trung bình mỗi năm xảy ra 80,4 vụ. Trong đó, các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng là 131 chiếm tỷ lệ 32,5%. Riêng đối với Tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng hoặc mua bán trái phép CĐ đã xảy ra 69 vụ.

Số vụ án cũng như số bị can phạm tội liên quan đến nhóm tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng chiếm tỷ lệ lớn nhất trong các nhóm tội phạm tại huyện Phú Ninh, tỉnh Quảng Nam và tăng dần qua các năm.

Số vụ án và số bị can phạm tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng hoặc mua bán trái phép chất độc chiếm tỷ lệ lớn trong nhóm tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng tại huyện Phú Ninh, tỉnh Quảng Nam.

Tỷ lệ phần trăm số vụ và số bị cáo phạm Tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng hoặc mua bán trái phép CĐ trong 5 năm từ năm 2010 đến năm 2014, có số liệu trung bình như sau: 52,67 % số vụ và 41,05 số bị cáo.

Trong 5 năm từ năm 2010 đến năm 2014, tòa án nhân dân huyện Phú Ninh, tỉnh Quảng Nam đã xét xử sơ thẩm 69 vụ trên 78 bị cáo phạm tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng hoặc mua bán trái phép chất độc.

Tỷ lệ trung bình về giới tính nữ phạm tội trên chiếm 7,73 % trong khi đó tỷ lệ bị cáo nữ phạm tội trong nhóm xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng là 17,13 % và tỷ lệ số bị cáo nữ phạm tội chung trong tất cả các loại tội phạm là 10,85 %.

Trên thực tế Tòa án nhân dân huyện Phú Ninh đã tham khảo Thông tư liên ngành số 01/ TTLN ngày 07.01.1995 hướng dẫn áp dụng thống nhất trong việc điều tra, truy tố và xét xử đối với các hành vi phạm tội theo quy định tại Điều 96 BLHS 1985. Theo đó, định lượng được tham khảo theo định lượng của thuốc nổ.

Qua khảo sát thực tế hoạt động định tội danh đối với Tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng hoặc mua bán trái phép CĐ theo khoản 1 Điều 238 BLHS của các cơ quan THTT tác giả thấy rằng:

Đối tượng phạm tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng hoặc mua bán trái phép chất độc là người địa phương (chiếm khoản 85%), người của địa phương khác (chiếm 15 %), phần lớn các bị cáo có độ tuổi từ 18 đến 30 tuổi. Những đối tượng phạm tội này đa số có trình độ văn hóa thấp và không có địa vị xã hội, thường không có nghề nghiệp và thu nhập thấp, chủ yếu là nam giới. Hành vi phạm tội chủ yếu là hành vi tàng trữ, vận chuyển và mua bán trái phép chất độc. Không có hành vi sản xuất và hành vi sử dụng trái phép chất độc trên địa bàn huyện Phú Ninh, tỉnh Quảng Nam. Chất độc mà các đối tượng vận chuyển hoàn toàn là NaCN, tàng trữ, mua bán và vận chuyển lên Tam Lãnh, nơi có mỏ vàng Bồng Miêu để khai thác vàng hoặc bán cho người khác khai thác.

Thực tiễn định tội danh của các cơ quan THTT đối với các bị cáo đã đánh giá một cách toàn diện, khách quan và đầy đủ các chứng cứ, các tình tiết phạm tội cũng như các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ của vụ án hình sự để xem xét, định tội danh một cách đầy đủ, chính xác, các tình tiết trong hành vi phạm tội đã thỏa mãn các yếu tố CTTP đã được quy định trong Điều 238 BLHS.

3.2. Thực tiễn định khung hình phạt, những bất cập, hạn chế và nguyên nhân

Qua khảo sát thực tế hoạt động định khung hình phạt đối với Tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng hoặc mua bán trái phép CĐ thuộc loại CTTP này, tác giả thấy rằng ở khoản 2 (chiếm tỷ lệ 90%), khoản 3 (chiếm tỷ lệ 10%) của điều 238 BLHS.

Từ thực tiễn tại huyện Phú Ninh, qua khảo sát thấy rằng hoạt động định khung hình phạt của các cơ quan tiến hành tố tụng địa phương theo khoản 2,3 Điều 238 là chính xác, đã xác định đúng, đầy đủ các chủ thể, hành vi phạm tội, mức độ thiệt hại và hậu quả gây ra của đối tượng. Định khung hình phạt theo khoản 2, khoản 3 BLHS chủ yếu theo các điểm: Vật phạm pháp có số lượng lớn; vật phạm pháp có số lượng rất lớn; gây hậu quả nghiêm trọng; gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc tái phạm nguy hiểm; không có trường hợp nào có tổ chức, vận chuyển, mua bán qua biên giới trên địa bàn huyện Phú Ninh. Qua kết quả xét xử phúc thẩm, không có vụ án nào thuộc khoản 2,3 bị kháng nghị hoặc sửa đổi theo hướng thay đổi tội danh, khung hình phạt mà Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm đã quyết định. Các vụ án có kháng cáo chủ yếu rơi vào trường hợp bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Tuy nhiên, về mặt lý luận, trong quá trình định khung hình phạt vẫn có những câu hỏi đặt ra, thực tiễn giải quyết vẫn còn mang tính tùy nghi. Nguyên nhân chủ yếu vẫn là Liên ngành trung ương chưa có văn bản hướng dẫn để áp dụng thống nhất cho các cơ quan tố tụng giải quyết.

3.3. Thực tiễn quyết định hình phạt, những bất cập, hạn chế và nguyên nhân

Thực tiễn quyết định hình phạt tại huyện Phú Ninh, tỉnh Quảng Nam đối với các bị cáo phạm tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng hoặc mua bán trái phép chất độc xảy ra trên địa bàn huyện Phú Ninh, tỉnh Quảng Nam trong năm năm, từ năm 2010 đến năm 2014, đa số đúng quy định pháp luật, đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm này ở địa phương.

Loại hình phạt chính được áp dụng chủ yếu là hình phạt tù dưới ba năm, áp dụng với 54 người phạm tội, chiếm tỷ lệ cao nhất (69,2 %) và hình phạt tù trên 3 năm dưới 7 năm đứng thứ hai áp dụng với 16 người phạm tội, chiếm tỷ lệ (20,5 %); hầu hết Tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng hoặc mua bán trái phép CĐ được xử theo Khoản 2 Điều 238.

Thực tiễn xét xử án sơ thẩm tại tòa án nhân dân huyện Phú Ninh hầu như không áp dụng hình phạt bổ sung.

Trong việc quyết định hình phạt đối với tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng hoặc mua bán trái phép chất độc,Tòa án đã có những sai lầm sau trong việc quyết định hình phạt: 1/ hình phạt không tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo; 2/ áp dụng không đúng Điều 47 BLHS; 3/ cho bị cáo hưởng án treo không đúng quy định của pháp luật.

Thực tiễn xét xử án hình sự sơ thẩm, những sai sót hạn chế trong việc quyết định hình phạt thường là trong việc áp dụng pháp luật Tòa án đã so sánh, đánh giá không đúng về những tình tiết của vụ án với những căn cứ quyết định hình phạt.

Khi quyết định hình phạt cân nhắc chưa đúng nhân thân người phạm tội, điều này thường do nghiên cứu chưa kỹ hồ sơ vụ án dẫn đến bỏ sót một số tình tiết thuộc về nhân thân có ý nghĩa giảm nhẹ hoặc tăng nặng hình phạt cho bị cáo.

Nguyên nhân của các hạn chế:

Thứ nhất, về nguyên nhân chủ quan:

Thẩm phán chưa nêu cao tinh thần trách nhiệm trong công tác, còn hạn chế về trình độ, chuyên môn nghiệp vụ. Đội ngũ Hội thẩm nhân dân hiểu biết pháp luật nói chung cũng như sự hiểu biết sâu sắc về pháp luật thuộc từng lĩnh vực chuyên ngành đó cũng là một trong những nguyên nhân không thể không kể đến của các hạn chế trong việc quyết định hình phạt đối với Tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng hoặc mua bán trái phép CĐ.

Thứ hai, về nguyên nhân khách quan:

Điều 238 quy định vê mức tối thiểu và mức tối đa trong khung hình phạt là quá rộng nên trong hoạt động quyết định hình phạt của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân còn mang tính tùy nghi, có khi là hình phạt quá nhẹ và cũng có khi là hình phạt quá nặng.

Liên ngành trung ương chưa có một văn bản hướng dẫn cụ thể về định lượng vật phạm pháp để truy tố, xét xử nên cách hiểu và vận dụng mang tính tùy tiện trong một số trường hợp.

3.4. Các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng BLHS về tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng hoặc mua bán trái phép chất độc

3.4.1. Hoàn thiện Điều 248 Bộ luật hình sự

Qua thực tiễn áp dụng Điều 238 BLHS 1999, việc hoàn thiện Điều 238 của BLHS năm 1999 cần theo hướng sau:

1. Người nào sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng hoặc mua bán trái phép chất cháy, chất độc có trọng lượng từ 05 kg đến 50 kg thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm:

a, Có tổ chức;

b, Vật phạm pháp có số lượng lớn từ trên 50 kg đến 100 kg;

c, Vận chuyển, mua bán qua biên giới;

d, Gây hậu quả nghiêm trọng;

đ, Tái phạm nguy hiểm.

3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:

a, Vật phạm pháp có số lượng rất lớn từ trên 100 kg đến 1000 kg;

b, Gây hậu quả rất nghiêm trọng.

4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 15 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân:

a, Vật phạm pháp có số lượng đặc biệt lớn trên 1000kg;

b, Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.

5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, phạt quản chế hoặc cấm cư trú từ 01 năm đến 05 năm.

3.4.2. Hướng dẫn áp dụng Điều 248 Bộ luật hình sự

Hướng dẫn về đối tượng tác động của tội phạm:

Đối tượng tác động của tội phạm quy định tại Điều 238 BLHS là chất độc quy định tại Luật hóa chất ngày 21/11/2007.

Hóa chất độc là hóa chất nguy hiểm có ít nhất một trong những đặc tính nguy hiểm quy định từ điểm đ đến điểm n khoản 4 Điều 4 Luật hóa chất.

Ngay sau khi thu thập vật chứng nghi là chất độc, cơ quan tiến hành tố tụng phải trưng cầu giám định để xác định loại chất độc, cũng như tính năng, tác dụng, giá trị sử dụng, tính nguy hiểm của loại chất độc và phải chuyển ngay cho cơ quan chuyên trách để bảo quản theo quy định tại Điều 75 BLTTHS, Luật giám định tư pháp.

+ Về số lượng vật phạm pháp làm căn cứ truy cứu TNHS

Căn cứ vào kết quả giám định, việc xác định số lượng vật phạm pháp để truy cứu TNHS theo các khoản của Điều 238 như sau:

a, Người nào sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng hoặc mua bán trái phép chất độc từ 05kg đến dưới 50 kg thì bị truy cứu TNHS theo khoản 1 Điều 238 BLHS.

Đối với người có hành vi sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng hoặc mua bán trái phép chất độc với số lượng dưới mức tối thiểu được hướng dẫn (dưới 5 kg) nhưng gây hậu quả nghiêm trọng thì bị truy cứu TNHS theo khoản 1 Điều 238 BLHS.

b, Người nào sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng hoặc mua bán trái phép chất độc từ 50 kg đến 100 kg thì bị truy cứu TNHS theo khoản 2 Điều 238 BLHS.

c, Người nào sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng hoặc mua bán trái phép chất độc từ 100 kg đến 1000 kg thì bị truy cứu TNHS theo khoản 3 Điều 238 BLHS.

d, Người nào sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng hoặc mua bán trái phép chất độc trên 1000kg thì bị truy cứu TNHS theo khoản 4 Điều 238 BLHS.

+ Về các tình tiết “gây hậu quả nghiêm trọng”; “gây hậu quả rất nghiêm trọng”; “gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng” quy định tại điểm d khoản 2, điểm b khoản 3, điểm b khoản 4 Điều 238 BLHS.

Trong khi chưa có văn bản hướng dẫn thế nào là tình tiết “gây hậu quả nghiêm trọng”, “gây hậu quả rất nghiêm trọng”, “gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng” do hành vi sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng hoặc mua bán trái phép chất độc thì việc xác định thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, tài sản vận dụng theo TTLN số 02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP ngày 25/12/2001 của Tòa an nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ công an, Bộ quốc tư pháp hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XIV “ Các tội xâm phạm sở hữu” của BLHS 1999 (Mục 3,4 Phần I).

+ Về một số hành vi phạm tội và hướng xử lý

Trong trường hợp một người chỉ thực thực hiện một trong các hành vi phạm tội quy định tại Điều 238 BLHS thì bị truy cứu TNHS với tên tội danh về hành vi phạm tội đã thực hiện.

Trường hợp một người thực hiện nhiều hành vi phạm tội quy định tại Điều 238 BLHS mà các hành vi đó có liên quan chặt chẽ với nhau thì bị truy cứu TNHS với tội danh đầy đủ đối với tất cả các hành vi đã thực hiện quy định trong điều luật và chỉ phải chịu một hình phạt.

Trường hợp một người thực hiện nhiều hành vi phạm tội quy định tại Điều 238 BLHS mà các hành vi đó độc lập với nhau, thì bị truy cứu TNHS về những tội độc lập mà người đó đã thực hiện.

3.4.3. Các giải pháp khác

Nâng cao năng lực đội ngũ Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, nâng cao chất lượng hoạt động bổ trợ tư pháp. Tham mưu cấp ủy Đảng, chính quyền phối hợp với các ban ngành đoàn thể tổ chức tuyên truyền giáo dục pháp luật, xét xử lưu động, đầu tư thỏa đáng cơ sở vật chất, phương tiện làm việc của Tòa án.

Làm tốt công tác quàn lý hành chính, xây dựng mạng lưới thông tin nhằm kịp thời ngăn chặn và xử lý các loại tội phạm.

Quan trọng hơn cả là việc các ngành liên quan cần có một cơ chế quản lý tốt các hóa chất độc, tránh làm thất thoát ra bên ngoài để dẫn đến nhiều hệ lụy như hành vi phạm tội quy định tại Điều 238 BLHS.

KẾT LUẬN

Huyện Phú Ninh, tỉnh Quảng Nam được cả nước biết đến với mỏ Bồng Miêu có trữ lượng vàng lớn.Theo đó, nạn “vàng tặc” xảy ra ngày càng phổ biến. Tình trạng khai thác vàng bằng chất độc diễn ra ngày càng tăng về số lượng. Những năm gần đây, tình hình tội phạm nói chung rất phức tạp. Do đó, việc nghiên cứu đề tài: “Tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng hoặc mua bán trái phép CĐ theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn huyện Phú Ninh, tỉnh Quảng Nam” có ý nghĩa hơn bao giờ hết.

Trong nội dung của luận văn, tác giả đã phân tích khái niệm và các dấu hiệu pháp lý của tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng hoặc mua bán trái phép chất độc cũng như các tình tiết định khung tăng nặng. Khái quát lịch sử hình thành của Tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng hoặc mua bán trái phép CĐ trong giai đoạn từ 1945 đến nay. Trên cơ sở những lý luận đó, tác giả đi sâu phân tích những vấn đề mang tính thực tiễn khi áp dụng quy định của Bộ luật hình sự về tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng hoặc mua bán trái phép chất độc từ thực tiễn huyện Phú Ninh, tỉnh Quảng Nam từ năm 2010 đến năm 2014 (có tính toán số liệu cụ thể và các ví dụ chứng minh). Thực tiễn định tội danh (theo cấu thành tội phạm, theo cấu thành cơ bản, cấu thành tăng nặng), thực tiễn định khung hình phạt, thực tiễn quyết định hình phạt (theo các khoản, khung). Từ đó, tác giả đưa ra những bất cập, những hạn chế và nguyên nhân cũng như giải pháp khắc phục những bất cập, hạn chế đó. Với những đề xuất được trình bày trong luận văn, tác giả mong muốn đóng góp một phần nhỏ bé của mình vào hoạt động quyết định hình phạt cũng như đấu tranh, phòng chống tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng hoặc mua bán trái phép chất độc một cách tích cực và hiệu quả.

Với khả năng và thời gian nghiên cứu có hạn, quá trình thực hiện đề tài không tránh khỏi những sai sót nhất định. Vì vậy, với tinh thần học hỏi cầu tiến, tác giả rất mong nhận được sự góp ý, trao đổi của Qúy thầy cô, các nhà khoa học, cán bộ thực tiễn và đồng nghiệp để tác giả có thể tiếp tục hoàn thiện hơn đối với vấn đề mình nghiên cứu trong tương lai. Qua đây, tác giả muốn bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc nhất đến người hướng dẫn khoa học PGS.TS Trần Văn Độ đã giúp đỡ để tác giả có thể hoàn thành Luận văn này.

LIỆN HỆ:

SĐT+ZALO: 0935568275

E:\DỮ LIỆU COP CỦA CHỊ YẾN\LUAN VAN VIEN HAN LAM\LUAT HINH SU DOT 2\CUA NGUYEN\LUAN VAN UNG THANH DUONG

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *